ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


Ngày 27 tháng 5 năm 1990



Hôm nay là buổi thuyết giảng thứ 109 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này. Trong lần trước, chúng tôi đã nói đến vị thiện tri thức thứ 34, tức là ngài Phổ Kiến Chúng Sanh Diệu Đức, cũng là một vị Dạ Thần, cũng là một nữ nhân.

Hôm nay, chúng tôi xin đi vào vị thứ 35, tức là ngài Tịch Tịnh Âm Hải, cũng là một vị Dạ Thần, và cũng là một nữ nhân. Tức là các ngài thọ sanh làm nữ nhân.

Trong lộ trình “nhập pháp giới” này, chúng ta biết rằng Thiện Tài đã đi qua những tầng lớp tâm thức, trước là bốn ấm, sau đó vào đến lớp thứ năm là thức ấm. Từ đó, ngài đi sâu vào tàng thức sơ năng biến để đến Diệu Tâm. Chúng ta hiểu rằng, sắc ấm bên ngoài thô kệch, và lực của nó rất hữu hạn, như chúng ta vung tay, vung chân, thì chỉ có thể ôm được một khoảng không gian rất nhỏ thôi. Nhưng càng đi sâu vào các ấm, thì tâm thức và khả năng tự tại lực của chúng ta ngày càng thênh thang, về sắc thân, thì căn thô kệch nhất là xúc giác, nó rất kém cỏi, chỉ khi có hợp, có ly mới có cảm giác mà thôi. Khi chúng ta sờ mó một vật, thì mới biết sự hiện hữu của nó là trơn, là láng, là sần sùi, nặng nhẹ v.v… vì vậy khả năng về không gian rất hạn hẹp. Nhưng lên đến những căn khác như mắt, tai, thì khả năng vễ không gian cao xa hơn nhiều, thí dụ như mắt ta có thể nhìn xa một dặm, một cây số, hay hơn nữa, cái tai có thể nghe xa hơn. Đó là nói về sắc ấm, và khả năng về không gian hạn hẹp. Nhưng lên đến thọ ấm, tức là vào lớp những cảm quan, thì với những quang minh hư minh vọng tưởng, nó có khả năng ôm không gian rộng rãi hơn. Tỷ dụ như đối với một người mình ghét, chỉ nhìn thấy họ đi từ xa tới, chưa cần đến gần hoặc đụng chạm, ta đã cảm thấy ghét rồi. Hoặc đối với người mình yêu cũng thế, mầm thọ ấm đã khởi lên từ xa rồi. Như vậy, so với sắc ấm, khả năng (ở đây lạ tôi nói lần lần các ấm để quí vị thấy lịch trình “nhập pháp giới” như vậy, là con cá Tích đi ngược giòng, ngày càng ôm rộng không gian, và ôm dài thời gian. Đi rất sâu, thì thời gian sẽ được hóa giải, lúc đó không còn quá khứ, vị lai, hiện tại nữa, và không gian cũng vậy, hoặc có nhiều chiều hơn). Vượt lên tưởng ấm, tự tại lực lại nhiều hơn. Nhưchúngta ngồi đây, khởi một tâm niệm nghĩ đến mặt trăng, thì tâm tưỡng đó chỉ cần một niệm ngắn đã lên đến mặt trăng rồi, vì thế, khả năng về không gian rất lớn. Đến khi vào được hành ấm, thì có lẽ nó sẽ ở trong một không gian khác hẳn với không gian chúng ta thường nhìn thấy, có thể nhiều chiều hơn. Sau đó, nó sẽ lọt vào thức ấm, lúc bấy giờ có thể nó sẽ hóa giải cả không gian và thời gian. Đó là lịch trình “nhập pháp giới.” Và sau cùng, chúng ta phải dùng thức ấm đó để .bao trùm cả pháp giới này. Chúng ta khó có thể dùng sắc ấm bao trùm pháp giới này vì nó rất hạn hẹp, thọ ấm cũng thế, tưởng ấm đã mở rộng hơn, nhưng vào hẳn thức ấm thì chính đó mới là con đường nhập pháp giới trọn vẹn. Và pháp giới vốn là thức biến.

Khi vào được tàng thức sơ năng biến, thì nó chính là cái bóng mờ của diệu tâm, mà trong bóng mờ đó có đủ cả chân lẫn vọng. Nên cần lặn sâu để gột sạch tất cả vọng đi thì lúc đó sẽ đến được cái chân, và cái chân ây, trong kinh gọi là Bạch Tịnh Thức hay Vô cấu Thức, hoặc Như Lai tạng xuất triền, hay Diệu tâm .v.v…

Vì vậy, mục tiêu tuyệt vời của nhà Phật là nhập pháp giới, không phải là giải thoát cho chính mình. Vì vậy đạo Phật dài xa, ít người tin, ít người vào nổi. Những hạnh nguyện hạnh phải làm lại rất khó khăn, như phải thí thân vô lượng kiếp, thân phải rơi lả tả như cánh hoa đào. Tại sao phải làm như vậy? Không phải cố tình phí phạm thân xác như vậy chơi đâu, nhưng thí thân như huyễn độ sanh để bao trùm pháp giỚ! như huyễn… Như trong kinh nói rõ, ban đầu ngài Thiện Tài đi gặp những vị thiện tri thức đầu thì chưa có gì lạ lùng lắm, sau đến những vị chủ dạ thần thì ngài đã đi sâu vào tàng thức rồi, nên An Trụ dạ thần nhắc đến cái tâm địa cần an trụ. Và các vị chủ dạ thần đều có nguyện hiện thân rất lớn, bao trùm hư không, phổ hào quang để gột tiềm thức và vô thức tạp nhiễm của chúng sanh. Đây, xin đi vào vị thiện tri thức thứ 35…



35.- DẠ THẦN TỊCH TỊNH ÂM HẢI

 

Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết

MÔN GIẢI THOÁT NIỆM NIỆM SANH QUẢNG ĐẠI TRÍ TRANG NGHIÊM” nầy.

 


Bấy giờ Thiện-Tài Đồng-Tử ở chỗ Dạ-Thần Phổ-Cứu-Chúng-Sanh-Diệu-Đức, nghe pháp-môn giải-thoát bồ-tát phổ-hiện-nhất-thiết-thế-gian-điều-phục-chúng-sanh. Thiện-Tài biết rõ tin hiểu tự-tại an-trụ trong môn giải-thoát đó.

Thiện-Tài đến chỗ DẠ THẦN TỊCH TỊNH ÂM HẢI, đảnh lễ nơi chân Dạ-Thần hữu nhiễu vô-số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng:

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề. Tôi muốn nương theo thiện-tri-thức để học bồ-tát-hạnh, nhập bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-hạnh, trụ bồ-tát-hạnh. Mong đức Thánh thương xót vì tôi mà tuyên nói Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo ?

Dạ-Thần nói:

Lành thay, lành thay ! Nầy thiện-nam-tử ! Ngươi có thể nương thiện-tri-thức cầu bồ-tát-hạnh.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta được môn giải-thoát bồ-tát niệm-niệm-xuất-sanh-quảng-đại-hỉ-trang-nghiêm.

Thiện-Tài Thưa:

Đại-Thánh ! Môn giải-thoát nầy sự nghiệp thế nào ? Cảnh-giới thế nào ? Khởi phương-tiện gì ? Quán-sát thế nào ?

Dạ-Thần nói:

Nầy thiện-nam-Tử ! ta phát khởi tâm nguyện bình-đẳng thanh-tịnh. Ta phát khởi tâm nguyện ly tất cả trần cấu thế-gian thanh-tịnh kiên-cố trang-nghiêm chẳng hư hại. Ta phát khởi tâm trọn chẳng thối chuyển phan-duyên địa-vị bất-thối-chuyển. Ta phát khởi tâm bất động trang-nghiêm công-đức bửu sơn. Ta phát khởi tâm vô-trụ-xứ. Ta phát khởi tâm cứu-hộ hiện thân trước khắp tất cả chúng-sanh. Ta phát khởi tâm không nhàm đủ thấy tất cả phật-hải. Ta phát khởi tâm nguyện-lực thanh-tịnh cầu tất cả Bồ-Tát. Ta phát khởi tâm trụ nơi đại-trí quang-minh hải. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh vượt khỏi đồng hoang lo buồn. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh bỏ rời sầu lo khổ não. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh bỏ rời sắc thanh hương vị xúc pháp chẳng vừa ý. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh bỏ rời ái-biệt-ly-khổ và oán-tắng-hội-khổ. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh bỏ rời những khổ ác duyên ngu si. Ta phát khởi tâm làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng-sanh bị hiểm nạn. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh thoát khỏi chỗ khổ sanh tử. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh bỏ rời những khổ sinh, lão, bệnh, tử. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh thành-tựu pháp-lạc vô-thượng của Như-Lai. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh đều thọ hỉ lạc.

Ta phát khởi những tâm như vậy rồi, lại vì chúng-sanh mà thuyết pháp, làm cho họ lần đến bực nhất-thiết-trí.

Như là, nếu thấy chúng-sanh mến luyến nhà cửa cung-điện của họ ở, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ thấu rõ tự tánh của các pháp lìa chấp trước.

Nếu thấy chúng-sanh mến luyến cha mẹ anh em chị em, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được dự chúng-hội thanh-tịnh chư Phật Bồ-tát.

Nếu thấy chúng-sanh mến luyến vợ con, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ bỏ rời sanh tử ái nhiễm khởi tâm đại-bi, với tất cả chúng-sanh bình-đẳng vô-nhị.

Nếu thấy chúng-sanh ở vương-cung thể-nữ hầu hạ, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được hội họp với thánh-chúng vào giáo-pháp của Như-Lai.

Nếu thấy chúng-sanh nhiễm trước cảnh-giới, thời ta vì họ mà thuyết pháp, làm cho họ được nhập Như-Lai cảnh-giới.

Nếu thấy chúng-sanh nhiều sân hận, thời ta vì họ mà thuyết pháp, làm cho họ được Như-Lai nhẫn-nhục ba-la-mật.

Nếu thấy chúng-sanh có lòng giải-đãi, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được thanh-tịnh tinh-tấn ba-la-mật.

Nếu thấy chúng-sanh tâm tán loạn, thời ta vì họ mà thuyết-pháp, làm cho họ được Như-Lai thiền ba-la-mật.

Nếu thấy chúng-sanh vào rừng rậm kiến chấp vô-minh ám chướng, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ thoát khỏi si ám.

Nếu thấy chúng-sanh không trí-huệ, thời ta vì họ thuyết pháp, cho họ được bát-nhã ba-la-mật.

Nếu thấy chúng-sanh nhiễm trước tam-giới, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ thoát khỏi sanh tử.

Nếu thấy chúng-sanh chí ý hạ-liệt, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ viên-mãn Phật bồ-đề nguyện.

Nếu thấy chúng-sanh an-trụ hạnh tự-lợi, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ phát khởi tâm nguyện lợi ích tất cả chúng-sanh.

Nếu thấy chúng-sanh chí lực kém yếu, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ được bồ-tát lực-ba-la-mật.

Nếu thấy chúng-sanh tâm ngu si mê tối, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ được bồ-tát trí-ba-la-mật.

Nếu thấy chúng-sanh sắc tướng không đủ, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ được Như-Lai thanh-tịnh sắc-thân.

Nếu thấy chúng-sanh hình dung xấu-xí, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được pháp-thân thanh-tịnh vô-thượng.

Nếu thấy chúng-sanh sắc-tướng thô ác, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được Như-Lai vi-diệu sắc thân.

Nếu thấy chúng-sanh lòng nhiều ưu não, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được Như-Lai rốt ráo an lạc.

Nếu thấy chúng-sanh khổ vì nghèo cùng, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được bửu-tạng công-đức của Bồ-Tát.

Nếu thấy chúng-sanh ở nơi núi rừng, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ siêng cầu nhơn-duyên phật-pháp.

Nếu thấy chúng-sanh đi nơi đường sá, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ xu-hướng đạo nhất-thiết-trí.

Nếu thấy chúng-sanh ở trong tụ-lạc thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ thoát khỏi tam giới.

Nếu thấy chúng-sanh ở nhơn-gian, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ siêu-việt nhị-thừa-đạo, an-trụ nơi như-lai-địa.

Nếu thấy chúng-sanh cư ngụ thành quách, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được ở trong thành Pháp-Vương.

Nếu thấy chúng-sanh ở nơi bốn hướng, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được trí-huệ tam-thế bình đẳng.

Nếu thấy chúng-sanh ở các phương, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ có trí huệ thấy được tất cả pháp.

Nếu thấy chúng-sanh nhiều tham, thời ta vì họ mà nói môn đại-từ-quán, cho họ được nhập siêng năng tu tập.

Nếu thấy chúng-sanh nhiều si, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được trí sáng quán-sát các pháp-hải.

Nếu thấy chúng-sanh thích vui sanh tử, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ nhàm lìa.

Nếu thấy chúng-sanh nhàm khổ sanh tử đáng được Như-Lai hóa độ, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ có thể phương-tiện thị hiện thọ sanh.

Nếu thấy chúng-sanh mến luyến ngũ-uẩn, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ được an-trụ cảnh giới vô-y.

Nếu thấy chúng-sanh tâm họ hạ liệt, thời ta vì họ mà thị hiện đạo thắng trang nghiêm.

Nếu thấy chúng-sanh tâm sanh kiêu-mạn, thời ta vì họ mà nói pháp nhẫn bình-đẳng.

Nếu thấy chúng-sanh tâm siểm-khúc, thời ta vì họ mà nói Bồ-tát trực-tâm.

Nầy Thiện-nam-tử ! Ta dùng vô-lượng pháp-thí như vậy để nhiếp độ tất cả chúng-sanh, nhiều phương-tiện giáo-hóa điều-phục, cho họ khỏi ác đạo, hưởng vui nhân thiên, thoát sự trói buộc của tam giới, an-trụ nhất-thiết-trí.

Lúc đó ta bèn được đại-hoan-hỉ pháp-quang-minh-hải. Tâm ta vui vẻ an ổn thư thới.

Lại nầy Thiện-nam-tử ! Ta thường quán-sát đạo tràng chúng-hội tất cả Bồ-Tát, tu những hạnh nguyện, hiện những tịnh-thân có những thường-quang, phóng những quang-minh, dùng những phương-tiện nhập môn nhất-thiết-trí, nhập những tam-muội, hiện những thần-biến, phát ra những âm-thanh-hải, đủ những thân trang-nghiêm, nhập những như-lai-môn, đến những quốc-độ-hải, thấy chư Phật-hải, được những biện-tài-hải, chiếu những cảnh giải-thoát, được những trí quang-hải, nhập những tam-muội-hải, du hí những môn giải-thoát, dùng những pháp-môn xu hướng nhất-thiết-trí, trang-nghiêm hư-không pháp-giới, dùng những mây trang-nghiêm che khắp hư-không, quán-sát những đạo tràng chúng-hội, họp những thế-giới, nhập những phật-sát, đến những phương-hải, thọ những như-lai mạng, theo những chỗ Như-Lai, cùng chư Bồ-Tát câu-hội, tuôn những mây trang-nghiêm, vào những phương-tiện Như-Lai, quán những pháp-hải Như-Lai, vào những trí-huệ-hải, ngồi những tòa trang-nghiêm.

Nầy Thiện-nam-tử ! Ta quán-sát chúng-hội đạo-tràng nầy, biết Phật thần-lực vô-lượng vô-biên sanh lòng rất hoan-hỉ.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta quán Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai, niệm niệm xuất hiện bất-tư-nghì sắc-thân thanh-tịnh. Thấy như vậy rồi lòng ta rất vui mừng.

Lại thấy đức Như-Lai trong mỗi niệm phóng đại-quang-minh sung-mãn pháp-giới. Thấy như vậy rồi, lòng ta rất vui mừng.

Lại thấy đức Như-Lai, mỗi lỗ lông, niệm niệm xuất hiện vô-lượng phật-sát vi-trần-số quang-minh-hải. Mỗi quang-minh có vô-lượng phật-sát vi-trần-số quang-minh làm quyến thuộc, mỗi mỗi châu biến tất cả pháp giới, tiêu-diệt tất cả chúng-sanh khổ. Thấy như vậy rồi, lòng ta rất vui mừng.

Lại quán Như-Lai, đảnh đầu và chặng mày, niệm niệm xuất hiện phật-sát vi-trần-số mây bửu-diệm-sơn sung mãn tất cả pháp-giới mười phương. Thấy như vậy rồi, ta rất vui mừng.

Lại quán Như-Lai, mỗi mỗi lỗ lông, niệm niệm xuất sanh phật-sát vi-trần số mây hương-quang-minh, sung mãn tất cả cõi Phật mười phương. Thấy như vậy rồi, ta rất vui mừng.

Lại quán Như-Lai mỗi mỗi tướng, niệm niệm phát ra phật-sát vi-trần-số mây như-lai-thân đủ tướng trang-nghiêm, đến khắp tất cả thế-giới mười phương. Thấy như vậy rồi, ta rất vui mừng.

Lại quán Như-Lai mỗi mỗi lỗ lông trong niệm niệm xuất sanh phật-sát vi-trần-số mây phật-biến-hóa, thị-hiện đức Như-Lai từ sơ-phát-tâm, tu ba-la-mật, đủ đạo trang-nghiêm nhập bồ-tát-địa. Thấy như vậy rồi, ta rất vui mừng.

Lại quán Như-Lai mỗi mỗi lỗ lông niệm niệm xuất hiện bất-khả-thuyết-bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số mây Thiên-Vương thân và tự-tại thần-biến đầy khắp tất cả thế-giới mười phương, người đáng do thân Thiên-Vương mà đắc độ thời hiện ra trước họ thuyết-pháp cho họ. Thấy như vậy rồi, ta rất vui mừng.

Những thân-vân: Long-Vương, Dạ-Xoa-Vương, Càn-Thát-Bà Vương, A-Tu-La Vương, Ca-Lâu-La Vương, Khẩn-Na-La Vương, Ma-hầu-La-Già Vương, Nhơn-Vương, Phạm-Vương, đều trong mỗi lỗ lông của Như-Lai niệm niệm xuất hiện, thuyết pháp như thân-vân Thiên-Vương. Thấy như vậy rồi, ta rất hoan-hỉ, rất tin mến, lượng bằng pháp-giới nhất-thiết-trí, chỗ xưa chưa được mà nay mới được, chỗ xưa chưa chứng mà nay mới chứng, chỗ xưa chưa nhập mà nay mới nhập, chỗ xưa chưa mãn mà nay mới mãn, chỗ xưa chưa thấy mà nay mới thấy, chỗ xưa chưa nghe mà nay mới nghe.

Tại sao vậy ?

Bởi có thể biết rõ tướng pháp-giới. Vì biết tất cả pháp chỉ một tướng. Vì có thể bình-đẳng nhập đạo tam-thế. Vì có thể nói tất cả vô-biên pháp.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta nhập bồ-tát niệm niệm xuất sanh quảng-đại-hỉ trang-nghiêm giải-thoát quang-minh-hải nầy.

Giải-thoát nầy vô-biên, vì vào khắp tất cả pháp-giới môn.

Giải-thoát nầy vô-tận, vì khắp pháp tâm nhất-thiết-trí-tánh.

Giải-thoát nầy vô-tế, vì vào trong tâm tất cả chúng-sanh không giới hạn.

Giải-thoát nầy thậm-thâm, vì là cảnh sở-tri của trí huệ tịch-tịnh.

Giải-thoát nầy quảng đại, vì châu biến tất cả Như-Lai cảnh.

Giải-thoát nầy vô-hoại, vì là cảnh sở-tri của Bồ-Tát trí-nhãn.

Giải-thoát nầy không đáy, vì tận nguồn đáy nơi pháp-giới.

Giải-thoát nầy chính là phổ-môn, vì trong một sự thấy khắp tất cả thần-biến.

Giải-thoát nầy trọn chẳng thể lấy, vì tất cả pháp-thân bình-đẳng không hai.

Giải-thoát nầy trọn không có sanh, vì rõ biết được pháp như huyễn.

Giải-thoát nầy như ảnh tượng, vì nhất-thiết-trí nguyện-quang sanh ra.

Giải-thoát nầy dường như biến hóa, vì hóa sanh những thắng-hạnh bồ-tát.

Giải-thoát nầy dường như đại-địa vì là chỗ sở-y của tất cả chúng sanh.

Giải-thoát nầy dường như đại-thủy, vì có thể dùng đại-bi nhuận tất cả.

Giải-thoát nầy dường như đại-hỏa, vì khô cạn nước tham ái của tất cả chúng-sanh.

Giải-thoát nầy dường như đại-phong, vì làm cho chúng-sanh mau đến nhất-thiết-trí.

Giải-thoát nầy dường như đại-hải, vì những công-đức trang- nghiêm tất cả chúng-sanh.

Giải-thoát nầy như núi Tu-Di, vì xuất hiện biển pháp nhất-thiết-trí.

Giải-thoát nầy như thành quách lớn, vì tất cả pháp được trang-nghiêm.

Giải-thoát nầy như hư không, vì dung khắp thần-lực của tất cả Phật tam thế.

Giải-thoát nầy như mây lớn, vì mưa pháp-vũ cho khắp chúng-sanh.

Giải-thoát nầy như mặt nhật, vì phá được tối ngu-si của chúng-sanh.

Giải-thoát nầy như mặt trăng tròn, vì mãn túc biển phước-đức quảng đại.

Giải-thoát nầy dường chơn-như, vì đều có thể cùng khắp tất cả chỗ.

Giải-thoát nầy như bóng của mình, vì do thiện-nghiệp của mình hóa xuất ra.

Giải-thoát nầy như tiếng vang, vì tùy nghi mà thuyết pháp.

Giải-thoát nầy như ãnh tượng, vì tùy tâm chúng-sanh mà chiếu hiện.

Giải-thoát nầy như đại-thọ-vương vì nở xòe tất cả hoa thần-thông.

Giải-thoát nầy như kim-cang, vì bổn lai bất-khả-hoại.

Giải-thoát nầy như châu ma-ni, vì xuất sanh vô-lượng sức tự-tại.

Giải-thoát nầy như ly-cấu-tạng ma-ni-vương, vì thị-hiện tất cả tam-thế Như-Lai thần-lực.

Giải-thoát nầy như hỉ-tràng ma-ni-bửu, vì có thể bình-đẳng phát ra tiếng phát-luân của tất cả chư phật.

Nầy thiện-nam-tử ! Nay ta vì ngươi mà nói những ví-dụ nầy. Ngươi nên tư-duy tùy thuận ngộ nhập.

Thiện-Tài thưa:

Bạch Đại-Thánh ! Tu hành thế nào để được môn giải thoát nầy.

Dạ-Thần nói:

Nầy thiện-nam-tử ! Bồ-Tát tu hành mười đại-pháp-tạng được giải thoát nầy:

Một là tu bố-thí quảng-đại-pháp-tạng, tùy tâm chúng-sanh đều khiến đầy đủ.

Hai là tu tịnh-giới quảng-đại pháp-tạng vào khắp tất cả biển phật công-đức.

Ba là tu kham-nhẫn quảng đại pháp-tạng, có thể khắp tư-duy tất cả pháp-tánh.

Bốn là tu tinh-tấn quảng-đại pháp-tạng, vì xu hướng nhất-thiết-trí hằng chẳng thối-chuyển.

Năm là tu thiền-định quảng-đại pháp-tạng, vì có thể diệt trừ tất cả chúng-sanh nhiệt-não.

Sáu là tu bát-nhã quảng-đại pháp-tạng, vì có thể biết rõ khắp tất cả pháp-hải.

Bảy là tu phương-tiện quảng-đại pháp-tạng, có thể thành-thục khắp những chúng-sanh-hải.

Tám là tu những nguyện quảng-đại pháp-tạng, vì tận vị-lai kiếp tu bồ-tát-hạnh khắp tất cả cõi phật, tất cả chúng-sanh.

Chín là tu những lực quảng đại pháp-tạng, vì niệm niệm hiện thành Đẳng-Chánh-Giác nơi tất cả pháp-giới, nơi tất cả quốc-độ thường chẳng thôi dứt.

Mười là tu tịnh-trí quảng-đại pháp-tạng, được như-lai-tri biết khắp tất cả pháp tam-thế không có chướng ngại.

Nếu chư Bồ-Tát an-trụ mười pháp-tạng nầy thời có thể chứng được giải-thoát như vậy.

Thiện-Tài thưa :

Đại-Thánh phát tâm vô-thượng bồ-đề đã bao lâu ?

Dạ-Thần nói :

Nầy thiện-nam-tử ! Phía đông của Hoa-Tạng-Trang-Nghiêm-Thế-Giới-Hải nầy, qua khỏi mười thế-giới-hải, có thế-giới-hải tên là Nhất-Thiết-Tịnh-Quang-Bửu. Trong thế-giới-hải nầy có thế-giới-chủng tên là Nhất-Thiết-Như-Lai-Nguyện-Quang-Minh-Ấm, trong đó có thế-giới tên là Thanh-tịnh-Quang-Kim-Trang-Nghiêm, thể chất bằng hương-kim-cang ma-ni-vương, hình như lâu các. Diệu-bửu-vân làm biên-tế, ở trong biển nhất-thiết-bửu-anh-lạc. Mây diệu-cung-điện che trên. Tịnh-uế lẫn lộn.

Trong thế-giới đó, thuở xưa có kiếp tên là Phổ-Quang-Tràng. Nước tên là Phổ Mãn-Diệu-Tạng. Đạo-tràng tên là Nhứt-Thiết-Bửu-Tạng-Diệu Nguyệt-Quang-Minh. Có Phật tên là Bất-Thối-Chuyển-Pháp-Giới-Ấm, thành Đẳng-Chánh-Giác nơi đạo tràng này.

Thuở đó ta làm Bồ-đề Thọ-Thần tên là Cụ-Túc-Phước-Đức-Đăng-Quang-Minh-Tràng. Ta thủ hộ đạo tràng ấy.

Ta thấy đức Phật Pháp-Giới-Ấm thành Đẳng-Chánh-Giác thị-hiện thần lực, ta phát tâm vô-thượng bồ-đề. Liền lúc đó ta được tam-muội tên là Phổ-chiếu-như-lai công-đức-hải.

Kế đó, trong đạo-tràng ấy có Như-Lai xuất thế hiệu là Pháp-Thọ-Oai Đức-Sơn.

Bây giờ ta mạng chung sanh trở lại làm đạo-tràng Chủ-Dạ-Thần, tên là Thù-Thắng-Phước-Trí-Quang.

Ta thấy đức Oai-Đức-Sơn Như-Lai hiện đại thần-thông chuyển chánh pháp-luân, liền được tam-muội tên là Phổ-chiếu-nhất-thiết-ly-tham-cảnh-giới.

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Nhứt-Thiết-Pháp-Hải-Ấm-Thanh-Vương.

Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là sanh-trưởng-nhất-thiết-thiện-pháp-địa.

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Bửu-Quang-Minh-Đăng-Tràng-Vương.

Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là Phổ-Hiện-Thần-Thông-Quang-Minh-Vân.

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Công-Đức-Tu-Di-Quang.

Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là Phổ-Chiếu-Chư-Phật-Hải.

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Pháp-Vân-Ấm-Thanh-Vương.

Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là Nhất-Thiết-Pháp-Hải-Đăng.

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Trí-Đăng-Chiếu-Diệu-Vương.

Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là Diệt-Nhất-Thiết-Chúng-Sanh-Khổ-Thanh-Tịnh-Quang-Minh-Đăng.

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Pháp-Dũng-Diệu-Đức-Tràng.

Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là Tam-Thế Như-Lai-Quang-Minh-Tạng.

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Sư-Tử-Dũng-Mãnh-Pháp-Trí-Đăng.

Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là nhất thiết-thế-gian-vô-chướng-ngại-trí-huệ-luân.

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Trí-Lực-Sơn-Vương.

Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là phổ-chiếu-chúng-sanh-chư-căn-hạnh.

Nầy thiện-nam-tử ! Trong thế-giới Thanh-Tịnh-Quang-Kim-Trang-nghiêm, thuở kiếp Phổ-Quang-Minh-Tràng, có phật-sát vi-trần số Như-Lai xuất thế như vậy.

Trong thời-gian đó, ta hoặc làm Thiên-Vương, Long-Vương, hoặc làm Dạ-Xoa-Vương, Càn-Thát-Bà-Vương, A-Tu-La-Vương, Ca-Lâu-La-Vương, Khẩn-Na-La-Vương, Ma-Hầu-La-Già-Vương, hoặc làm Nhân-Vương, Phạm-Vương, hoặc làm Thiên-Thân, Nhân-Thân, làm nam-tử, nữ-nhân, làm đồng-nam, đồng-nữ.

Nơi tất cả thân, ta đều kính thờ cúng-dường tất cả Như-Lai, nghe Phật thuyết-pháp.

Khi mạng-chung, ta sanh trở lại trong thế-giới đó, trải qua phật-sát vi-trần-số kiếp tu bồ-tát-hạnh.

Sau đó, ta mạng-chung sanh nơi Ta-Bà thế-giới trong Hoa-Tạng-Trang-Nghiêm-Thế-Giới-Hải nầy, gặp và cúng-dường đức Câu-Lưu-Tôn-Đà Như-Lai. Ta được tam-muội tên là ly-nhất-thiết-trần-cấu-quang-minh.

Kế đó gặp đức Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni Như-Lai, ta kính thờ cúng-dường, được tam-muội tên là Phổ-Hiện-Nhất-Thiết-Chư-Sát-Hải.

Kế đó gặp đức Ca-Diếp Như-Lai, ta kính thờ cúng-dường, được tam-muội tên là Diễn-Nhất-Thiết-chúng-Sanh-Ngôn-Ấm-Hải.

Kế đó gặp đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như Lai thành Đẳng-Chánh-Giác nơi đạo-tràng nầy niệm niệm thị-hiện đại-thần-thông-lực. Do đó ta được môn giải-thoát niệm-niệm-xuất-sanh-quảng-đại-hỉ-trang-nghiêm.

Được giải thoát nầy rồi, ta có thể nhập mười bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số pháp-giới an-lập hải.

Ta thấy trong tất cả pháp-giới an lập-hải, bao nhiêu vi-trần của tất cả phật-sát. Trong mỗi vi-trần có mười bất-khả-thuyết bất khả-thuyết phật sát vi-trần-số phật-độ. Mỗi phật-độ đều có Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai ngồi đạo-tràng, trong mỗi niệm thành Đẳng-Chánh-Giác hiện đại-thần-biến. Những thần-biến của Như-Lai hiện đều khắp pháp-giới-hải.

Ta cũng thấy thân mình ở tại chỗ của tất cả Như-Lai, cũng nghe Phật nói diệu-pháp.

Ta cũng thấy tất cả chư Phật, nơi mỗi lỗ lông xuất hiện, thần-thông biến hóa khắp tất cả pháp-giới-hải, khắp tất cả thế-giới hải, khắp tất cả thế-giới chủng, trong tất cả thế giới tùy tâm chúng-sanh mà chuyển chánh-pháp-luân.

Nhơn đó ta được sức tốc-tật đà-la-ni, thọ trì tư-duy tất cả văn nghĩa. Dùng trí minh-liễu vào khắp tất cả pháp-tạng thanh-tịnh. Dùng trí tự-tại dạo khắp tất cả thậm thâm pháp-hải. Dùng trí châu-biến biết khắp những nghĩa quảng-đại trong tam thế. Dùng trí bình-đẳng đạt khắp pháp vô-sai-biệt của chư Phật.

Ta hiểu rõ tất cả pháp-môn như vậy. Trong mỗi mỗi pháp-môn, hiểu rõ tất cả tu-đa-la-vân. Trong mỗi mỗi tu-đa-la-vân, ta hiểu rõ tất cả pháp-hải. Trong mỗi mỗi pháp-hải, ta hiểu rõ tất cả pháp-phẩm. Trong mỗi mỗi pháp-phẩm, ta hiểu rõ tất cả pháp-vân. Trong mỗi mỗi pháp-vân, ta hiểu rõ tất cả pháp-lưu. Trong mỗi mỗi pháp-lưu xuất sanh tất cả đại-hỉ-hải. Mỗi đại-hỉ-hải xuất sanh tất cả địa. Mỗi địa xuất sanh tất cả tam-muội-hải. Mỗi tam-muội-hải được tất cả kiến-phật-hải. Mỗi kiến-phật-hải được tất cả trí-quang-hải. Mỗi trí-quang-hải chiếu khắp tam-thế, vào khắp mười phương, biết những hạnh-hải thuở xưa của vô-lượng Như-Lai, biết những bổn-sự hải của vô-lượng Như-Lai, biết năng-xả nan-thí-hải của vô-lượng Như-Lai, biết thanh-tịnh giới-luân-hải của vô-lượng Như-Lai, biết thanh-tịnh kham-nhẫn-hải của vô-lượng Như-Lai, biết quảng-đại-tinh-tấn hải của vô-lượng Như-Lai, biết thậm-thâm thiền-định hải của vô-lượng Như-Lai, biết bát-nhã ba-la-mật hải của vô-lượng Như-Lai, biết phương-tiện ba-la-mật hải của vô-lượng Như-Lai, biết nguyện ba-la-mật hải của vô lượng Như-Lai, biết lực ba-la-mật hải của vô-lượng Như-Lai, biết trí ba-la-mật hải của vô-lượng Như-Lai, biết vô-lượng Như-Lai thuở xưa siêu bồ-tát-địa, trụ bồ-tát-địa, hiện thần-thông lực trong vô-lượng kiếp hải.

Cũng biết vô-lượng Như-Lai thuở xưa nhập bồ-tát-địa, tu bồ-tát-địa, trụ bồ-tát-địa, quán bồ-tát-địa.

Biết vô-lượng Như-Lai, thuở xưa, lúc làm Bồ-Tát thường thấy chư Phật-hải, kiếp-hải đồng-trụ.

Biết vô-lượng Như-Lai, thuở xưa, lúc làm Bồ-Tát, dùng vô-lượng thân sanh khắp sát-hải.

Biết vô-lượng Như-Lai, thuở xưa lúc làm Bồ-Tát, cùng khắp pháp-giới tu hạnh quảng-đại.

Biết vô-lượng Như-Lai, thuở xưa lúc làm Bồ-Tát, thị-hiện những phương-tiện-môn điều phục thành-thục tất cả chúng-sanh.

Biết vô-lượng Như-Lai phóng đại quang-minh chiếu khắp tất cả sát-hải mười phương.

Biết vô-lượng Như-Lai hiện đại-thần-lực ra trước tất cả chúng-sanh.

Biết trí quảng-đại của vô-lượng Như-Lai.

Biết vô-lượng Như-Lai chuyển chánh-pháp-luân.

Biết vô-lượng Như-Lai thị-hiện tướng-hải.

Biết vô-lượng Như-Lai thị-hiện thân hải.

Biết vô-lượng Như-Lai quảng-đại lực hải.

Tất cả chư Như-Lai đó từ sơ phát tâm nhẫn đến pháp-diệt, trong mỗi niệm ta đều thấy biết.

Nầy thiện-nam-tử ! Ngươi hỏi ta phát tâm đã bao lâu ?

