ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



Pháp giới này không phải được dệt nên bằng những vi trần, mà chỉ được TREO trên đầu một sợi lông, trên đầu MỘT TÂM NIỆM. Cho nên không gian và thời gian không phải là những thực tại khách quan tồn tại độc lập, mà chỉ là những vọng tưởng hàm số của tâm thức mỗi loài chúng sanh.

Và ngài Thiện Tài đi ta bà các cõi, cũng chỉ là đi trong lỗ lông của ngài Phổ Hiền, mà cũng chỉ là đi quanh quẩn trong Tàng thức của mình mà thôi.



 Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


Ngày 15 tháng 4 năm 1990



Hôm nay là buổi thuyết giảng thứ 106 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này. Trong những lần trước, chúng tôi đã nói đến vị Thiện Tri Thức thứ 18, tức vị vua Đại Quang. Hôm nay, chúng ta lại tiếp tục đi vào kinh để gặp vị thiện tri thức thứ 19 là vị Ưu Bà Di Bất Động.

Nhưng trước khi đi vào kinh, tôi cũng xin dành một chút thì giờ để trả lời một số câu hỏi của một vị Phật tử tuần trước.


HỎI: Đến bao giờ thì có đức Di Lặc và hội Long Hoa?

ĐÁP: Muốn hiểu điều này rõ ràng, chúng ta phải nói đến kiếp tăng và kiếp giảm tức là một chu kỳ của đạo Phật. Theo đạo Phật, chúng ta đang ở kiếp giảm, tức là cứ mỗi một trăm năm thì tuổi thọ của chúng sinh trung bình giảm di một tuổi. Như ở thời đức Thích Ca Mâu Ni Phật cách dây 2500 năm, tuổi thọ con người khoảng độ trăm tuổi, dần dần cứ một trăm năm bớt di một tuổi, bây giờ tuổi thọ chỉ còn từ độ bảy chục đến bảy mươi lăm tuổi thôi. Nhưng nó không dừng lại ở con số này, một trăm năm nữa tuổi thọ lại tụt thêm một tuổi cho đến khi xuống tới mười tuổi, thì lúc bấy giờ đến kiếp hoại. Lúc đó, nhân loại chỉ sống mười năm nhưng vẫn làm đủ tất cả mọi sự mà chúng ta làm bây giờ, cũng lớn lên, cũng lấy vợ, cũng sinh con và cũng chết v.v… Đừng tưởng rằng pháp giới này là do chúng ta tạo dựng nên đâu, như trong sự cầy cấy chẳng hạn, đừng tưởng chỉ do công lao cầy cấy của chính mình mà có. Sở dĩ có được là do phước lực của mình, nên các vị quỉ thần tạm để cho mưa thuận gió hòa thì chúng ta mới có lúa gạo mà ăn. Nhưng đến khi phước hết, các vị quỉ thần sẽ làm tất cả các thiên tai, và lúc đó chúng ta không còn gì để ăn cả. Nên phải hiểu, pháp giới rất linh động, nhân lực chỉ làm được có một phần nhỏ thôi, còn lại là do trí huệ và phước đức mà ra cả. Lúc đó trong kiếp hoại, đất cát khô cằn, thiên tai nổi lên khắp nơi, binh đao loạn lạc, không có gì để ăn. Theo như kinh kể thì người ta phải kiếm những xương của người chết gặm gân khô mà ăn. Qua thời kỳ kiếp giảm sẽ sang đến thời kỳ kiếp hoại rồi sau đó sẽ đến kiếp tăng, lúc bây giờ tuổi thọ của chúng sanh từ mười tuổi lại tăng dần lên đến một trăm tuổi, đến một ngàn tuổi, đến vạn tuổi rồi đến tám vạn tuổi thì lúc bấy giờ đức Di Lặc ra đời. Trong đạo Phật nói rất lạ, không có một tôn giáo nào nói như thế cả, và phải hiểu rằng chúng ta chỉ có một đôi mắt thịt, căn cơ lại kém, trí huệ nông cạn, chỉ có thể nhìn được một khúc thời gian rất ngắn. Dù khoa học có mò mẫm tìm kiếm cũng chỉ có thể dựa trên những dữ kiện để đoán biết vài nghìn năm về quá khứ là cùng mà không thể đoán biết được nhiều về tương lai. Trái lại, trong đạo Phật, các ngài là những bậc Đại Giác đã có đủ ngũ nhãn, có thể nhìn thấy vô lượng kiếp, nên các ngài bảo cho chúng ta biết như thế. Không đâu xa, trong phẩm Nhập Pháp Giới, chúng ta thường gặp những danh từ như “từ vi trần số kiếp về trước…” điều này chúng ta nên khởi lòng tin, nếu tin được như vậy, tâm chúng ta có thể mở ra rất rộng.

