ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH
MỤC LỤC
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
Diễn Giảng
AUDIO
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Diễn đọc: Huệ Tâm Jun 12, 2023
LỜI DẪN
1.- TỲ KHEO ÐỨC VÂN
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được pháp môn
"ỨC NIỆM NHỨT THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH GIỚI TRÍ HUỆ QUANG MINH PHỔ KIẾN" này thôi.
2.- HẢI VÂN TỲ KHEO
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“PHỔ NHÃN PHÁP MÔN” này.
3.- THIỆN TRỤ TỲ KHEO
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“PHÁP MÔN VÔ NGẠI GIẢI THOÁT MAU CHÓNG CÚNG DƯỜNG KHẮP CHƯ PHẬT
THÀNH TỰU KHẮP CHÚNG SANH” này.
4.- DI GIÀ ÐẠI SĨ
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“PHÁP MÔN BỒ TÁT DIỆU ÂM ĐÀ LA NI QUANG MINH” này.
5.- GIẢI THOÁT TRƯỞNG GIẢ
Thiện nam tử ! Ta chỉ nhập xuất được
“MÔN GIẢI THOÁT NHƯ LAI VÔ NGẠI TRANG
NGHIÊM" này.
6.- HẢI TRÀNG TỲ KHEO
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết một
“BÁT NHÃ BA LA MẬT TAM MUỘI QUANG MINH” này.
7.- HƯU XẢ ƯU BÀ DI
Này thiện nam tử ! Môn giải thoát này tên là
"LY ƯU AN ỔN TRÀNG". Ta
chỉ biết một môn giải thoát này.
8.- TIÊN NHƠN TỲ MỤC CÙ SA
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“MÔN BỒ TÁT VÔ THẮNG TRÀNG GIẢI THOÁT” này.
9.- THẮNG NHIỆT BÀ LA MÔN
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được
“MÔN BỒ TÁT VÔ TẬN LUÂN GIẢI THOÁT”.
10.- TỪ HẠNH ĐỒNG NỮ
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“MÔN BÁT NHÃ BA LA MẬT PHỔ TRANG NGHIÊM”.
11.- TỲ KHEO THIỆN KIẾN
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT TÙY THUẬN ĐĂNG” này.
12.- ĐỒNG TỬ TỰ TẠI CHỦ
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết một pháp
“MÔN NHẤT THIẾT CÔNG XẢO ĐẠI THẦN THÔNG TRÍ QUANG MINH” này.
13.- ƯU BÀ DI CỤ TÚC
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT VÔ TẬN PHƯỚC ĐỨC TẠNG” này.
14.- CƯ SĨ MINH TRÍ
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT TÙY Ý XUẤT SANH PHƯỚC ĐỨC TẠNG” này.
15.- TRƯỞNG GIẢ BỬU KẾ
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT VÔ LƯỢNG PHƯỚC ĐỨC BỬU TẠNG” này.
16.- PHỔ NHÃN TRƯỞNG GIẢ
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“PHÁP MÔN LÀM CHO TẤT CẢ CHÚNG SANH THẤY CHƯ PHẬT HOAN HỶ”.
17.- VUA VÔ YỂM TÚC
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được
“MÔN NHƯ HUYỄN GIẢI THOÁT” này.
18.- VUA ÐẠI QUANG
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“MÔN TAM MUỘI BỒ TÁT ĐẠI TỪ TÙY THUẬN THẾ GIAN”.
19.- BẤT ÐỘNG ƯU BÀ DI
Bất Ðộng Ưu bà di nói :
Ta chỉ được "CẦU NHỨT THIẾT PHÁP VÔ YỂM TÚC TAM MUỘI QUANG MINH" này,
vì tất cả chúng sanh mà nói vi diệu pháp đều làm cho hoan hỷ.
20.- BIẾN HÀNH NGOẠI ĐẠO
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
"CHÍ NHẤT THIẾT XỨ BỒ TÁT HẠNH" này.