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa quá hai phật sát vi-trần-số kiếp như đã nói ở trên, trong thế-giới thanh-tịnh-Quang-Kim-Trang-Nghiêm, ta làm Bồ-Đề-Thọ thần nghe đức Bất-Thối-Chuyển-Pháp-Giới Ấm Như-Lai thuyết pháp, ta phát tâm vô-thượng bồ-đề, tu bồ-tát hạnh suốt hai phật-sát vi-trần-số kiếp sau đó mới sanh trong Hiền-Kiếp nơi Thế Giới Ta-Bà nầy, từ Câu-Lưu-Tôn-Đà Phật, đến Thích-Ca-Mâu-Ni Phật, và tất cả Phật vị-lai trong kiếp nầy, ta đều thân-cận cúng dường như vậy.

Trong tất cả thế-giới tất cả kiếp vị-lai đây có tất cả chư Phật, ta cũng đều thân-cận cúng-dường như vậy.

Nầy thiện-nam-tử ! Thế-giới Thanh-tịnh-Quang-Kim-Trang-Nghiêm hiện nay vẫn còn, chư Phật nối tiếp xuất hiện không dứt. Ngươi nên nhứt tâm tu môn bồ-tát-đại-dũng-mãnh nầy.

Bấy giờ Chủ-Dạ-Thần Tịch-Tịnh-Âm-Hải muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát nầy, vì Thiện-Tài Đồng-Tử mà nói kệ rằng :

 

Thiện-Tài nghe ta nói

Môn thanh-tịnh giải thoát

Nghe rồi sanh vui mừng

Siêng tu cho rốt ráo

Xưa, vi-trần kiếp hải.

Ta phát tính nguyện lớn

Thanh-tịnh như hư-không

Thường quán nhất-thiết-trí

Ta nơi tam thế Phật

Đều có lòng tin mến

Cùng chúng-hội đạo-tràng

Đều nguyện thường thân-cận.

Xưa tôi từng thấy Phật

Vì chúng-sanh cúng-dường

Được nghe pháp thanh-tịnh

Tâm mình rất hoan-hỉ

Thường tôn trọng phụ mẫu

Cung-kính mà cúng-dường

Không thôi trễ như vậy

Vào môn giải-thoát nầy.

Người già bệnh nghèo cùng

Căn thân chẳng toàn vẹn

Đều thương giúp tất cả

Cho họ được an-ổn.

Nước, lửa và vua, giặc

Trong biển có khủng bố

Xưa ta tu các hạnh

Vì cứu chúng-sanh đó.

Phiền-não hằng hẩy hừng

Nghiệp-chướng luôn ràng buộc

Sa vào các đường hiểm

Ta cứu chúng-sanh đó.

Tất cả các ác-thú

Vô-lượng sự khốn khổ

Sanh già bệnh chết thảy

Ta sẽ đều trừ diệt.

Nguyện tận kiếp vị-lai

Vì khắp các chúng-sanh

Diệt trừ khổ sanh tử

Được Phật rốt ráo vui.

 

Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT NIỆM NIỆM SANH QUẢNG ĐẠI TRÍ TRANG NGHIÊM” nầy.

Như chư đại Bồ-Tát thâm-nhập tất cả pháp-giới-hải, đều biết tất cả những kiếp-số, thấy khắp tất cả cõi thành hoại. Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó.

Nầy thiện-nam-tử ! Trong hội bồ-đề-tràng của đức Như-Lai đây có Chủ-Dạ-Thần tên là Thủ-Hộ-Nhất-Thiết-Thành-Tăng-Trưởng-Oai-Lực.

Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát hạnh, tu bồ-tát-đạo.

Thiện-Tài nhứt-tâm quan-sát thân của Chủ-Dạ-Thần-Tịch-Tịnh-Âm-Hải rồi nói kệ rằng :

 

Tôi do Thiện-Hữu dạy

Đến chỗ Chủ-Dạ-Thần

Thấy Thần ngồi bửu-tòa

Thân lượng lớn vô-biên.

Những người chấp sắc-tướng

Chấp các pháp là có

Kẻ trí kém hiểu cạn

Chẳng biết cảnh-giới Thần.

Trời và người thế gian

Quan-sát vô-lượng kiếp

Cũng chẳng tính lường được

Vì sắc-tướng vô-biên

Xa lìa nơi năm uẩn

Cũng chẳng trụ nơi xứ

Dứt hẳn thế-gian nghi

Hiển hiện sức tự tại

Chẳng chấp pháp nội ngoại

Không động không chướng ngại

Mắt trí-huệ thanh-tịnh

Thấy Phật thần-thông-lực

Thân là chánh-pháp-tạng

Tâm là trí vô-ngại

Đã được trí quang chiếu

Lại chiếu các quần-sanh

Tâm nhóm vô-biên nghiệp

Trang-nghiêm các thế gian

Biết thế-gian là tâm

Hiện thân khắp chúng-sanh

Biết thế-gian như mộng

Tất cả phật như bóng

Các pháp đều như vang

Khiến người không chấp trước

Vì tam-thế chúng-sanh

Niệm niệm thị-hiện thân

Mà tâm vô-sở trụ

Mười phương khắp nói pháp

Vô-biên những sát-hải

Phật-hải chúng-sanh-hải

Đều ở trong một trần

Là giải-thoát của Thần.

 

Nói kệ xong, Thiện-Tài đảnh lễ Dạ-Thần hữu-nhiễu vô-số vòng ân-cần chiêm-ngưỡng từ tạ mà đi.



KINH: Bấy giờ Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng sanh Diệu Đức, nghe pháp môn giải thoát bồ tát phổ hiện nhất thiết thế gian điều phục chúng sanh.

GIẢNG: Lúc nào, các ngài cũng độ sanh bằng cách phổ hiện nhất thiết thế gian, hoặc biến hành v.v… Tu đến mức độ thân mình trải khắp tất cả chỗ , nhưng làm thì có vô lượng cách làm khác nhau, vì trong sự độ sanh có nhiều phương tiện, nhưng thường thì phải hiện thân khắp mọi nơi, thân phải trùm pháp giới, đôi khi hiện hình thành con sư tử, thành con trùng núp dưới cánh hoa, hoặc những thân rất lớn bao trùm cả hư không thì mới có thễ độ sanh nhiều dược. Vị thiện tri thức này có tên Phổ Hiền Nhất Thiết Thế Gian, lúc nào cũng phổ hiện khắp chốn, lúc nào cũng hiện thân trong mọi lỗ lông, hiện vô lượng thân bằng số chúng sanh.

KINH: Thiện Tài biết rõ tin hiểu, tự tại an trụ trong môn giải thoát đó.

GIẢNG: Chúng ta cũng nên để ý rằng, từ giờ về sau, khi Thiện Tài đi gặp vị thiện tri thức nào, đều đắc được môn giải thoát của vị đó, chứ không phải như trước nữa, vì trước nhiều khi chỉ nghe thôi chứ chưa đắc được…

KINH: Thiện Tài đến chỗ Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải đảnh lễ chân chũ dạ thần hữu nhiễu vô số vòng chắp tay cung kính thưa rằng, bạch đức thánh tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề. Tôi muốn nương theo thiện tri thức để học bồ tát hạnh, nhập bồ tát hạnh…

GIẢNG: Vị thiện tri thức nào cũng là tịch tĩnh Âm Hải hoặc An trụ, v.v… tức là đi sâu vào tâm. Và dạo sau này, Thiện Tài hỏi cách nhập bồ tát hạnh chứ không còn hỏi học bồ tát hạnh thế nào nữa. Vì các vị thiện tri thức sau này, các ngài đã viên mản nhiều công hạnh.

KINH: Lành thay, lành thay, này thiện nam tử, ngươi có thể nương thiện tri thức cầu bồ tát hạnh. Này thiện nam tử, ta được môn giải thoát bồ tát niệm niệm xuất sanh quảng đại hỉ trang nghiêm.

GIẢNG: Các vị chủ dạ thần thường nói đến chữ “hỷ.” Như ngài thứ 33 thì nói ngài được môn giải thoát “tịch tĩnh thiền định lạc phổ du bộ,” lạc phổ du bộ là ngài đi vào các tam muội, vào tất cả các nơi, và toàn thấy sự hỷ lạc. Một ngài khác thì được “Phổ hỷ tràng;’ v.v… , còn vị này thì được môn “niệm niệm xuất sanh quảng đại hỷ trang nghiêm.” Tóm lại, các ngài này toàn nói về ” hỷ” cả, vì khi đi sâu vào tâm thức, thì sự thọ hỷ lạc rất lạ lùng mầu nhiệm, thân tâm tràn đầy những hỷ lạc khó tả. Phần đông chúng ta sống với những giác quan thô kệch, hay thấy lòng nhưtrống vắng, buồn phiền v.v… vì chúng ta chưa khơi được dòng suối hỷ lạc trong tâm. Chúng ta thường chỉ dùng những giác quan thô kệch cùng những tâm tưởng dứt nối lăng xăng, rồi trông thế gian chỉ thấy có cây, cỏ, người, vật v.v… khi vui, khi buồn, khi yêu, khi ghét nên nhiều khi ta thấy cảnh giới chung quanh thật là cằn cỗi hạn hẹp, vì chúng ta chưa đi sâu vào cái tâm vi diệu ấy. Theo như các kinh nói, thì nó là một giòng suối vô tận của hỷ lạc. Vì vậy, các vị tu hành cao, không hề cảm thấy buồn vớ vẩn cả, và các ngài thường khởi tâm từ, tâm bi để cứu độ thôi. Trở về vị thiện tri thức này, ngài được môn “niệm niệm xuất sanh quảng đại hỷ trang nghiêm” , thì mỗi niệm ngài khởi lên đều tràn đầy hỷ lạc .

KINH: Thiện Tài thưa, Đại thánh, môn giải thoát này sự nghiệp thế nào, cảnh giới thế nào, khởi phương tiện gì? quán sát thế nào? … Ta phát tâm nguyện bình đẳng thanh tịnh, ta phát khởi tâm trọn không thối chuyển,… ta phát khởi tâm bất động như bửu sơn,… ta phát khởi tâm nguyện lực thanh tịnh cầu tất cả bồ tát…

GIẢNG: Đại khái vẫn như vậy thôi, vẫn là thanh tịnh, vẫn bình đẳng, vẫn là bất động v.v… quan sát có nhiều mức độ, tu hành đến một mức độ nào đó, hành giả tưởng đã đến thanh tịnh rồi nhưng chưa phải là thật rốt ráo thanh tịnh.

KINH: …ta phái khởi tâm làm cho tất cả chúng sanh bỏ rời ái biệt ly khổ và oán tằng hội khổ…

GIẢNG: Trên con đường bồ tát hạnh, có rất nhiều mức độ, nhưng mức độ của vị thiện tri thức này đã cao lắm rồi.

KINH: Ta phát khởi những tâm như vậy rồi, lại vì chúng sanh mà thuyết pháp, làm cho họ lần lần đến bực nhất thiết trí…

GIẢNG: Thuyết pháp khiến chúng sanh lần lần đến bực nhất thiết trí thì vị này quá sức ghê gớm rồi.

KINH: Như là nếu thấy chúng sanh mến luyến nhà cửa cung điện của họ ở, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ thấu rõ tự tánh của các pháp lìa chấp trước.

GIẢNG: Dụ như có người mến luyến nhà cửa, gia đình cung điện nhiều thì các ngài thuyết pháp như khổ, không, vô thường, vô ngã v.v… nếu chúng ta cứ chạy theo nắm bắt những thứ ấy thì dĩ nhiên là phái thọ khổ rồi.

KINH: Nếu thấy chúng sanh mến luyến cha mẹ, anh em, chị em, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được dự chúng hội thanh tịnh chư Phật bồ tát.

GIẢNG: Từ vô thủy đến nay, trong vô lượng kiếp, chúng ta đi trong các cõi giữa những người thân, hoặc chồng, vợ, cha mẹ, anh em, con cái bạn bè v.v… quá thân thiết, nhưng ít khi chúng ta lại nghĩ rằng, chính những người thân thuộc đó làm cho ta lẩn quẩn trong luân hồi sanh tử. Nên các ngài phải thuyết pháp dạy rằng tất cả chí là nhân duyên mộng huyễn, mà ta phải tìm những người bạn đường thanh tịnh, những vị đó mới là người dẫn dắt chúng ta đi lên mà thôi. Đạo Phật nói rất rõ những ý nghĩa của cuộc đời, đôi khi làm người nghe rất chối tai và không chịu tin, nhưng chính thực nó là như vậy.

KINH: Nếu thấy chúng sanh mến luyến vợ con, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ rời bỏ sanh tử ái nhiễm, khởi tam đại bi, với tất cả chúng sanh bình đẳng vô nhị.

GIẢNG: Nếu thấy những người nào yêu quý vợ con quá thì ngài phải thuyết về tâm đại bi bình đẳng, đừng có ngã sở và ngã kiến. Tình thương là rất tốt, nhưng tâm đắm nhiễm riêng một người nào đó thì không nên, vì tâm mình phải trải rộng ra, bình đẳng, ngang với pháp giới này mới được. Đạo Phật cũng chính là đạo hiếu, nhưng chữ hiếu đó rất cao. Nếu đối với bố mẹ, chúng ta cung phụng đầy đủ về vật chất, lo cho bố mẹ không phải thiếu thốn thứ gì, thì đó là sự hiếu đễ theo đạo Khổng, và sự hiếu đễ đó không được rốt ráo lắm, phải làm cho bố mẹ thoát được luân hồi sanh tử mới thực là có hiếu. Đến khi thành Phật thì chúng ta độ cho những người thân quen từ vô lượng kiếp, là ai? chính là chúng sanh cả, vì trong vô lượng kiếp ta cứ luân hồi lên lên, xuống xuống trong sáu nẻo, nên ai ai cũng đều là quyến thuộc của ta cả, nghĩ như vậy trong tâm ta mới khởi được niệm từ bi, và trải rộng tâm mình bình đẳng được. Trong kinh có kể, có những vị làm vợ chồng với nhau trong 500 kiếp, rồi dần dần đưa nhau vào đạo cùng tấn tu cho đến thành Phật quả. Như ngài A Nan và bà Ma Đăng Già đã từng làm vợ chồng với nhau năm trăm kiếp, đến kiếp này gặp Phật thì cả hai đắc quả A La hán, từ tình đời chuyển thành tình đạo, hoặc như ngài Cù Ba, tức là vị Bồ tát thị hiện làm vợ thứ hai của Đức Phật từ những chuyện tình duyên kiếp trước, sau chuyển thành vua Chuyển Luân Vương và Bửu Nữ, sau rốt mới đắc đạo. Tóm lại, tất cả vọng tình, như tình yêu thì tu cao sẽ chuyển thành Đại Bi, còn tất cả các vọng tưởng khi tu cao sẽ chuyển thành Trí Huệ, trí huệ là nhìn được những thực tướng, tánh không của các pháp.

Trong những đạo khác thì chưa biết dùng chữ “vọng tưởng,” hoặc không dám nói đến vọng tưởng, chỉ nói đến vọng tình mà thôi, như trong Thiên Chúa Giáo, khuyên các nữ tu coi Đức Chúa Giê-Su như vị hôn phu của mình, thì đó là chuyển những vọng tình ở mức độ thấp, chưa biết thăng hoa rốt ráo vọng tình đó, và cũng chưa biết đối trị vọng tưởng. Nên không phải mình chủ quan với đạo Phật, nhưng càng nghĩ kỹ càng thấy đạo Phật là một tuyệt vời, có thể đưa con người đi đến mức độ giải thoát rốt ráo. Nhưng căn cơ chúng sanh thời mạt pháp này quá sức cạn cợt, càng nói thấp bao nhiêu càng có nhiều người theo bấy nhiêu, vì họ cảm thấy ấm áp hơn, gần gũi hơn, dễ hiểu hơn, và nhất là phần đông căn trí lười biếng, không thích suy nghĩ, không thích tinh tấn dõng mãnh, chỉ thích có một đấng thần quyền nào đó để nương về, nhất là về. Vì vậy, các tôn giáo chưa cao tột vẫn có nhiều người theo là vậy.

Một hành giả khi tu lên cao, sẽ trở thành Bửu Nữ hoặc Chuyển Luân Vương, sau đó hành giả ấy sẽ làm bạn với những vị bồ tát thân hào quang sáng chói, bay trên hư không đi chơi cái cõi, cúng dường chư Phật mười phương.

KINH: Này thiện nam tử, ta quán sát chúng hội đạo tràng này, biết Phật thần lực vô lượng vô biên sanh lòng rất hoan hỉ.

GIẢNG: Ngài thường quán sát chúng hội đạo tràng liên miên không ngớt nên trong lòng sanh hoan hỉ. Ngài nói sự vui mừng khi nghĩ đến Phật thần lực vô lượng vô biên. Chúng ta cũng vậy, nếu chịu khó tu hành thì thế nào cũng đến mức độ như thế, ai cũng vậy cả, chỉ có cái là mau hay chậm mà thôi.

KINH: Này thiện nam tử, ta quán Tỳ Lô Giá Na Như Lai, niệm niệm xuất hiện bất tư nghi sắc thân thanh tịnh. Thấy như vậy rồi lòng ta rất vui mừng.

GIẢNG: Nếu như trong gia đình chúng ta gặp phải những chuyện khó khăn, buồn rầu, hay có người đau ốm thì nên nghĩ đến chư Phật mười phương, hoặc niệm hồng danh đức Phật A Di Đà thì sự đau khổ sẽ bớt đi nhiều, và suy nghĩ xa hơn, biết rằng, tương lai của chúng ta đều bất tử cả, như vậy ta sẽ mở dần kho vô tận của an lạc. Vì tất cả sự khổ lụy chỉ là phù du, nổi lên chốt lát như đám mây đen, đều chỉ do tâm mình quyện vào đó, nhưng nếu biết cách cởi thì tâm lại trong sạch như bầu trời đã trôi đi những áng mây đen

KINH: Lại thấy Đức Như Lai trong mỗi niệm phóng đại quang minh sung mãn pháp giới, thấy như vậy rồi lòng ta rất vui mừng. Lại thấy Đức Như Lai mỗi lỗ lông niệm niệm xuất hiện vô lượng Phật sát vi trần số quang minh hải, mỗi quang minh có vô lượng phật sát vi trần số quang minh làm quyến thuộc, mỗi mỗi châu biến tất cả pháp giới, tiêu diệt tất cả chúng sanh khổ. Thấy như vậy rồi lòng ta rất vui mừng.

GIẢNG: Thật ra, việc “suy tư nhớ tưởng chư Phật” là một điều rất lợi ích và nên làm thường xuyên, không những nó đưa ta ra khỏi phiền muộn, khổ não, mà nó còn đem lại trong tâm ta sự hoan hỉ vô cùng, vì sao? Vì trong tâm ta có thể nở lên những chủng tử từ, bi, hỉ, xả. Đại khái tất cả chỉ là những thiên la võng quang minh của chư Phật trùm che lên chúng ta mà thôi.

KINH: Này thiện nam tử, ta nhập bồ tát niệm niệm xuất sanh quảng đại hỉ trang nghiêm giải thoát quang minh hải này. Giải thoát này vô biên, vì vào khắp tất cả pháp giới môn. Giải thoát này vô tận, vì khắp phát tâm nhất thiết trí tánh. Giải thoát này vô tế, vì vào trong tâm tất cả chúng sanh không giới hạn. Giải thoát này thậm thâm…, giải thoát này quảng đại…, giải thoát này vô hoại…, giải thoát này không đáy…, giải thoát này chính là phổ môn…, giải thoát này trọn không có sanh, vì rõ biết được pháp như huyễn…

GIẢNG: Tất cả đều phải quán như huyễn cả, tức là các ngài đều vào trung đạo rồi. Quán như huyễn là thấy các pháp đều không thật không hư, ngay cả thân mình như huyễn mộng thôi, dần dần tâm mình đạt đến đáy tầng tâm thức, thì lúc đó sự an lạc mới vô biên.

KINH: Giải thoát này như ảnh tượng vì nhất thiết trí nguyện quang sanh ra. Giải thoát này dường như biến hóa vì hóa sanh những thắng hạnh bồ tát…

GIẢNG: Đại khái là như huyễn, vô biên ,vô hoại biến hóa không cùng v.v…

KINH: …giải thoát này như bóng của mình, vì do thiện nghiệp của mình hóa xuất ra. Giải thoát này như tiếng vang vì tùy nghi mà thuyết pháp. Giải thoát này như ảnh tượng, vì tùy tâm chúng sanh mà chiếu hiện. Giải thoát này như đại thọ vương vì nở xòe tất cả hoa thần thông.

GIẢNG: Tâm chúng ta như bông hoa, khi hoa ấy rũ xuống thì tâm buồn rầu ủ rũ, khi nó nở xòe ra thì ta thấy vui sướng. Tất cả pháp giới đều là những đóa hoa, tâm chúng ta cũng là một đóa hoa, thân chúng ta cũng là một đóa hoa, cái cây kia cũng là một đóa hoa, ngay cả con kiến cũng là một đóa hoa nở trên cái biển uyên nguyên ấy, như những bọt bong bóng nước. Khi hoa ấy nở ra thì thành chữ “HỒNG,” khi nó cụp lại thì thành chữ “ÚM”. Ta cứ nhớ đến những điều đó và thỉnh thoảng quán chiếu luôn thì chắc được nhiều công đức .

KINH: Bạch đức thánh, tu hành thế nào để được môn giải thoát này? Dạ thần nói, này thiện nam tử, bồ tát tu hành mười đại pháp tạng được giải thoát này. Một là tu bố thí quảng đại pháp tạng tùy tâm chúng sanh đều khiến đầy đủ. Hai là tu tịnh giới quảng đại pháp tạng, vào khắp tất cả biển phật công đức. Ba là tu kham nhẫn quảng đại pháp tạng, có thể khắp tư duy tất cả pháp tánh. Bốn là tu tinh tấn quảng đại pháp tạng, vì xu hướng nhất thiết trí hằng chẳng thối chuyển. Năm là tu thiền định quảng đại pháp tạng, vì có thể diệt trừ tất cả chúng sanh nhiệt não. Sáu là tu bát nhã quảng đại pháp tạng, vì có thể biết rõ khắp tất cả pháp hải. Bảy là tu phương tiện quảng đại pháp tạng, vì có thể thành thục những chúng sanh hải. Tám là tu những nguyện quảng đại pháp tạng, vì tận vị lai kiếp tu bồ tát hạnh khắp tất cả cõi phật, tất cả chúng sanh. Chín là tu những lực quảng đại pháp tạng, vì niệm niệm hiện thành Đẳng Chánh Giác nơi tất cả pháp giới, nơi tất cả quốc độ thường chẳng thôi dứt…

GIẢNG: Ở đây, ngài dạy Thiện Tài tu mười độ. Tất cả các vị thiện tri thức không bao giờ dạy khác cả, chỉ có dạy quanh quẩn ở những điểm then chốt là bát nhã, đại bi, mười độ và quán như huyễn, nhưng mỗi ngài nói theo một cách, nhất là về cách quán chiếu như huyễn.

KINH: Mười là tu tịnh trí quảng đại pháp tạng, được Như Lai trí biết khắp tất cả pháp tam thế không có chướng ngại.

GIẢNG: Nên chúng ta phải luôn nhớ quán chiếu như huyễn, bát nhã, đại bi và mười độ.

KINH: Thiện Tài thưa, Đại thánh phát tâm vô thượng bồ đề này đã bao lâu?

GIẢNG: Bao giờ cũng vậy, khi Thiện Tài hỏi một vị thiện tri thức phát tâm bồ đề được bao lâu thì các ngài luôn luôn trả lời rằng việc này khó biết, khó bàn, khó nói lắm, vì sao? Vì tất cả chỉ là vấn đề thời gian, vì các ngài tu hành từ rất lâu xa về trước, từ a tăng kỳ kiếp. Nhưng đối với cái tâm đã chín rồi thì không còn là a tăng kỳ kiếp nữa, mà a tăng kỳ cũng chỉ như một niệm mà thôi. Nhưng phần đông, nhâì là những chủ dạ thần, các ngài kể bổn sanh, bổn sự rất nhiều, từ kiếp trước ra sao, có vô lượng phật ra đời như thế nào, những công (lức cúng dường của các ngài ra sao v.v… lúc đó các ngài là vương nữ hay một vị thái tử, ngài tới nghe pháp nên dác được pháp môn này, ngài còn kể rõ những cõi tên gì, có các cõi tịnh, uế, và các đức Phật ra đời như thế nào v.v… Và trong các cõi ấy, có những ao nở những hoa sen khiến có thể biết rằng trong bao ngàn năm nữa sẽ có đức Phật nào ra đời, ngài kể tất cả bổn sanh bổn sự để chúng ta hiểu rằng pháp giới này rất lạ lùng, có thể nở ra đủ các thứ. Có những kiếp con người sống lâu vài vạn tuổi, cho đến vô lượng kiếp tùy theo phước lực và trí lực để đả phá các kiến chấp của chúng ta. Vì phần đông chúng ta hay chấp vào ngũ căn và nhất là ý thức, chỉ thấy chung quanh trái đất này, chỉ biết được nhiều nhất là mấy ngàn năm trước bằng cái ý thức, nên chỉ chấp có từng đó, rất hạn hẹp. Nhưng trong kinh lại nói khác hẳn, nói bởi những bậc có ngũ nhãn. Nên ta phải hiểu rằng, hình thái hiện hữu của mỗi loài chúng sanh khác biệt theo phước lực, trí lực. Nếu không đọc đạo Phật thì chúng ta không thể biết rằng có những thời kỳ hoặc cõi mà loài người thọ mấy vạn tuổi, mà có khi thọ vô lượng kiếp nữa. Nên phải hiểu rằng, tất cả là tùy ở cái tâm mà ra cả. Vì vậy các ngài hay kể những bổn sanh, bổn sự để cho chúng ta thấy rằng có nhiều kiếp khác nhau, nhiều loại chúng sanh khác nhau, nhiều thứ cộng nghiệp và nghiệp báo rất khác, và các ngài thường nói ta phải tu hành ngàn ấy kiếp, lâu xa không thể tính đếm được, và kiếp đó các ngài đã làm chủ dạ thần rồi, sau bao nhiêu vi trần số Phật ra đời, các ngài vẫn là thọ thần, chủ dạ thần để độ sanh. Mà có lẽ các ngài không muốn thọ sanh theo đạo lực của mình, mà các ngài cứ thị hiện những địa vị thấp để độ sanh.

KINH: Này thiện nam tử, phía Đông của Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải này, qua khỏi mười thế giới hải, có thế giới hải tên là Nhất Thiết Tịnh Quang Bửu. Trong thế giới hải này có thế giới chủng tên là Nhất Thiết Như Lai Nguyện Quang Minh Âm, trong đó có thế giới tên là Thanh Tịnh Quang Kim Trang Nghiêm, thể chất bằng hương kim cang ma ni vương, hình như lâu các. Diệu Bửu Vân làm biên tế, ở trong biển nhất thiết bửu anh lạc, mây diệu cung điện che trên. Tịnh uế lẫn lộn.

GIẢNG: Các ngài thường kể những thế giới như vậy rất nhiều. Thì ta phải hiểu các ngài cốt nói cho chúng ta thấy trong pháp giới có rất nhiều vẻ, chúng ta đừng tin vào các mắt thịt, hai cái tai, cộng thêm cái ý thức tầm thường để khăng khăng nghĩ rằng không thể có những cảnh giới khác. Vì trong pháp giới này, cái gì cũng có thể có được, cái gì trong mộng tưởng chúng sanh có thì pháp giới đều có hết. Khi chúng sanh mộng một mộng tưởng nào đó lâu dài thì đến một kiếp nào đó chúng sanh ấy sẽ thác sanh trong cảnh mộng ấy, và lúc bấy giờ, mộng sẽ trở thành thực. Như nếu chúng ta mơ tưởng cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà lâu thì lúc chết chúng ta sẽ được vãng sanh ở cõi đó. Tất cả chỉ là tưởng, tưởng lâu sẽ nở ra thành sự thật hiện hữu. Nhưng có một điểm tôi muốn nhấn mạnh, trong kinh Phật có nói rõ, nhất là kinh Duy Ma nói tất cả các cõi đều là hư không, tất cả các cõi đều do chư Phật hóa hiện ra để độ chúng sanh thôi. Lúc đầu ai nghe cũng thấy vướng, vì kiến chấp quá sức nặng nề. Vì sao? Vì một thế giới đồ sộ văn minh như nước Mỹ này, đầy những núi sông, ao hồ, nhà cửa, cây cối, xe hơi chạy như suối, thì làm sao mà tất cả những thứ đó là do chư Phật hóa hiện ra được? Ấy thế mà khi suy nghĩ kỹ thì thấy rất đúng, rất có lý rằng tất cả đều do tâm ánh ra và thần lực của Phật gia trì mà ra cả. Vì khi đến kiếp hoại tất cả những vật chất này đều tan biến hết cả, cả thế giới này không còn một chút gì nữa, tan biến hoặc rút sang cõi khác rồi, nên ta thấy rõ rằng những thứ vật chất đó chỉ là biến hiện mà. Một phần là tùy theo nghiệp lực chúng sanh, phần do thần lực Phật gia trì, một phần do nguyện lực của chư đại bồ tát, nên thế giới này được thành lập và huyễn hóa ra như thế. Nếu chúng ta tin được điều đó thì chắc chắn khi lâm chung, dù gió nghiệp thổi ào ạt, mà vẫn giữ vững lòng tin thì chúng ta đều được thần lực của Đức A Di Đà đưa sang Cực Lạc cả. Ngay cả chúng ta ngồi đây, tụng kinh và thuyết pháp chính chúng ta đang ngồi trong thân của ngài Quán Thế Âm mà chúng ta không hề hay biết.

Trở lại kinh, ngài chủ dạ thần này kể thuở đó ta làm chủ dạ thần, ta phát tâm vô thượng bồ đề, lúc bất giờ ta thấy đức Phật, nhìn thấy thần lực của đức Phật tự nhiên ta phát tâm vô thượng bồ đề. Chúng ta căn cơ cạn mỏng, phước đức thì ít mà nghiệp chướng thì nhiều, nên rất khó có thể nhìn thấy.

KINH: Bấy giờ ta mạng chung, sanh trở lại làm đạo tràng chủ dạ thần tên là Thù Thắng Phước Trí Quang. Ta thấy đức Oai Đức Sơn Như Lai hiện đại thần thông chuyên chánh pháp luân, liền được tam muội tên là phổ chiếu nhất thiết ly tham cảnh giới.

GIẢNG: Ngài cứ kể như thế, tất cả những bổn sanh bổn sự từ quá khứ, kế đó…, kế đó…, lại có đức Phật này, đức Phật khác, mà mỗi một vị Phật ngài lại tăng tiến về đạo lực.

KINH: …trong thời gian đó, ta hoặc làm Thiên Vương, Long vương, hoặc làm Dạ Xoa vương, Càn Thát Bà Vương, A Tu La vương, Ca Lâu La vương, Khẩn Na La Vương, Ma Hầu La Già vương, hoặc làm Nhân vương, Phạm Vương, hoặc làm Thiên Thân, Nhân thân, làm nam tử, nữ nhân, làm đồng na, đồng nữ… Nơi tất cả thân ta đều kính thờ cúng dường tất cả Như Lai, nghe Phật thuyết pháp. Khi mạng chung ta sanh trở lại trong thế giới đó, trải qua phật sát vi trần số kiếp tu hành bồ tât hạnh. Sau đó ta mạng chung sanh nơi Ta Bà Thế Giới trong Hoa Tạng trang nghiêm thế giới hải này, gặp và cúng dường đức Câu Lưu Tôn Đà Như Lai, ta được tam muội tên là Ly nhất thiết trần cấu quanh minh, kế đó gặp đức Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai…, kế đó gặp đức Ca Diếp Như Lai…, kế đó gặp đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai…

GIẢNG: Ngài kể trong hiền kiếp này mới có bốn đức Phật ra đời, ngài đều gặp cả. Vị Phật đầu tiên là ngài Câu Lưu Tôn, rồi đến ngài Câu Na Hàm, đến ngài Ca Diếp, rồi cuối cùng đến ngài Thích Ca Mâu Ni, còn ngài thứ năm trong tương lai là ngài Di Lặc ở tiểu kiếp thứ mười, bẵng đi đến kiếp thứ 15 thì có một vị Phật ra đời, rồi đến kiếp thứ 16 đến kiếp thứ 19 thì không có một vị Phật nào ra đời cả, phải đợi đến kiếp thứ 20 thì có 994 vị Phật ra đời, ngài kể như vậy để cho Thiện Tài và chúng sanh chúng mình nghe.

KINH: … trong hiền kiếp nơi thế giới Ta Bà này, từ Câu Lưu Tôn Đà Phật, đến Thích Ca Mâu Ni Phật, và tất cả Phật vị lai trong kiếp này, ta đều thân cận cúng dường như vậy.

GIẢNG: Tức là ngài nói ngay đến vị lai, vì pháp nhãn của ngài quá rộng, nên ngài trông thấy như vậy. Ở vị thiện tri thức này, chúng ta cần nhớ cái “niệm niệm xuất sanh quảng đại hỉ trang nghiêm.” Nhớ tâm chúng ta là cả một nguồn suối an lạc, nếu mở được tâm ấy, thì như người đào được giếng thây được mạch nước, thì bấy giờ ta sẻ được an lạc, không còn bị ngoại vật như tiền bạc, áo cơm, danh lợi bệnh tật làm lay động được nữa. Mà tất cả ai cũng mong được đến chỗ đó. Nhìn lại cuộc đời này xem, cái gì cũng phù du cả, mọi sự đến rồi đi, thành rồi hoại, ta không thể nắm giữ được. Nhưng sự an lạc này thì có thể giữ được, và đó cũng chính là cái “nguồn bất tử’ vậy.



36.- DẠ THẦN THỦ HỘ NHẤT THIẾT THÀNH

 

Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết  “MÔN GIẢI THOÁT THẬM THÂM TỰ TẠI DIỆU ÂM” nầy, làm cho các thế gian rời hí-luận-ngữ, chẳng nói nhị-ngữ, thường chơn-thiệt-ngữ, hằng thanh-tịnh-ngữ.

 


Thiện-Tài tùy thuận lời dạy của Chủ-Dạ-Thần Tịch-Tịnh-Ấm-Hải, quán-sát pháp-môn của Dạ-Thần vừa nói mỗi câu mỗi chữ đều không quên sót.

Nơi vô-lượng thâm-tâm, vô-lượng pháp-tánh, tất cả phương-tiện, thần-thông trí-huệ, nghĩ nhớ suy chọn tiếp nối không dứt, tâm niệm quảng đại chứng nhận an-trụ.

Thiện-Tài đi đến chỗ DẠ THẦN THỦ HỘ NHẤT THIẾT THÀNH.

Thấy Dạ-Thần nầy ngồi trên tòa sư-tử nhất-thiết-bửu-quang-minh-ma-ni-vương, vô-số Dạ-Thần vây quanh, hiện thân nhứt-thiết-chúng-sanh-sắc-tướng, hiện thân đối khắp tất cả chúng-sanh, hiện thân chẳng nhiễm tất cả thế-gian, hiện thân số bằng tất cả chúng-sanh, hiện thân siêu quá tất cả thế-gian, hiện thân thành thục tất cả chúng-sanh, hiện thân mau đến tất cả mười phương, hiện thân nhiếp khắp tất cả mười phương, hiện thân rốt ráo như-lai thể tánh, hiện thân rốt ráo điều-phục chúng-sanh.