Lúc đó đức Di Lặc từ cung trời Đâu Xuất xuống thị hiện làm một vị Hoàng Tử, lớn lên đi tu, sau đắc đạo. Nhưng tất cả chỉ là thị hiện mà thôi. Ngài hiện giờ đương ngồi trên cung trời Đâu Xuất, nhìn xuống nhân gian xem gia đình nào có đầy đủ phước đức để mang thai ngài, gọi là vào thai nhưng vẫn là hóa sanh. Lúc bấy giờ, cõi Ta Bà này đã chuyển biến, càng ngày càng đi lên, trang nghiêm và đẹp đẽ hơn bây giờ rất nhiều, chúng sanh cũng nhiều phước đức hơn, nên không phải khổ sở làm lụng vất vả như chúng ta bây giờ.

Nếu làm một con tính từ giờ đến khi ngài Di Lặc ra đời thì còn khoảng tám triệu năm nữa. Trong tám triệu năm, cõi Ta Bà dần dần bớt ô uế, lúc bấy giờ Đức Di Lặc sẽ mở nhiều hội Long Hoa để thuyết pháp. Hội Long Hoa đầu tiên ngài thuyết pháp có chín chục ngàn người đắc đạo, hội Long Hoa thứ hai có chín mươi tư ngàn người đắc đạo, rồi đến hội thứ ba cũng có rất nhiều v.v…, đại khái là vậy. Vì sao chúng sanh đắc đạo được nhiều và dễ thế? Vì lúc đó, phước lực và trí lực của chúng sanh đã cao rồi, nên tuổi thọ mới cao. Sau đó, cõi Ta Bà dần dần được ngài Di Lặc chuyển hóa thành cõi Tịnh Độ mà là tịnh độ ở nhân gian. Nếu so với cõi Tịnh Độ của ngài A Di Đà, thì cõi A Di Đà được kết bằng quanh minh vi diệu hơn, vì sao? Vì ở cõi Tịnh Độ Nhân Gian của ngài Di Lặc, chúng sinh vẫn còn phải mang một sắc thân máu mủ thô kệch, vẫn phải đi đại và tiểu tiện, vẫn có nam nữ .v.v… nên không thể bằng cõi Cực Lạc của ngài A Di Đà. Nhưng không phải vì vậy mà ngài Di Lặc kém ngài A Di Đà đâu, mà vì mỗi loại chúng sanh, có cộng nghiệp thế nào thì các ngài hóa hiện thế giới ấy cũng tương ưng mà thôi. Vì cộng nghiệp thế nào thì y báo luôn luôn tương ưng, chứ không phải Đức Phật này kém Đức Phật nọ.

Phần đông các vị Cao Đài thường hay có ý tưởng chủ quan, nói rằng pháp hội Long Hoa sắp tới rồi, như vậy không đúng, vì dựa theo trong kinh, (và nhiều người cũng đồng ý với con số tính toán như vậy) là phải tắm triệu năm nữa ngài Di Lặc mới ra đời.


HỎI: Có phải ngài Diêm Vương dưới Địa ngục thị hiện tra tấn các tội nhân như Vua Vô Yểm Túc trong phẩm Nhập Pháp Giới không?