21.- TRƯỞNG GIẢ ƯU BÁT LA HOA
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU HÒA CÁC THỨ HƯƠNG” đây.
22.- BÀ THI LA
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được
“ĐẠI BI TRÀNG HẠNH” này.
23.- TRƯỞNG GIẢ VÔ THƯỢNG THẮNG
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“PHÁP MÔN CHÍ NHẤT THIẾT XỨ TU BỒ TÁT HẠNH THANH TỊNH,
SỨC THẦN THÔNG VÔ Y VÔ TÁC”.
24.- TỲ KHEO NI SƯ TỬ TẦN THÂN
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT THÀNH TỰU NHẤT THIẾT TRÍ” này.
25.- BÀ TU MẬT ÐA NỮ
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT LY THAM TẾ” này.
26.- CƯ SĨ TỲ SẮC CHI LA
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn Bồ Tát giải thoát
"BẤT BÁT NIẾT BÀN TẾ" này.
27.- BỒ TÁT QUÁN TỰ TẠI
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn Bồ Tát
“ĐẠI BI HẠNH” này.
28.- CHÁNH THU BỒ TÁT
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được
“MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT PHỔ TẬT HÀNH” này,
có thể mau chóng đến tất cả xứ.
29.- THẦN ÐẠI THIÊN
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT VÂN VÕNG” này.
30.- ÐỊA THẦN AN TRỤ
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết pháp môn
"BẤT KHẢ HOẠI TRÍ HUỆ TẠNG" này.
31.- BÀ SAN BÀ DIỄN ÐỂ CHỦ DẠ THẦN
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn
"BỒ TÁT PHÁ NHỨT THIẾT CHÚNG SANH ÁM PHÁP QUANG MINH GIẢI THOÁT".
32.- DẠ THẦN PHỔ ÐỨC TỊNH QUANG
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn giải thoát
"BỒ TÁT TỊCH TỊNH THIỀN ĐỊNH LẠC PHỔ DU BỘ" này.
33.- DẠ THẦN HỈ MỤC QUÁN SÁT CHÚNG SANH
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được
“MÔN GIẢI THOÁT ÐẠI THẾ LỰC PHỔ HỈ TRÀNG” này.
34.- DẠ THẦN PHỔ CỨU CHÚNG SANH DIỆU ÐỨC
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thóat
"BỒ TÁT PHỔ HIỆN NHẤT THIẾT THẾ GIAN ĐIỀU PHỤC CHÚNG SANH".
35.- DẠ THẦN TỊCH TỊNH ÂM HẢI
Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT NIỆM NIỆM SANH QUẢNG ĐẠI TRÍ TRANG NGHIÊM” nầy.
36.- DẠ THẦN THỦ HỘ NHẤT THIẾT THÀNH
Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT THẬM THÂM TỰ TẠI DIỆU ÂM” nầy,
làm cho các thế gian rời hí-luận-ngữ, chẳng nói nhị-ngữ,
thường chơn-thiệt-ngữ, hằng thanh-tịnh-ngữ.
37.- DẠ THẦN KHAI PHU NHẤT THIẾT THỌ HOA
Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT XUẤT SANH QUẢNG ĐẠI HỈ QUANG MINH” nầy.
38.- DẠ THẦN ĐẠI NGUYỆN TINH TẤN LỰC CỨU HỘ NHỨT THIẾT CHÚNG SANH
Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT GIÁO HÓA CHÚNG SANH KHIẾN SANH THIỆN CĂN” nầy.
39.- THẦN DIỆU ĐỨC VIÊN MÃN
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT TRONG VÔ LƯỢNG KIẾP
KHẮP TẤT CẢ CHỖ THỊ HIỆN THỌ SANH TỰ TẠI” nầy.
40.- THÍCH NỮ CÙ BA
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ được
“MÔN GIẢI THOÁT QUÁN SÁT BỒ TÁT TAM MUỘI HẢI” nầy.