Thiện-Tài xem thấy hớn hở vui mừng đảnh lễ nơi chân Dạ-thần, hữu-nhiễu vô-lượng vòng, chắp tay cung kính mà thưa rằng :

Bạch đức thánh ! Tôi đã phát tâm vô-thượng-bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát lúc tu bồ-tát-hạnh thế nào lợi ích chúng-sanh, thế nào dùng pháp nhiếp vô-thượng để nhiếp chúng-sanh, thế nào thuận theo lời dạy của Phật, thế nào gần ngôi Pháp-Vương ?

Ngưỡng mong từ mẫn tuyên nói cho.

Dạ-Thần nói :

Nầy Thiện-nam-tử ! Ngươi vì cứu hộ tất cả chúng-sanh, vì nghiêm-tịnh tất cả phật-độ, vì cúng-dường tất cả Như-Lai, vì muốn trụ tất cả kiếp để cứu chúng-sanh, vì muốn giữ-gìn tất cả phật-chủng, vì muốn vào khắp mười phương để tu những công-hạnh, vì muốn vào khắp tất cả pháp-môn-hải, vì muốn dùng tâm bình-đẳng khắp tất cả, vì muốn thọ khắp tất cả phật-pháp, vì muốn tùy khắp sở-thích của tất cả chúng-sanh mà mưa pháp-vũ, nên ngươi hỏi pháp-môn của Bồ-Tát tu hành.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta được môn giải-thoát bồ-tát thậm thâm tự-tại diệu-âm. Làm Đại-Pháp-Sư không còn chướng-ngại, vì có thể khéo khai thị pháp-tạng của chư Phật. Đủ thệ nguyện lớn, sức đại từ-bi, vì làm cho tất cả chúng-sanh an trụ tâm bồ-đề. Có thể làm tất cả sự lợi cho chúng-sanh, vì chứa nhóm thiện-căn không thôi nghỉ. Làm Điều-Ngự-Sư cho tất cả chúng-sanh, vì khiến tất cả chúng-sanh an trụ đạo nhất-thiết-trí. Làm pháp-nhật thanh-tịnh cho tất cả thế-gian, vì chiếu khắp thế-gian khiến sanh căn lành. Tâm bình-đẳng với tất cả thế gian, vì khắp làm cho chúng-sanh tăng-trưởng pháp lành. Tâm thanh-tịnh nơi tất cả cảnh giới vì trừ diệt tất cả nghiệp bất-thiện. Thệ nguyện lợi ích tất cả chúng-sanh, vì thân hằng hiện khắp tất cả quốc độ. Thị-hiện tất cả bổn-sự nhơn duyên, vì làm cho các chúng-sanh an-trụ hạnh lành. Hằng thờ tất cả thiện-tri-thức, vì khiến chúng-sanh an-trụ phật pháp.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta dùng pháp-thí ban bố cho chúng-sanh, khiến họ sanh bạch-pháp cầu nhất-thiết-trí. Tâm được kiên cố như kim-cang na-la-diên tạng, hay quán-sát phật-lực, ma-lực, thường được gần-gũi thiện-tri-thức, dẹp phá tất cả núi hoặc nghiệp chướng, họp pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí, tâm hằng chẳng bỏ bậc nhất-thiết-trí.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta dùng tịnh-pháp quang-minh như vậy để lợi ích tất cả chúng-sanh. Lúc nhóm pháp trợ-đạo thiện-căn, khởi mười thứ quán-sát pháp-giới :

Một là ta biết pháp-giới vô-lượng, vì chứng được trí quang-minh quảng đại.

Hai là ta biết pháp-giới vô-biên, vì thấy chỗ thấy biết của tất cả Phật.

Ba là ta biết pháp-giới vô-hạn, vì vào khắp tất cả phật-độ cung kính cúng-dường chư Như-Lai.

Bốn là ta biết pháp-giới không mé, vì thị-hiện tu hành bồ-tát hạnh khắp trong tất cả thế-giới-hải.

Năm là ta biết pháp-giới không dứt, vì nhập nơi trí bất-đoạn của Như-Lai.

Sáu là ta biết pháp-giới một tánh vì Như-Lai một âm-thanh mà tất cả chúng-sanh đều rõ biết.

Bảy là ta biết pháp-giới tánh-tịnh, vì rõ Như-Lai nguyện độ khắp tất cả chúng-sanh.

Tám là ta biết pháp-giới khắp chúng-sanh, vì diệu-hạnh Phổ-Hiền đều cùng khắp.

Chín là ta biết pháp-giới một trang-nghiêm, vì diệu hạnh Phổ-Hiền khéo trang-nghiêm.

Mười là ta biết pháp-giới chẳng thể hư hoại, vì thiện-căn nhất-thiết-trí sung-mãn pháp-giới chẳng thể hoại.

Nầy Thiện-nam-tử ! Ta khởi mười thứ quán-sát pháp-giới trên đây để nhóm họp những thiện-căn, hoàn tất pháp trợ-đạo, biết rõ oai-đức quảng-đại của chư Phật, thâm-nhập cảnh-giới nan tư của Như-Lai.

Lại nầy Thiện-nam-tử ! Ta chánh niệm tư-duy như vậy, được Như-Lai mười môn đại-oai-đức đà-la-ni-luân.

Những là : đà-la-ni-luân vào khắp tất cả pháp.

Đà-la-ni-luân trì khắp tất cả pháp.

Đà-la-ni-luân nói khắp tất cả pháp.

Đà-la-ni-luân niệm khắp tất cả Phật mười phương.

Đà-la-ni-luân nói khắp danh hiệu của tất cả Phật.

Đà-la-ni-luân vào khắp nguyện-hải của tam thế Phật.

Đà-la-ni-luân vào khắp tất cả những thừa-hải.

Đà-la-ni-luân nhập khắp tất cả chúng-sanh nghiệp-hải.

Đà-la-ni-luân mau chuyển tất cả nghiệp.

Đà-la-ni-luân mau sanh nhất-thiết-trí.

Nầy Thiện-nam-tử ! Mười đà-la-ni-luân này dùng mười ngàn đà-la-ni-luân làm quyến-thuộc, hằng vì chúng-sanh diễn nói diệu-pháp.

Nầy Thiện-nam-tử ! Ta vì chúng-sanh hoặc nói văn-huệ-pháp, tư-huệ-pháp, tu-huệ-pháp. Hoặc nói một hữu-pháp, hoặc nói tất cả hữu-pháp. Hoặc vì họ mà nói danh-hải-pháp của một Như-Lai. Hoặc nói danh-hải-pháp của tất cả Như-Lai. Hoặc vì họ mà nói một thế-giới-hải-pháp. Hoặc nói tất cả thế-giới-hải-pháp. Hoặc nói một Phật thọ ký-hải-pháp. Hoặc nói tất cả Phật thọ-ký-hải-pháp. Hoặc nói chúng-hội đạo-tràng-hải-pháp của một Như-Lai. Hoặc nói chúng hội đạo-tràng của tất cả Như-Lai. Hoặc vì họ mà nói pháp-luân-hải-pháp của một Như-Lai. Hoặc nói pháp-luân-hải-pháp của tất cả Như-Lai. Hoặc nói tu-đa-la-pháp của một Như-Lai. Hoặc nói tu-đa-la-pháp của tất cả Như-Lai. Hoặc nói tập-hội-pháp của một Như-Lai. Hoặc nói tập-hội-pháp của tất cả Như-Lai. Hoặc nói tâm-hải-pháp của một trí. Hoặc nói tâm-hải-pháp của nhất-thiết-trí. Hoặc nói pháp xuất-ly của một thừa. Hoặc nói xuất-ly-pháp của tất cả thừa. Ta vì chúng-sanh mà nói bất-khả-thuyết pháp-môn như vậy.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta nhập Như-Lai vô-sai-biệt pháp-giới-môn-hải, nói pháp vô-thượng nhiếp khắp chúng-sanh, tận vị-lai kiếp trụ hạnh phổ-hiền.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta thành-tựu môn giải-thoát thậm-thâm tự-tại diệu-âm nầy, ở trong mỗi niệm tăng trưởng tất cả những môn giải-thoát, niệm niệm sung mãn tất cả pháp-giới.

Thiện-Tài thưa :

Lạ lùng thay, bạch đức thánh ! Môn giải-thoát nầy hi-hữu như vậy Đức thánh chứng được đã bao lâu ?

Dạ-Thần nói :

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa, quá thế-giới-chuyển vi-trần số kiếp có kiếp tên là Ly-Cấu-Quang-Minh, có thế-giới tên là Công-Đức-Vân, thể chất bằng hiện-nhất-thiết-chúng-sanh nghiệp-ma-ni-vương-hải, hình như liên-hoa, trụ trong tứ-thiên-hạ vi-trần-số hương-ma-ni tu-di-sơn-võng, trang-nghiêm với xuất-nhất-thiết-như-lai bổn-nguyện-âm liên-hoa, tu-di-sơn vi-trần-số liên-hoa làm quyến-thuộc, xen lẫn với tu-di-sơn vi-trần-số hương-ma-ni. Thế-giới đó có tu-di-sơn vi-trần tứ-thiên hạ. Mỗi tứ-thiên-hạ có trăm ngàn ức na-do-tha bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thành.

Trong đó có một tứ-thiên-hạ tên là Diệu-Tràng, có Vương-Đô tên là Phổ-Bửu-Hoa-Quang. Cách không xa có Bồ-Đề tràng tên là Phổ-Hiển-Hiện-Pháp-Vương-Cung-Điện. Tu-di-sơn vi-trần-số Như-Lai xuất hiện trong đó. Tối-sơ Phật hiệu là Pháp-Hải-Lôi-Ấm-Quang-Minh-Vương.

Lúc đức Phật đó xuất thế có Chuyển-Luân-Vương tên là Thanh-Tịnh-Nhựt-Quang-Minh-Diện, Thọ trì tất cả phát-hải-triền tu-đa-la của Phật.

Sau khi đức Phật nhập niết-bàn, nhà vua xuất gia hộ-trì chánh-pháp.

Lúc pháp sắp diệt có ngàn bộ dị-chúng thuyết-pháp ngàn thứ.

Gần lúc mạt-kiếp nghiệp hoặc chướng nặng, các ác Tỳ-Kheo nhiều sự đấu tranh, thích chấp cảnh-giới chẳng cầu công-đức. Thích nói vương-luận, tặc-luận, nữ-luận, quốc-luận, hải-luận, nhẫn đến tất cả thế-gian-luận.

Lúc đó Vương Tỳ-Kheo bảo họ rằng : Lạ thay khổ thay, đức Phật trong vô-lượng kiếp-hải chứa nhóm ngọn đuốc pháp nầy sao các người lại cùng nhau hủy diệt.

Nói xong, Vương Tỳ-Kheo bay lên hư-không cao bảy cây đa-la, thân phóng ra vô-lượng những mây màu sáng, những lưới đại quang-minh nhiều màu, làm cho vô-lượng chúng-sanh trừ nóng phiền-não, làm cho vô-lượng chúng-sanh phát tâm bồ-đề. Nhờ nhân duyên nầy nên giáo-pháp của Như-Lai được hưng thạnh thêm sáu vạn năm ngàn năm.

Lúc đó có Tỳ-Kheo-Ni tên là Pháp-Luân-Hóa-Quang, vốn là con gái của Chuyển-Luân-Vương, trăm ngàn Tỳ-Kheo-Ni làm quyến thuộc, nghe lời-nói của Phụ-vương và thấy thần-lực, liền phát tâm bồ-đề không thối-chuyển, được tam-muội tên là nhất-thiết-phật-giáo-đăng, lại được môn giải-thoát thậm-thâm tự-tại diệu-âm này, thân tâm nhu-nhuyến, liền được thấy tất cả thần-lực của đức Pháp-Hải-Lôi Ấm Quang-Minh Như-Lai.

Nầy Thiện-nam-tử ! Chuyển-Luân-Vương Tỳ-Kheo xưa kia chính là Phổ-Hiền Bồ-Tát, Vương-Nữ Tỳ-Kheo-Ni chính là ta.

Thuở ấy ta thủ-hộ phật-pháp làm cho mười vạn Tỳ-Kheo-Ni được chẳng thối-chuyển nơi vô-thượng bồ-đề, lại được hiện thấy tất cả phật tam-muội, lại được tất cả phật pháp-luân kim-cang quang-minh đà-la-ni, lại được bát-nhã ba-la-mật vào khắp tất cả pháp-môn-hải.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Ly-Cấu-Pháp-Quang-Minh.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Luân-Quang-Minh-Kế.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Nhật-Công-Đức-Vân.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Hải-Diệu-Ấm-Vương.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Nhật-Thí-Huệ-Đăng.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Hoa-Tràng-Vân.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Diệm-Sơn-Tràng-Vương.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Thậm-Thâm Pháp-Công-Đức-Nguyệt.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Trí-Phổ-Quang-Tạng.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Khai-Thị-Phổ-Trí-Tạng.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Công-Đức-Tạng-Sơn-Vương.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Phổ-Môn-Tu-Di-Hiền.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Nhất-thiết-Pháp-Tinh-Tấn-Tràng.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Phát Bửu-Hoa-Công-Đức-Vân.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Tịch-Tịnh-Quang-Minh-Kế.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Quang-Minh-Từ-Bi-Nguyệt.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Công-Đức-Diệm-Hải.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Trí-Nhựt-Phổ-Quang-Minh.

Kế đó có chư Phật đây thứ đệ nối tiếp xuất thế: Phổ-Hiền-Viên-Mãn-Trí Phật. Thần-Thông-Trí-Quang-Vương Phật. Phước-Đức-Hoa-Quang-Đăng Phật. Trí-Sư-Tử-Tràng-Vương Phật. Nhật-Quang-Phổ-Chiếu-Vương Phật. Tu-Di-Bửu-Trang-Nghiêm-Tướng Phật, Nhật-Quang-Phổ-Chiếu Phật. Pháp-Vương-Công-Đức-Nguyệt Phật. Khai-Phu-Liên-Hoa-Diệu-Ấm-Vân Phật. Nhựt-Quang-Minh-Tướng Phật. Phổ-Quang-Minh-Pháp-Ấm Phật. Sư-Tử-Kim-Cang-Na-La-Diên-Vô-Úy Phật. Phổ-Trí-Dũng-Mãnh-Tràng Phật. Phổ Khai-Pháp-Liên-Hoa-Thân Phật. Công-Đức-Diệu-Hoa-Hải Phật. Đạo-Tràng-Công-Đức-Nguyệt Phật. Pháp-Cự-Xí-Nhiên-Nguyệt Phật. Phổ-Quang-Minh-Kế Phật. Pháp-Tràng-Đăng Phật. Kim-Cang-Hải-Tràng-Vân Phật. Danh-Xưng-Sơn-Công-Đức-Vân Phật. Chiên-Đàn-Diệu-Nguyệt Phật. Phổ-Diệu-Quang-Minh-Hoa Phật. Chiếu-Nhất-Thiết-Chúng-Sanh-Quang-Minh-Vương Phật. Công-Đức-Liên-Hoa-Tạng Phật. Hương-Diệm-Quang-Minh-Vương Phật. Ba-Đầu-Ma-Hoa-Nhơn Phật. Chúng-Tướng-Sơn-Phổ-Quang-Minh Phật. Phổ-Danh-Xưng-Tràng Phật. Tu-Di-Phổ-Môn-Quang Phật. Công-Đức-Pháp-Thành-Quang Phật. Đại-Thọ-Sơn-Quang-Minh Phật. Phổ-Đức-Quang-Minh-Tràng Phật. Công-Đức-Kiết-Tường-Tướng Phật. Dũng-Mãnh-Pháp-Lực-Tràng Phật. Pháp-Luân-Quang-Minh-Ấm Phật. Công-Đức-Sơn-Trí-Huệ-Quang Phật. Vô-Thượng-Diệu-Pháp-Nguyệt Phật. Pháp-Liên-Hoa-Tịnh-Quang-Tràng Phật. Bửu-Liên-Hoa-Quang-Minh-Tạng Phật. Quang-Diệm-Vân-Sơn-Đăng Phật. Phổ-Giác-Hoa Phật. Chủng-Chủng-Công-Đức-Diệm-Tu-Di-Tạng Phật. Viên-Mãn-Quang-Sơn-Vương Phật. Phước-Đức-Vân-Trang-Nghiêm Phật. Pháp-Sơn-Vân-Tràng Phật. Công-Đức-Sơn-Quang-Minh Phật. Pháp-Nhựt-Vân-Đăng-Vương Phật. Pháp-Vân-Danh-Xưng-Vương Phật. Pháp-Luân-Vân Phật. Khai-Ngộ-Bồ-Đề-Trí-Quang-Tràng Phật. Phổ-Chiếu-Pháp-Luân-Nguyệt Phật. Bửu-Sơn-Oai-Đức-Hiền Phật. Hiền-Đức-Quảng-Đại-Quang Phật. Phổ-Trí-Vân Phật. Pháp-Lực-Công-Đức-Sơn Phật. Công-Đức-Hương-Diệm-Vương Phật. Kim-Sắc Ma-Ni-Sơn-Diệu-Ấm-Thanh Phật. Đảnh-Kế-Xuất-Nhất-Thiết-Pháp-Quang-Minh-Vân Phật. Pháp-Luân-Xí-Thạnh-Quang Phật. Vô-Thượng-Công-Đức-Sơn Phật. Tinh-Tấn-Cự-Quang-Minh-Vân Phật. Tam-Muội-Ần-Quang-Đại-Quang-Minh-Quang Phật. Bửu-Quang-Minh-Công-Đức-Vương Phật. Pháp-Cự-Bửu-Cái-Ấm Phật. Phổ-Chiếu-Hư-Không-Giới-Vô-Úy-Pháp-Quang-Minh Phật. Nguyệt-Tướng-Trang-Nghiêm-Tràng Phật. Quang-Minh-Diệm-Sơn-Vân Phật. Chiếu-Vô-Chướng-Ngại-Pháp-Hư-Không Phật. Khai-Hiển-Trí-Quang Thân Phật. Thế-Chủ-Đức-Quang-Minh-Ấm Phật. Nhứt-Thiết-Pháp-Tam-Muội-Quang-Minh-Ấm Phật. Pháp-Ấm-Công-Đức-Tạng Phật. Xí-Nhiên-Diệm-Pháp-Hải-Vân Phật. Phổ-Chiếu-Tam-Thế-Tướng-Đại-Quang-Minh Phật. Phổ-Chiếu-Pháp-Luân-Sơn Phật. Pháp-Giới-Sư-Tử-Quang Phật. Tu-Di-Hoa-Quang-Minh Phật. Nhứt-Thiết-Tam-Muội-Hải-Sư-Tử-Diệm Phật. Phổ-Trí-Quang-Minh-Đăng Phật.

Có tu-di-sơn vi-trần-số chư Phật Như-Lai như vậy thứ đệ tiếp nối xuất thế.

Tối hậu Phật hiệu là Pháp-Giới-Thành-Trí-Huệ-Đăng, cũng xuất thế trong kiếp Ly-Cấu-Quang-Minh.

Với tất cả chư Phật trên đây ta đều kính thờ thân-cận cúng-dường nghe pháp thọ-trì và xuất-gia học đạo hộ-trì pháp-giáo, nhập môn giải-thoát bồ-tát thậm-thâm tự-tại diệu-âm nầy, dùng nhiều phương-tiện giáo-hóa thành-thục vô-lượng chúng-sanh.

Từ đó đến nay trải qua phật-sát vi-trần-số kiếp, có bao nhiêu chư Phật xuất thế, ta đều kính thờ cúng-dường thọ-hành giáo-pháp.

Nầy thiện-nam-tử ! Từ đó đến nay, ta ở trong chúng-sanh vô-minh tăm tối sanh tử mà riêng mình giác ngộ, làm cho chúng-sanh thủ hộ tâm-thành, bỏ tam-giới-thành mà an-trụ nơi pháp-thành nhất-thiết-trí vô-thượng.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT THẬM THÂM TỰ TẠI DIỆU ÂM” nầy, làm cho các thế gian rời hí-luận-ngữ, chẳng nói nhị-ngữ, thường chơn-thiệt-ngữ, hằng thanh-tịnh-ngữ.

Như chư đại Bồ-tát có thể biết tự-tánh của tất cả ngữ ngôn. Trong mỗi niệm tự-tại khai ngộ tất cả chúng-sanh. Vào biển ngôn âm của tất cả chúng-sanh. Đều biết rõ được tất cả ngôn từ. Thấy rõ tất cả pháp-môn. Đã được tự-tại nơi phổ-nhiếp-nhất-thiết-pháp đà-la-ni, tùy chỗ nghi của tâm chúng-sanh mà vì họ thuyết pháp, rốt ráo điều phục tất cả chúng-sanh, có thể nhiếp thọ khắp tất cả chúng-sanh, khéo tu những nghiệp vô-thượng của Bồ-Tát. Thâm nhập những trí vi-tế của Bồ-Tát. Có thể khéo quán-sát bồ-tát-tạng. Có thể tự-tại diễn thuyết những bồ-tát-pháp.

Tại sao vậy ?

Vì đã được thành-tựu nhất-thiết-pháp-luân-đà-la-ni. Ta đâu biết được nói được công-đức-hạnh đó.

Nầy thiện-nam-tử ! Trong phật-hội nầy có Chủ-Dạ-Thần tên là Khai-Phu-Nhất-Thiện-Thọ-Hoa.

Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học nhất-thiết-trí, thế nào an lập tất cả chúng-sanh trụ nhất-thiết-trí.

Thủ-Hộ-Nhất-Thiết-Thành Chủ-Dạ-Thần muốn tuyên lại nghĩa nầy, vì Thiện-Tài mà nói kệ rằng :


Bồ-Tát giải-thoát sâu khó thấy

Hư-không như bình-đẳng-tướng

Thấy khắp trong vô-biên pháp-giới

Tất cả tam thế Phật Như-Lai.

Xuất sanh vô-lượng thắng công-đức

Chứng-nhập nan-tư chơn pháp-tánh

Tăng trưởng nhất-thiết-trí tự-tại

Khai thông tam-thế đạo giải-thoát.

Quá xưa sát chuyển vi-trần kiếp

Bấy giờ có kiếp tên Tịnh-Quang,

Thế-giới tên là Pháp-Diệm-Vân,

Có thành hiệu là Bửu-Hoa-Quang.

Trong đó chư Phật nối xuất thế

Số đến vô-lượng tu-di-trần :

Tối sơ Phật hiệu Pháp-Hải-Ấm.

Ở trong kiếp nầy xuất hiện trước.

Trong kiếp Tịnh-Quang tối-hậu Phật.

Hiệu là Pháp-Giới-Diệm Đăng Vương.

Tất cả chư Như-Lai trên đây

Ta đều cúng-dường thính thọ pháp.

Ta thấy Pháp-Hải Lôi-Ấm-Phật

Thân Phật chói rực màu chơn kim

Các tướng trang-nghiêm như bửu-sơn

Phát tâm nguyện được thành phật quả.

Ta tạm thấy thân Như-Lai kia

Liền phát tâm bồ-đề quảng-đại

Thệ-nguyện siêng cầu nhất-thiết-trí

Tánh cùng pháp-giới hư-không đồng.

Do đây thấy khắp tam thế Phật

Và cùng tất cả chúng Bồ-Tát

Cũng thấy quốc-vương và chúng-sanh

Duyên đó nên khởi tâm đại-bi

Tùy các chúng-sanh tâm sở-thích

Thị hiện đủ loại vô-lượng thân

Cùng khắp mười phương các quốc độ

Động địa phóng quang ngộ hàm-thức.

Thấy đệ-nhị Phật kính thân-cận

Cũng thấy mười phương sát-hải Phật

Nhẫn đến tối-hậu Phật ra đời

Tu-di-sơn trần-số như vậy.

Trải qua sát-chuyển vi-trần kiếp

Có những Như-Lai Chiếu-Thế-Đăng

Ta đều gần-gũi mà kính thờ

Cho môn giải-thoát nầy thanh-tịnh.


Bấy giờ Thiện-Tài Đồng-Tử được nhập môn giải-thoát bồ-tát thậm-thâm tự-tại diệu-âm nên nhập vô biên tam-muội-hải, nhập quảng-đại tổng-trì hải, được bồ-tát đại thần-thông, được bồ-tát đại-biện-tài.

Thiện-Tài rất hoan-hỉ, ngắm nhìn Thủ-Hộ-Nhất-Thiết-Thành Chủ-Dạ-Thần rối nói kệ khen rằng :


Đã đi biển diệu-huệ quảng-đại

Đã qua vô biên biển tam hửu

Thân trí-tạng trường thọ không khổ

Oai-đức quang-minh ở chúng nầy.

Liễu đạt pháp-tánh như hư-không

Vào khắp tam thế đều vô-ngại

Niệm niệm phan-duyên tất cả cảnh

Tâm tâm dứt hẳn các phân-biệt.

Liễu đạt chúng-sanh không tự-tánh

Nhưng với chúng-sanh khởi đại-bi

Thâm-nhập Như-Lai môn giải-thoát

Rộng độ quần mê vô-lượng chúng.

Quán-sát tư-duy tất cả pháp

Biết rõ chứng nhập các pháp-tánh

Như vậy tu hành Phật trí-huệ

Giáo hóa chúng-sanh khiến giải-thoát,

Ngài là Đạo-Sư của chúng-sanh

Khai thị đạo trí-huệ của Phật

Khắp vì pháp-giới các chúng-sanh

Nói những hạnh thoát thế-gian khổ.

Ngài đã trụ Như-Lai đại nguyện

Đã thọ bồ-đề pháp quảng đại

Đã tu tất cả biến-hành-lực

Đã thấy mười phương Phật tự-tại,

Đức thánh tâm tịnh như hư-không

Lìa khắp tất cả những phiền-não

Biết rõ tam thế vô-lượng cõi

Chư-Phật, Bồ-tát và chúng-sanh.

Đức Thánh một niệm đều biết rõ

Ngày, đêm, tháng, năm vi-trần kiếp,

Cũng biết tất cả chúng-sanh-loại

Nhiều loại danh tướng đều sai-biệt.

Mười phương chúng-sanh chỗ sanh tử

Có Sắc, Vô-Sắc, Tưởng, Phi-Tưởng

Tùy thuận thế-tục đều biết rõ

Dẫn dắt cho vào đường bồ-đề.

Đã sanh nhà Như-Lai thệ nguyện

Đã nhập biển chư Phật công-đức

Phát-thân thanh-tịnh tâm vô-ngại

Tùy theo chúng-sanh mà hiện thân.


Nói kệ xong, Thiện-Tài đảnh lễ chân Dạ-Thần, hữu nhiễu vô-lượng vòng, ân-cần chiêm-ngưỡng từ-tạ mà đi.



KINH: Này thiện nam tử, trong hội bồ đề tràng của đức Như Lai đây có chủ dạ thần tên là Thủ Hộ Nhất Thiết Thành Tăng Trưởng Oai Lực.

GIẢNG: “Thủ hộ nhất thiết thành” tức là thủ hộ thành trì của tâm ấy. Sau khi ngài nói như vậy thì Thiện Tài cảm động thấm thía quá, nên Thiện Tài nói một bài kệ rất hay, chỉ tiếc là không có thì giờ đọc hết, Thiện Tài nói kệ để tán thán ngài Chủ Dạ Thần và đồng thời để tạ ơn ngài, xin đọc lược vài đoạn…

Tôi do Thiện Hữu dạy,
Đến chỗ Chủ Dạ Thần
Thấy Thần ngồi bửu tòa
Thân lượng lớn vô biên
Những người chấp sắc tướng
Chấp các pháp là có
Kẻ trí kém hiểu cạn
Chẳng biết cảnh giới thần…

GIẢNG: Thiện Tài nói người nào dùng con mắt thịt mà nhìn thì không thể thấy những vị đó được, chấp sắc tướng không thể thấy được, mà cũng không thể hiểu được cảnh giới thần lực biến hóa của các ngài Chủ Dạ Thần…

KINH:

…Tâm nhóm vồ biên nghiệp
Trang nghiêm các thế gian…

GIẢNG: Tâm chúng ta nhóm họp biết bao nhiêu nghiệp, vì mỗi một kiếp của ta có một số nghiệp nở ra, nó trang nghiêm thế gian này, nếu tâm chúng ta có những chủng tử nghiệp xấu thì thế gian trở thành xấu, toàn hầm hố, gai góc. Đất thì khô cằn, khó cầy cấy, giặc giã binh đao cứ nổi lên bời bời. Còn tâm chúng sanh tốt thì nở toàn những chủng tử tốt, trang nghiêm các thế gian.

KINH: Biết thế gian là tâm.

GIẢNG: Biết được rằng tất cả mọi sự vật trên thế gian này đều là tâm ánh ra cả, từ tiền bạc, nhà cửa, vợ, con, máy móc, xe hơi v.v… đều là tâm mà ra cả.

KINH:

Hiện thân khắp chúng sanh
Biết thế gian như mộng
Tất cả Phật như bóng
Các pháp đều như vang
Khiến người không chấp trước
Vì tam thế chúng sanh
Niệm niệm thị hiện thân
Mà tâm vô sở trụ
Mười phương khắp nói pháp
Vô biên những sát hải
Phật hải, chúng sanh hải
Đều ở trong một trần
Là giải thoát của Thần.

GIẢNG: Bài kệ ngài Thiện Tài nói rất hay, chỉ cần “ôm” lấy bài kệ này cũng có thể làm chúng ta suy tư hằng nhiều thời gian, mà khi “biết thế gian là tâm,” thì lúc đó đã khá rồi, theo tôi nghĩ, công đức cũng ghê gớm, khó có gì sánh được. Vì khi ta thấy như nước Mỹ này, gồ ghề toàn những máy móc, vật chất đầy rẫy, xe hơi chạy như suối, tầu bay bay vù vù v.v. mà biết chắc thế giới này là tâm thì quả là … rất khó. “Vô biên những sát hải, Phật hải, chúng sanh hải, đều ở trong một trần, là giải thoát của Thần.” Biết tất cả những cái đó đều ở trong một vi trần, nếu biết được như vậy thì người ấy có thần lực biết được cảnh giới của Thần.

KINH: Thiện Tài đi đến chỗ Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành.

GIẢNG: Tức là thủ hộ nhất thiết thành của tâm ấy, tới đây chúng ta đã tới được tâm rồi, và phải giữ tâm ấy thật vi mật, hiện tiền, ẩn mật trang nghiêm.

KINH: Thấy Dạ Thần này ngồi trên tòa sư tử nhất thiết bửu quang minh ma ni vương, vô số Dạ Thần vây quanh, hiện thân nhát thiết chúng sanh sắc tướng, hiện thân đối khắp tất cả chúng sanh, hiện thân chẳng nhiễm tất cả thế gian, hiện thân thành thục tất cả chúng sanh, hiện thân số bằng tất cả chúng sanh, hiện thân siêu quá tất cả thế gian…

GIẢNG: Đại khái là như vậy, vị thần này có thân rất lớn, mỗi lỗ lông hiện vô số hóa thân. Hoa Nghiêm chỉ có vậy thôi, chỉ có hiện vô số hóa thân vượt không gian và thời gian. Nên chúng ta phải luôn nghĩ đến những điều ấy, không có gì nhiều công đức bằng nghĩ đến những thứ đó, dù nhiều chùa cũng không bằng, mà lại không mất đồng nào cả, chỉ dùng sức tâm thôi. Dùng sức tâm tạo công đức mới lớn, còn dùng sức tiền tạo công đức chưa chắc đã lớn, vì sức tâm mới đưa chúng ta vào suối vô tận, còn công đức tiền bạc chỉ là hữu tận thôi. Có tiền bố thí hoặc xây chùa là một điều rất tốt, nhưng vẫn ở trong phước báo hữu lậu, vẫn ở phạm vi sắc tướng.

KINH: Bạch đức thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết bồ tát lúc tu bồ tát hạnh thế nào lợi ích chúng sanh, thế nào dùng pháp nhiếp vô thượng để nhiếp chúng sanh, thế nào thuận theo lời dạy của Phật, thế nào gần ngôi pháp vương?

GIẢNG: Thiện Tài hỏi đến câu “thế nào gần ngôi pháp vương” thì đủ biết tâm thức của Thiện Tài nếu so sánh từ vị thiện tri thức đầu đến giờ đã đi được rất xa rồi, tức là sắp đến chỗ đẳng giác hoặc địa thứ mười rồi.

KINH: Này thiện nam tử, ngươi vì cứu hộ tất cả chúng sanh, vì nghiêm tịnh tất cả Phật độ, vì cúng dường tất cả Như Lai, vì muốn trụ tất cả kiếp để cứli chúng sanh, vì muốn giữ gìn tất cả phật chủng…, vì muốn dùng tâm bình đẳng khắp tất cả, vì muốn tùy khắp sở thích của tất cả chúng sanh mà mưa pháp vũ, nên ngươi hỏi pháp môn của bồ tát tu hành.

Này thiện nam tử, ta được môn giải thoát bồ tát thậm thâm tự tại diệu âm. Làm đại pháp sư không còn chướng ngại vì có thể khéo khai thị pháp tạng của chư Phật.

GIẢNG: Vị này dùng “diệu âm” để thuyết pháp, như trong phẩm thập địa có nói rõ, các ngài thuyết pháp không như người thường, mà các ngài ngồi trong tam muội, khiến tất cả lỗ lông phát ra diệu âm, ngay cả những cây cỏ đều phát diệu âm để tán thán cúng dường (hư Phật, có khi các ngài chỉ nói một âm thanh thôi, nhưng âm thanh đó xoáy vào tâm thức chúng sanh và tất cả đều hiểu được như là ngôn từ của mình vậy. Như thế mới gọi là dùng diệu âm… Thường thường khi đức Phật ngồi thuyết pháp, dù là chúng sanh ngồi gần hay ngồi xa lắc, người nào cũng cảm thấy như đức Phật ngồi trước mặt mình, và như chỉ thuyết pháp cho riêng mình nghe vậy. Như vậy mới gọi là thuyết pháp cao và dùng diệu âm. Còn người thuyết pháp thường thường, không có thần lực chu biến như vậy, thuyết pháp thì người ngồi xa không nghe thấy và các loài hữu tình khác như con chó, con bò không thể hiểu được… Trong khi các bật cao nói thì tất cả đều hiểu, trong kinh có kể truyện con ngựa nghe pháp còn phải… khóc, con khỉ thì vui mừng cúng dường vì các ngài dùng diệu âm.

KINH: Này thiện nam tử, ta dùng tịnh pháp quang minh như vậy để lợi ích tất cả chúng sanh. Lúc nhóm pháp trợ đạo thiện căn, khởi mười thứ quán sát pháp giới… Một là ta biết pháp giới vô lượng vì chứng được trí quang minh quảng đại. Hai là ta biết pháp giới vô biên, vì thấy chỗ thấy biết của tất cả chư Phật. Ba là ta biết pháp giới vô hạn, vì vào khắp tất cả phật độ cung kính cúng dường chư Như Lai. Bốn là ta biết pháp giới không mé…, năm là ta biết pháp giới không dứt…, sáu là ta biết pháp giới một tánh…, bảy là ta biết pháp giới tánh tịnh… tám là ta biết pháp giới khắp chúng sanh…, chín là ta biết pháp giới một trang nghiêm…, mười là ta biết pháp giới chẳng thể hư hoại, vì thiện căn nhất thiết trí sung mãn pháp giới chẳng thể hoại.