ĐÁP: Chúng ta phải nhớ đến câu trong kinh Hoa Nghiêm rằng “Tất cả pháp giới đều tạo dựng nên bằng thần lực hải của Chư Phật, bằng nguyện lực hải của Chư Đại Bồ Tát và bằng nghiệp lực hải của chúng sanh.” Thân căn chúng ta đây tạo dựng bằng nghiệp lực, còn những tội nhân hóa thần của Vua Vô Yểm Túc tạo dựng bằng chính thần lực và nguyên lực của ngài, vì vậy hai loại chúng sanh ấy khác nhau, tuy đều gọi là chúng sanh cả, vì sao? Vì tội nhân của Vua Vô Yểm Túc là những người huyễn, huyễn tức là không có nghiệp lực mà chỉ có thần lực và nguyện lực tạo nên thôi, nên dù rằng cưa, xẻ, chặt đầu, moi ruột, móc óc, mổ sẻ v.v… thì những người huyễn đó không thọ đau đớn. Đó chỉ là những hình thức phương tiện làm gương để hóa độ những chúng sanh can cường khiến chúng cảm thấy sợ thôi. Còn cõi Địa Ngục do ngài Diêm Vương cai quản, thì cũng như mọi sự vật trong pháp giới đều không thực không hư, nhưng vì chúng ta mang nghiệp lực u mê, ám chướng, mờ mịt, nên địa ngục vẫn là thật đối với ta. Vì vậy, xuống Địa Ngục bị cưa chẻ vẫn thọ sự khổ và đau đớn khôn cùng, dầu thế, nhưng lại không chết. Còn nếu khi một hành giả quán được như huyễn tam ma đề, thì cảnh địa ngục không còn lưu ngại nữa. Trong kinh Đại Bát Nhã, ở phẩm “Hóa nhân thính pháp” nói rõ rằng, trong những pháp hội cao siêu, nếu pháp hội đó không có người nghiệp lực đến nghe, thì các vị Bồ Tát sẽ hiện những hóa thân xuống nghe, nghe để làm gương cho người khác. Hóa nhân không có nghiệp lực, nhưng hóa nhân đó vẫn có thể làm đủ thứ như người thường vậy, vẫn ăn, uống, đại tiện, tiểu tiện v.v… và tất cả chỉ đều là thị hiện. Nhưng vì không có nghiệp lực nên không có sự thọ, tức là không yêu, không ghét, không đau đớn, không vui sướng v.v… mà chỉ là do tâm lực của vị Bồ Tát đó suy động thôi. Trong kinh Hoa Nghiêm lại nói rõ rằng, (phẩm Ly thế gian trang 1405) với một vi Bồ Tát lớn, thì ngay hóa thần đó cũng có thể tạo vô lượng hóa thân để độ sanh được, hóa thân lại tạo hóa thần vô cùng tận.


HỎI: Ngài A Nan lâu thành tựu quả A La Hán vì học nhiều, đa văn mà thiếu hành, vậy chữ “hành” ở đây có phải là thiền không?

ĐÁP: Theo tôi nghĩ, nhiều phần là ngài A Nan thị hiện sự giải đãi ấy. Cũng nên nhớ rằng, các ngài Thanh Văn thường chỉ tu giới và thiền, nên có thể về giới ngài giữ không được kỹ lưỡng lắm, nhưng vẫn chỉ là thị hiện cả, thứ nữa là ngài hơi thiếu về thiền, tức là về hành thiền. Trong thiền của ngài, ngài đã vượt sắc ấm rồi, nhưng ngài cứ lãng đãng trong thọ ấm, tưởng ấm mà không vào đến hành ấm, không tiêu dung cái ngã của mình, nên không vào được đến thức ấm và không đắc được quả A La Hán. Nhưng ta cũng phải hiểu rằng những điều đó chỉ là thị hiện, vì sau này, khi Phật diệt độ, ngài bị ngài Ca Diếp quở trách, và ngài chỉ cần tu hai đêm là đắc ngay được quả A La Hán.

Thanh Văn tu hành chỉ có giới lực và định lực mà ít huệ lực, nhưng riêng đối với ngài A Nan thì ngài có nhiều huệ lực.

Đại khái đó là những câu hỏi tương đối quan trọng, còn những câu hỏi khác, tôi nghĩ rằng nếu chị nghe lâu dần dần sẽ vỡ ra thôi.


Bây giờ chúng ta xin trở về kinh…


Trước hết tôi xin tóm lược từ vị thứ 11 đến vị thứ 18 trong những lần giảng trước…