41.- MA-GIA PHU-NHƠN
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT ĐẠI NGUYỆN-TRÍ HUYỄN” nầy.
42.- THIÊN NỮ THIÊN CHỦ QUANG
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT VÔ NGẠI NIỆM THANH TỊNH TRANG NGHIÊM” nầy.
43- BIẾN HỮU
Nầy Thiện-nam-tử! Nơi đây có Ðồng-Tử tên là
“THIỆN TRI CHÚNG NGHỆ HỌC BỒ TÁT TỰ TRÍ”, ngươi nên đến hỏi.
44- THIỆN TRI CHÚNG NGHỆ HỌC BỒ TÁT TỰ TRÍ
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT THIỆN TRI CHÚNG NGHỆ” nầy.
45.- ƯU BÀ DI HIỀN THẮNG
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết
“MÔN BỒ TÁT GIẢI THOÁT VÔ Y XỨ ĐẠO TRÀNG” nầy.
46.- TRƯỞNG GIẢ KIÊN CỐ GIẢI THOÁT
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT VÔ TRƯỚC NIỆM THANH TỊNH TRANG NGHIÊM”.
47.- TRƯỞNG GIẢ DIỆU NGUYỆT
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát tên là
“TỊNH TRÍ QUANG MINH”
48.- TRƯỞNG GIẢ VÔ THẮNG QUÂN
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT VÔ TẬN TƯỚNG” nầy.
49.- TỐI TỊCH TỊNH
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT THÀNH NGUYỆN NGỮ” nầy.
Nầy Thiện-nam-tử! Huyễn-cảnh tự-tánh bất-tư-nghì.
Chúng ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT HUYỄN TRỤ”nầy.
Nầy Thiện-nam-tử! Như ngươi hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Ngươi nên “VÀO TRONG LÂU CÁC TỲ LÔ GIÁ NA ÐẠI TRANG NGHIÊM” nầy, ngươi quán-sát khắp nơi thời có thể biết rõ học bồ-tát-hạnh, học rồi thời thành-tựu vô-lượng công-đức.
Nầy Thiện-nam-tử! Môn giải-thoát nầy tên là
“TẠNG TRÍ TRANG NGHIÊM NHẬP TẤT CẢ CẢNH GIỚI BA ĐỜI CHẲNG QUÊN MẤT.
52.- VĂN THÙ SƯ LỢI
dạy THIỆN TÀI về “TÍN-CĂN”
để thành tựu hạnh PHỔ-HIỀN và NHẬP PHÁP GIỚI được viên mãn.
53.- PHỔ HIỀN ĐẠI BỒ TÁT
dạy THIỆN TÀI về “HẠNH-NGUYỆN”
để thành tựu hạnh PHỔ-HIỀN và NHẬP PHÁP GIỚI được viên mãn.
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Nhập Bất-Tư-Nghị Giải-Thoát Cảnh-Giới
Phổ-Hiền Hạnh-Nguyện Phẩm
Thứ Bốn Mươi
(Đời Đường, người nước Kế-Tân,
Tam-tạng SA-MÔN BÁT-NHÃ vưng chiếu dịch ra văn Hán)
của Phẩm PHỔ-HIỀN HẠNH -NGUYỆN
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Việt Dịch:
Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
AN-LẬP CÁC THÁNH-VỊ
1. -
Càn-tuệ-địa.
"A-nan, thiện-nam tử ấy, lòng dục-ái khô-cạn, căn và cảnh
không ngẫu-hợp, thân-tàn hiện-tiền, không còn tiếp-tục sinh nữa, nắm cái tâm
rỗng-sáng, thuần là trí-tuệ; tính trí-tuệ sáng-suốt cùng khắp, soi-thấu
thập-phương thế-giới; chỉ có cái tuệ khô-khan ấy, nên gọi là Càn-tuệ-địa,
tập-khí ngũ-dục mới khô-cạn, chưa tiếp-giáp với dòng nước Pháp của các đức Như-lai.
2. -
Thập-tín.