GIẢNG: Ngài dạy mười thứ này cũng tạm dễ hiểu, vì pháp giới bao giờ cũng vô lượng, vô biên không ngằn mé. Mà pháp giới phải quán là không bao giờ dứt cả, tuy rằng có pháp giới thành hoại thật, song nó rơi vào cái “không’ đó, mà chính cái không đó là sự sung mãn tràn đầy lại khởi lên pháp giới khác. Ngài dạy Thiện Tài quán pháp giới như thế, nhưng chính là ngài dạy quán cái tâm, vì khi quán pháp giới nở ra vô lượng, thì đồng thời biết rằng cái tâm cũng vô lượng, quán pháp giới này vô hạn, thì tâm cũng vô hạn, vì chính tâm sinh ra pháp giới này. Cũng như ở vị thiện tri thức thứ hai, ngắi quán biển tâm thì khởi lên pháp giới này, nở ra thành một bông liên hoa. Vì vậy, tất cả đều là bông hoa cả. Giả dụ như có người giết trăm ngàn thân xác này, nhưng không thể nào giết được cái tâm ây cả, không ai có thể giết dược cái tâm, ngay cả chư Phật cũng không thể giết được vì chính Chư Phật cũng từ tâm ấy mà ra. Nên vị thiện tri thức này dạy Thiện Tài rằng, ông phải giữ vững tâm dó, và hiểu tâm ấy vô lượng, vô biên, vô hạn, không dứt, không thể hư hoại được.

KINH:… lại này thiện nam tử, ta chánh niệm tư duy như vậy, được Như Lai mười môn đại oai đức đà la ni luân…

GIẢNG: Trong đạo Phật bao giờ cũng dùng chữ “luân.” Luân là bánh xe, cũng có nghĩa là xoay vần. Và đạo lý vận hành của pháp giới là xoáy tròn trôn ốc.

KINH: Những là đà la ni luân vào khắp tất cả pháp. Đà la ni luân trì khắp tất cả pháp. Đà la ni luân nói khắp tất cả pháp. Đà la ni luân niệm khắp tất cả Phật mười phương. Đà la ni luân nói khắp danh hiệu của tất cả Phật. Đà la ni luân vào khắp nguyện hải của tam thế Phật. Đà la ni luân vào khắp tất cả những thừa hải. Đà la ni luân nhập khắp tất cả chúng sanh nghiệp hải. Đà la ni luân mau chuyển tất cả nghiệp. Đà la ni luân mau sanh nhất thiết trí.

GIẢNG: Tại sao trong kinh lại gọi là “trí luân”? Vì đó là cái bánh xe của trí huệ. Thường thường chúng ta dùng cái thức, là một ngọn sóng nổi lên trong tâm, khi chúng ta phân biệt một sự vật nào thì ngọn sóng thức ấy tương tự như con dao cắt sự vật ra làm hai, bên đen, bên trắng, bên có, bên không, và thức là con dao, phân biệt trong phạm vi gọi là “nhị biên.” Nhưng đến khi thức ấy xoay tròn như một bánh xe thì nó sẽ trở thành “trí”. Vì khi xoay tròn như vậy thì thức tâm sẽ rơi vào “giáo lý bất nhị/’ biết rằng cái thiện sẽ chuyển thành cái ác, cái sanh sẽ chuyển thành diệt, sát na sẽ chuyển thành kiếp, cái gần sẽ chuyển thành cái xa v.v… Và “trí luân” là ở chỗ đó. Trí ấy chuyển động tâm thức, song chiếu tất cả các mặt mà không trụ vào một biên nào. Cũng như chữ “chuyển pháp luân,” đó là cái bánh xe pháp, mà không ai nói là “con dao pháp” cả, vì nói thế là vấp phải cái hữu biên. Phải chuyển thế nào mà nói đúng được chân lý ấy mà… không ai mò được đầu đuôi. Hi..hi.., bánh xe pháp ấy quay vòng vòng, không ai có thể mò ra được đầu đuôi…, hi..hi…, thế mới khó… Vì vậy, đọc kinh rất nhiều người không hiểu được và rất… tức tối, vò đầu bứt tai, khổ sở…, đến khi vỡ ra được thì lại rất sung sướng. Vì vậy, trong đạo phật bao giờ cũng nói đến chữ vô thủy. Các tôn giáo ngoại đạo khác thường nói có thủy, có chung, mà không dám nói vô thủy.

KINH: Này thiện nam tử, ta thành tựu môn giải thoát thậm thâm tự tại diệu âm này, ở trong mỗi niệm tăng trưởng tất cả những môn giải thoát, niệm niệm sung mãn tất cả thế pháp giới.

GIẢNG: Khi nào chúng ta đến chỗ “niệm niệm sung mãn tất cả pháp giới” là cao ghê lắm rồi. Chỉ cần một niệm mà có thể làm sung mãn tất cả pháp giới.

KINH: Lạ lùng thay, bạch đức thánh, môn giải thoát này hy hữu như vậy. Đức thánh chứng được đã bao lâu?

GIẢNG: Ngài Dạ Thần này không nói như những vị khác khi Thiện Tài hỏi ngài chứng được đã bao lâu, thường thường các vị khác nói, việc này khó nói, khó bàn v.v… duy ngài này chỉ kể những bổn sanh, bổn sự của những đời trước của ngài.

KINH: Này thiện nam tử, thuở xưa, quá thế giới chuyển vi trần số kiếp có kiếp tên là Ly Cấu Quang Minh, có thế giới tên là Công Đức Vân…, trong đó có thiên hạ tên là Diệu Tràng, có vương đô tên là Phổ Bửu Hoa Quang. Cách không xa có Bổ Đề Đạo Tràng tên là Phổ Hiển Hiện Pháp Vương Cung Điện…, tối sơ Phật hiệu là Pháp Hải Lôi Âm Quang Minh Vương. Lúc đức Phật đó xuất thế có Chuyển Luân Vương tên là Thanh Tịnh Nhật Quang Minh Diện, thọ trì tất cả pháp hải triền tu đa la của Phật. Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, nhà vua xuất gia hộ trì chánh pháp..

GIẢNG: Toàn là “chuyển luân,” những kiếp trước ngài thường nói về những chuyện chuyển luân vương. Chuyển luân vương là thế nào? Như thế nào thì có chuyển luân vương? Thời chúng ta đây có bao giờ nghe nói có chuyển luân vương?

Chúng ta hiện giờ thọ mạng khoảng một trăm tuổi thì không có chuyển luân vương. Khi nào tuổi thọ, phước lực và trí lực của người lên đến mức hai, ba vạn tuổi lúc bấy giờ có chuyển luân vương, chuyển luân vương không phải như vị vua bây giờ đâu, mà ngài chỉ dùng giáo pháp hay chánh pháp để trị dân mà không cần phải dùng binh lực. Thường thường, một vị chuyển luân vương có khoảng một vạn phu nhân và sinh ra một ngàn con trai.

HỎI: Thưa cụ, cháu có cái thắc mắc sao một ông chuyển luân vương lại có nhiều vợ con thế? Tại sao ngài đạo đức cao như thế mà còn nhiều tham dục? Một phu quân chỉ cần một phu nhân là đủ rồi sao lại phải có đến một vạn phu nhân?

ĐÁP: Chị hỏi câu này rất hay, hi., hi…, có quí vị nào có ý kiến gì về câu hỏi này không? Mà thật buồn cười, các vị chuyển luân vương, có một nghìn con trai, mà thường là người thứ một nghìn mới kế nghiệp cha. Theo tôi nghĩ, các vị chuyển luân vương thọ sanh là ở bậc bồ tát sơ địa, các vị này vẫn trong dục giới, có vạn bà vợ, vẫn có một nghìn người con. Khi một vị chuyển luân lên ngôi thì tự nhiên hiện ra bảy báu. Thứ nhất là luân bửu (một cải xe bay) để cho vua dùng đi cấc nơi, chỗ nào có giặc giã thì vua dùng xe bay đến nơi thì tự nhiên giặc giả yên ngay mà không cần phải dùng võ lực. Thứ hai là tạng bửu, vua có thể dùng cải đó mà biết những kho báu trên mọi chỗ, vì phước đức của vua lớn quá. Riêng có một bửu lạ nhất đó gọi là “bửu Nữ,” đó là một người con gái tuyệt trần xinh đẹp người thế gian không ai bằng, lại rất giỏi, việc gì cũng biết, không có vấn đê nào trên trời, dưới đất mà nàng không biết, để cố vấn cho nhà vua. Sở dĩ nàng tới là vì trong nhiều kiếp nàng có tình duyên với vị vua chuyển luân này. Bửu Nữ thường là hóa sanh, trong khi vị chuyển luân vương kia còn trong dục giới, còn thai sanh. Bồ tát sơ địa vẫn còn nhục thân, cho đến bồ tát đệ bát địa mới có được “pháp thân bồ tát,”hóa sanh, không còn nhục thân nữa.

HỎI: Trong sách của Nam Tông, những vị hóa sanh người thường không thể nhìn thấy. Có đúng không?

ĐÁP: Người thường vẫn nhìn thấy chứ, vì các ngài xuống để độ sanh.

Trở về câu hỏi của vị Phật tử kia, vì sao một vị vua chuyển luân vương nhiều lòng dục thế? Theo tôi nghĩ, có trường hợp thọ thai mà không có nhiều dục vọng, nếu có chút lòng dục thì dục đó cũng thăng hoa lên rồi. Như trong sách có kể trường hợp bố mẹ một năm chỉ gần nhau một lần, và gần nhau để chỉ sinh con thôi, chứ không có chuyện say mê tình dục. Người thường đã thế, huống gì vua chuyển luân?! Vả lại, trường hợp một vị cao, nên rất khó nói. Cũng như trong kinh kể, đức Thích Ca Mâu Ni dòng họ trước cũng là vua chuyển luân, các vị tổ nhiều kiếp củng làm chuyển luân vương, sau càng ngày phước lực kém nên trở thành “túc tắn chuyển luân vương” (ông vua nhỏ), rồi sau mới hết ngôi chuyển luân vường. Ớ dấy là một bình diện phía trên, nên khó nói cho rõ được. Chỉ biết là trong kinh nói như vậy. Mà tôi tin chắc là kinh không bao giờ nói lời hư vọng cả. Ngay một vị tu hành bình thường, khi họ di vào tình dục vợ, chồng, cũng không có những tham dục mấy, huống hồ những vị trên cao. Nên có thể trong sự giao hợp tình dục, tâm các ngài thanh thản, chứ không phải như người thế gian nghĩ đâu. Trong kinh, sau này có vị Cù Ba kể lại tình duyên của ngài đối với đức Phật, trong nhiều kiếp ngài là một vị Bửu Nữ, đức Phật là một vị Thải Tử, về sau hai người giao ước với nhau, nếu có lấy nhau thì cứ lấy mà không có chuyện gì khác (tình dục), vị thải tử dặn trước rằng, nếu sau này tôi đi trên con đường bồ tát đạo, làm hạnh bố thí, thì tôi sẽ bố thí tất cả, ngay cả vợ con, thành ốc và cả đến thân thể của mình nàng cũng phải chịu thì mới được. Thường là các vị người nữ đều nhận lời cả, cuối cùng ngài Cù Ba mới thị hiện xuống làm người vợ thứ hai của Đức Phật, nhưng chính ngài là vị Bồ Tát vào bậc thập địa. Nên những việc thị hiện của các vị cao thì không thể nói hết được…. Có thể rằng một vạn bà phu nhân chỉ là những chất liệu để Chuyển luân vương lựa chọn, đúc thành 1000 người con trai đủ cốt khí và pháp khí để có thể kế vị. Vả lại trải vô lượng kiếp tu hành, sự dính mắc những cuộc tình nửa đời, nửa đạo cũng nhiều. Nay cơ duyên chín mùi có lẽ họ tụ lại thành chùm….

Trở lại kinh…

Khi đức Phật diệt độ thì vị chuyển luân vương xuất gia để giữ chánh pháp, lúc đó vào thời mạt kiếp, có rất nhiều phe phái nổi lên.

KINH: Gần lúc mạt kiếp hoặc chướng nặng, các ác tỳ kheo nhiều sự đấu tranh, thích chấp cảnh giới chẳng cầu công đức. Thích nói vương luận, tặc luận, nữ luận, quốc luận, hải luận, nhẫn đến tất cả thế gian luận.

GIẢNG: Lúc bấy giờ có những ác tỳ kheo tu hành đọc kinh thì ít, nhưng lại thích nói những vương luận, (luận nói về trị nước), tặc luận (nói về những sự bá đạo), nữ luận (luận về những người nữ), quốc luận (nói về chính trị), và tất cả các thứ thế gian luận. Lúc này các vị tỳ kheo không đọc kinh mấy mà chỉ toàn nói chuyện thế gian thôi.

KINH: Lúc đó Vương tỳ kheo bảo họ rằng, lạ thay, khổ thay, đức Phật trong vô lượng kiếp hải chứa nhóm ngọn đuốc pháp này sao các người lại cùng nhau hủy diệt? Nói xong Vương tỳ kheo bay lên hư không cao bảy cây đa la, thân phóng ra vô lượng những mây mầu sáng, những lưới đại quang minh nhiều màu, làm cho vô lượng chúng sanh trừ nóng phiền não, làm cho vô lượng chúng sanh phát tâm bồ đề. Nhờ nhân duyên này nên giáo pháp của Như Lai được hưng thạnh thêm sáu vạn năm ngàn năm.

GIẢNG: Vị này có thần thông nên các vị tỳ kheo lại chịu khó tu hành nên chánh pháp của Như Lai lại được hưng thạnh 65,000 nữa.

KINH: Lúc đó có tỳ kheo ni tên là Pháp Luân Hóa Quang, vốn là con gái của Chuyển Luân vương, trăm ngàn tỳ kheo ni làm quyến thuộc, nghe lời nói của Phụ vương và thây thần lực, liền phát tâm bồ đề không thối chuyển, được tam muội tên là nhất thiết phật giáo đăng, lại được môn giải thoát thậm thâm tự tại diệu âm này, thân tâm nhu nhuyễn, liền được thát tất cả thần lực của đức Pháp Hải Lôi Ầm Quang Minh Như Lai.

GIẢNG: Ngài kể rằng ông vua Chuyển Luân Vương chính là ngài Phổ Hiền Bồ Tát, còn vương Nữ Tỳ Kheo ni chính là ngài. Đại khái kể toàn những chuyện như vậy để cho chúng ta biết các bổn sanh bổn sự của các ngài mà noi gương đó để tu hành. Sau đó ngài lại chỉ đến một vị khác, cũng là Chủ Dạ Thần.



37.- DẠ THẦN KHAI PHU NHẤT THIẾT THỌ HOA

 

Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết

“MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT XUẤT SANH QUẢNG ĐẠI HỈ QUANG MINH” nầy.

 


Thiện-Tài đã nhập môn giải-thoát bồ-tát thậm-thâm tự-tại diệu-âm, tu hành tinh tấn, đi đến chỗ DẠ THẦN KHAI PHU NHẤT THIẾT THỌ HOA.

Thấy Dạ-Thần nầy ở trong lâu các chúng-bửu-hương-thọ, ngồi trên tòa sư-tử bằng những diệu-bửu. Trăm vạn Dạ-Thần vây quanh.

Thiện-Tài đảnh lễ chân Dạ-Thần chắp tay cung kính thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát hạnh, thế nào được nhất-thiết-trí ?

Xin ngài từ mẫn vì tôi mà tuyên nói.

Dạ-Thần nói :

Nầy thiện-nam-tử ! Nơi Ta-Bà thế-giới nầy, lúc mặt nhựt lặn, hoa sen khép cánh, mọi người bãi du ngoạn, ta thấy những chúng-sanh muốn trở về chỗ họ ở hoặc núi, hoặc thành, hoặc đồng quê, ta đều mật hộ cho họ đi đúng đường đến nơi đến chốn, đêm nghỉ an ổn.

Nầy thiện-nam-tử ! Nếu có chúng-sanh tuổi trẻ háo sắc kiêu-mạn phóng-dật vui say ngũ dục, thời ta vì họ mà hiện tướng già bịnh chết, họ sợ sệt rời bỏ các điều ác. Lại vì họ mà khen ngợi những thiện-căn khiến họ tu tập.

Vì người bỏn-sẻn khen ngợi bố-thí. Vì người phá giới khen ngợi tịnh giới. Với người sân hận dậy họ hạnh đại từ. Khiến người não hại thật hành nhẫn-nhục. Nếu người giải-đãi khiến họ tinh-tấn. Nếu người tán loạn khiến tu thiền định. Người trụ ác-huệ khiến học bát nhã.

Người thích tiểu-thừa khiến trụ đại-thừa. Người đắm các loài trong tam-giới khiến họ trụ bồ-tát nguyện ba-la-mật. Nếu có chúng-sanh phước trí kém yếu bị kiết nghiệp ràng buộc lưu ngại nhiều, thời làm cho họ trụ Bồ-tát lực ba-la-mật. Nếu có chúng-sanh tâm họ tối tăm không có trí-huệ, thời làm cho họ trụ bồ-tát trí ba-la-mật.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta đã thành tựu môn giải thoát bồ-tát xuất sanh quảng-đại hỉ-quang-minh.

Thiện-Tài thưa :

Bạch đức Thánh ! Cảnh-giới của môn giải-thoát này thế nào ?

Dạ-Thần nói :

Nầy thiện-nam-tử ! Nhập môn giải-thoát nầy có thể biết trí phương tiện thiện xảo của Như-Lai Phổ nhiếp chúng sanh.

Phổ nhiếp thế nào ?

Nầy thiện-nam-tử ! Tất cả chúng sanh hưởng vui đều là do sức oai-đức của Như-Lai. Vì thuận lời dạy của Như-Lai. Vì thật hành theo lời của Như-Lai. Vì học hạnh của Như-Lai. Vì được sức hộ-trì của Như-Lai. Vì tu tập đạo của Như-Lai ấn khả. Vì gieo điều lành của Như-Lai làm. Vì y theo pháp của Như-Lai nói. Vì trí-huệ nhựt-quang của Như-Lai chiếu đến. Vì được Như-Lai tánh tịnh nghiệp-lực nhiếp thọ.

Tại sao biết như vậy ?

Ta nhập môn giải-thoát xuất sanh quảng-đại hỉ quang-minh nầy, nghĩ nhớ đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai thành Đẳng-Chánh-Giác, thuở xưa tu bồ-tát hạnh thảy đều thấy rõ.

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa, lúc làm Bồ-Tát, đức Thế-Tôn thấy tất cả chúng-sanh chấp ngã, ngã-sở, trụ nhà tối vô-minh, vào rừng rậm kiến chấp, bị tham ái trói buộc, bị giận hờn làm hư, bị ngu-si làm loạn, bị bỏn-sẻn ganh ghét ràng rịt, nên sanh tử luân-hồi bần cùng khốn khổ, chẳng gặp được chư Phật Bồ-Tát. Thấy như vậy rồi khởi lòng đại-bi lợi ích chúng-sanh.

Những là khởi tâm nguyện được tất cả diệu-bửu tư-cụ nhiếp lấy chúng-sanh. Khởi tâm nguyện tất cả chúng-sanh đều được đầy đủ vật tư-sanh không thiếu thốn. Với tất cả sự rời tâm chấp trước. Nơi tất cả cảnh-giới không tâm tham-nhiễm. Nơi tất cả sở-hữu không tâm tiếc nối. Nơi tất cả quả báo không tâm hi-vọng. Nơi tất cả vinh hảo không tâm khen chuộng. Nơi tất cả nhơn-duyên không tâm mê hoặc. Khởi tâm quán-sát pháp-tánh chơn-thiệt. Khởi tâm cứu hộ tất cả chúng-sanh. Khởi tâm thâm nhập tất cả pháp. Khởi tâm trụ bình đẳng đại-từ đối với tất cả chúng-sanh. Khởi tâm thật hành phương-tiện đại-bi đối với tất cả chúng-sanh. Khởi tâm làm lọng đại pháp che khắp chúng-sanh. Khởi tâm chạy kim-cang đại-trí phá tất cả núi chướng phiền-não của tất cả chúng-sanh. Khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh tăng-trưởng hỉ lạc. Khởi tâm nguyện tất cả chúng-sanh rốt ráo an-lạc. Khởi tâm tùy chỗ muốn của tất cả chúng-sanh mà mưa tất cả của báu. Khởi tâm dùng phương-tiện bình-đẳng thành thục tất cả chúng-sanh. Khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh đầy đủ thành tài. Khởi tâm nguyện tất cả chúng-sanh rốt ráo đều được thập-lực trí quả.

Khởi tâm như vậy rồi ta được bồ-tát-lực, hiện đại-thần-biến khắp pháp-giới hư-không-giới. Ở trước chúng-sanh mưa tất cả vật tư-sanh, tùy sở-thích của chúng-sanh đều được toại ý, đều làm cho họ hoan-hỉ, chẳng hối chẳng tiếc chẳng xen chẳng dứt.

Dùng phương-tiện nầy nhiếp khắp chúng-sanh giáo-hóa thành-thục, đều làm cho họ ra khỏi khổ nạn sanh-tử chẳng cầu báo đáp. Rửa sạch tâm bửu của tất cả chúng-sanh, làm cho họ sanh khởi đồng một thiện-căn với tất cả chư Phật. Thêm biển lớn phước đức nhất-thiết-trí.

Bồ-tát niệm niệm thành-thục tất cả chúng-sanh như vậy. Niệm niệm nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Niệm niệm vào khắp tất cả pháp-giới. Niệm niệm thảy đều khắp hư-không-giới. Niệm niệm vào khắp tất cả tam thế. Niệm niệm thành-tựu trí điều phục tất cả chúng-sanh. Niệm niệm hằng chuyển tất cả pháp luân. Niệm niệm hằng dùng đạo nhất thiết trí lợi ích chúng-sanh. Niệm niệm khắp tất cả thế giới ở trước các chúng-sanh, tận vị-lai kiếp hiện tất cả Phật thành Đẳng-Chánh-Giác. Niệm niệm khắp tất cả thế-giới, tất cả kiếp tu bồ-tát-hạnh chẳng sanh hai tưởng.

Những là vào khắp tất cả thế-giới hải-quảng-đại, trong tất cả thế-giới-chủng, những ranh giới các thế-giới-những trang-nghiêm các thế-giới, những thể-tánh các thế-giới, những hình trạng các thế-giới, những phân bố các thế-giới.

Hoặc có thế-giới uế mà kiêm tịnh. Hoặc có thế-giới tịnh mà kiêm uế. Hoặc có thế-giới một bề tạp uế. Hoặc có thế-giới một bề thanh-tịnh. Hoặc nhỏ hoặc lớn, hoặc thô hoặc tế. Hoặc ngay hoặc nghiêng, hoặc úp hoặc ngửa.

Trong tất cả thế-giới như vậy niệm niệm tu hành những hạnh bồ-tát, nhập bồ-tát-vị, hiện bồ-tát-lực. Cũng hiện tất cả thân Phật tam-thế. Tùy tâm chúng-sanh khiến biết thấy khắp cả.

Nầy thiện-nam-tử ! Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai, lúc tu hành hạnh bồ-tát như vậy, thấy các chúng-sanh chẳng tu công-đức, không có trí-huệ, chắp ngã ngã-sở vô-minh che chướng, chẳng chánh tư-duy, vào các tà kiến, chẳng biết nhân quả, thuận phiền-não nghiệp, sa vào hầm sâu hiểm nạn sanh tử. Thọ đủ vô-lượng những sự khổ, khởi tâm đại-bi, tu đủ tất cả ba-la-mật hạnh. Vì các chúng-sanh mà tán dương thiện-căn kiên-cố, cho họ an-trụ xa rời khổ nghèo cùng sanh tử, siêng tu pháp trợ-đạo phước trí. Vì họ mà nói những môn nhân quả. Vì họ mà nói nghiệp báo chẳng trái nhau. Vì họ mà nói chỗ chứng nhập của pháp. Vì họ mà nói tất cả chúng-sanh hiểu biết và muốn thích, và nói tất cả quốc độ thọ sanh, khiến họ chẳng dứt tất cả phật-chủng, khiến họ thủ hộ tất cả phật-giáo, khiến họ rời bỏ tất cả các ác. Lại vì họ mà tán dương pháp trợ-đạo xu hướng nhất-thiết-trí, khiến các chúng-sanh hoan hỉ, khiến hành pháp-thí nhiếp khắp tất cả, khiến họ phát khởi hạnh nhất-thiết-trí, khiến họ tu học đạo ba-la-mật của chư đại Bồ-Tát, khiến họ tăng trưởng những thiện-căn-hải thành nhất-thiết-trí, khiến họ đầy đủ tất cả thánh-tài, khiến họ được nhập môn tự-tại của Phật. Khiến họ nhiếp-thủ vô-lượng phương-tiện, khiến họ quán thấy oai-đức của Như-Lai, khiến họ an-trụ bồ-tát trí-huệ.

Thiện-Tài thưa :

Đức Thánh phát tâm vô-thượng bồ-đề đã bao lâu ?

Dạ-Thần nói :

Nầy thiện-nam-tử ! Việc nầy khó tin, khó hiểu, khó vào, khó nói, tất cả thế-gian và hàng Nhị-Thừa đều chẳng biết được, chỉ trừ thần-lực của Phật gia-hộ, thiện-hữu nhiếp-thọ, chứa thắng công-đức, chí nguyện thanh-tịnh, không tâm hạ-liệt, không tâm tạp nhiễm, không tâm siểm khúc, được tâm trí quang-minh khắp soi sáng, phát tâm nhiêu ích khắp các chúng-sanh, tâm mà tất cả phiền-não nhẫn đến chúng ma không phá hoại được, khởi tâm quyết thành-tựu nhất-thiết-trí, tâm chẳng thích tất cả sự vui sanh tử, có thể cầu tất cả diệu-lạc của chư Phật, có thể diệt tất cả khổ-não của chúng-sanh, có thể tu công-đức của tất cả Phật, có thể quán thật tánh của tất cả pháp, có thể đủ tất cả tín-giải thanh-tịnh, có thể siêu tất cả nước độc sanh-tử, có thể nhập tất cả trí-hải của Như-Lai, có thể quyết định đến pháp-thành vô-thượng, có thể dũng-mãnh nhập cảnh-giới Như-Lai, có thể mau chóng đến địa vị chư Phật, có thể liền thành-tựu sức nhất-thiết-trí, có thể ở nơi thập-lực đã được rốt ráo. Người như vậy ở nơi đây có thể trì, có thể nhập, có thể rõ.

Tại sao vậy ?

Vì đây là cảnh-giới trí-huệ của Như-Lai, tất cả Bồ-Tát còn chẳng biết được huống là những chúng-sanh khác. Nhưng nay ta do oai-lực của đức Phật, muốn khiến chúng-sanh điều thuận đáng được hóa độ, ý họ mau thanh-tịnh. Muốn khiến chúng-sanh tu tập thiện-căn, tâm họ được tự-tại. Nên theo chỗ hỏi của ngươi mà ta tuyên nói.

Bấy giờ Dạ-Thần Khai-Phu-Nhất-Thiết-Thọ-Hoa muốn tuyên lại nghĩa nầy, quán-sát cảnh-giới của tam-thế Như-Lai mà nói kệ rằng :


Phật-tử ngươi đã hỏi

Cảnh-giới Phật rất sâu

Nam-tư sát-trần kiếp

Nói đó chẳng thể hết

Chẳng phải tham sân si

Kiêu-mạn phiền-não che

Những chúng-sanh như vậy

Biết được Phật diệu-pháp.

Chẳng phải bỏn-sẻn ganh

Siểm khúc những ý trược

Nghiệp phiền-não che đậy

Mà biết được phật-cảnh.

Chẳng phải chấp uẩn xứ

Và chắp thân hữu-lậu

Người kiến-đảo tưởng-đảo

Biết được phật giác-ngộ.

Phật cảnh-giới tịch-tịnh

Tánh tịnh rời phân-biệt.

Chẳng phải chấp ba cõi

Biết được pháp-tánh nầy.

Sanh nơi nhà chư Phật

Được chư Phật thủ hộ

Người trì Phật pháp-tạng

Cảnh-giới của trí-nhãn.

Gần-gũi thiện-tri-thức

Mến thích pháp bạch tịnh

Siêng cầu chư Phật lực

Nghe pháp nầy hoan-hỉ.

Tâm tịnh vô-phân-biệt

Dường như thái-hư-không

Đèn trí-huệ phá tối

Cảnh-giới của người nầy.

Dùng ý đại từ-bi

Che khắp các thế-gian

Tất cả đều bình-đẳng

Cảnh-giới của người nầy.

Hoan-hỉ tâm vô-trước

Tất cả đều xả được

Bình-đẳng thí chúng-sanh

Cảnh-giới của người nầy.

Tâm tịnh rời các ác

Rốt ráo không hối hận

Thuận hành chư Phật giáo

Cảnh-giới của người nầy.

Biết rõ pháp tự-tánh

Nhẫn đến các nghiệp-chủng

Tâm họ không động loạn

Cảnh-giới của người nầy.

Dũng-mãnh siêng tinh-tấn

An-trụ tâm bất thối

Siêng tu nhất-thiết-trí

Cảnh-giới của người nầy.

Tâm họ tịch-tịnh trụ tam-muội

Rốt ráo thanh-lương không nhiệt não

Đã tu thân nhất-thiết-trí hải

Là giải-thoát của người chứng ngộ.

Khéo biết tất cả tướng phân-biệt

Thâm nhập vô-biên môn pháp-giới

Độ khắp quần-sanh không sót thừa

Là giải-thoát của bậc trí-huệ.

Rõ tánh chân thiệt của chúng-sanh

Chẳng chấp tất cả biển hữu-lậu

Như bóng hiện khắp trong tâm thủy

Là giải thoát của người chánh-đạo.

Từ nơi tất cả tam-thế Phật

Phương-tiện nguyện-chủng mà xuất sanh

Tận những kiếp sát siêng tu hành

Là giải-thoát của bực Phổ-Hiền.

Vào khắp tất cả môn pháp-giới

Đều thấy mười phương những sát-hải

Cũng thấy trong đó kiếp thành hoại

Mà tâm rốt ráo vô-phân-biệt.

Trong những vi-trần của pháp-giới

Đều thấy Như-Lai ngồi đạo-thọ

Thành-tựu bồ-đề độ quần-sanh

Là giải-thoát của vô-ngại-nhãn.

Ngươi ở vô-lượng đại-kiếp-hải

Thân-cận cúng-dường thiện-tri-thức

Vì lợi quần sanh cầu chánh-pháp

Nghe rồi ghi nhớ không quên sót.

Tỳ-Lô-Giá-Na cảnh rộng lớn

Vô-lượng vô-biên chẳng thể suy

Ta thừa phật-lực nói với ngươi

Cho ngươi thâm-tâm càng thanh-tịnh.


Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa quá thế-giới-hải vi-trần-số kiếp, có thế-giới-hải tên là Phổ-Quang-Minh-Chơn-Kim-Ma-Ni-Sơn. Trong thế-giới-hải nầy có Phật xuất hiện hiệu là Phổ-Chiếu-Pháp-Giới Trí-Huệ-Sơn-Tịch-Tịnh-Oai-Đức-Vương.

Nầy Thiện-nam-tử ! Lúc đức Phật ấy tu hạnh bồ-tát, nghiêm-tịnh thế-giới-hải đó. Trong thế-giới-hải đó có thế-giới vi-trần-số thế-giới-chủng. Mỗi thế-giới-chủng có thế-giới vi-trần-số thế-giới. Mỗi thế-giới đều có Như-Lai xuất thế. Mỗi Như-Lai diễn nói thế-giới vi-trần-số tu-đa-la. Mỗi tu-đa-la thọ-ký cho phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát, hiện những thần-lực, nói những pháp-môn, độ vô-lượng chúng-sanh.

Nầy Thiện-nam-tử ! Trong thế-giới-hải Phổ-Quang-Minh-Chơn-Kim-Ma-Ni-Sơn, có thế-giới-chủng tên là Phổ-Trang-Nghiêm-Tràng.

Trong thế-giới-chủng ấy có thế-giới tên là Nhất-Thiết-Bửu-Sắc-Phổ-Quang-Minh. Thể chất bằng Hiện-Nhất-Thiết-Hóa-Phật-Ảnh-Ma-Ni-Vương, hình như thành quách cõi trời. Hạ-tế làm bằng Hiện-Nhất-Thiết-Như-Lai-Đạo-Tràng-Ảnh-Tượng-Ma-Ni-Vương, an-trụ trên biển Nhất-Thiết-Bửu-Hoa. Thế-giới ấy tịnh uế lẫn lộn. Trong thế-giới nầy có tu-di-sơn vi-trần-số tứ-thiên-hạ. Chính giữa có một tứ-thiên-hạ tên là Nhất-Thiết-Bửu-Sơn-Tràng, Tứ-thiên-hạ ấy, mỗi thiên-hạ ngang dọc đều một vạn do-tuần. Mỗi thiên-hạ đều có một vạn thành lớn.

Trong Diêm Phù Đề ấy có một Vương-Đô tên là Kiên-Cố-Diệu-Bửu-Trang Nghiêm-Vân-Đăng, một vạn đại-thành rải-rác bao quanh.

Thời kỳ người Diêm-Phù-Đề thọ-mạng vạn năm, có vua tên là Nhứt-Thiết-Pháp-Ấm-Viên-Mãn-Cái. Có năm trăm Đại-Thần, sáu vạn thế-nữ, bảy trăm Vương-Tử. Những Vương-Tử nầy đều đoan-chánh dũng kiện có oai-lực lớn.

Đức Vua ấy có oai-đức ban bố khắp Diêm-Phù-Đề, không có kẻ oán địch.

Thế-giới ấy, lúc kiếp sắp tận, có năm thứ trược phát khởi, nhơn chúng thọ-mạng ngắn-ngủi, của cải thiếu thốn, thân hình xấu xí, nhiều khổ ít vui, chẳng tu thập thiện, chuyên làm nghiệp ác. Giận gây hủy nhục nhau, làm quyến thuộc người xa lìa, ganh ghét hạnh phúc của người, kiến chấp tà vạy, tham cầu phi-pháp.

Do nhơn duyên ấy nên mưa gió bất thường, lúa mạ chẳng tốt, vườn tược cây cối khô cằn, nhơn dân đói kém, nhiều bệnh tật, tản cư bốn phương không biết nương tựa vào đâu nên đều đến ở quanh Vương Đô số đông đến trăm ngàn vạn ức, to tiếng kêu gào, hoặc giơ tay, hoặc chắp tay, hoặc cuối đầu, hoặc quì gối, hoặc nhảy nhót, đầu tóc rối tung y phục rách rưới, da thứa nhăn nứt, mặt mắt mất thần, đồng hướng về cung vua kêu van rằng :

Đại-Vương ! Đại-Vương ! Chúng tôi ngày nay nghèo cùng đói rách, bệnh tật khốn khổ, không chỗ nương tựa, không biết kêu cứu vào đâu. Chúng tôi đồng về nương với Đại-Vương.

Đại-Vương là bực nhơn-từ trí-huệ, chúng tôi mong được Đại-Vương ban cho an lạc, ban cho sự sống. Xin Đại-Vương thương xót chúng tôi, nhiếp thọ chúng tôi. Đại-Vương là bửu-tạng, là cầu đò, là đường sá, là thuyền bè, là hòn đảo châu báu, là tài lợi, là thiên-cung của chúng tôi.

Nhà vua nghe lời kêu than của dân-chúng liền được trăm vạn vô-số môn đại-bi. Nhứt tâm tư-duy phát khởi mười thứ đại-bi-ngữ :

Một là : Thương thay chúng-sanh sa vào hố lớn sanh tử không đáy, ta phải làm cách nào để cứu họ, cho họ an trụ nơi bực nhứt-thiết-trí.

Hai là : Thương thay chúng-sanh bị bức ngặt bởi phiền-não, ta phải làm cách nào cứu hộ họ, cho họ an trụ nơi tất cả nghiệp lành.

Ba là: Thương thay chúng-sanh bị khủng bố bởi sanh lão bệnh tử, ta phải làm cách nào cho họ về nương, cho họ vĩnh viễn được thân tâm an lạc.

Bốn là: Thương thay chúng-sanh thường bị thế-gian đại-chúng làm ngặt làm khiếp, ta phải làm thế nào hộ trợ họ, cho họ an trụ đạo nhứt-thiết-trí.

Năm là : Thương thay chúng-sanh không có trí-nhãn thường bị thân-kiến nghi lầm che đậy, ta phải dùng phương-tiện gì cho họ mau giải quyết kiến chấp.

Sáu là : Thương thay chúng-sanh thường bị si tối làm mê lầm, ta phải thế nào để làm đèn sáng cho họ soi thấy thành nhứt-thiết-trí.

Bảy là : Thương thay chúng-sanh thường bị xan tật siểm cuống làm nhơ đục, ta phải thế nào để khai hiểu họ, cho họ chứng được pháp-thân thanh-tịnh.

Tám là : Thương thay chúng-sanh mãi trôi chìm trong biển lớn sanh tử, ta phải vớt đưa họ thế nào cho họ được lên bờ bồ-đề.

Chín là : Thương thay chúng-sanh các căn cang cường khó điều khó phục, ta phải điều-ngự họ thế nào cho họ được đầy đủ thần-lực của Phật.

Mười là : Thương thay chúng-sanh như kẻ mù lòa chẳng thấy đường sá, ta phải dẫn dắt họ thế nào cho họ được vào cửa nhất-thiết-trí.

Nói như thế xong, đức vua truyền đánh trống ban lịnh :

Nay đức vua bố-thí khắp tất cả chúng-sanh, tùy theo nhu cầu đều làm cho đầy đủ cả.

Vua lại ban lịnh cho tất cả thành trong Diêm-Phù-Đề và các tụ-lạc đều khai kho chẩn tế : những là vàng bạc, lương thực, y-phục, thuốc men, đồ dùng, giường ghế, nhà cửa, châu báu, xe cộ, lụa là gấm vóc đều đem bố-thí. Nhẫn đến đức Vua có thể sẻ xả thí cung-điện, vợ con, vương-vị, da thịt, tay chưn, môi răng, miệng lưỡi, mũi tai, đầu mắt, tâm can tỳ phế.

Phía đông của Vương-đô có cổng tên là Ma-Ni Sơn-Quang Minh. Ngoài cổng thành ấy có hội-trường bố-thí rộng rãi bằng phẳng trống trải rất mực trang-nghiêm, đều là quả-báo do tịnh-nghiệp của Bồ-Tát.

Trong thí-hội nầy có tòa sư-tử, đất bằng mười thứ báu, lan can mười thứ báu, mười thứ cây báu bao quanh, dưới là kim-cang bửu-luân. Dùng tất cả thứ báu làm tượng long-thần cầm bửu-vật để trang-sức hội-trường, tràng phan bày hàng, lưới báu giăng che, vô-lượng thứ hương luôn phất mùi thơm vi-diệu, hàng lụa báu đẹp trải giăng khắp nơi, trăm ngàn âm nhạc luôn hòa tấu. Lại có bửu-cái thường phóng vô lượng bửu-quang-minh như vàng diêm-phù-đàn hực hở thanh-tịnh. Những anh-lạc bửu-linh hằng phát ra âm thanh vi-diệu khuyên các chúng-sanh tu hành nghiệp lành.

Lúc đó đức Vua ngự tòa sư tử, hình dung đoan chánh đủ những tướng tốt, thân na-la-diên không hư hoại, tánh hiền thiện, tài pháp hai thứ đều tự-tại, biện luận vô-ngại trí-huệ siêu phàm, trị nước không ai trái mạng lịnh.

Bấy giờ vô-lượng vô-số chúng-sanh trong Diêm-Phù-Đề đua nhau đến hội-trường bố-thí nầy, thấy đức vua ngự trên tòa sư-tử, đều cho là người đại trí, đại phước, là bực đủ đức đủ hạnh đủ nguyện, là nhà đại thí-chủ.

Nhà vua thấy những người đến cầu xin liền sanh lòng bi mẫn, lòng hoan-hỉ, lòng tôn trọng, lòng thiện-hữu, lòng quảng-đại, lòng tương-tục, lòng tinh-tấn, lòng bất-thối, lòng thí xả, lòng châu biến.

Lòng hoan-hỉ trong giây lát của nhà vua khi thấy những người đến xin còn hơn sự khoái lạc trong trăm ngàn ức na-do-tha kiếp của Đao-Lợi Thiên-Vương, Dạ-ma Thiên-Vương, Đâu-Suất-Đà Thiên-Vương, nhẫn đến hơn cả sự vui tịch-tịnh trong bất khả-thuyết kiếp của Tịnh-Cư Thiên Vương.

Nầy thiện-nam-tử ! Ví như có người nhơn từ hiếu hữu gặp loạn lạc cha mẹ vợ con huynh đệ tỷ muội đều thất lạc, tình cờ được đoàn tụ đông đủ thời sự vui mừng biết ngần nào.

Lòng hoan-hỉ của nhà vua khi thấy những người đến cầu xin cũng như vậy.

Nầy thiện-nam-tử ! Nhà vua ấy nhờ thiện-tri-thức nên được tăng trưởng tri-giải và chí nguyện nơi phật bồ-đề, các căn thành-tựu, tín tâm thanh-tịnh hoan-hỉ viên mãn.

Tại sao vậy ?

Vì nhà vua là bực Bồ-Tát siêng tu các công-hạnh cầu nhứt-thiết-trí. Nguyện được lợi-ích tất cả chúng-sanh. Nguyện được bồ-đề vô-lượng diệu-lạc. Rời bỏ tất cả những tâm bất-thiện. Thường thích chứa nhóm tất cả thiện-căn. Thường nguyện cứu hộ tất cả chúng-sanh. Thường thích quán-sát đạo trí-huệ. Thường ham tu hành pháp nhứt thiết-trí. Làm thỏa mãn nguyện vọng của tất cả chúng-sanh. Vào biển lớn công-đức của tất cả Phật. Phá tất cả núi ma nghiệp hoặc chướng. Tùy thuận giáo-hạnh của tất cả Như-Lai. Thật hành đạo nhất-thiết-trí vô-ngại. Đã có thể thâm nhập dòng nhất-thiết-trí. Tất cả pháp-lưu thường hiện tiền. Đại nguyện vô-tận làm Đại-Trượng-Phu, trụ pháp đại-nhân. Chứa nhóm tất cả tạng lành phổ-môn, lìa tất cả chấp, chẳng nhiễm tất cả cảnh-giới thế-gian. Biết các pháp-tánh dường như hư-không. Với những người đến xin xem như con một, xem như cha mẹ, xem là phước-điền, xem là khó được, xem là ân-nhân, xem là chỗ bền chắc, xem là Thầy, là Phật. Chẳng chọn xứ sở, chẳng lựa chủng tộc, chẳng phân hình mạo.

Tùy theo chỗ muốn của họ, nhà vua vẫn một tâm từ-bi bình-đẳng vô-ngại cung cấp đầy đủ cho tất cả. Người cầu lương thực thời cho lương thực. Người xin y phục thời cho y-phục. Người xin vàng bạc thời cho vàng bạc. Nhẫn đến những người cầu xin xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa, voi ngựa, châu báu, phan lọng, hương hoa, quyến-thuộc vân-vân, nhà vua đều cấp cho tất cả.

Trong thí-hội nầy có Trưởng-Giả-Nữ tên là Bửu-Quang-Minh cùng sáu mươi đồng-nữ câu hội, hình dung đoan chánh đẹp lạ, mọi người thích thấy da màu chơn-kim, tóc và mắt màu xanh biếc thân phát mùi thơm, miệng diễn phạm-âm, bửu-y thượng diệu trang-nghiêm trên thân, thường có lòng tàm quý chánh-niệm chẳng loạn, đầy đủ oai nghi cung-kính sư-trưởng, thường nhớ thuận hành công hạnh vi-diệu thậm-thâm, những pháp đã nghe ghi nhớ chẳng quên, thiện-căn đời trước chảy nhuầu nơi tâm, thanh-tịnh quảng-đại dường như hư-không, khắp an lợi chúng-sanh, thường thấy chư Phật cầu nhất-thiết-trí.

Bấy giờ nàng Bửu-Quang-minh cách đức Vua không xa, chắp tay đảnh lễ, tự nghĩ rằng : Tôi được lợi lành tôi được lợi lành. Nay tôi được thấy bực thiện-tri-thức.

Nơi nhà vua, nàng nghĩ là Đại-Sư, là thiện-tri-thức, là đủ từ-bi, là hay nhiếp thọ. Tâm nàng chánh-trực rất vui mừng, liền cổi anh-lạc dâng lên vua mà nguyện rằng:

Nay Đại-Vương nầy làm chỗ nương cho vô-lượng vô-biên chúng sanh mê tối, nguyện ngày sau tôi cũng như vậy.

Như đại-Vương đây, những pháp đã biết, thừa đã theo, đạo đã tu, sắc tướng đã đủ, tài sản đã có, chúng-hội đã nhiếp vô-biên, vô-tận, khó hơn khó hoại nguyện ngày sau tôi đều được như vậy. Đức vua đây sanh ở đâu tôi đều theo sanh nơi đó.

Đức vua biết nàng ấy phát tâm như vậy nên bảo rằng :

Nầy Đồng-Nữ ! Tùy ý nàng muốn ta đều cấp cho. Tất cả sở-hữu nay ta đều xả cả, cho các chúng-sanh đều được đầy đủ.

Nghe đức vua nói, nàng Bửu-Quang-Minh rất hoan-hỷ tín tâm thanh-tịnh, liền nói kệ ca ngợi đức vua :


Thuở xưa thành ấp nầy

Lúc chưa có Đại-Vương

Không có mảy-may vui

Dường như xứ ngạ-quỷ.

Chúng-sanh sát hại nhau

Cướp trộm và dâm dật,

Lưỡng-thiệt nói dối trá

Lời thô ác vô nghĩa,

Tham lam tài vật người

Sân hận lòng độc ác,

Tà-kiến làm điều quấy

Chết rồi đọa ác-đạo.

Bởi những chúng-sanh nầy

Bị ngu si che đậy

Ở trong điên-đảo kiến

Trời ít khi ban lành.

Vì không mưa phải mùa

Ngũ cốc đều chẳng mọc

Cỏ cây nhiều khô héo

Sông suối cũng khô cạn.

Lúc chưa có Đại-Vương

Sông ao đều khô cạn

Thây chết chật trong vườn

Nhìn đó như đồng hoang.

Đại-Vương lên ngôi báu

Rộng cứu những quần-sanh

Mây mát che tám phương

Khắp nơi đều mưa xuống.

Đại-Vương cai trị dân

Dứt hết những ngược ác

Hình ngục đều dẹp bỏ

Kẻ côi cùng được an

Ngày trước các chúng-sanh

Thường tàn sát lẫn nhau

Uống máu và ăn thịt.

Nay đều sanh lòng từ.

Ngày trước các chúng-sanh

Nghèo cùng thiếu y-phục

Dùng cỏ tự che thân

Gầy xấu như ngạ-quỷ.

Khi Đại-Vương trị vì

Lúa tốt tự-nhiên sanh

Trong cây sanh y-phục

Nam Nữ đều xinh đẹp

Ngày trước người tham lam

Phi pháp lấn đoạt nhau,

Nay thời đều giàu đủ

Như khu vườn Đế-Thích.

Ngày trước người làm ác

Dâm dật sanh tham nhiễm

Vợ người và đồng-nữ

Cùng xâm bức lẫn nhau.

Nay thấy vợ con người

Xinh đẹp trang sức khéo

Mà lòng không nhiễm trước

Giống như trời Tri-Túc.

Ngày trước các chúng-sanh

Nói dối chẳng chơn thiệt

Phi-pháp không lợi ích

Nịnh hót lấy lòng người.

Nay tất cả mọi người

Đều bỏ lời nói ác

Lòng họ rất nhu nhuyến

Lời nói cũng điều thuận.

Ngày trước các chúng-sanh

Làm nhiều hạnh tà vạy

Chắp tay cung kính lạy

Những trâu, bò, heo, dê,

Nay theo pháp của vua

Tổ ngộ trừ tà-kiến

Biết rõ báo khổ vui

Đều từ nhơn duyên khởi.

Đại-Vương diễn diệu-âm

Người nghe đều vui mừng

Ấm thanh của Thích, Phạm

Tất cả không bằng được.

Đại-Vương những bửu-cái

Ở cao trên không-trung

Cán bằng ngọc lưu-ly

Trùm bằng lưới ma-ni,

Linh vàng tự nhiên phát

Tiếng Phật rất hòa nhã

Tuyên dương pháp vi-diệu

Diệt trừ chúng-sanh mê

Kế lại rộng diễn thuyết

Mười phương các cõi phật

Trong tất cả những kiếp

Như-Lai và quyến-thuộc.

Và lại thứ đệ nói

Quá-khứ mười phương cõi

Và trong quốc-độ đó

Tất cả các Như Lai.

Lại phát tiếng diệu-âm

Khắp cõi Diêm-Phù-Đề

Nói rộng về Nhơn Thiên

Những nghiệp làm sai khác.

Chúng-sanh nghe tiếng nầy

Tự biết những hạnh nghiệp

Bỏ ác siêng tu hành

Hồi-hướng Phật bồ-đề.

Vương-phụ: Tịnh-Quang-Minh,

Vương-Mẫu: Liên-Hoa-Quang,

Thuở ngũ trược xuất hiện

Ở ngôi trị thiên-hạ.

Bấy giờ có vườn rộng.

Vườn có năm trăm ao

Mỗi ao ngàn cây lớn

Trên cây đầy những hoa.

Ở trên bờ ao ấy

Xây dựng nhà ngàn cột

Lan-can rất trang-nghiêm

Không gì là chẳng đủ.

Mạt-thế khởi ác-pháp

Nhiều năm chẳng có mưa

Sông ao đều khô cạn

Cỏ cây cũng héo rũ.

Bảy ngày trước vua sanh

Trước hiện tướng linh thoại,

Người thấy đều nghĩ rằng

Bực cứu thế sẽ hiện.

Bấy giờ vào giữa đêm

Đại-địa động sáu cách

Có một ao bửu-hoa

Quang-minh như trời sáng.

Trong vườn năm trăm ao

Đầy nước bát công-đức,

Cây khô đều đâm chồi

Hoa lá đều tươi tốt.

Nước ao đã đầy tràn

Chảy lan tất cả xứ

Khắp cả cõi Diêm-Phù

Không đâu chẳng nhuần ướt.

Dược thảo và cây cối

Trăm thứ lúa đậu thảy

Nhánh lá bông trái hột

Tất cả đều sum-sê

Rãnh mương và gò nổng

Những nơi cao và thấp

Tất cả những chỗ ấy

Tự-nhiên bằng phẳng cả.

Gai gốc cát sỏi thảy

Bao nhiêu những tạp uế

Đều ở trong một niệm

Biến thành những ngọc báu.

Chúng-sanh thấy sự nầy

Hoan-hỉ mà ca ngợi

Đều nói mình được lợi

Như khát uống nước ngọt.

Bấy giờ vua Quang-Minh

Cùng vô-lượng quyến-thuộc

Xe giá đồng du ngoạn

Đi xem khắp khu vườn.

Trong số năm trăm ao

Có ao tên Khánh-Hỉ

Trên ao có Pháp-Đường

Phụ-Vương ngự nơi đây.

Tiên-Vương bảo Phu-Nhơn :

Ta nhớ bảy ngày trước

Giữa đêm đất chấn động

Trong đây phát ánh sáng

Bấy giờ trong ao đó

Mọc bông sen ngàn cánh

Sáng như ngàn mặt nhựt

Chói đến đảnh Tu-di,

Cộng hoa bằng kim-cang,

Đài hoa : vàng Diêm-Phù,

Cánh hoa bằng những báu

Diệu hương làm nhụy tua

Đức Vua sanh trên hoa

Ngồi kiết-già đoan trang

Trang-nghiêm với tướng hảo

Thiên-Thần đều cung kính.

Tiên-Vương rất hoan-hỉ

Tự vào ao ẵm lên

Đem trao cho Phu-Nhơn

Bà nên mừng được con.

Liền đó tạng báu hiện,

Cây báu sanh diệu-y,

Thiên-nhạc tấu mỹ-âm,

Sung-mãn trong hư-không.

Tất cả các chúng-sanh

Đều sanh lòng hoan hỉ

Chắp tay khen hi-hữu

Đấng cứu thế ra đời.

Thân vua phóng quang-minh

Chiếu khắp cả mọi nơi

Làm cho tứ thiên-hạ

Hết tối, trừ bệnh tật.

Dạ-Xoa, Tỳ-Xá-Xà,

Độc-trùng các ác-thú

Những thứ muốn hại người

Tất cả đều ẩn trốn.

Tiếng xấu và thất lợi

Tai họa cùng bệnh tật

Tất cả khổ đều diệt

Mọi người đều hoan hỉ.

Phàm là chúng-sanh loại

Xem nhau như cha mẹ

Bỏ ác sanh lòng lành

Chuyên cầu nhất-thiết-trí.

Đóng bít các ác thú

Mở bày đường nhân thiên

Tuyên dương đạo trí-huệ

Độ thoát các quần-sanh.

Chúng tôi thấy Đại-Vương

Được những lợi lành lớn

Làm cho người cô cùng

Tất cả đều an lạc.


Bửu-Quang-Minh đồng-nữ nói kệ ca ngợi vua Nhất-Thiết-Pháp-Ấm-Viên-Mãn-Cái rồi đi nhiễu vô-lượng vòng, cung kính đảnh lễ chắp tay đứng qua một bên.

Đại-Vương bảo Đồng-Nữ :

Lành thay ! Đồng-nữ có thể tin biết công-đức của người khác. Sự ấy rất là hi-hữu.

Này Đồng-nữ ! Tất cả chúng-sanh chẳng thể tin biết công-đức của người khác.

Nầy đồng-nữ ! Tất cả chúng-sinh chẳng biết báo ân, không có trí-huệ, tâm họ trược loạn, tánh chẳng sáng tỏ, vốn không chí-lực lại thối thất sự tu hành. Những người như vậy chẳng tin chẳng biết thần thông trí-huệ và công-đức của Bồ-Tát và chư Phật.

Nay đồng-nữ quyết định cầu đến bồ-đề, biết được công-đức của Bồ-Tát như vậy. Ngươi sanh trong Diêm-Phù-Đề này phát tâm dũng-mãnh nhiếp khắp chúng-sanh công chẳng uổng bỏ, rồi đây ngươi cũng sẽ thành-tựu công đức như vậy.

Đức Vua khen đồng-nữ xong, tự tay cầm bửu y vô-giá trao cho đồng-nữ và quyến-thuộc của đồng-nữ mà bảo từng người rằng : ngươi mặc y nầy.

Các đồng-nữ quỳ gối hai tay lãnh y để trên đầu rồi mới mặc. Mặc y xong đồng hữu nhiễu quanh đức Vua.

Trong những bửu-y đó phát ra quang-minh tất cả tinh tú.

Mọi người thấy thế đều nói rằng các đồng-nữ nầy đều đoan chánh như sao sáng trong đêm tốt trời.

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa đó vua Nhất-Thiết-Pháp-Ấm-Viên-Mãn-Cái, chính là đức Tỳ-Lô Giá Na Như-Lai hiện nay vậy.

Quang-Minh-Vương thuở xưa đó, nay là Tịnh-Phạn-Vương.

Liên-Hoa-Quang Phu-Nhân, nay là Ma-Ha Ma-Gia Phu-Nhân.

Bửu-Quang-Minh Đồng-nữ chính là thân ta đây.

Những chúng-sanh được đức Vua dùng pháp tứ nhiếp để nhiếp thọ, nay đây là những Bồ-Tát bất-thối-chuyển trong pháp-hội nầy, hoặc bậc sơ-địa nhẫn đến bậc thập-địa, đủ đại-nguyện, nhóm trợ-đạo, tu diệu-hạnh, đủ trang nghiêm, được thần-thông, trụ giải-thoát, nay ở trong hội nầy ở nơi những cung-điện diệu-pháp.

Chủ-Da-Thần Khai-Phu-Nhất-Thiết-Thọ-Hoa, muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát nầy, vì Thiện-Tài Đồng-tử mà nói kệ rằng :


Ta có quảng đại-nhãn

Thấy khắp cả mười phương

Trong tất cả sát-hải

Ngũ thú luân-hồi thảy

Cũng thấy chư Phật đó

Ngồi dưới cội bồ-đề

Thần-thông khắp mười phương

Thuyết pháp độ chúng-sanh.

Ta có thanh-tịnh-nhĩ

Nghe khắp tất cả tiếng

Cũng nghe Phật thuyết pháp

Hoan-hỉ tin thọ-trì.

Ta có tha-tâm trí

Không hai không chướng-ngại

Có thể trong một niệm

Biết rõ tất cả tâm.

Ta được túc-mạng-trí

Biết được tất cả kiếp

Thân mình và người khác

Phân biệt đều rõ ràng :

Khoảng một niệm ta biết

Sát-hải vi-trần kiếp

Chư Phật và Bồ-Tát

Chúng-sanh trong ngũ-đạo.

Nhớ biết chư Phật kia

Tối sơ phát đại-nguyện

Nhẫn đến tu các hạnh

Mỗi mỗi đều viên mãn.

Cũng biết chư Phật kia

Thành-tựu bồ-đề đạo

Dùng các môn phương-tiện

Vì chúng chuyển pháp-luân.

Cũng biết chư phật kia

Có bao nhiêu thừa-hải.

Chánh-pháp trụ lâu gần

Chúng-sanh độ nhiều ít.

Ta trong vô-lượng kiếp

Tu tập pháp-môn nầy

Nay ta vì ngươi nói

Phật-tử phải siêng học

 

Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT XUẤT SANH QUẢNG ĐẠI HỈ QUANG MINH” nầy, như chư đại Bồ-Tát thân-cận cúng dường tất cả chư Phật vào biển nhất-thiết-trí đại-nguyện, viên mãn những nguyện-hải của chư Phật. Được trí dũng-mãnh nơi một bồ-tát-địa vào khắp tất cả bồ-tát-địa-hải. Được thanh-tịnh-nguyện nơi một bồ-tát hạnh vào khắp tất cả bồ-tát-hạnh hải. Được tự tại-lực nơi một bồ-tát giải thoát-môn vào khắp tất cả bồ-tát giải thoát-môn-hải.

Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó.

Nầy Thiện-nam-tử ! Trong đạo-tràng nầy có một Dạ-Thần tên là Đại-Nguyện-Tinh-Tấn-Lực-Cứu-Hộ-Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh.

Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào giáo-hóa chúng-sanh khiến đến vô thượng bồ-đề ? Thế nào nghiêm-tịnh tất cả cõi phật ? Thế nào thừa sự tất cả Như-Lai ? Thế nào tu hành tất cả phật-pháp ?

Thiện-Tài đồng-tử đảnh lễ chân Dạ-Thần, hữu nhiễu vô-số vòng, ân cần chiêm-ngưỡng từ tạ mà đi.



KINH: Này thiện nam tử, trong phật hội này, có một Chủ Dạ Thần tên là Khai Phu Nhất Thiết Thọ Hoa.

GIẢNG: “Khai Phu Nhất Thiết Thọ Hoa” tức là cái cây nở hoa. Nên cần nhớ rằng tất cả các pháp, mọi thứ chúng sanh, con kiến, cọng cỏ v.v… đều là hoa hết. Vị này đến mức tu hành cao thần thông nả’ như hoa vậy.

Nên mới gọi là “khai phu nhất thiết thọ hoa.”

KINH: …Bấy giờ Thiện Tài đồng tử được nhập môn giải thoát bổ tát thậm thâm tự tại diệu âm, nên nhập vô biên tam muội hải, nhập quảng đại tống trì hải, được bồ tát đại thần thông, được bồ tát đại biện tài…

GIẢNG: Thiện Tài nói chuyện với vị kia khoảng một thời gian nào đó thì được môn giải thoát đó ngay, lúc nào ngài cũng đắc hết. Tới mỗi một vị thiện tri thức là Thiện Tài đắc vài môn tam muội, và càng về sau ngài Thiện Tài đắc tam muội càng nhiều.

KINH: … Thiện Tài đã nhập môn bồ tát giải thoát thậm thâm, tu hành tinh tấn…

GIẢNG: “Tu hành tinh tấn” tức là Thiện Tài vừa đi vừa quán chiếu.

KINH: Đi đến chỗ Dạ Thần Khai Phu Nhất Thiết Thọ Hoa. Thấy Dạ Thần này ở trong lâu các chúng bửu hương thọ, ngồi trên tòa sư tử băng những diệu bửu. Trăm vạn dạ thần vây quanh. Thiện Tài đảnh lễ chân dạ thần, chắp tay cung kính thưa răng. Bạch đức thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết bồ tát thế nào học bồ tát hạnh, thế nào được nhát thiết trí? Xin ngài từ mẫn vì tôi mà tuyên nói.

Dạ Thần nói, này thiện nam tử, nơi Ta Bà thế giới này, lúc mặt nhựt lặn, hoa sen khép cánh, mọi người bãi du ngoạn, ta thấy những chúng sanh muốn trở về chỗ họ ở, hoặc núi, hoặc thành, hoặc đồng quê, ta đều mật hộ cho họ đi đúng đường, đến nơi, đến chốn đêm nghỉ an ổn.

GIẢNG: Ngài kể cho Thiện Tài nghe những hạnh nguyện của ngài là độ chúng sanh. “Lúc mặt nhựt lặn, hoa sen khép cảnh, mọi người bãi du ngoạn, ta thấy chúng sanh muốn trở về chỗ họ ở…” ở ngoài đời, có chúng sanh lạc bước muốn về chỗ ở của họ thật, thì ngài là Chủ Dạ Thần liền hộ trì cho người đó trở về. Nhưng nghĩa bóng là khi nào chúng sanh muốn trở về diệu tâm ấy thì ngài sẽ mật hộ cho họ đi đúng đường về đến nơi, đến chốn.

KINH: Này thiện nam tử, ta đã thành tựu môn giải thoát bồ tát xuất sanh quảng đại hỉ trang nghiêm.

GIẢNG: Vị dạ thần trước được môn tam muội là “niệm niệm quảng đại hỷ trang nghiêm,” nhưng ngài chủ dạ thần này có hơi khác là ngài được môn tam muội “giải thoát bồ tát xuất sanh quảng đại hỷ trang nghiêm,” Ỷ nói rằng, ngài không cần phải niệm niệm nữa, lúc nào ngài cũng có thể xuất sanh quảng đại hỷ trang nghiêm.

KINH:… Này thiện nam tử, tất cả chúng sanh hưởng vui đều là do sức oai đức của Như Lai. Vì thuận lời dạy của Như Lai, vì thật hành theo lời của Như Lai, vì học hạnh của Như Lai, vì được sức hộ trì của Như Lai, ….vì trí huệ nhựt quang Như Lai chiếu đến, vì được Như Lai tánh tịnh nghiệp lực nhiếp thọ.

GIẢNG: Tất cả chúng sanh dù được niềm vui nhỏ bé, hoặc thô kệch đều là do sức gia trì của Như Lai. Còn những vị tu hành cao, có được những hỉ lạc lớn cũng đều do sức tâm đó, nguồn suối của sự an lạc của Như Lai. Đại khái vẫn là “xuất sanh quảng đại hỉ trang nghiêm.”

KINH: …Thiện Tài thưa, đức thánh phát tâm vô thượng bồ đề đã bao lâu? Dạ Thần nói, này thiện nam tử, việc này khó tin, khó hiểu, khó vào, khó nói, tất cả thế gian và hàng nhị thừa đều chẳng biết được, chỉ trừ thần lực của Phật gia hộ, thiện hữú nhiếp thọ, chứa thăng công đức, chí nguyện thanh tịnh, không tâm hạ liệt…

GIẢNG: Ngài trả lời có một câu thôi mà rào đón đến như vậy, ý ngài muốn nói, ta tu từ vô lượng kiếp, nhưng lên đến cảnh giới này phải hiểu rằng tất cả chỉ là vấn đề thời gian, tuy nói là vô lượng kiếp, nhưng đối với ngài thì lại rất ngắn. Vì tất cả phật pháp là hóa giải vấn đề thời gian và không gian. Cũng y như những vị trước, ngài cũng kể những bổn sanh, bổn sự của ngài mà không có gì khác lắm, những là có những đức Phật ra đời, lúc đó ngài làm gì…, làm gì… v.v…, rồi lúc đó ngài phát tâm vô thượng bồ đề ra sao, và ngài lại gặp bao nhiêu Đức Phật cung kính cúng dường thế nào, sau ngài thành tựu được môn giải thoát này, tức là giải thoát môn “Xuất sanh quảng đại hỉ trang nghiêm.” Ngài kể, lúc đó có vị vua thấy dân chúng khổ quá, nên ngài mở đại hội phát chẩn.

KINH:… Nhà vua thấy những người đến cầu xin liền sanh lòng bi mẫn, lòng hoan hỉ, lòng tôn trọng, lòng thiện hữu, lòng quảng đại, lòng tương tục, lòng tin tấn, lòng bất thối, lòng thí xả, lòng châu biến. Lòng hoan hỉ giây lát của nhà vua khi thấy những người đến xin còn hơn sự khoái lạc trong trăm ngàn ức na do tha kiếp của Đao Lợi Thiên vương,… nhẫn đến hơn cả sự vui tịch tịnh trong bất khả thuyết kiếp của Tịnh Cư Thiên vương…., này thiện nam tử, nhà vua ấy nhờ thiện tri thức nên được tăng trưởng tri giải và chí nguyện nơi Phật Bồ Đề, các căn thành tựu, tín tâm thanh tịnh, hoan hỉ viên mãn…

GIẢNG: Nhà vua mở hội bố thí phát chẩn cho người nghèo, khi thấy dân chúng lễ mễ nhận những sự vật bố thí, vua khởi tâm vui mừng, sanh tâm bi mẫn, sanh lòng hoan hỉ, lòng tôn trọng. Vì sao lại sanh lòng tôn trọng? Vì họ chính là những vị “thiện tri thức” của mình, họ có tới xin thì mới bố thí được, lúc đầu kọ xin của cải, sau họ xin cả đầu, mắt, tay, chân, não tủy v.v… ngài cũng rất hoan hỉ để bố thí, làm được những hạnh ấy đạo quả mới thành tựu được. Trong khi bố thí của cải, đầu, mắt tay, chân v.v… như thế thì lòng hỉ của ngài, còn vui xướng hơn trăm ngàn ức na do tha kiếp sống làm Đao Lợi Thiên vương. Hoặc như một vị thái tử đút đầu vào miệng hổ đói để cho nó nhai thịt mình, thì cái tâm của các ngài đầy những hoan hỉ, vui sướng như người nhập đệ tam thiền vậy. Tại sao thế? Thứ nhất, các ngài đã vào được định, thần thức rút khỏi sắc thân nên không còn cảm thây đau nữa. Thứ hai, sự hoan hỉ trong việc bố thí, vứt thân mình để đi cứu người khác đưa các ngài đến một bình diện tâm thức an lạc ghê gớm, hơn chư thiên rất nhiều. Như Việt nam chúng ta có vị Thích Quảng Đức tự thiêu, nếu ngài là bực cao, thì ngài không cảm thấy đau đớn mà còn thấy hoan hỉ là đằng khác.

Đạo Phật dạy chúng ta những điều chưa từng có, nên những người không nghĩ sâu, không có lòng tin thì không sao có thể đi trên con đường bồ tát được.




38.- DẠ THẦN ĐẠI NGUYỆN TINH TẤN LỰC CỨU HỘ NHỨT THIẾT CHÚNG SANH

 

Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết

MÔN GIẢI THOÁT GIÁO HÓA CHÚNG SANH KHIẾN SANH THIỆN CĂN” nầy.

 

 

Thiện-Tài đến chỗ DẠ THẦN ĐẠI NGUYỆN TINH TẤN LỰC CỨU HỘ NHỨT THIẾT CHÚNG SANH. Thấy Dạ-Thần nầy ở trong đại-chúng ngồi tòa sư-tử Phổ-Hiện-Nhứt-Thiết-Cung-Điện-Ma-Ni-Vương-Tạng. Lưới ma-ni-bửu che phía trên.

Dạ-Thần nầy hiện thân nhựt nguyệt tinh tú ảnh tượng. Hiện thân

tùy tâm chúng-sanh khiến tất cả đều thấy. Hiện thân đồng hình tướng

của tất cả chúng-sanh. Hiện thân sắc-tướng-hải rộng lớn vô-biên. Hiện thân khắp tất cả oai nghi. Hiện thân thị-hiện khắp mười phương. Hiện thân đều phục khắp tất cả chúng-sanh. Hiện thân vận thần-thông

quảng đại nhanh chóng. Hiện thân lợi ích chúng sanh chẳng dứt. Hiện thân thường đi trên hư-không để làm lợi ích. Hiện thân đảnh lễ tại chỗ tất cả Phật. Hiện thân tu tập tất cả thiện-căn. Hiện thân thọ-trì phật-pháp chẳng quên. Hiện thân thành mãn đại-nguyện bồ-tát. Hiện thân quang-minh sung mãn mười phương. Hiện thân pháp-đăng khắp dứt tối tăm thế-gian. Hiện thân tịnh-trí biết pháp như huyễn. Hiện thân pháp-tánh xa lìa trần nhiễm. Hiện thân phổ-trí chiếu pháp rõ ràng. Hiện thân rốt ráo không khổ không nóng. Hiện thân kiên-cố chẳng bị ngăn trở phá hoại. Hiện thân phật-lực vô-sở-trụ. Hiện thân vô-phân-biệt ly nhiễm. Hiện thân pháp-tánh bổn thanh-tịnh.

Thiện-Tài thấy phật-sát vi-trần-số thân sai-biệt như vậy, liền nhất tâm đảnh lễ mọp đầu giây lâu mới đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng, nơi thiện-tri-thức phát khởi mười tâm.

Một là nơi thiện-tri-thức sanh tâm đồng với mình, vì làm cho mình siêng năng làm xong pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí.

Hai là nơi thiện-tri-thức sanh tâm thanh-tịnh tự nghiệp quả, vì thân cận cúng-dường sanh thiện căn.

Ba là nơi thiện-tri-thức sanh tâm trang-nghiêm bồ-tát-hạnh, vì khiến tôi có thể mau trang-nghiêm tất cả bồ-tát-hạnh.

Bốn là nơi thiện-tri-thức sanh tâm thành-tựu tất cả phật-pháp, vì dạy dỗ tôi tu hành đạo hạnh.

Năm là nơi thiện-tri-thức sanh tâm năng sanh, vì có thể sanh pháp vô-thượng cho tôi.

Sáu là nơi thiện-tri-thức sanh tâm xuất ly, vì khiến tôi tu hành những hạnh nguyện của Phổ-Hiền Bồ-Tát mà xuất ly.

Bảy là nơi thiện-tri-thức sanh tâm tròn đủ tất cả phước trí, vì khiến tôi chứa nhóm những pháp lành.