Tức lấy cái tâm ấy, chính giữa chính giữa lần vào, tính
viên-diệu mở-mang, từ chỗ chân-diệu-viên lại phát ra chân-diệu. Tính diệu-tín
thường-trụ, tất-cả vọng-tưởng diệt hết không còn, trung-đạo được thuần-chân,
gọi là Tín-tâm-trụ.
Chân-tín tỏ-rõ, tất-cả đều viên-thông, ba thứ ấm, giới, nhập
không thể làm ngăn-ngại; như thế, cho đến trong vô-số kiếp quá-khứ, vị-lai,
tất-cả tập-khí xả-thân, thụ-thân đều hiện ra trước mặt, thiện-nam-tử ấy đều có
thể nhớ-nghĩ được, không quên mất gì; gọi là Niệm-tâm-trụ.
Tính diệu-viên thuần-chân, chân-tinh phát-hóa ra, các tập-khí
vô-thủy đều thông vào một tính tinh-minh, chỉ dùng tinh-minh ấy, tiến đến chỗ
chân-tịnh; gọi là Tinh-tiến-tâm.
Tâm-tinh hiện-tiền, thuần-dùng trí-tuệ; gọi là Tuệ-tâm-trụ.
Nắm-giữ trí-tuệ sáng-suốt, lặng-đứng cùng khắp, tính tịch-diệu
thường đứng-lại; gọi là Định-tâm-trụ.
Định-quang phát-minh, đi sâu vào tính sáng-suốt, chỉ có tới, chứ
không lui; gọi là Bất-thối-tâm.
Tâm an-nhiên đi tới, giữ-gìn không mất, giao-tiếp với khí-phần
thập-phương Như-lai; gọi là Hộ-pháp-tâm.
Giữ-gìn tính giác-minh, có thể dùng diệu-lực xoay từ-quang của
Phật về nơi mình và hướng về Phật mà an-trụ, cũng như hai gương sáng đối nhau,
trong đó các bóng nhiệm-mầu lớp-lớp lồng nhau; gọi là Hồi-hướng-tâm.
Tự-tâm thầm xoay Phật-quang trở về, được vô-thượng diệu-tịnh
thường-trụ của Phật, an-trụ nơi vô-vi, được không bỏ mất; gọi là Giới-tâm-trụ.
Tự-tại an-trụ nơi giới, có thể đi khắp mười phương, tùy nguyện
mà đi; gọi là Nguyện-tâm-trụ.
3. -
Thập-trụ
A-nan, thiện-nam-tử đó, dùng phương-tiện chân-chính phát được
mười cái tâm ấy, tâm-tinh đã phát-huy, mười cái dụng ấy xen-lẫn với nhau,
viên-thành một tâm; gọi là Phát-tâm-trụ.
Trong tâm phát ra sáng-suốt, như ngọc lưu-ly trong-sạch, ở trong
hiện ra vàng-ròng; dùng cái diệu-tâm trước kia, sửa-sang thành chỗ nương-đứng;
gọi là Trị-địa-trụ.
Tâm-địa biết khắp, đều được rõ-ràng, đi cùng mười phương, được
không ngăn-ngại; gọi là Tu-hành-trụ.
Hạnh đồng với Phật, nhận khí-phần của Phật như thân trung-ấm tự
cầu cha mẹ, âm-tín thầm-thông vào giống Như-lai; gọi là Sinh-quý-trụ.
Đã vào đạo-thai, chính mình nhờ được sự nuối-nấng của tính-giác,
như cái thai đã thành, tướng người không thiếu; gọi là Phương-tiện-cụ-túc-trụ.
Hình-dáng như Phật, tâm-tướng cũng vậy; gọi là Chính-tâm-trụ.
Thân tâm hợp-thành, ngày càng tăng-trưởng; gọi là Bất-thối-trụ.
Linh-tướng mười thân, một thời đầy-đủ; gọi là Đồng-chân-trụ.