Tám là nơi thiện-tri-thức sanh tâm tăng trưởng, vì khiến tôi tăng trưởng nhất-thiết-trí.

Chín là nơi thiện-tri-thức sanh tâm đầy đủ tất cả thiện-căn, vì khiến tôi được viên mãn chí nguyện.

Mười là nơi thiện-tri-thức sanh tâm thành xong lợi ích lớn, vì khiến tôi tự-tại an trụ tất cả bồ-tát pháp, được thành đạo nhất-thiết-trí, được thành tất cả phật pháp.

Thiện-Tài phát mười tâm nầy rồi, thời được phật-sát vi-trần-số đồng hạnh với Dạ-Thần cùng chư Bồ-Tát. Những là :

Đồng niệm, vì tâm thường ghi nhớ thập phương tam thế tất cả chư Phật.

Đồng huệ, vì phân-biệt quyết rõ tất cả pháp-hải sai-biệt-môn.

Đồng xu hướng, vì có thể chuyển tất cả diệu-pháp-luân của chư Phật Như-Lai.

Đồng giác ngộ, vì dùng trí khắp hư-không vào khắp tất cả ba thế-gian.

Đồng căn, vì thành-tựu bồ-tát thanh-tịnh quang-minh trí-huệ-căn.

Đồng tâm, vì khéo tu tập được công-đức vô-ngại trang-nghiêm tất cả bồ-tát-đạo.

Đồng cảnh, vì chiếu khắp cảnh sở hành của chư Phật.

Đồng chứng, vì được nhất-thiết-trí chiếu thiệt-tướng-hải tịnh-quang-minh.

Đồng nghĩa, vì có thể dùng trí-huệ biết tánh chân thiệt của tất cả pháp.

Đồng dũng-mãnh, vì có thể phá hoại tất cả núi chướng-ngại.

Đồng sắc-thân, vì tùy chúng-sanh tâm mà hiện thân.

Đồng lực, vì cầu nhất-thiết-trí chẳng thối-chuyển.

Đồng vô-úy, vì tâm thanh-tịnh như hư-không.

Đồng tinh-tấn, vì trong vô-lượng kiếp thật hành bồ-tát-hạnh không mỏi lười.

Đồng biện-tài, vì được pháp vô-ngại trí quang-minh.

Đồng vô-đẳng, vì thân-tướng thanh-tịnh siêu thế-gian.

Đồng ái-ngữ, vì làm cho tất cả chúng-sanh đều hoan-hỉ.

Đồng diệu-âm, vì diễn nói khắp tất cả pháp-môn.

Đồng mãn-âm, vì tất cả chúng-sanh tùy theo loài mà đều hiểu.

Đồng tịnh-đức, vì tu tập công-đức thanh-tịnh của Như-Lai.

Đồng trí-địa, vì lãnh thọ pháp-luân nơi tất cả Phật.

Đồng phạm-hạnh, vì an-trụ cảnh-giới của tất cả Phật.

Đồng đại-từ, vì niệm niệm che khắp tất cả quốc-độ chúng-sanh hải.

Đồng đại-bi, vì khắp mưa pháp-vũ thấm nhuần tất cả chúng-sanh.

Đồng thân nghiệp, vì dùng phương-tiện hạnh giáo-hóa tất cả chúng-sanh.

Đồng ngữ-nghiệp, vì dùng tùy loại âm diễn nói tất cả pháp-môn.

Đồng ý-nghiệp, vì nhiếp khắp chúng-sanh để trong cảnh-giới nhất-thiết-trí.

Đồng trang-nghiêm, vì nghiêm-tịnh tất cả cõi Phật.

Đồng thân-cận, vì có Phật xuất-thế đều gần-gũi.

Đồng khuyến thỉnh, vì thỉnh tất cả phật chuyển pháp-luân.

Đồng cúng-dường, vì thường thích cúng-dường tất cả Phật.

Đồng giáo-hóa, vì điều phục tất cả chúng-sanh.

Đồng quang-minh, vì chiếu rõ tất cả pháp-môn.

Đồng tam-muội, vì biết khắp tất cả tâm chúng-sanh.

Đồng sung mãn cùng khắp, vì dùng sức tự-tại sung mãn tất cả phật-độ tu những công hạnh.

Đồng trụ xứ, vì an trụ đại thần-thông của chư Bồ-Tát.

Đồng quyến-thuộc, vì tất cả Bồ-Tát đồng ở chung.

Đồng nhập xứ, vì vào khắp chỗ vi-tế của thế-giới.

Đồng tâm lự, vì biết khắp tất cả những Phật-sát.

Đồng qua đến, vì vào khắp tất cả phật-sát-hải.

Đồng phương-tiện, vì đều hiện tất cả những phật-sát.

Đồng siêu-thắng, vì nơi những phật-sát đều vô-tỉ.

Đồng bất-thối, vì vào khắp mười phương không chướng-ngại.

Đồng phá ám, vì được tất cả Phật thành bồ-đề trí đại quang-minh.

Đồng vô-sanh-nhẫn, vì nhập tất cả phật chúng-hội-hải.

Đồng cùng khắp, vì cung kính cúng-dường chư Như-Lai trong bất-khả-thuyết cõi khắp tất cả những phật-sát-võng.

Đồng trí chứng, vì biết rõ những pháp-môn-hải.

Đồng tu hành, vì thuận hành tất cả những pháp-môn.

Đồng mong cầu, vì nơi pháp thanh-tịnh rất thích muốn.

Đồng thanh-tịnh, vì họp phật-công-đức mà trang nghiêm thân khẩu ý.

Đồng diệu-ý, vì trí biết rõ tất cả pháp.

Đồng tinh-tấn, khắp vì nhóm tất cả thiện-căn.

Đồng tịnh-hạnh, vì thành mãn tất cả bồ-tát-hạnh.

Đồng vô-ngại, vì rõ biết tất cả pháp đều vô-tướng.

Đồng thiện-xảo, vì trí tự-tại trong tất cả pháp.

Đồng tùy-lạc, vì tâm chúng-sanh mà hiện cảnh-giới.

Đồng phương-tiện, vì khéo tu tập tất cả điều nên tập.

Đồng hộ-niệm, vì được tất cả Phật hộ-niệm.

Đồng nhập-địa, vì được vào tất cả bồ-tát-địa.

Đồng sở-trụ, vì an-trụ tất cả bồ-tát-vị.

Đồng ký-biệt, vì tất cả chư Phật thọ ký cho.

Đồng tam-muội, vì trong một sát-na vào khắp tất cả môn tam-muội.

Đồng kiến-lập, vì thị-hiện những phật-sự.

Đồng chánh-niệm, vì chánh-niệm tất cả cảnh giới-môn.

Đồng tu hành, vì tận vị-lai kiếp tu hành bồ-tát-hạnh.

Đồng tịnh-tín, vì rất mến thích vô-lượng trí-huệ của đức Như-Lai.

Đồng xả-ly, vì diệt trừ tất cả những chướng-ngại.

Đồng trí bất-thối, vì trí-huệ đồng với chư Như-Lai.

Đồng thọ-sanh, vì ứng hiện thành thục các chúng-sanh.

Đồng chỗ an trụ, vì an trụ môn phương-tiện nhứt thiết-trí.

Đồng cảnh-giới, vì nơi pháp-giới cảnh được tự-tại.

Đồng vô-y, vì dứt hẳn tâm sở-y.

Đồng thuyết pháp, vì đã nhập trí bình-đẳng của các pháp.

Đồng siêng tu, thường được chư Phật hộ niệm.

Đồng thần-thông, vì khai ngộ chúng-sanh khiến tu tất cả bồ-tát-hạnh.

Đồng thần-lực, vì có thể nhập thập phương thế-giới-hải.

Đồng đà-la-ni, vì chiếu khắp tất cả tổng-trì-hải.

Đồng pháp bí-mật, vì biết rõ diệu-pháp-môn trong tất cả tu-đa-la.

Đồng pháp thậm thâm, vì hiểu tất cả pháp như hư-không.

Đồng quang-minh, vì chiếu khắp tất cả thế-giới.

Đồng ưa thích, vì tùy tâm chúng-sanh mà khai-thị khiến họ hoan-hỉ.

Đồng chấn động, vì các chúng-sanh hiện thần-thông-lực động khắp tất cả cõi mười phương.

Đồng chẳng luống uổng, vì thấy nghe nghĩ nhớ đều làm cho tâm được điều phục.

Đồng xuất ly, vì đầy đủ tất cả những đại-nguyện-hải, thành tựu mười trí-lực của Như-Lai.

 

Thiện-Tài đồng-tử quán-sát Chủ-Dạ-Thần Đại-Nguyện-Tinh-Tấn-Lực-Cứu-Hộ-Nhất-Thiết-Chúng-Sanh, Phát khởi mười tâm thanh-tịnh, được phật-sát vi-trần-số đồng bồ-tát-hạnh như vậy, tâm càng thanh-tịnh hơn, trịch vai áo phía hữu, đảnh lễ chắp tay nói kệ rằng :

 

Tôi phát ý kiên-cố

Chí cầu vô-thượng-giác

Nay nơi thiện-tri-thức

Khởi tâm là chính mình.

Bởi thấy thiện-tri-thức

Họp vô-tận pháp lành

Diệt trừ những tội nhơ

Thành tựu quả bồ-đề.

Tôi thấy thiện-tri-thức

Tâm công-đức trang-nghiêm

Tận trần kiếp vị-lai

Siêng tu đạo bồ-tát.

Tôi nhớ thiện-tri-thức

Nhiếp thọ lợi ích tôi

Vì tôi mà thị hiện

Giáo-pháp chánh chơn thiệt.

Đóng bít các ác-thú

Mở bày đường nhơn thiên

Cũng chỉ đường đại-trí

Của chư Phật đã thành.

Tôi nghĩ thiện-tri-thức

Là phật-công-đức-tạng

Niệm niệm hay xuất sanh

Biển hư-không công-đức.

Cho tôi ba-la-mật

Thêm tôi phước vô-tận

Lớn tôi tịnh công-đức

Khiến tôi đội mão phật.

Tôi nghĩ thiện-tri-thức

Hay mãn đạo phật-trí,

Thệ nguyện thường y-chỉ

Viện-mãn pháp bạch tịnh.

Tôi do những sự nầy

Công-đức điều đầy đủ

Vì khắp các chúng-sanh

Nói đạo nhất-thiết-trí.

Đức Thánh là thầy tôi

Cho tôi pháp vô-thượng

Vô-lượng vô-số kiếp

Chẳng báo được ơn ngài.

 

Nói kệ xong, Thiện-Tài thưa rằng :

Bạch Đại-Thánh ! Xin vì tôi mà nói môn giải-thoát nầy tên là gì ? Ngài phát tâm đã được bao lâu ? Chừng nào ngài sẽ chứng vô-thượng bồ-đề ?

Dạ-Thần nói :

Nầy thiện-nam-tử ! Môn giải-thoát nầy gọi là giáo-hóa chúng sanh khiến sanh thiện-căn.

Vì ta thành-tựu môn giải-thoát nầy nên ngộ tất cả pháp tự-tánh bình-đẳng, vào nơi tánh chơn-thiệt của các pháp, chứng pháp vô-y, bỏ rời thế-gian, đều biết các pháp sắc tướng sai biệt, cũng có thể thấu rõ tánh của xanh vàng đỏ trắng đều chẳng thiệt. Vẫn vô sai-biệt mà hằng thị-hiện vô-lượng sắc thân những là :

Nhiều loại sắc-thân, chẳng phải một sắc-thân, vô-biên sắc-thân, sắc-thân, thanh-tịnh, sắc-thân tất cả trang-nghiêm, sắc-thân thấy khắp, sắc-thân đồng tất cả chúng-sanh, sắc-thân hiện trước khắp tất cả chúng-sanh, sắc-thân quang-minh chiếu khắp, sắc-thân thấy không nhàm, sắc-thân tướng hảo thanh-tịnh, sắc-thân chói sáng rời lìa những ác tướng, sắc-thân thị-hiện đại dũng-mãnh, sắc-thân rất khó được, sắc-thân tất cả thế-gian không che chướng được, sắc-thân tất cả thế-gain đồng tán dương vô-tận, sắc-thân niệm-niệm thường quán sát, sắc-thân thị-hiện các thứ mây, sắc-thân nhiều loài hình mạo và hiển sắc, sắc-thân hiện vô-lượng sức tự-tại, sắc-thân diệu-quang-minh, sắc-thân tất cả tịnh diệu trang-nghiêm, sắc-thân tùy thuận thành thục tất cả chúng-sanh, sắc-thân tùy tâm mình thích hiện-tiền điều-phục, sắc-thân không chướng-ngại khắp chói sáng, sắc-thân thanh-không trược-uế, sắc-thân đầy đủ trang-nghiêm không hư-hoại, sắc-thân quang minh bất-tư-nghì pháp phương-tiện, tất cả sắc-thân không gì chói khuất được, sắc-thân không tối phá được tất cả tối, sắc-thân họp tất cả pháp bạch-tịnh, sắc-thân biển công-đức đại thế-lực, sắc-thân do nhơn-hạnh cung-kính thuở quá-khứ mà sanh, sắc-thân do tâm thanh-tịnh như hư-không sanh ra, sắc-thân tối-thắng quảng-đại, sắc-thân vô-đoạn vô tận, sắc-thân biển quang-minh, sắc-thân nơi tất cả thế-gian đều bình-đẳng không y-tựa, sắc-thân khắp mười phương vô-ngại, sắc-thân niệm niệm hiện những sắc-tướng-hải, sắc-thân tăng-trưởng tâm hoan-hỉ của tất cả chúng-sanh, sắc-thân nhiếp thú chúng-sanh-hải, sắc-thân nơi mỗi lỗ lông diễn nói công-đức-hải của tất cả Phật, sắc-thân làm thanh-tịnh dục-giải-hải của tất cả chúng-sanh, sắc-thân quyết rõ tất cả pháp-nghĩa, sắc-thân không chướng-ngại khắp soi sáng, sắc-thân thanh-tịnh sáng suốt khắp hư-không, sắc-thân phóng tịnh quang-minh quảng đại, sắc-thân chiếu hiện pháp vô-cấu, sắc-thân vô-tỉ, sắc-thân sai-biệt trang-nghiêm, sắc-thân chiếu khắp mười phương, sắc-thân tùy thời thị-hiện ứng chúng-sanh, sắc-thân tịch-tịnh, sắc-thân diệt tất cả phiền-não, sắc-thân phước-điền của tất cả chúng-sanh, sắc-thân tất cả chúng-sanh thấy chẳng luống uổng, sắc-thân sức trí-huệ dũng-mãnh, cùng khắp vô-ngại, sắc-thân diệu-vân hiện khắp thế-gian đều nhờ lợi ích, sắc-thân đầy đủ biển đại-từ, sắc-thân đại-phước-đức bửu-sơn-vương, sắc-thân phóng quang-minh chiếu khắp tất cả loài ở thế-gian, sắc-thân đại-trí-huệ thanh-tịnh, sắc-thân sanh chánh-niệm cho chúng-sanh, sắc-thân tất cả bửu-quang-minh, sắc-thân tạng sáng khắp, sắc-thân hiện những tướng thanh-tịnh thế-gian, sắc-thân cầu nhất-thiết-trí, sắc-thân hiện vi-tiếu khiến chúng-sanh phát khởi lòng tin thanh-tịnh, sắc-thân quang-minh tất cả bửu-trang-nghiêm, sắc-thân chẳng lấy chẳng bỏ tất cả chúng-sanh, sắc-thân không quyết định không rốt ráo, sắc-thân hiện sức gia-trì tự-tại, sắc-thân hiện tất cả thần-thông biến-hóa, sắc-thân sanh nhà Như-Lai, sắc-thân xa lìa những ác khắp pháp-giới hải, sắc-thân hiện khắp trong đạo-tràng chúng-hội của tất cả Như-Lai, sắc-thân đủ những sắc-hải, sắc-thân từ thiện-hạnh lưu xuất, sắc-thân tùy chỗ đáng hóa độ mà thị-hiện, sắc-thân tất cả thế-gian nhìn xem không chán, sắc-thân những tịnh quang-minh, sắc-thân hiện tất cả tam-thế-hải, sắc-thân phóng tất cả quang-minh-hải, sắc-thân hiện vô-lượng sai-biệt quang-minh-hải, sắc-thân siêu thế-gian tất cả hương quang-minh, sắc-thân hiện bất-khả-thuyết nhựt-luân-vân, sắc-thân hiện quảng-đại nguyệt-luân-vân, sắc-thân phóng vô-lượng tu-di-sơn diệu-hoa-vân, sắc-thân xuất sanh những mây tràng-hoa, sắc-thân hiện tất cả bửu-liên-hoa-vân, sắc-thân nổi tất cả mây hương đốt khắp pháp-giới, sắc-thân rải mây tạng hương bột, sắc-thân hiện thân đại-nguyện của tất cả Như-Lai, sắc-thân hiện tất cả ngữ ngôn âm thanh diển pháp-hải, sắc-thân hiện tượng Phổ-Hiền Bồ-Tát.

Trong mỗi niệm hiện những sắc-tướng-thân như vậy sung mãn mười phương, khiến các chúng-sanh hoặc thấy, hoặc nhớ, hoặc nghe thuyết pháp, hoặc nhơn thân-cận, hoặc được khai ngộ, hoặc thấy thần-thông, hoặc thấy biến-hóa, đều tùy tâm sở thích liền được điều phục bỏ nghiệp bất-thiện, an trụ nơi thiện-hạnh.

Nầy thiện-nam-tử ! Phật biết đây là do sức đại-nguyện, do sức nhất thiết-trí, do sức bồ-tát giải-thoát, do sức đại-bi, do sức đại-từ, mà làm những sự như vậy.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta nhập môn giải-thoát nầy biết rõ pháp-tánh không sai-khác mà có thể thị-hiện vô-lượng sắc-thân. Mỗi thân thị-hiện vô lượng sắc-tướng-hải. Mỗi tướng phóng vô-lượng quang-minh-vân. Mỗi quang-minh hiện vô-lượng phật-độ. Mỗi cõi hiện vô-lượng Phật xuất thế. Mỗi Phật hiện vô-lượng thần thông-lực khai phát thiện-căn đời trước của chúng-sanh. Kẻ chưa gieo thời khiến họ gieo. Kẻ đã gieo thời làm cho tăng trưởng. Đã tăng trưởng thời làm cho thành-thục. Trong mỗi niệm làm cho vô-lượng chúng-sanh chẳng thối chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.

Nầy thiện-nam-tử ! Như ngươi hỏi ta phát tâm bồ-đề tu bồ-tát-hạnh đã bao lâu ?

Ta thừa thần-lực của Phật sẽ vì ngươi mà nói những nghĩa ấy.

Nầy thiện-nam-tử ! Bồ-Tát trí-luân xa rời tất cả cảnh-giới sai-biệt. Chẳng nên đem những kiếp dài ngắn rộng hẹp nhiễm tịnh nhiều ít trong sanh tử để phân-biệt hiển bày.

Tại sao vậy ?

Vì trí-luân của Bồ-Tát bổn-tánh thanh-tịnh, rời tất cả lưới phân-biệt, siêu tất cả núi chướng ngại. Tùy chỗ nên hóa độ mà chiếu khắp.

Nầy thiện-nam-tử ! Ví như mặt nhựt không có ngày đêm, chỉ có lúc mọc gọi là ngày, lúc lặn gọi là đêm.

Cũng vậy, trí-luân của Bồ-Tát không có phân-biệt, cũng không tam thế, chỉ tùy tâm hiện giáo-hóa chúng-sanh, mà nói Bồ-Tát ở kiếp trước kiếp sau.

Nầy thiện-nam-tử ! Ví như mặt nhựt ở không-trung, bóng nó hiện trong tất cả bửu-vật và trong nước trong lặng của ao hồ sông biển. Chúng-sanh đều thấy bóng mặt nhật. Nhưng mặt nhật chẳng đến các chỗ ấy.

Trí-luân của Bồ-Tát cũng vậy, ra khỏi biển hữu-lậu, an-trụ nơi không trung, phật-thiệt-pháp tịch-tịnh không có sở-y. Vì muốn hóa-độ chúng-sanh nên tùy loại thọ sanh trong các loài, mà thiệt ra thời không sanh-tử, không nhiễm trước, không kiếp dài vắn, không tưởng phân biệt.

Tại sao vậy ?

Vì Bồ-Tát rốt ráo rời tâm tưởng kiến chấp tất cả điên-đảo, được chân thiệt-kiến thấy pháp thiệt-tánh, biết tất cả thế-gian như mộng như huyễn, không có chúng-sanh, chỉ do sức đại-bi đại nguyện mà hiện ra trước chúng-sanh để giáo-hóa điều-phục họ.

Nầy thiện-nam-tử ! Vì như nhà lái thuyền thường dùng thuyền lớn ở trong sông, chẳng đậu bờ bên nầy, chẳng ghé bờ bên kia, chẳng dừng ở giữa dòng, nên có thể đưa mọi người không thôi nghỉ.

Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng thuyền ba-la-mật ở trong biển sanh tử, chẳng tấp bờ bên nầy, chẳng ghé bờ bên kia chẳng dừng ở giữa dòng nên độ được chúng-sanh không thôi dứt. Dầu tu bồ-tát hạnh vô-lượng kiếp, nhưng chưa từng phân biệt kiếp số dài vắn.

Nầy thiện-nam-tử ! Như thái-hư-không, tất cả thế-giới thành hoại trong đó, mà hư-không vẫn chẳng phân biệt, bổn tánh thanh-tịnh không nhiễm không loạn, không ngại không nhàm, chẳng dài chẳng vắn, tận vị-lai kiếp giữ-gìn tất cả cõi.

Đại Bồ-Tát cũng vậy, dùng thâm tâm rộng lớn khắp cõi hư-không khởi gió đại nguyện nhiếp các chúng-sanh khiến lìa ác-đạo sanh các đường lành, đều khiến an-trụ bực nhất-thiết-trí, diệt những dây phiền-não sanh tử khổ não, mà không có lòng lo mừng mỏi nhàm.

Nầy thiện-nam-tử ! Như người huyễn hóa, dầu chi tiết thân thể đầy đủ mà không có mười sự : thở ra, hít vào, lạnh, nóng, đói, khát, lo, mừng, sanh, tử.

Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng như-huyễn-trí bình-đẳng pháp-thân hiện các sắc-tướng, nơi các loài trụ vô-lượng kiếp giáo-hóa chúng-sanh ở trong sanh tử, nơi tất cả cảnh-giới, không ưa, không nhàm, không thương, không giận, không khổ, không vui, không lấy, không bỏ, không an, không sợ.

Nầy thiện-nam-tử ! Trí-huệ của Bồ-Tát dầu lại như vậy mà rất sâu khó lường, ta sẽ thừa sức oai-thần của đức Phật mà nói cho ngươi, cũng làm cho chư Bồ-Tát vị-lai viên-mãn đại-nguyện thành-tựu trí-lực.

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa, quá thế-giới vi-trần số kiếp, có kiếp tên là Thiện-Quang, thế-giới tên là Bửu-Quang. Trong kiếp đó có một vạn đức Phật xuất thế :

Đức Phật tối-sơ hiệu là Pháp-Luân-Ấm-Hư-Không-Đăng-Vương Như-Lai.

Nơi Diêm-Phù-Đề có Vương-Đô tên là Bửu-Trang-Nghiêm. Phía đông Đô-Thành, cách không xa, có một khu rừng lớn tên là Diệu-Quang, trong rừng có đạo-tràng tên là Bửu-Hoa. Trong đạo-tràng có tòa sư-tử Phổ-Quang-Minh-Ma-Ni-Liên-Hoa-Tạng.

Đức Pháp-Luân-Ấm Như-Lai thành Đẳng-Chánh-Giác trên tòa sư-tử nầy. Phật ngồi nơi đạo-tràng mãn một trăm năm, vì chư Bồ-Tát và hàng nhơn thiên cùng những kẻ đã thành-thục thiện-căn ở Diêm-Phù-Đề mà diển nói chánh-pháp.

Quốc-Vương tên là Thắng-Quang. Thuở ấy nhơn-dân thọ một vạn tuổi, trong đó phần đông phạm nghiệp ác : sát sanh, trộm cướp, dâm-dật, nói-dối, nói thô, hai lưởi, thêu dệt, tham-lam, giận thù, tà-kiến, bất hiếu, bất kính.

Nhà vua vì muốn sửa trị họ nên thiết lập nhà ngục, giam nhốt vô-lượng người phạm tội hành hạ khổ sở.

Thái-Tử tên là Thiện-Phục, đoan chánh đẹp lạ đủ hai mươi tám tướng đại-nhơn.

Thái-Tử ở trong cung vẳng nghe tiếng kêu khóc ở chốn ngục tù, động lòng trắc ẩn, liền vào nhà ngục, thấy tù nhơn bị gông xiềng tối tăm, có kẻ bị đốt, có kẻ bị xông khói, có kẻ bị đánh, có kẻ bị thẻo lóc, tóc rối mình trần, đói khát ốm gầy, rên-rỉ khóc la.

Quá xót thương, Thái-Tử an-ủi tội-nhơn : các ngươi chớ lo sầu kinh sợ. Ta sẽ cứu thoát các ngươi.

Thái-Tử liền đến tâu Phụ-Vương xin tha tội nhơn.

Nhà Vua hội các quan lại để hỏi ý.

Các quan luận rằng tội-nhơn là những kẻ gian ác cướp trộm của công, mưu toan cướp ngôi lén vào cung cấm, tội đáng hành hình. Có ai thương cứu cũng bị tử-hình.

Thái-Tử buồn thương bảo các quan rằng : xin thả những người ấy, tôi đành chịu tội, dầu nát thân mất mạng tôi cũng cam, miễn tội-nhơn được thoát khổ.

Tại sao vậy ?

Vì nếu tôi không cứu được những tội nhơn nầy thời làm sao cứu được chúng-sanh trong nhà ngục tam giới.

Tất cả chúng-sanh trong ba cõi bị tham ái buộc ràng, nghèo thiếu công đức, ngu-si che đậy, đọa trong ác-đạo, thân hình xấu-xí, thân căn phóng dật, tâm họ mê loạn chẳng cầu đạo xuất-ly, mất ánh sáng trí-huệ, ưa mến ba cõi, dứt các phước đức, diệt những trí-huệ, phiền-não làm tâm họ nhơ đục, ở trong ngục khổ, vào rọ của ma. Thường bị những khổ sanh lão bịnh tử ưu-bi não hại bức bách mãi.

Tôi phải làm thế nào cho họ được giải-thoát ? Tôi phải xả thân mạng để cứu họ.

Lúc đó các quan đồng đến chỗ Vua giơ tay nói lớn rằng : Đại-Vương nên biết, như ý của Thái-Tử là hủy-hoại vương-pháp, họa đến nhơn-dân. Nếu Đại-Vương không trị tội Thái-Tử thời ngôi báu của Đại-Vương tất khó được bền lâu.

Vua nghe các quan tâu liền nổi giận truyền giết Thái-Tử và các tội-nhơn.

Vương-Hậu hay tin kinh hãi gào khóc, cùng ngàn thể-nữ chạy đến chỗ vua mọp lạy cầu vua tha tội Thái-Tử.

Vua ngó Thái-Tử mà bảo rằng : ngươi chớ cứu tội-nhơn, nếu cứu họ ta sẽ giết ngươi.

Thái-Tử vì muốn chuyên cầu nhất-thiết-trí, vì muốn lợi ích chúng-sanh, vì lòng đại-bi phổ cứu, nên trong lòng vững chắc không khiếp sợ, lại tâu rằng : xin thả tội-nhơn, con đành chịu chết.

Vua bảo tùy ý.

Vương-Hậu tâu xin cho Thái-Tử tùy ý bố-thí nửa tháng để tu phước, sau đó sẽ trị tội.

Vua liền phê chuẩn.

Phía bắc Đô-Thành có khu vườn lớn tên là Nhựt-Quang, là hội-trường bố-thí thuở xưa. Thái-Tử đến đó lập đại-thí-hội. Tất cả những đồ uống ăn, y-phục, thuốc men, hoa hương, phan cái, vàng bạc châu ngọc đều cung cấp cho người cầu xin.

Đến ngày thứ mười lăm, Vua cùng các quan, trưởng-giả, cư-sĩ, nhân-dân và các nhà ngoại-đạo đều hội họp.

Bấy giờ đức Pháp-Luân-Ấm-Hư-Không-Đăng-Vương Như-Lai biết chúng-sanh đã đến lúc được điều-phục nên cùng đại-chúng câu hội: Thiên-Vương hầu hạ, Long-Vương cúng-dường, Dạ-Xoa-Vương thủ hộ, Càn-Thát-Bà-Vương ca-ngợi, A-Tu-La Vương cúi mình đảnh lễ, Ca-Lâu La-Vương lòng thanh-tịnh rải hoa báu, Khẩn Na-La-Vương hoan-hỉ khuyến thỉnh, Ma-Hầu-La-Già Vương nhất tâm chiêm ngưỡng, đồng đến hội-trường bố-trí.

Thái-Tử và đại-chúng thấy đức Phật sắp đến. Thân Phật đoan-nghiêm thù đặc, các căn tịch tịnh, tâm không nhơ đục như ao nước sạch trong, hiện đại thần-thông tự-tại, hiển đại oai-đức, những tướng hảo trang-nghiêm, phóng đại quang-minh chiếu khắp thế-giới, tất cả lỗ lông phát ra mây sáng thơm, chấn động vô-lượng phật-độ mười phương, chỗ nào phật đến đều mưa những đồ trang-nghiêm. Do oai-nghi và công-đức nên chúng-sanh nào thấy Phật thời tâm thanh-tịnh hoan-hỉ phiền-não tiêu-diệt.

Thái-Tử và đại-chúng đảnh lễ chân đức Phật, dọn tòa cao đẹp, chắp tay bạch Phật:

Thiện-lai đấng Thế-Tôn ! Thiện-lai đấng Thiện Thệ ! Xin đức Như-Lai từ mẫn nhiếp thọ chúng-tôi mà ngự trên tòa nầy.

Do thần-lực của Phật, nên Tịnh-Cư-Thiên liền biến tòa ấy thành tòa sen hương-ma-ni.

Đức Phật ngồi trên tòa sen ấy. Chư Bồ-Tát cũng ngồi xung quanh Phật.

 

Tất cả mọi người trong hội-trường ấy nhơn thấy đức Như-Lai nên dứt khổ trừ chướng, có thể lãnh thọ thánh-pháp.

Đức Như-Lai biết họ đáng được hóa độ, bèn dùng âm thanh viên-mãn nói khế-kinh tên là Phổ-Chiếu-Nhơn-Luân, khiến các chúng-sanh tùy theo loài mà nhận hiểu.

Lúc đó có tám mươi na-do-tha chúng-sanh xa trần lìa cấu được pháp-nhãn thanh-tịnh. Vô-lượng na-do-tha chúng-sanh được bậc vô-học. Mười ngàn chúng-sanh trụ đạo đại-thừa nhập phổ-hiền-hạnh, thành-mãn đại-nguyện.

Đồng thời mỗi phương trong mười phương đều có trăm phật-sát vi-trần số chúng-sanh ở trong đại-thừa tâm được điều-phục.

Tất cả chúng-sanh trong vô-lượng thế-giới thoát khỏi ác-đạo sanh lên trời, cõi người.

Thái-Tử Thiện-Phục liền được môn giải thoát Bồ-Tát giáo-hóa chúng-sanh khiến sanh thiện-căn.

Nầy thiện-nam-tử ! Thái-Tử Thiện Phục xưa kia chính là thân ta.

Vì thuở xưa ta phát tâm đại-bi bỏ thân mạng của cải cứu khổ chúng-sanh mở cửa đại-thí, cúng-dường đức phật, nên được môn giải-thoát nầy.

Nầy thiện-nam-tử ! Nên biết rằng thuở ấy ta chỉ vì lợi ích tất cả chúng-sanh, chẳng luyến tam-giới, chẳng cầu quả báo, chẳng tham danh tiếng, chẳng muốn tự khen mà kinh hủy người khác. Nơi các cảnh-giới không chút tham nhiểm không hề e sợ. Chỉ trang-nghiêm đạo đại-thừa xuất yếu. Thường thích quán-sát môn nhất thiết-trí, tu hành khổ-hạnh, nên được môn giải-thoát nầy.

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa năm trăm quan đại-thần muốn hại Thái-Tử Thiện-Phục, nay là năm trăm đồ đảng của Đề-Bà-Đạt-Đa. Những người nầy nhờ đức Phật giáo-hóa, sẽ được thành Phật. Đời vị-lai quá tu-di-sơn vi-trần số kiếp, có kiếp tên là Thiện-Quang thế-giới tên là Bửu-Quang, năm trăm người nầy sẽ thứ đệ thành Phật trong đó. Đức Phật tối-sơ hiệu là Đại-Bi, thứ hai hiệu là Nhiêu-Ích-Thế-gian, thứ ba hiệu là Đại-Bi-Sư-Tử, thứ tư hiệu là Cứu-Hộ-Chúng-Sanh, đức Phật tối-hậu hiệu là Y-Vương.

Dầu năm trăm đức Phật vị-lai ấy đại-bi bình-đẳng, nhưng quốc-độ, chủng-tộc, cha mẹ, thọ sanh, đản sanh, xuất gia học đạo, đến đạo-tràng, chuyển pháp-luân, nói kinh, ngữ ngôn âm thanh, quang-minh, chúng-hội, thọ-mạng, pháp trụ và danh-hiệu của các ngài đều sai khác.

Nầy thiện-nam-tử ! Những người tội được ta cứu thuở xưa ấy, nay là đức Câu-Lưu-Tôn Như-Lai và ngàn đức Phật trong Hiền-Kiếp nầy, cùng trăm vạn a-tăng-kỳ đại Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề nơi chỗ đức Vô-Lượng Tinh-Tấn-Lực Danh-Xưng Công-Đức-Huệ Như-Lai, hiện nay ở thập phương quốc-độ tu tập tăng trưởng bồ-tát-đạo, giáo-hóa chúng-sanh khiến sanh thiện-căn giải-thoát.

Vua Thắng-Quang thuở xưa ấy, nay là đại Luận-Sư Tát-Giá-Ni-Kiền-Tử.

Cung-nhơn và quyến-thuộc thuở xưa ấy, nay là sáu vạn đệ-tử của Tát-Giá Ni-Kiền theo thầy đồng đến luận nghị với đức Phật, bị đức Phật hàng phục và đều được thọ ký sẽ thành Phật đời vị-lai, cõi nước trang-nghiêm, kiếp số, danh hiệu riêng khác.

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa ấy, lúc ta cứu tội-nhơn rồi, cha mẹ cho ta xuất gia học đạo với đức Phật Pháp-Luân-Ấm-Hư-Không-Đăng-Vương Như-Lai. Ta tu tịnh-hạnh trong năm trăm năm liền thành-tựu trăm vạn đà-la-ni, trăm vạn thần-thông, trăm vạn pháp-tạng, trăm vạn cầu nhất-thiết-trí dũng-mãnh tinh-tấn, tịnh trị trăm vạn môn kham nhẫn, tăng trưởng trăm vạn tâm tư-duy, thành-tựu trăm vạn bồ-tát-lực, nhập trăm vạn bồ-tát trí-môn, được trăm vạn bát-nhã ba-la-mật môn, thấy thập phương trăm vạn chư Phật, sanh trăm vạn bồ-tát đại-nguyện, trong mỗi niệm mười phương đều chiếu trăm vạn phật độ, trong mỗi niệm tiền-tế hậu-tế đều nhớ trăm vạn chư Phật, trong mỗi niệm đều biết thập-phương thế-giới trăm vạn chư Phật biến-hóa-hải, trong mỗi niệm thấy thập phương trăm vạn thế-giới có bao nhiêu chúng-sanh, bao nhiêu loài theo nghiệp mà sanh mà tử thiện-đạo ác-đạo sắc tốt sắc xấu, những chúng-sanh ấy có bao nhiêu tâm hành, dục lạc, căn tánh, nghiệp tập, thành tựu đều biết rõ tất cả.