Hình đã thành, ra khỏi thai, chính mình làm Phật-tử; gọi là
Pháp-vương-tử-trụ.
Nghi-biểu đã thành người lớn, như khi một quốc-vương, phân-công
ủy-nhiệm cho thái-tử các việc nước, thì quốc-vương kia, lúc thái-tử
trưởng-thành, bày ra lễ quán-đỉnh; gọi là Quán-đỉnh-trụ.
4. -
Thập-hạnh
A-nan, thiện-nam-tử đã thành Phật-tử rồi, đầy-đủ diệu-đức
vô-lượng của Như-lai và tùy-thuận mười phương; gọi là Hoan-hỉ-hạnh.
Khéo biết làm lợi-ích cho tất-cả chúng-sinh; gọi là
Nhiêu-ích-hạnh.
Tự-giác và giác-tha, được không chống trái; gọi là
Vô-sân-hận-hạnh.
Theo các chủng-loại mà hiện ra sắc-thân cùng-tột vị-lai, ba đời đều
bình-đẳng, mười phương được thông-suốt; gọi là Vô-hận-hạnh.
Tất-cả đều hợp về đồng, nơi các thứ pháp-môn, được không
sai-lầm; gọi là Ly-si-loạn-hạnh.
Rồi ở trong đồng, hiện ra các cái khác, nơi mỗi mỗi tướng khác,
mỗi mỗi đều thấy là đồng; gọi là Thiện-hiện-hạnh.
Như vậy, cho đến mười phương hư-không, đầy khắp vi-trần và trong
mỗi mỗi vi-trẩn hiện ra thập phương thế-giới; hiện vi-trần, hiện thế-giới,
không ngăn-ngại nhau; gọi là Vô-trước-hạnh.
Các thứ hiện-tiền, đều là Đệ-nhất-ba-la-mật-đa; gọi là Tôn-trọng-hạnh.
Viên-dung như vậy, có thể thành-tựu quy-tắc của chư Phật mười
phương; gọi là Thiện-pháp-hạnh.
Mỗi mỗi đều là Nhất-chân-vô-vi Thanh-tịnh-vô-lậu, vì tính
bản-nhiên là như vậy; gọi là Chân-thật-hạnh.
5. -
Thập-hồi-hướng
A-nan, thiện-nam-tử đó đầy-đủ thần-thông, thành-tựu Phật-sự rồi,
toàn là một tinh-chân thuần-khiết, xa các lỗi-lầm, chính khi hóa-độ chúng-sinh
mà diệt tướng năng-độ, sở-độ, xoay tâm vô-vi hướng về đường Niết-bàn; gọi là
Cứu-hộ nhất-thiết chúng-sinh, Ly-chúng-sinh-tướng hồi-hướng.
Diệt-hoại tất-cả cái gì có thể diệt-hoại, viễn-ly các sự ly; gọi
là Bất-hoại hồi-hướng.
Tính bản-giác đứng-lặng, giác-ngộ bằng Phật; gọi là
Đẳng-nhất-thiết-Phật hồi-hướng.
Tinh-chân phát ra sáng-suốt, tâm-địa như Phật-địa, gọi là
Chí-nhất-thiết-xứ hồi-hướng.
Thế-giới và Như-lai, dung-hợp vào nhau, được không ngăn-ngại;
gọi là Vô-tận-công-đức-tạng hồi-hướng.
Nơi đồng với Phật-địa, trong ấy phát-sinh ra các nhân
thanh-tịnh, nương nhân ấy mà phát-huy, đi đến đạo Niết-bàn; gọi là
Tùy-thuận-bình-đẳng-thiện-căn hồi-hướng.
Chân-căn đã thành-tựu, thập phương chúng-sinh đều là bản-tính
của mình, bản-tính viên-mãn thành-tựu, không bỏ mất chúng-sinh; gọi là
Tùy-thuận-đẳng-quán-nhất-thiết chúng-sinh hồi-hướng.