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa ấy, sau khi chết, ta thọ sanh trở lại tại cung vua làm chuyển-Luân-Vương.

Sau khi đức Pháp-Luân-Ấm-Hư Không Đăng-Vương Như-Lai diệt độ, ta gặp đức Pháp-Không-Vương Như-Lai xuất thế, ta kính thờ cúng-dường.

Kế đó ta làm Đế-Thích, cũng trong đạo-tràng ấy, ta gặp Thiên-Vương-Tạng Như-Lai.

Kế đó ta làm Dạ-Ma Thiên-Vương, ở thế-giới ấy ta gặp đức Đại-Địa-Oai-Lực-Sơn Như-Lai.

Kế đó ta làm Đâu-Suất Thiên-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức Pháp-Luân-Quang-Ấm-Thanh-Vương Như-Lai.

Kế đó ta làm Hóa-Lạc-Thiên-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức Hư-Không-Trí-Vương Như-Lai.

Kế đó ta làm Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức Vô-Năng-Hoại-Tràng Như-Lai.

Kế đó ta làm A-Tu-La Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức Nhứt-Thiết-Pháp-Lôi-Ấm-Vương Như-Lai.

Kế đó ta làm Phạm-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức Phổ-Hiền-Hóa-Diễn-Pháp-Ấm Như-Lai.

Nầy thiện-nam-tử ! Trong kiếp Thiện-Quang nơi thế-giới Bửu-Quang ấy, có một vạn đức Như-Lai xuất thế ta đều được gặp và thân cận kính thờ cúng-dường như vậy.

Sau kiếp Thiện-Quang, có kiếp tên là Nhựt-Quang có sáu mươi ức Phật xuất thế. Đức Như-Lai tối-sơ hiệu là Diệu-Tướng-Sơn.

Bấy giờ ta làm Quốc-Vương tên là Đại-Huệ, kính thờ cúng-dường đức Phật ấy.

Kế có đức Phật xuất thế hiệu Viên-Mãn-Kiên. Bấy giờ ta làm Cư-Sĩ thân cận cúng-dường đức Phật ấy.

Kế có đức Phật xuất thế hiệu Ly-Cấu-Đồng-Tử. Bấy giờ ta làm quan-đại-thần thân cận cúng-dường đức Phật ấy.

Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Dũng-Mãnh-Trì. Bấy giờ ta làm A-Tu-La-Vương thân cận cúng-dường Phật.

Kế đó có đức Phật xuất thế hiệu là Tu-Di-Tướng bấy giờ ta làm thọ thần thân cận cúng-dường Phật.

Kế đó có đức Phật xuất thế hiệu là Ly Cấu-Tý. Bấy giờ ta làm chủ thương-gia thân cận cúng-dường Phật.

Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Sư-Tử-Du-Bộ. Bấy giờ ta làm Thành-Thần thân cận cúng-dường Phật.

Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Bửu Kế. Bấy giờ ta làm Tỳ-Sa-Môn Thiên-Vương thân cận cúng-dường Phật.

Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Tối-Thượng-Pháp-Xưng. Bấy giờ ta làm Càn-Thát-Bà Vương thân cận cúng-dường đức Phật.

Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Quang-Minh-Quan. Bấy giờ ta làm Cưu-Bàn-Trà Vương thân cận cúng-dường đức Phật.

Ở trong kiếp Nhựt-Quang đó thứ đệ có sáu mươi ức Như-Lai xuất thế. Thuở ấy ta thường thọ nhiều loại thân, ở chỗ mỗi đức Phật ta đều thân-cận cúng-dường, giáo-hóa thành-tựu vô-lượng chúng-sanh. Ở chỗ mỗi đức Phật ta được vô-lượng môn tam-muội, những môn đà-la-ni, những môn thần-thông, những môn biện-tài, những môn nhất-thiết-trí, những môn pháp minh, những môn trí-huệ, chiếu những thập-phương-hải, nhập những phật-sát-hải thấy chư Phật-hải, thanh-tịnh thành-tựu tăng-trưởng quảng đại.

Như ở trong kiếp Nhật-Quang đó thân-cận cúng-dường bao nhiêu đức Phật như vậy, ở tất cả xứ, tất cả thế-giới-hải vi-trần-số kiếp có bao nhiêu đức Phật xuất thế, ta đều thân cận cúng-dường, nghe pháp hộ trì cũng như vậy cả.

Ở chỗ tất cả Như-Lai như vậy, ta đều tu tập môn giải-thoát nầy, ta lại được vô-lượng phương-tiện giải-thoát.

Bấy giờ Cứu-Hộ-Nhất-Thiết-Chúng-Sanh Chủ-Dạ-Thần muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát nầy, vì Thiện-Tài Đồng-Tử mà nói kệ rằng:

 

Ngươi dùng tâm hoan-hỉ tin ưa

Hỏi pháp giải-thoát khó nghĩ nầy

Ta thừa sức hộ-niệm của Phật.

Vì ngươi tuyên nói, phải nghe nhận.

Quá khứ vô-biên kiếp quảng đại

Quá hơn sát-hải vi-trần-số

Lúc ấy có cõi tên Bửu-Quang

Trong ấy có kiếp tên Thiện-Quang.

Ở trong đại kiếp Thiện-Quang nầy

Một vạn Như-Lai nối xuất thế

Ta đều thân-cận cúng-dường Phật

Theo Phật tu học giải-thoát nầy.

Có Vương-Kinh-Đô tên Hỉ-Nghiêm

Ngang dọc rộng bằng rất tráng lệ.

Chúng-sanh tạp nghiệp ở trong đó

Người tâm thanh-tịnh, kẻ làm ác.

Quốc-Vương trị nước tên Thắng-Quang.

Hằng dùng chánh-pháp ngự quần-sanh

Thái-Tử của vua tên Thiện-Phục.

Thân hình đoan chánh đủ tướng tốt.

Bấy giờ vô-lượng người phạm tội

Giam trong ngục tối sẽ hành hình

Thái-Tử xem thấy lòng xót thương

Tâu lên Phụ-Vương xin ân xá.

Các quan đại-thần tâu Quốc-Vương

Nay Thái-Tử này phá vương-pháp

Tội-nhơn như vậy phải gia hình

Thái-Tử sao lại cầu ân xá.

Thắng-Quang Quốc-Vương bảo Thái-Tử

Nếu cứu tội-nhơn ngươi phải chết.

Thái-Tử lòng thương càng mạnh hơn

Thề cứu chúng-sanh không thối khiếp.

Quốc mẫu Phu-Nhơn cùng Thể-Nữ

Đồng đến triều đường tâu Quốc-Vương

Tạm tha Thái-Tử trong nửa tháng

Bố-thí chúng-sanh tạo công đức.

Quốc-Vương nghe tâu liền chuẩn cho

Lập hội đại-thí giúp nghèo thiếu,

Những kẻ khốn cùng đều đến hội

Tùy chỗ nhu cầu đều cấp đủ.

Thấm thoát đến ngày thứ mười lăm

Giờ xử Thái-Tử đã sắp đến,

Đại chúng trăm ngàn muôn ức người

Đồng thời chiêm ngưỡng đều than khóc

Đức Phật biết chúng căn gần thục

Bèn đến thí-hội độ quần-sanh,

Hiển hiện thần-biến đại trang-nghiêm

Đại-chúng thân cận và cung kính.

Phật dùng nhứt âm phương-tiện nói

Pháp-đăng chiếu khắp những khế kinh

Vô-lượng chúng-sanh ý nhu nhuyến

Đều được đức Phật thọ ký biệt.

Thiện-Phục Thái-Tử sanh hoan-hỉ

Phát khởi tâm bồ-đề vô-thượng

Thệ nguyện kính thờ đức Như-Lai

Khắp vì chúng-sanh làm chỗ tựa.

Theo Phật xuất gia trì tịnh-giới

Tu hành nhất-thiết-chủng-trí-đạo

Bấy giờ bèn được giải-thoát nầy

Đại bi rộng độ các quần-sanh

Trong đó nương ở trải kiếp hải

Xem kỹ các pháp chân-thiệt-tánh

Thường ở biển khổ cứu chúng-sanh

Như vậy tu tập bồ-đề-đạo.

Trong kiếp có những Như-Lai hiện

Thảy đều kinh thờ không để sót

Đều dùng tâm tin hiểu thanh-tịnh

Lắng nghe, trì, hộ phật thuyết pháp.

Kế ở phật-sát vi-trần-số

Vô-lượng vô-biên những kiếp-hải

Bao nhiêu chư Phật hiện thế-gian

Mỗi mỗi cúng-dường đều như vậy.

Ta nhớ thuở xưa làm Thái-Tử

Thấy các chúng-sanh ở lao ngục

Thệ nguyện xả thân để cứu hộ

Nhơn đó chứng môn giải-thoát nầy.

Trải qua phật-sát vi-trần-số

Kiếp-hải rộng lớn thường tu tập

Niệm niệm khiến họ được tăng trưởng

Lại được vô-biên xảo phương-tiện.

Trong đó có chư Phật Như-Lai

Ta điều thấy Phật nhờ khai ngộ

Khiến ta thêm sáng giải-thoát nầy.

Và cùng những môn phương-tiện-lực

Ta ở vô-lượng ngàn ức kiếp

Học môn giải-thoát nan-tư nầy

Chư Phật pháp-hải không có bờ

Trong nhứt thời ta đều uống khắp.

Mười phương đều có tất cả cõi

Thân ta vào khắp không chướng-ngại

Tam thế danh-hiệu các quốc-độ

Niệm niệm biết rõ hết tất cả.

Tam thế có những chư Phật-hải

Mỗi mỗi thấy rõ không sót thừa

Cũng hiện được thân tướng Như-Lai

Đến khắp chỗ của chư Phật đó.

Lại ở mười phương tất cả cõi

Nơi tất cả chư Phật Đạo-Sư

Khắp mưa tất cả mây trang-nghiêm

Cúng-dường tất cả Vô-Thượng-Giác.

Lại dùng vô-biên đại vấn hải

Khải thỉnh tất cả chư Thế-Tôn

Đức Phật đã mưa mây diệu pháp

Thảy đều thọ trì không quên mất

Lại ở mười phương vô-lượng cõi

Trước tất cả chúng hội Như-Lai

Ngồi trên tòa những diệu trang-nghiêm

Thị-hiện các thứ thần-thông-lực.

Lại ở mười phương vô-lượng cõi

Thị hiện các thứ những thần-thông

Một thân thị hiện vô-lượng thân

Trong vô-lượng thân hiện một thân

Lại ở trong mỗi mỗi lỗng lông

Đều phóng vô-số đại-quang-minh

Đều dùng nhiều thứ xảo phương-tiện

Diệt trừ chúng-sanh lửa phiền-não.

Lại ở trong mỗi mỗi lỗ lông

Xuất hiện vô-phương mây hóa thân

Đầy khắp mười phương các thế-giới

Khắp mưa pháp vũ cứu quần-phẩm

Mười phương tất cả những phật-tử

Vào môn giải-thoát nan-tư nầy

Đều tận vị-lai vô-lượng kiếp

An trụ tu hành hạnh bồ-tát.

Tùy tâm sở-thích mà thuyết pháp

Khiến họ đều trừ lưới tà-kiến,

Dạy họ thiện-đạo và nhị-thừa.

Nhẫn đến tất cả trí Như-Lai.

Tất cả chúng-sanh chỗ thọ sanh

Thị hiện vô-biên nhiều loại thân

Đều đồng loại họ hiện thân tượng

Ứng khắp tâm họ mà thuyết pháp.

Nếu ai được môn giải-thoát nầy

Thời trụ vô-biên biển công-đức

Thí như sát-hải vi-trần số

Chẳng thể nghĩ bàn không số lượng.

 

Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết  “MÔN GIẢI THOÁT GIÁO HÓA CHÚNG SANH KHIẾN SANH THIỆN CĂN” nầy.

Như chư đại Bồ-Tát siêu thế-gian hiện thân các loài, chẳng trụ phan-duyên không có chướng-ngại, thấu rõ tự-tánh của các pháp, khéo quán sát tất cả pháp được trí vô-ngã, chứng pháp vô-ngã, giáo-hóa đều-phục tất cả chúng-sanh hằng không thôi nghỉ, tâm thường an trụ pháp-môn vô-nhị, vào khắp tất cả biển ngôn từ. Nay ta thế nào biết được nói được biển công-đức đó, trí dũng mãnh đó, chỗ tâm hành đó, cảnh tam-muội đó, sức giải-thoát đó.

Nầy thiện-nam-tử ! Diêm-Phù-Đề nầy có một viên lâm tên là Lâm-Tỳ-Ni. Trong vườn ấy có thần tên là Diệu-Đức-Viên-Mãn.

Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào tu bồ-tát-hạnh sanh nhà Như-Lai, làm ánh sáng cho đời tận kiếp vị-lai mà không nhàm mỏi ?

Bấy giờ Thiện-Tài Đồng-Tử đảnh lễ chân Chủ-Dạ-Thần, hữu nhiểu vô-lượng vòng, chắp tay chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.



Xin trở lại kinh…


KINH: Này thiện nam tử, trong đạo tràng này có một Dạ Thần tên là Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sanh.

Thiện Tài đến chỗ Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sanh. Thấy Dạ Thần này ở trong đại chúng ngồi tòa sư Tử Phổ Hiện Nhất Thiết Cung Điện Ma Ni vương Tạng. Lưới ma ni bửu che phía trên. Dạ thần hiện thân Nhựt, Nguyệt tinh tú ảnh tượng…

GIẢNG: Thân ngài ảnh tượng đầy những nhật, nguyệt tinh tú.

KINH: Hiện thân tùy tâm chúng sanh khiến tất cả đều thấy…

GIẢNG: Chúng sanh muốn thấy cái gì thì đều ảnh hiện ra như vậy, đều nhìn thấy. Như nếu muốn thấy ngày Quán Âm Bồ Tát thì Dạ Thần này hiện ra hình Quán Âm bồ tát, hoặc muốn thấy Đức Mẹ Đồng Trinh thì ngài lại hiện thân ra thành Đức Mẹ Đồng Trinh.

KINH: Hiện thân tùy tâm chúng sanh khiến tất cả đều thấy. Hiện thân đồng hình tướng của tất cả chúng sanh… hiện thân thường đi trên hư không để làm lợi ích. Hiện thân tu tập tất cả thiện căn…, hiện thân pháp đăng khắp dứt tối tăm thế gian…

GIẢNG: Khi Thiện Tài trông tất cả những biến hóa thần lực của vị chủ Dạ Thần này, liền phát khởi mười tâm.

KINH: …Thiện Tài thấy phật sát vi trần số thân sai biệt như vậy, liền nhất tâm đảnh lễ mọp đầu giây lâu mới đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng, nơi thiện tri thức phát khởi mười tâm.

Một là nơi thiện tri thức sanh tâm đồng với mình, vì làm cho mình siêng năng làm xong pháp trợ đạo nhất thiết trí.

GIẢNG: Thiện Tài ngắm thiện tri thức như vậy bèn thấy ơn đó lớn quá, liền phát mười thứ tâm trân trọng như sanh tâm trang nghiêm, sanh tâm thanh tinh, sanh tâm thành tựu tất cả phật pháp, sanh tâm xuất ly v.v… đại khái mười thứ tâm rất trân trọng trang nghiêm.

KINH: …Thiện Tài phát mười tâm này rồi, thời được phật sát vi trần số đổng hạnh với Dạ Thần cùng Chư Bồ Tát những là…

GIẢNG: Khi một vị tu hành cao đứng trước một vị thiện tri thức, như ngài Thiện Tài, ngài khởi tâm rất kính ngưỡng, khởi tâm quán chiếu rất sâu xa. Nên tâm thức của ngài bước lên một bực nữa là đồng hạnh với vị đó lần lần thành tựu những hạnh giống như vị Chủ Dạ Thần và chư Bồ Tát.

KINH: …Những là: đồng niệm…, đồng huệ…, đồng xu hướng…, đồng giác ngộ…, đồng căn…, đồng tâm…, đồng cảnh.., đồng chứng…, đồng nghĩa…, dồng sắc thân vì tùy chúng sanh tâm mà hiện thân…

GIẢNG: Có nghĩa là Thiện Tài cũng có những thần thông như vị thiện tri thức, và còn rất nhiều thứ “đồng’ nữa, kinh kể đến mấy trang lận, như “đồng quang minh, đồng tam muội, đồng nhập xứ, đồng quyến thuộc v.v…” Khi quán chiếu sâu xa, dần dần tâm Thiện Tài được nâng lên viên mãn như vị thiện tri thức vậy.

KINH: …đồng thọ sanh, đồng cùng khắp, đồng tu hành, đồng thần lực, đồng quang minh, đồng chấn động v.v… (bỏ một đoạn kinh nói về các hạnh đồng) Thiện Tài đồng tử quán sát Chủ Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhát Thiết Chúng Sanh, phát khởi mười tâm thanh tịnh, được Phật sát vi trần số đồng bồ tát hạnh như vậy, tâm càng thanh tịnh hơn, trịch vai áo phía hữu, đảnh lễ chắp tay nói kệ rằng…

Tôi phát ý kiên cố
Chí cầu vô thượng giác
Nay nơi thiện tri thức
Khởi tâm là chính mình

GIẢNG: Thiện Tài nghĩ vị thiện tri thức kia là chính mình, tức là ngài đã đồng nhất hóa ngài vào vị thiện tri thức ấy để nâng tâm thức của mình lên bình diện cao hơn.

KINH:

Bởi thấy thiện tri thức
Họp vô tận pháp lành,
Diệt trừ những tội nhơ
Thành tựu quả bồ đề
Tôi thấy thiện tri thức
Tâm công đức trang nghiêm
Tận trần kiếp vị lai
Siêng tu bồ tát đạo
Tôi nhớ thiện tri thức
Nhiếp thọ lợi ích tôi
Vì tôi mà thị hiện
Giáo pháp chánh chân thật…
…Tôi do những sự này
Công đức đều đầy đủ
Vì khắp các chúng sanh
Nói đạo nhất thiết trí
Đức thánh là thầy tôi
Cho tôi pháp vô thượng
Vô lượng vô số kiếp
Chẳng báo được ơn ngài.

Nói kệ xong, Thiện Tài thưa: Bạch đại thánh, xin vì tôi mà nói môn giải thoát này tên là gì? ngài phát tâm đã được bao lâu? Chừng nào ngài sẽ chứng vô thượng bồ đề?

Dạ Thần nói, này thiện nam tử, môn giải thoát này gọi là giáo hóa chúng sanh khiến sanh thiện căn.

GIẢNG: Câu này không có gì đặc biệt lắm vì vị nào cũng “giáo hóa chúng sanh khiến sanh thiện căn” cả. Nhưng ngài nói về chỗ diệu sắc thân cũng rất ghê gớm. Trong kinh Hoa Nghiêm có nhiều đoạn nói về diệu sắc thân ấy…

KINH: Vì ta thành tựu môn giải thoát này nên ngộ tất cả pháp tự tánh bình đẳng, vào nơi tánh chân thật của các pháp, chứng pháp vô y, bỏ rời thế gian, đều biết các pháp sắc tướng sai biệt, cũng có thể thấu rõ tánh của xanh, vàng, đỏ, trắng đều chẳng thật, vẫn vô sai biệt mà hằng thị hiện vô lượng sắc thân…

GIẢNG: Ngài thiện tri thức này vào được tất cả các pháp tự tánh bình đẵng. Trước hết, phải hiểu “tất cả các pháp đều tự tánh bình đẳng’ vì tất cả đều do tâm mình hiện ra, nên không có cảnh giới nào hơn cảnh giới nào. Hiểu được bình đẳng ấy rồi thì hiểu được tánh của các pháp, nên ngài chứng được pháp vô y, tức là tâm vô trụ, khi tâm vô trụ thì tâm ấy bắt đầu biến hóa.

KINH: Nhiều loại sắc thân, chẳng phải một sắc thân, vô biên sắc thân, sắc thân thanh tịnh, sắc thân tất cả trang nghiêm, sắc thân thấy khắp, sắc thân đồng tất cả chúng sanh…, sắc thân biển quang minh.., sắc thân tăng trưởng tâm hoan hỉ của tất cả chúng sanh…, sắc thân nơi mỗi mỗi lỗ lông diễn nói tất cả công đức hải của chư Phật, sắc thân có tất cả quang minh hải, sắc thân đại nguyện luân vân…

GIẢNG: Toàn là quang minh như vậy không, và đó cũng chính là diệu sắc thân của các ngài. Và đến đây, ngài lại nói đến “trí luân” và ngài nói rất hay…

KINH: Này thiện nam tử, như ngươi hỏi ta phát tâm bồ đề, tu bồ tát hạnh đã bao lâu? Ta thừa thần lực của Phật sẽ vì ngươi mà nói những nghĩa ấy. Nầy thiện nam tử, bồ tát trí luân xa rời tất cả cảnh giới sai biệt. Chẳng nên đem những kiếp dài, ngắn, rộng, hẹp, nhiễm, tịnh, nhiều, ít trong sanh tử để phân biệt hiển bày….

GIẢNG: Ở đây ngài nói về thời gian. “Bồ tát trí luân” là trí huệ của các bậc bồ tát như cái bánh xe xoay, vì thế nó không có hữu biên, vượt tất cả sai biệt, thiện, ác, dài, ngắn, sanh, tử v.v…

KINH: Tại sao vậy? Vì trí luân của bồ tát bổn tánh thanh tịnh, rời tất cả lưới phân biệt, siêu tất cả núi chướng ngại. Tùy chỗ nên hóa độ mà chiếu khắp.

GIẢNG: Trí huệ của các ngài phát ra một luồng tâm tưởng xoay tròn ôm lấy vật đó, khi ôm thật tròn rồi thì lúc đó, được một thứ định của sự chú tâm. Người phàm thường không biết sử dụng luồng quang minh trí huệ ấy, mà chỉ sử dụng ý thức như “con dao,” chẻ sự việc ra thành có, không, đen trắng, tốt xấu, nam nữ v.v… nên rơi vào “hữu biên.” Nhưng các vị bồ tát thì dùng “trí luân” xoay tròn, liễu tri tất cả những thứ ấy, diệt các phân biệt nên không thấy hữu biên. Thiện sẽ “chuyển” thành ác, hoặc ngược lại. Tử sẽ chuyển thành sanh, quá khứ chuyển thành vị lai, vị lai sẽ chuyển thành hiện tại v.v… rồi nhập vào tánh của sự vật.

KINH: Này thiện nam tử, ví như mặt Nhựt không có ngày đêm, chỉ có lúc mọc gọi là ngày, lúc lặn gọi là đêm.

GIẢNG: Thực ra, mặt trời không lặn hay mọc gì cả, nhưng vì quả đất xoay, chúng sanh ở mặt này bị quả đất che đi thì thấy đó là đêm, nhưng đến khi xoay qua bên kia, quả đất không che nữa thì lại cho là ngày. Quả đất xoay khiến cho chúng ta thấy có ngày, có đêm cũng tương tự như tâm mình, vì cái tâm động niệm nên thấy có ngày, có đêm, có tháng, có năm, có sanh tử, tử sanh…, nếu tâm không động niệm thì lúc đó tam thế (quá khứ, hiện tại, vị lai) đều bình đẳng trước mắt.

KINH: Cũng vậy, trí luân của bồ tát không có phân biệt, cũng không tam thế, chỉ tùy tâm hiện giáo hóa chúng sanh, mà nói bồ tát ở kiếp trước, kiếp sau.

GIẢNG: Ý ngài muốn nói rằng, khi ngài kể cho Thiện Tài nghe thì có kiếp đó, kiếp đó, nhưng chính ra trên bình diện sâu nhiệm, thì không còn kiếp nữa, mà chỉ tùy tâm đại bi mà ngài thị hiện vậy thôi. Vì vậy nên gọi là “trí luân”.

KINH: Này thiện nam tử, ví như mặt Nhựt ở không trung, bóng nó hiện trong tất cả bửu vật, trong nước trong lặng của ao, hồ, sông, biển. Chúng sanh đều thấy bóng mặt Nhật, nhưhg mặt Nhựt chẳng đến các chỗ ấy. Trí luân của bồ tát cũng như vậy, ra khỏi biển hữu lậu, an trụ nơi không trung, phật thiệt pháp tịch tịnh không có sở y. Vì muốn hóa độ chúng sanh nên tùy loại thọ sanh trong các loài, mà thật ra thời không sanh tử, không nhiễm trước, không kiếp dài vắn, không tưởng phân biệt. Tại sao vậy? Vì bồ tát rốt ráo rời tâm tưởng kiến châ’p tất cả điên đảo, được chân thật kiến, thấy pháp thật tánh, biết tất cả thế gian như mộng như huyễn, không có chúng sanh, chỉ do sức đại bi, đại nguyện mà hiện ra trước chúng sanh để giáo hóa điều phục họ.

GIẢNG: Tất cả cũng chỉ là phải quán chiếu như huyễn.

KINH: Này thiện nam tử, ví như nhà lái thuyền thường dùng thuyền lớn ở trong sông, chẳng đậu bờ bên này, chẳng ghé bờ bên kia, chẳng dừng ở giữa dòng, nên có thể đưa mọi người không thôi nghỉ. Cũng vậy, đại bồ tát dùng thuyền ba la mật ở trong biển sanh tử, chẳng tấp bờ bên này, chẳng ghé bờ bên kia, chẳng dừng ở giữa dòng nên độ được chúng sanh không thôi dứt.

GIẢNG: Độ chúng sanh của chư Đại Bồ Tát là do sự biến hóa thân mà thôi. Đại khái, ngài lại kể bổn sự bổn sanh cũng như vậy. Trong kinh kể thì rất dài, tôi xin tóm lược…

Thời đó có một ông vua có vị thái tử tên là Thiện Phục, thái tử này có lòng từ bi vô hạn, ngài nghe tụi tù nhân trong tù rên rĩ quá ngài bèn xin phụ vương tha hết cho đám tù nhân đó. Vua cha nổi giận, lúc đó có 500 đại thần xúm lại tâu vua rằng, thái tử làm thế thì phép nước tất loạn, ngôi của vua cũng mất. Sau vua định giết thái tử, nhưng có Hoàng Hậu ra can, xin cho thái tử này làm một hội bố thí, sau khi bố thí thì hãy giết…

KINH: Này thiện nam tử, Thái tử Thiện Phục xưa chính là thân ta…

… Này thiện nam tử, thuở xưa năm trăm quan đại thần muốn hại thái tử Thiện Phục nay là 500 đồ đảng của Đề Bà Đạt Đa… Này thiện nam tử, những người tội nhân được ta cứu thuở xưa ấy nay là đức Câu Lưu Tôn Như Lai và ngàn đức Phật trong hiền kiếp này.

GIẢNG: Quí vị có thấy lạ không? những tội nhân lúc bấy giờ được ngài Chủ Dạ Thần xin tha, bây giờ trở thành ngàn đức Phật trong hiền kiếp này, mà chính ngài vẫn còn là chủ dạ thần thôi. Đủ thấy rằng, hạnh Bồ Tát của các ngài rất cao, đôi khi không cầu quả vị giải thoát cho chính mình nữa mà chỉ chuyên làm lợi ích độ sanh thôi.

KINH: Vua Thắng Quang thuở xưa ấy nay là đại luận sư Tát Giá Ni Kiền Tử.

GIẢNG: Thế mới biết sự lên xuống trầm bổng trong quả báo luân hồi thật là lạ lùng, năm trăm ông đại thần kia, sau thành đồ đảng của Đề Bà Đạt Đa. Mà điều lạ nhất là những vị tội nhân lại… thành Phật hết cả rồi. Mà lời kinh nói không bao giờ hư vọng cả, đúng y như vậy. Vậy ta mới hiểu được thời gian lâu xa là bao nhiêu, phải nói có đến a tăng kỳ kiếp…

KINH: Này thiện nam tử, thuở xưa ấy, lúc ta cứu tội nhân rồi, cha mẹ cho ta xuất gia học đạo với đức Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng…

GIẢNG: Ngài không bị giết sau khi phát hội bố thí, mà được xuất gia tu học. Ở đây ngài kể tất cả các vị Phật cho chúng ta hiểu bổn sanh bổn sự của ngài. Đại khái cũng giống nhau, nên chúng ta không cần nói nhiều lắm về các vị này.

KINH: Này thiện nam tử, Diêm Phù Đề này có một viên lâm tên là Lam Tỳ Ni. Trong vườn ấy có thần tên là Diệu Đức Viên Mãn.

GIẢNG: Ở trên, Thiện Tài đã qua tám vị Chủ Dạ Thần rồi ở Bồ Đề đạo tràng, nhưng đến vị thiện tri thức này, thì không còn ở trong Bồ Đề Đạo Tràng nữa mà đến thành Ca Tỳ La, chỗ Lâm Tỳ Ni. Vị này làm một vị thần coi vườn Lâm Tỳ Ni ấy.

KINH: Ngươi đến đó hỏi bồ tát thế nào tu bồ tát hạnh sanh nhà Như Lai, làm ánh sáng cho đời tận kiếp vị lai mà không nhàm mỏi.

GIẢNG: Câu này, lại khác với những câu hỏi trước. “Làm thế nào để sanh nhà Như Lai,” tức sanh xuống trần gian, thị hiện thành Phật. “Làm ánh sáng cho đời tận kiếp vị lai mà không nhàm mỏi,” tức là gần đến ngôi pháp vương, hỏi xem thọ sanh làm Phật như thế nào?



39.- THẦN DIỆU ĐỨC VIÊN MÃN

 

Nầy Thiện-nam-tử!  Ta chỉ biết

MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT TRONG VÔ LƯỢNG KIẾP

KHẮP TẤT CẢ CHỖ THỊ HIỆN THỌ SANH TỰ TẠI” nầy.


 

Thiện-Tài đã được môn bồ-tát giải thoát nơi Chủ-Dạ-Thần Đại-Nguyện-Tinh-Tấn-Lực-Cứu-Hộ Nhứt-Thiết Chúng-Sanh, ghi nhớ tu tập thấu rõ tăng trưởng, đi lần đến vườn Lam-Tỳ-Ni tìm THẦN DIỆU ĐỨC VIÊN MÃN. Thấy Thần nầy ở trong lâu các Nhất-Thiết-Bửu-Thọ-Trang-nghiêm, ngồi trên tòa sư-tử Bửu-Liên-Hoa, có hai mươi ức na-do-tha chư Thiên cung kính vây quanh. Thần Diệu-Đức vì chư Thiên mà nói kinh Bồ-Tát-Thọ-Sanh-Hải, khiến chư Thiên đều được sanh nhà Như-Lai, thêm lớn biển đại công-đức của Bồ-Tát.

Thiện-Tài đến đảnh lễ chân Thần Diệu-Đức, cung kính chắp tay bạch rằng:

Đại-Thánh ! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết được Bồ-Tát thế nào tu bồ-tát-hạnh sanh nhà Như-Lai làm ánh sáng cho đời ?

Thần Diệu-Đức đáp :

Nầy thiện-nam-tử ! Bồ-Tát có mười tạng thọ sanh. Nếu Bồ-Tát thành-tựu pháp nầy thời sanh nhà Như-Lai, niệm niệm tăng trưởng thiện-căn của Bồ-Tát, chẳng mỏi, chẳng lười, chẳng nhàm, chẳng thối, không dứt, không mất, rời những mê lầm, chẳng sanh lòng khiếp hèn não hối, đến nhứt-thiết-trí, nhập môn pháp-giới, phát tâm quảng-đại, tăng trưởng những ba-la-mật thành-tựu vô-thượng bồ-đề, rời thế-gian, vào bực Như-Lai, được thắng thần-thông, phật-pháp thường hiện-tiền, thuận cảnh nhứt-thiết-trí chơn-thiệt.

Đây là mười tạng thọ-sanh của Bồ-Tát :

Một là tạng thọ-sanh nguyện thường cúng-dường tất cả chư Phật.

Hai là tạng thọ-sanh phát bồ-đề-tâm.

Ba là tạng thọ-sanh quán các pháp-môn siêng tu hành.

Bốn là tạng thọ-sanh dùng tâm thanh-tịnh chiếu khắp tam thế.

Năm là tạng thọ-sanh bình-đẳng quang-minh.

Sáu là tạng thọ-sanh sanh nhà Như-Lai.

Bảy là tạng thọ-sanh phật-lực quang-minh.

Tám là tạng thọ-sanh quán môn phổ-trí.

Chín là tạng thọ-sanh khắp hiện trang-nghiêm.

Mười là tạng thọ-sanh nhập Như Lai-địa.

Nầy thiện-nam-tử ! Thế nào là tạng thọ-sanh nguyện thường cúng-dường tất cả chư Phật ?

Lúc Bồ-Tát sơ-phát-tâm phát nguyện như vầy : Tôi phải tôn trọng cung kính cúng-dường tất cả chư phật, thấy Phật không nhàm, ở chỗ chư Phật thường mến ưa, thường tin sâu chắc, tu những công-đức không thôi nghỉ.

Nầy thiện-nam-tử ! Thế nào là tạng thọ sanh phát bồ-đề-tâm ?

Bồ Tát nầy phát tâm vô-thượng bồ-đề, những là phát khởi tâm đại-bi vì cứu hộ tất cả chúng-sanh; phát tâm cúng-dường Phật, vì rốt ráo kính thờ; khởi tâm cầu khắp chánh pháp, vì tất cả không lẫn tiếc, khởi tâm quảng-đại xu-hướng, vì cầu nhất-thiết-trí; khởi tâm từ vô-lượng, vì nhiếp khắp chúng-sanh; khởi tâm chẳng bỏ tất cả chúng-sanh, vì mặc giáp kiên-thệ cầu nhất-thiết-trí; khởi tâm không siểm cuống, vì được như-thiệt-trí; khởi tâm làm đúng như lời, vì tu bồ-tát-đạo; khởi tâm chẳng dối chư Phật, vì thú-hộ đại thệ nguyện của Phật; khởi tâm nguyện nhất-thiết-trí, vì tận vị-lai giáo hóa chúng-sanh không thôi dứt.

Bồ-Tát dùng công-đức của Phật-sát vi-trần-số bồ-đề-tâm như vậy được sanh nhà Như-Lai.

Nầy Thiện-nam-tử ! Thế nào là tạng-thọ-sanh quán các pháp-môn siêng tu hành ?

Đại Bồ-Tát nầy phát khởi tâm quán tất cả pháp-môn-hải, phát khởi tâm hồi-hướng nhất-thiết-trí viên-mãn đạo, phát khởi tâm chánh-niệm không nghiệp lỗi lầm, phát khởi tâm tất cả bồ-tát tam-muội-hải thanh-tịnh, phát khởi tâm tu thành công-đức của tất cả Bồ-Tát, phát khởi tâm trang-nghiêm tất cả đạo bồ-tát, phát khởi tâm cầu nhất-thiết-trí hạnh đại tinh-tấn tu các công-đức như kiếp-hỏa hẩy hừng không thôi dứt, phát khởi tâm tu hạnh phổ-hiền giáo-hóa chúng-sanh. Phát khởi tâm khéo học tất cả oai-nghi, tu công-đức của Bồ-Tát bỏ lìa tất cả sở-hữu an-trụ nơi chân-thiệt vô-sở-hữu.