Tức tất-cả pháp, ly tất-cả tướng, cả tức và ly, hai cái đều
không dính; gọi là Chân-như-tướng hồi-hướng.
Thật được như-như, mười phương không ngăn-ngại; gọi là
Vô-phược-giải-thoát hồi-hướng.
Tính-đức viên-mãn thành-tựu, lượng của pháp-giới diệt; gọi là
Pháp-giới-vô-lượng hồi-hướng.
6. -
Tứ-gia-hạnh.
A-nan, thiện-nam-tử đó, tu hết 41 tâm thanh-tịnh ấy rồi, thì lại
thành-tựu bốn thứ gia-hạnh diệu-viên:
Tức lấy Phật-giác, dùng làm tâm mình, như ra nhưng chưa ra,
ví-như dùi cây để cho ra lửa mà đốt cái cây; gọi là Noãn-địa.
Lại lấy tâm mình, thành chỗ đứng của Phật, hình-như nương, nhưng
không phải nương, ví-như người lên chóp núi cao, thân đã vào hư-không, nhưng ở
dưới còn chút ngăn-ngại; gọi là Đỉnh-địa.
Tâm và Phật là đồng, khéo được trung-đạo, ví-như người biết
nhịn, không phải ôm vào, nhưng cũng không phải phát ra; gọi là Nhẫn-địa.
Số-lượng đều tiêu-diệt, mê, giác và trung-đạo, cả hai đều không
có gì; gọi là Thế-đệ-nhất-địa.
7. -
Thập-địa
A-nan, thiện-nam-tử đó thông-suốt đúng-đắn đạo Đại-bồ-đề, chỗ
giác-ngộ thông với Như-lai, cùng-tột cảnh-giới của Phật; gọi là Hoan-hỉ-địa.
Tính khác nhập với đồng, tính đồng cũng diệt; gọi là Ly-cấu-địa.
Thanh-tịnh cùng-tột, sáng-suốt sinh ra; gọi là Phát-quang-địa.
Sáng-suốt tột, giác viên-mãn; gọi là Diệm-tuệ-địa.
Tất-cả cái đồng, cái khác, không thể đến được; gọi là
Nan-thắng-địa.
Bản-tính thanh-tịnh vô-vi, chân-như tỏ-lộ; gọi là Hiện-tiền-địa.
Tột bờ-bến chân-như; gọi là Viễn-hành-địa.
Một tâm chân-như; gọi là Bất-động-địa.
Phát cái dụng chân-như; gọi là Thiện-tuệ-địa.
A-nan, các Bồ-tát đó, từ đây về trước, công-hạnh tu-tập đã xong,
công-đức được viên-mãn, cũng gọi địa nầy là Tu-tập-vị; bóng từ, mây diệu, trùm
bể Niết-bàn; gọi là Pháp-vân-địa.
8. -
Kết-thúc bằng hai quả-vị Đẳng-giác và Diệu-giác.
Như-lai ngược dòng trở lại, vị Bồ-tát đó thuận dòng đi tới,
giác-ngộ vào chỗ giao-tiếp với nhau; gọi là Đẳng-giác.
A-nan, từ tâm Càn-tuệ đến Đẳng-giác rồi, giác đó mới bắt-đầu
được Sơ-càn-tuệ-địa trong tâm Kim-Cương; như vậy lớp-lớp tu đơn, tu kép 12 vị
mới cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.
Các thứ địa ấy, đều lấy trí Kim-cương quán-sát mười thứ ví-dụ
như-huyễn sâu-xa, trong Xa-ma-tha, dùng phép Tỳ-bà-xá-na của các đức Như-lai mà
thanh-tịnh tu-chứng, lần-lượt đi sâu vào.
A-nan, như thế, đều dùng ba tiệm-thứ tăng-tiến, nên khéo thành-tựu
55 vị trong đường Bồ-đề chân-thật. Làm cái quán như vậy, gọi là chính-quán; nếu
quán cách khác, gọi là tà-quán".
Comments
Post a Comment