Nầy Thiện-nam-tử ! Thế nào là tạng thọ-sanh dùng tâm thanh-tịnh chiếu khắp tam-thế ?

Đại Bồ-Tát nầy đủ tâm thanh-tịnh tăng thượng được ánh sáng bồ-đề của Như-Lai, nhập biển phương-tiện của Bồ-Tát, tâm họ kiên-cố như kim-cang trái bỏ tất cả loài sanh các cõi, thành-tựu tất cả sức tự-tại của Phật, tu hạnh thù-thắng, đủ căn bồ-tát, tâm sáng sạch, nguyện lực bất động, thường được chư Phật hộ-niệm, phá hoại tất cả núi chướng ngại, khắp vì chúng-sanh làm chỗ sở y.

Nầy Thiện-nam-tử ! Thế nào là tạng thọ-sanh quang-minh bình-đẳng ?

Đại Bồ-Tát nầy đầy đủ công-hạnh hóa độ khắp chúng-sanh, tất cả sở-hữu đều có thể bỏ, an-trụ nơi cảnh-giới-hạnh thanh-tịnh rốt ráo của Phật, đầy đủ pháp-nhẫn, thành-tựu quang-minh pháp-nhẫn của Phật, dùng đại tinh-tấn đến nhất-thiết-trí, đến nơi bỉ-ngạn, tu tập các môn thiền được phổ-môn định, tịnh trí viên-mãn, dùng trí-huệ-nhật chiếu rõ các pháp, được vô-ngại-nhãn thấy biển chư Phật, ngộ nhập tất cả pháp-tánh chân thiệt, tất cả thế-gian người thấy hoan-hỉ, khéo tu tập được pháp-môn như thiệt.

Nầy thiện-nam-tử ! Thế nào gọi là thọ sanh tạng sanh nhà Như-Lai ?

Đại Bồ-Tát nầy sanh nhà Như-Lai, theo chư Phật mà an trụ, thành-tựu tất cả pháp-môn thậm-thâm, đủ đại nguyện thanh-tịnh của tam thế chư Phật, được đồng một thiện-căn với tất cả chư Phật, cùng một thể-tánh với chư Như-Lai, đủ hạnh xuất thế pháp lành bạch tịnh, an trụ pháp-môn công-đức quảng đại, nhập những tam-muội thấy thần-lực của Phật, tùy chỗ đáng hóa độ mà tịnh trị chúng-sanh, đáp đúng lời hỏi biện-tài vô-tận.

Nầy thiện-nam-tử ! Thế nào là thọ sanh tạng phật-lực quang-minh ?

Đại Bồ-Tát nầy thâm nhập phật-lực, du hành các phật-độ lòng không thối chuyển, cúng-dường thừa sự chúng hội Bồ-Tát không có mỏi nhàm, rõ tất cả pháp đều như huyển mà sanh khởi, biết các thế-gian như cảnh trong mộng, tất cả sắc tướng dường như quang ảnh, thần-thông hiện ra đều như biến hóa, tất cả thọ sanh đều như bóng, chư Phật thuyết pháp đều như tiếng vang nơi hang núi, khai thị pháp-giới đều rốt ráo.

Nầy thiện-nam-tử ! Thế nào tạng thọ-sanh quán môn phổ-trí ?

Đại Bồ-Tát nầy trụ đồng-chân-vị quán nhất-thiết-trí, mỗi mỗi trí môn tận vô-lượng kiếp, khai diễn sở-hành của tất cả Bồ-Tát, nơi tam-muội thậm-thâm của chư Bồ-Tát tâm được tự-tại, niệm niệm sanh chỗ chư Như-Lai trong thế-giới mười phương, nơi cảnh có sai-biệt nhập định vô-sai-biệt, nơi pháp vô-sai-biệt hiện trí có sai-biệt, nơi vô-lượng cảnh biết không cảnh-giới, nơi cảnh-giới ít, nhập cảnh vô-lượng, thông đạt pháp-tánh rộng lớn không ngằn mé, biết các thế-gian đều là giả thi-thiết, tất cả đều là thức-tâm phát khởi.

Nầy Thiện-nam-tử ! Thế nào là tạng thọ-sanh khắp hiện trang-nghiêm ?

Đại Bồ-Tát nầy có thể nhiều cách trang-nghiêm vô-lượng cõi Phật, có thể khắp hóa hiện tất cả chúng-sanh và những thân Phật được vô-sở-úy, diễn pháp thanh-tịnh châu-lưu pháp-giới không chướng-ngại, tùy tâm sở-thích khiến thấy biết tất cả, thị-hiện những hạnh thành bồ-đề, khiến sanh đạo nhất-thiết-trí vô-ngại, việc làm như vậy chẳng lỗi thời, mà thường ở nơi tạng tam-muội tỳ-lô-giá-na trí-huệ.

Nầy Thiện-nam-tử ! Thế nào là tạng thọ sanh nhập như-lai-địa ?

Đại Bồ-Tát nầy đều thọ pháp quán đảnh ở chỗ chư Phật tam thế, biết khắp tất cả cảnh-giới thứ đệ, nghĩa là biết tất cả chúng-sanh thứ đệ thọ sanh ở tiền-tế hậu tế, biết chư Bồ-Tát tu hành thứ đệ, biết tâm niệm thứ đệ của tất cả chúng-sanh, biết tam thế Như-Lai thành Phật thứ đệ, biết phương-tiện thuyết pháp thiện-xảo thứ đệ, cũng biết tất cả sơ-tế trung-tế hậu-tế có bao nhiêu kiếp hoặc thành hoặc hoại danh hiệu thứ đệ, tùy những chúng-sanh chỗ đáng hóa độ vì hiện thành đạo công-đức trang-nghiêm thần-thông thuyết pháp phương-tiện điều-phục.

Nầy Thiện-nam-tử!  Nếu Ðại Bồ-Tát nơi mười pháp nầy tu tập tăng trưởng viên-mãn thành-tựu, thời có thể ở trong một trang-nghiêm hiện nhiều thứ trang-nghiêm.  Như vậy trang-nghiêm  tất cả quốc-độ, khai ngộ tất cả chúng-sanh, tận vị-lai kiếp không thôi dứt, diễn nói tất cả phật-pháp, những cảnh-giới, những thành thục, xoay vần truyền đến vô-lượng pháp, hiện bất-tư-nghì phật-tự-tại lực sung mãn tất cả hư-không pháp-giới, ở trong biển tâm hành của các chúng-sanh mà chuyển pháp-luân, thị-hiện thành Phật ở tất cả thế-giới hằng không gián-đoạn, dùng bất-khả-thuyết ngôn âm thanh-tịnh để nói tất cả pháp, trụ vô-lượng-xứ thông-đạt vô-ngại, dùng tất cả pháp trang-nghiêm đạo-tràng, tùy các chúng-sanh dục giải sai-biệt mà hiện thành Phật, khai thị vô-lượng pháp-tạng thậm-thâm, giáo hóa thành tựu tất cả thế-gian.

Lâm-Tỳ-Ni Lâm-Thần muốn tuyên lại nghĩa nầy, dùng phật thần-lực quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng:

 

Tâm thanh-tịnh ly-cấu tối-thượng 
Thấy tất cả Phật không nhàm đủ
Nguyện tận vị-lai thường cúng-dường
Là tạng thọ sanh của bậc trí.
Trong tất cả tam thế quốc-độ
Có những chúng-sanh và chư Phật
Ðều nguyện độ thoát, hằng kính thờ
Là tạng sanh bậc nan-tư.
Nghe pháp không nhàm thích quán-sát
Ở khắp tam thế không chướng ngại
Thân tâm thanh-tịnh như hư-không
Là tạng thọ sanh bậc danh-xưng.
Tâm đó hằng trụ biển đại-bi
Cứng như kim-cang và Bửu-Sơn
Thấu tỏ tất cả những trí-môn
Là tạng thọ sanh bậc tối-thắng.
Ðại-từ trùm khắp ở tất cả
Diệu-hạnh thường tăng biển các độ
Dùng pháp quang-minh chiếu mọi loài
Là tạng thọ sanh bậc hùng-mãnh.
Tỏ thấu pháp-tánh tâm vô-ngại
Sanh ở nhà chư Phật tam thế
Vào khắp biển pháp-giới mười phương
Là tạng thọ sanh bậc minh-trí.
Pháp thân thanh-tịnh tâm vô-ngại
Ðến khắp mười phương các quốc độ
Tất cả phật-lực đều được thành
Là tạng thọ sanh bất-tư-nghì.
Vào trí-huệ sâu đã tự-tại
Nơi các tam-muội cũng rốt ráo
Quán môn nhất-thiết-trí như thiệt
Là tạng thọ sanh bậc chân-thân.
Tịnh trị tất cả những phật-độ
Siêng tu pháp khắp hóa chúng-sanh
Hiển hiện Như-Lai sức tự-tại
Là tạng thọ sanh bậc đại-danh.
Lâu đã tu hành đại trí-huệ
Mau xu nhập được bậc Như-Lai
Biết rõ pháp-giới đều vô-ngại
Là tạng thọ sanh của Phật-Tử.

 

Nầy Thiện-nam-tử!  Bồ-Tát đủ mười pháp nầy thời sanh nhà Như-Lai, làm quang-minh thanh-tịnh của tất cả thế-gian.

Ta từ vô-lượng kiếp đến nay được môn giải-thoát thọ sanh tự-tại nầy.

Thiện-Tài thưa:

Bạch đức Thánh!  Cảnh-giới của môn giải-thoát nầy thế nào?

Lâm-Thần nói:

Nầy Thiện-nam-tử!  Trước kia ta phát nguyện, nguyện lúc tất cả Bồ-Tát thị-hiện thọ sanh đều được thân-cận.  Nguyện nhập biển vô-lượng thọ sanh của Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai.

Do nguyện lực thuở xưa ấy, nên nay ta sanh nơi vườn Lam-Tỳ-Ni trong thế-giới nầy, chuyên nghĩ tưởng Bồ-Tát lúc nào hạ sanh?

Qua một trăm năm quả nhiên Thế-Tôn từ Trời Ðâu-Xuất đản sanh tại đây.

Lúc ấy, vườn Lâm-Tỳ-Ni nầy hiện mười tướng:

Một là trong vườn nầy mặt đất bỗng nhiên bằng phẳng không còn hầm hố gò nổng.

Hai là kim-cang làm đất, các báu trang-nghiêm, không có ngói sạn gai gốc.

Ba là cây bửu-đa-la bày hàng giáp vòng, rễ sâu đến thủy-tế.

Bốn là những chồi hương mọc lên, những hương-tạng hiện ra, cây bửu-hương tàng to rậm rợp, mùi thơm đều hơn thiên-hương.

Năm là những tràng hoa đẹp, đồ bửu-trang-nghiêm thành hàng đầy khắp mọi nơi.

Sáu là trong vườn có bao nhiêu cây đều tự-nhiên nở hoa ma-ni-bửu.

Bảy là trong những ao hồ đều mọc hoa đầy mặt nước.

Tám là cõi sắc cõi dục của Ta-Bà Thế-Giới, tất cả hàng Thiên, Long, Bát-bộ, các Quốc-Vương đều hội đến vườn Lâm-Tỳ-Ni nầy đứng chắp tay.

Chín là trong thế-giới nầy có bao nhiêu Thiên-Nữ, nhẫn đến Ma-Hầu-La-Già-Nữ đều rất hoan-hỉ tay cầm những đồ cúng dường cung kính đứng hướng về phía cây Vô-Ưu.

Mười là chư Phật mười phương, nơi rốn đều phóng quang-minh tên là Bồ-Tát thọ sanh tự-tại-đăng chiếu sáng khắp khu vườn nầy.  Trong mỗi quang-minh đều hiện chư Phật thọ-sanh, đản-sanh, thần-biến, và công đức thọ-sanh của tất cả Bồ-Tát.  Lại phát ra những ngôn âm của chư Phật.

Trên đây là mười thoại-tướng trong vườn Lâm-Tỳ-Ni.

Lúc mười thoại-tướng nầy hiện ra, các Thiên-Vương liền biết sẽ có Bồ-Tát Hạ sanh.

Thấy thoại-tướng, ta hoan-hỉ vô-lượng.

Nầy Thiện-nam-tử!  Lúc Ma-Gia Phu-Nhân ra khỏi thành Ca-Tỳ-La đi vào khu vườn nầy, lại hiện mười quang-minh thoại-tướng, khiến các chúng-sanh được pháp-quang-minh.

Ðây là mười thoại-tướng quang-minh:

Quang-minh của tất cả tạng bửu-hoa.

Quang-minh của tạng bửu-hương.

Quang-minh của bửu-liên-hoa khai diễn âm-thanh vi-diệu chân thiệt.

Quang-minh của thập phương Bồ-Tát sơ phát tâm.

Quang-minh của tất cả Bồ-Tát được nhập chư địa mà hiện thần-biến.

Quang-minh của tất cả Bồ-Tát tu ba-la-mật viên-mãn trí.

Quang-minh đại nguyện trí của tất cả Bồ-Tát.

Quang-minh phương-tiện-trí của tất cả Bồ-Tát giáo-hóa chúng-sanh.

Quang-minh chân-thiệt-trí của tất cả Bồ-Tát chứng pháp-giới.

Quang-minh của tất cả Bồ-Tát được Phật tự-tại thọ-sanh xuất-gia thành chánh-giác.

Mười quang-minh nầy chiếu khắp tâm của vô-lượng chúng-sanh.

Nầy Thiện-nam-tử!  Lúc Ma-Gia Phu-Nhân ngồi dưới cây Vô-Ưu lại hiện mười thứ thần-biến của Bồ-Tát sắp đản-sanh:

Lúc Bồ-Tát sắp đản sanh, chư Thiên cõi Sắc, và cõi dục chư Thiên-Tử, Thiên-nữ, chư Long, Dạ-Xoa Càn-Thát-Bà, A-Tu-La, Ca-Lâu-la, Khẩn-Na-La, Ma-Hầu-La-Già, cùng quyến-thuộc vì để cúng-dường nên đều vân tập.

Ma-Gia Phu-Nhơn oai-đức thù-thắng, các lỗ lông nơi thân đều phóng quang-minh chiếu khắp Ðại-Thiên thế-giới không chướng-ngại, chói lấn tất cả quang-minh khác, diệt trừ tất cả phiền-não và khổ ác-đạo.  Ðây là thần-biến thứ nhứt của Bồ-Tát lúc sắp đản-sanh.

Lúc ấy, trong bụng của Ma-Gia Phu-Nhơn đều hiện tất cả hình tượng của Ðại-Thiên Thế-giới, trong trăm ức Diêm-Phù-Ðề những đô ấp, vườn rừng, danh hiệu riêng khác đều có Ma-Gia Phu-Nhơn ở và Thiên-Chúng vây quanh, đều hiển hiện tướng thần-biến bất-tư-nghì của Bồ-Tát sắp đản-sanh. Ðây là tướng thứ hai.

Tất cả lổ lông nơi thân của Ma-Gia Phu-Nhơn đều hiện cảnh tượng thuở xưa lúc Bồ-Tát tu hành công hạnh cúng-dường cung-kính chư Phật và nghe tiếng nói pháp của chư Phật như ảnh tượng hiện rõ trong gương sáng. Ðây là thần biến thứ ba của Bồ-Tát lúc sắp đản sanh.

Lại trong mỗi lỗ lông nơi thân của Ma-Gia Phu-Nhơn đều hiện thuở xưa lúc Bồ-Tát tu bồ-tát-hạnh, ở thế-giới,  thành ấp, tụ lạc, núi rừng, sông biển, chúng-sanh, kiếp số, gặp Phật xuất thế, nhập tịnh quốc-độ, y-chỉ thiện-tri-thức, tu hành pháp lành, thọ mạng dài vắn, Ma-Gia Phu-Nhơn thường là sanh-mẫu của Bồ-Tát.  Ðây là thần biến thứ tư của Bồ-Tát lúc sắp đản-sanh.

Lại trong mỗi lỗ lông của Ma-Gia Phu-Nhơn hiển hiện thuở xưa lúc Bồ-Tát tu bồ-tát-hạnh, tùy sanh tại xứ nào, hình mạo sắc tướng, y phục ăn uống, những sự khổ vui đều hiện rõ ràng.  Ðây là thần biến thứ năm của Bồ-Tát lúc sắp đản-sanh.

Lại trong mỗI lỗ lông của Ma-Gia Phu-Nhơn đều hiện thuở xưa lúc Bồ-Tát tu hạnh bố-thí, xả thí cả những vật khó xả như đầu, mắt, tai, mũi, môi, lưỡi, răng, tay, chân, máu, thịt, gân, xương, vợ, con, thành ấp, cung điện, y-phục, anh-lạc, vàng bạc, châu báu. Cũng thấy hình mạo của những người thọ thí và chỗ nơi của họ.  Ðây là thần-biến thứ saú của Bồ-Tát lúc sắp đản-sanh.

Lúc Ma-Gia Phu-Nhơn đi vào khu vườn nầy, thời khu vườn nầy hiện khắp tất cả chư Phật quá khứ lúc nhập mẫu-thai, cõi nước nơi chỗ, y phục, tràng hoa, hương thoa, hương bột, phan cái, đồ trang-nghiêm, kỹ nhạc ca ngâm âm thanh thượng diệu, làm cho chúng-sanh đều được nghe thấy.  Ðây là thần biến thứ bảy của Bồ-Tát sắp đản-sanh.

Lúc Ma-Gia Phu-Nhơn vào vườn nầy, từ nơi thân của Phu-Nhơn xuất hiện cung điện lâu các Ma-Ni-Vương hơn hẳn tất cả cung điện của Thiên, Long, Bát-Bộ và cung-điện của Nhơn-Vương.  Cung-điện Ma-Ni-Vương nầy có lưới báu giăng phía trên, hương thơm ngào ngạt, các báu trang-nghiêm, trong ngoài nghiêm-tịnh, chẳng tạp loạn, bao khắp cả vườn Lâm-Tỳ-Ni, Ðây là thần biến thứ tám của Bồ-Tát sắp đản-sanh.

Lúc Ma-Gia Phu-Nhơn vào vườn nầy, từ nơi thân của Phu-Nhơn xuất hiện mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát. Những Bồ-Tát nầy, thân hình dung mạo, tướng hảo quang-minh, oai-nghi đi đứng, thần-thông, quyến thuộc đều đồng như Tỳ-Lô-Giá-Na Bồ-Tát, tất cả đồng thời tán thán Như-Lai.  Ðây là thần-biến thứ chín của Bồ-Tát sắp đản-sanh.

Lúc Ma-Gia Phu-Nhơn sắp đản-sanh Bồ-Tát, ở trước mặt Phu-Nhơn bỗng từ kim-cang-tế mọc lên hoa sen lớn tên là Nhất-Thiết-Bửu-Trang-Nghiêm-Tạng, kim-cang làm cọng, các báu làm tua, như-ý châu-vương làm đài, có phật-sát vi-trần-số cánh, tất cả đều bằng châu ma-ni. Lưới báu, lọng báu che phía trên. Tất cả Thiên-Vương cầm giữ.  Tất cả Long-Vương mưa hương-vũ.  Tất cả Dạ-Xoa-Vương cung kính rải thiên hoa.  Tất cả Càn-Thát-Bà-Vương dùng âm thanh vi-diệu ca ngợi công-đức của Bồ-Tát thuở xưa cúng-dường chư Phật. Tất cả A-Tu-La Vương bỏ tâm kiêu mạn mà cúi đầu kính lễ.  Tất cả Ca-Lâu-La Vương thòng phan báu khắp hư-không.  Tất cả Khẩn-Na-La-Vương hoan-hỉ chiêm-ngưỡng ca ngâm khen ngợi công-đức của Bồ-Tát. Tất cả Ma-Hầu-La-Già Vương đều hoan-hỉ tán thán mưa tất cả mây bửu trang-nghiêm. Ðây là thần biến thứ mười của Bồ-Tát sắp đản-sanh.

Nầy Thiện-nam-tử!  Vườn Lam-Tỳ-Ni thị hiện mười thần-biến như vậy rồi, sau đó Bồ-Tát đản-sanh, như mặt nhựt hiện ra nơi hư-không. Như mây lành hiện ở đảnh núi cao. Như làn chớp sáng giữa cụm mây dầy. Như ngọn đuốc sáng lớn giữa đêm tối.

Bấy giờ Bồ-Tát từ hông bên hữu của Phu-Nhơn mà đản-sanh, thân tướng quang-minh đủ các tướng hảo.

Nầy Thiện-nam-tử!  Lúc đó dầu hiện sơ sinh, nhưng Bồ-Tát đã tỏ thấu tất cả pháp như mộng, như huyễn, như ảnh, như tượng, không đến không đi, chẳng sanh chẳng diệt.

Ðồng thời ta cũng thấy đức Bồ-Tát ở vô-lượng cõi Phật trong mỗi vi-trần của Ðại-Thiện thế-giới, cũng thấy đức Bồ-Tát ở vô-lượng cõi Phật trong mỗi vi-trần của trăm thế-giới, ngàn thế-giới, nhẫn đến tất cả thế-giới mười phương thị-hiện sơ sanh những sự thần biến giống như hiện thấy tại vườn Lam-Tỳ-Ni nầy, niệm niệm thường không gián đoạn.

Thiện-Tài thưa:

Bạch đức Thánh!  Ngài được môn giải-thoát nầy được bao lâu?

Lâm-Thần nói:

Nầy Thiện-nam-tử!  Thuở xưa quá ức phật-sát vi-trần-số kiếp, có kiếp tên là Duyệt-Lạc, thế-giới tên là Phổ-Bửu. Có tám mươi na-do-tha Phật xuất hiện trong đó.

Tối-sơ Phật hiệu là Tự-Tại-Công-Ðức-Tràng.

Trong thế-giới Phổ-Bửu có tứ-thiên-hạ tên là Diệu-Quang-Trang-Nghiêm. Trong Diêm-Phù-Ðề có một Vương-Ðô tên là Tu-Di-Trang-Nghiêm-Tràng, Quốc-Vương tên là Bửu-Diệm-Nhãn, Phu-Nhơn tên là Hỉ-Quang.

Chính Hỉ-Quang Phu-Nhơn là sinh-mẫu của đức Tự-Tại-Công-Ðức-Tràng Như-Lai.

Lúc Phu-Nhơn sắp đản-sanh Bồ-Tát, cùng hai mươi ức na-do-tha thể-nữ đến vườn Kim-Hoa.  Trong vườn có lầu tên là Diệu-Bửu-Phong, cạnh lầu có cội cây tên là Nhất-Thiết-Thí.

Phu-Nhơn Hỉ-Quang vói vịn nhánh cây Nhất-Thiết-Trí mà đản-sanh Bồ-Tát.

Chư Thiên-Vương đem nước thơm đến tắm gội Bồ-Tát.  Tắm xong, chư Thiên-Vương trao Bồ-Tát cho nhũ-mẫu Tịnh-Quang.

Nhũ-mẫu lãnh bồng Bồ-Tát, lòng rất hoan-hỉ liền được bồ-tát-phổ-nhãn tam-muội.  Ðược tam-muội nầy, nhũ-mẫu thấy vô-lượng chư Phật mười phương. Nhũ-mẫu lại được môn giải-thoát bồ-tát ở tất cả chỗ thị-hiện thọ sanh tự-tại, như thần-thức lúc tối-sơ thọ thai, mau chóng vô-ngại. Vì được môn giải-thoát nầy nên thấy tất cả Phật thừa bổn-nguyện-lực thọ-sanh tự-tại.

Nầy Thiện-nam-tử!  Thuở đức Tự-Tại-Công-Ðức-Tràng Như-Lai, nhũ mẫu Tịnh-Quang chính là thân ta đây.

Từ đó đến nay, niệm niệm ta thường thấy đức Tỳ-Lô-Giá-Na Phật thị-hiện Bồ-Tát thọ-sanh-hải, thần-lực tự-tại điều-phục chúng-sanh. Nhẫn đến tất cả chư Phật ở trong vi-trần của tất cả thế-giới khắp mười phương thị hiện Bồ-Tát thọ sanh thần-biến, ta đều niệm niệm thấy cả, và đều cung kính phụng thờ cúng dường nghe thuyết pháp, như thuyết tu hành.

Bấy giờ Lam-Tỳ-Ni Lâm-Thần muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát nầy, thừa thần-lực của Phật quán sát mười phương mà nói kệ rằng:

 

Ðồng-Tử ngươi đã hỏi
Cảnh thậm thâm của Phật
Nay ngươi phải lắng nghe
Ta nói nhơn-duyên ấy.
Quá ức sát-trần kiếp
Có kiếp tên Duyệt-Lạc
Tám mươi na-do-tha
Như-Lai xuất thế-gian.
Tối-sơ Như-Lai hiệu
 Tự-Tại-Công-Ðức-Tràng
Ta ở vườn Kim-Hoa
Thấy Bồ-Tát sơ sanh.
Lúc ấy ta làm nhũ-mẫu
Trí-huệ rất thông lẹ
Chư Thiên trao cho ta
Thân Bồ-Tát kim sắc.
Ta liền vội ẵm bồng
Nhìn kỹ vô-kiến-đảnh
Thân tướng đều viên-mãn
Mỗi tướng vô-biên-tế.
Thân thanh-tịnh ly-cấu
Trang-nghiêm với tướng-hảo
Ví như tượng diệu-bửu
Thấy xong tự vui mừng.
Tư-duy công-đức đó
Mau thêm những biển phước,
Thấy sự thần-thông nầy
Ta phát tâm bồ-đề.
Chuyên cầu phật công-đức
Thêm rộng những đại-nguyện,
Nghiêm-tịnh tất cả cõi
Diệt trừ ba ác-đạo.
Khắp ở mười phương cõi 
Cúng-dường vô-số Phật,
Tu hành bổn thệ nguyện
Cứu thoát khổ chúng-sanh.
Ta ở chỗ Phật ấy
Nghe pháp được giải-thoát
Ức cõi vi-trần-số
Vô-lượng kiếp tu hành.
Có bao nhiêu đức Phật
Ta đều từng cúng-dường
Hộ trì Phật chánh-pháp
Tu biển giải-thoát nầy.
Ức cõi vi-trần-số
Ðức thập-lực quá-khứ
Thọ trì Phật pháp-luân
Thêm sáng giải-thoát nầy.
Ta trong khoảng một niệm
Thấy trong sát-trần nầy
Mỗi trần có Như-Lai
Nghiêm-tịnh những sát-hải.
Trong cõi đều có Phật
Hiện đản-sanh trongvườn
Ðều hiện bất-tư-nghì
Sức thần-thông quảng đại.
Hoặc thấy bất-tư-nghì
Ức cõi chư Bồ-Tát
Ở tại trên Thiên-Cung
Sắp chứng Phật bồ-đề.
Trong vô-lượng sát-hải
Chư Phật hiện thọ sanh
Thuyết pháp giữa đại chúng
Nơi đây ta đều thấy.
Một niệm thấy ức cõi
vi-trần số Bồ-Tát
Xuất gia đến đạo-tràng
Thị hiện cảnh-giới Phật.
Ta thấy trong sát-trần
Vô-lượng Phật thành đạo
Ðều hiện những phương-tiện
Ðộ thoát khổ chúng-sanh.
Trong mỗi mỗi vi-trần
Chư Phật chuyển pháp-luân
Ðều dùng tiếng vô-tận
Khắp mưa pháp cam-lộ.
Ức cõi vi-trần-số
Trong mỗi một sát-trần
Ðều thấy chư Như-Lai
Thị hiện nhập niết-bàn.
Vô-lượng cõi như vậy
Như-Lai hiện đản-sanh
Khắp nơi ta phân-thân
Hiện tiền cúng dường Phật.
Bất-tư-nghì sát-hải
Vô-lượng loài sai khác
Ta đều hiện trong đó
Khắp mưa đại pháp-vũ.
Phật-Tử!  Ta biết môn
Nan-tư giải-thoát nầy
Trong vô-lượng ức kiếp
Tán dương không hết được.

 

Nầy Thiện-nam-tử!  Ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT TRONG VÔ LƯỢNG KIẾP KHẮP TẤT CẢ CHỖ THỊ HIỆN THỌ SANH TỰ TẠI” nầy.

 

Như chư đại Bồ-Tát có thể đem một niệm làm những kiếp tạng, quán tất cả pháp, dùng phương tiện khéo mà hiện thọ sanh, cúng-dường cùng khắp tất cả chư Phật.  Thông đạt rốt ráo tất cả phật-pháp, nơi tất cả loài đều hiện thọ sanh, ngồi tòa liên-hoa ở trước tất cả Phật.

Biết các chúng-sanh lúc đáng được độ, vì hiện thọ sanh phương-tiện điều-phục, ở tất cả cõi hiện những thần-biến, dường như ảnh tượng đều hiện ra trước họ.

Ta thế nào biết được nói được công-đức hạnh đó.

Nầy Thiện-nam-tử!  Thành Ca-Tỳ-La nầy có cô gái họ Thích tên là Cù-Ba.

Ngươi đến đó hỏi:  Bồ-Tát thế nào ở trong sanh tử giáo hóa-chúng-sanh.

Thiện-Tài Ðồng-Tử đảnh lễ chân Lam-Ty-Ni Lâm-Thần, hữu nhiễu vô-số vòng, ân cần chiêm-ngưỡng từ tạ mà đi.



KINH: Thiện Tài đã được môn bồ tát giải thoát nơi chủ Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhát Thiết Chúng Sanh, ghi nhớ tu tập thấu rõ tăng trưởng, đi lần đến vườn Lam Tỳ Ni tìm thần Diệu Đức Viên Mãn. Thấy thần này ở trong lâu các Nhất Thiết Bửu Thọ Trang Nghiêm, ngồi trên tòa sư tử Bửu Liên Hoa, có hai mươi ức na do tha chư Thiên cung kính vây quanh. Thần Diệu Đức vì chư Thiên mà nói kinh bồ tát thọ sanh hải, khiến chư Thiên đều được sanh nhà Như Lai, thêm lớn biển đại công đức của Bồ Tát.

GIẢNG: Trong khi Thiện Tài chưa đến thì vị Lâm thần này (cũng là vị nữ nhân), đang ngồi giảng kinh gọi là “Bồ Tảt thọ sanh hải” tức là Bồ Tát làm thế nào để thọ sanh xuống nhân gian thị hiện thành Phật. Có hai mươi ức na do tha chư Thiên vây quanh.

KINH: Thiện Tài đến đảnh lễ chân thần Diệu Đức, cung kính chắp tay bạch rằng, Đại Thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề, mà chưa biết bồ tát thế nào tu bồ tát hạnh, sanh nhà Như Lai làm ánh sáng cho đời?

GIẢNG: Tức xuống nhân gian giáng trần, thọ sanh, làm ánh sáng cho đời.

KINH: Thần Diệu Đức đáp, này thiện nam tử, bồ tát có mười tạng thọ sanh. Nếu bồ tát thành tựu pháp này thời sanh nhà Như Lai, niệm niệm tăng trưởng thiện căn của bồ tát chẳng mỏi, chẳng lười…

Một là thọ sanh nguyện thường cúng dường tất cả chư Phật. Hai là tạng thọ sanh phát bồ đề tâm. Ba là tạng thọ sanh quán các pháp môn siêng tu hành. Bốn là tạng thọ sanh dùng tâm thanh tịnh chiếu khắp tam thế. Năm là tạng thọ sanh bình đẳng quang minh…

GIẢNG: Đại khái vẫn như vậy thôi. Tu như thế để thành Phật. Rồi sau đó ngài lại kể bổn sanh bổn sự của ngài những kiếp trước như thế nào.

KINH: …Ta từ vô lượng kiếp đến nay được môn giải thoát thọ sanh tự tại này. Thiện Tài thưa, bạch đức thánh, cảnh giới của môn giải thoát này thế nào? Lâm thần nói, nầy thiện nam tử, trước kia ta phát nguyện lúc tất cả bồ tát thị hiện thọ sanh đều được thân cận. Nguyện nhập biển vô lượng thọ sanh của Tỳ Lô Giá Na Như Lai.

GIẢNG: Ngài nguyện xin là người giữ vườn mà sau này sẽ có Chư Phật thọ sanh. Ngài kể khi Ma Gia Phu Nhân đến vườn Lâm Tỳ Ni thì có rất nhiều thần biến. Đại khái người nào đọc cũng hiểu nên không cần phải nói thêm ở đây. Tôi xin đọc lược…

KINH: Này thiện nam tử, lúc Ma Gia Phu Nhân sắp đản sanh Bồ Tát, ở trước mặt phu nhân bỗng từ kim cang tế mọc lên hoa sen lớn tên là Nhất Thiết Bửu Trang Nghiêm Tạng…

GIẢNG: Ngài kể từ khi bồ tát chưa đản sanh, đến lúc đản sanh, hiện rất nhiều thần biến, các người, chư thiên, chư bồ tát đều vây quanh v.v… Sau đó ngài lại kể trong một kiếp trước rất lâu xa, trong thế giới tên là Phổ Bửu có tứ thiên hạ tên là Diệu Quang Trang Nghiêm, có vị vua tên Bửu Diệm Nhãn, phu nhơn tên Hỉ Quang, chính Hỉ Quang phu nhơn là sinh mẫu của đức Tự Tại Công Đức Tràng Như Lai.

KINH: Lúc phu nhơn sắp đản sanh Bồ Tát, cùng hai mươi ức na do tha thể nữ đến vườn Kim Hoa. Trong vườn  lầu tên là Diệu Bửu Phong, cạnh lầu có cội cây tên là Nhất Thiết Trí. Phu nhân Hỉ Quang vói vịn nhánh cây Nhất Thiết Trí mà đản sanh bồ tát.

GIẢNG: Trong kiếp đó, phu nhơn Hỉ Quang vịn cây “nhất thiết trí,” chứ không phải cây vô ưu như ngài Ma Gia, và đản sanh vị thái tử (lúc đó còn là Bồ Tát).

KINH: Chư thiên vương đem nước thơm đến tắm gội Bồ Tát. Tắm xong chư thiên vương trao Bồ Tát cho nhũ mẫu Tịnh Quang. Nhũ mẫu bồng bồ tát lòng rất hoan hỉ…

GIẢNG: Chư thiên vương không trao bồ tát cho phu nhân (tức là mẹ thị hiện của bồ tát), mà lại trao cho nhũ mẫu Tịnh Quang. Khi vị nhũ mẫu Tịnh Quang ôm vị Bồ Tát trong lòng, lập tức nhũ mẫu đắc môn tam muội gọi là “bồ tát phổ nhãn tam muội,” và vị nhũ mẫu Tịnh Quang ấy, chính là tiền thân của ngài chủ dạ thần này. Đại khái vẫn là chuyện bổn sanh, bổn sự mà trên bình diện đó toàn là thần biến. Mà mỗi khi những nhân vật trong đó được thân cận Phật hoặc Bồ Tát thị hiện đản sanh, thì thường đắc được môn tam muội nào đó.

Tới đây, xin tạm ngưng ở vị thiện tri thứ 39 thức này.

Xin hẹn với quí vị kỳ sau…

Xin cảm ơn quí vị …

Comments

Popular posts from this blog