Trong các vị thiện tri thức, các ngài thường đều quán chiếu như huyễn, quán chiếu như huyễn tức là quán chiếu không thật không hư, quán chiếu vừa không, vừa giả, nhưng mỗi vị quán chiếu theo hạnh của mình. Như một vị làm hạnh bố thí, cũng vẫn là quán chiếu như huyễn, trong khi ngài bố thí đưa bát hứng đồ ăn cho mọi người, thì ngài vẫn quán thân này là huyễn, các chúng sanh đến thọ thực cũng huyễn, mà ngay cả cái bát đựng tất vô lượng đồ ăn, khởi từ điểm không hư lên cũng là huyễn mộng. Quán như vậy thì phước đức mới vô lượng, mà đồ bố thí mới vô lượng. Như vị vua Đại Quang, quán chiếu đại từ hạnh, quán đến mức tất cả cây cỏ phải nghiêng về mình, các thú dữ đổi tâm ác thành từ bi, nhưng dù vậy vẫn phải quán như huyễn, quán lòng từ khởi lên chỉ như huyễn, quán tất cã chúng sanh cũng là huyễn mộng, mà dùng pháp huyễn để trị những huyễn kia. Như trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật nói đến Từ Tam Muội, ngài kể rằng lúc đó, có năm trăm tên cướp bị vua Ba Tư Nặc khoét mắt rồi đẩy vào rừng sâu, vừa đi, vừa khóc. Đức Phật thấy những người đó có nhân duyên cũ từ nhiều kiếp trước, ngài bèn nhập từ tam muội, sau đó tự nhiên có luồng gió mát thổi đến, quyện vào mắt của năm trăm tên cướp khiến được lành lặn. Rồi Ngài nói rằng đó chỉ là do lực của từ tam muội làm thành. Vì vậy, ta phải hiểu rằng, trong bất cứ việc làm nào của một bậc Đại Giác, các ngài không bao giờ nói đến cái ta cả, vì sao? Vì nói đến cái Ta tức là còn chấp có, không, còn chấp có tự, có tha. Các ngài chỉ nói đó là sức của tam muội là như vậy mà thôi. Do đó, một vị hành giả đi con đường đạo, dù viết sách, hay giảng kinh, hoặc vào tam muội, hay ngồi tụng kinh, hoặc thọ bát quan trai v.v…nếu vẫn còn chấp có mình làm thì còn thấp, mà phải biết quán như huyễn thì cái quả mới trở nên ghê gớm, vì vậy ta phải mang tâm như huyễn để cúng dường Chư Phật là như vậy. Tất cả diễn trình của thiền định đều phải xả, xả thì mới nhiếp được lục căn trở về bên trong.

Ngài thứ 11 tức là một vị Tỳ Kheo tên là Thiện Kiến. Kinh nói rằng khi Thiện Tài đến gặp ngài Thiện Kiến thấy ngài Thiện Kiến còn rất trẻ, đi kinh hành không mau không chậm, người rất đẹp, có đến ba mươi tướng tốt. Ở đây, chúng ta nên nhớ rằng, tất cả những thân trang nghiêm tốt đẹp, hay giàu có phần đông đều do sự bố thí mà ra cả. Ngài Thiện Kiến nói rằng, ta tuổi còn trẻ, xuất gia chưa được lâu, nhưng ta tu tập từ vô lượng kiếp, ngay nơi đức Phật này, ta đã tu na-do-tha kiếp, thì ta phải hiểu rằng thời gian ở đây không thành vấn đề nửa. Sau ngài lại nói rằng ta đắc được quả giải thoát gọi là “tùy thuận đăng giải thoát.” Tùy thuận đăng là cái đèn tùy thuận căn cơ của chúng sanh mà chiếu soi, tức là ngài chuyên về bố thí pháp. Nhưng chắc chắn là trong khi bố thí pháp, ngài đồng thời cũng biết pháp đó chỉ là huyễn mộng, như vết chim bay, mà chính ngài cũng chỉ là huyễn mộng hiện lên để độ sanh, và những chúng sanh vì mê muội cứ tưởng mình là thật mà cũng chỉ là huyễn mộng mà thôi. Vì vậy, chúng ta đi trên đường Bồ Tát Đạo, thường không cần phải đi đâu xa xôi, hay làm một chuyện gì ghê gớm, mà chỉ cần độ ngay chúng sanh trước mắt mình, đó mới là quan trọng, và lúc nào chúng ta cũng có thể làm được cả. Đồng thời phải hiểu tất cả việc làm ấy đều huyễn hiện, người cho, kẻ nhận đều chập chùng ẩn hiện và nên luôn luôn phải nghĩ đến tâm từ làm lợi ích chúng sanh, cũng như không chấp ở những việc làm đó mới được. Như thế, dần dần tâm ta ngày càng lớn, càng kiên cố, xa lìa hết tất cả sự sợ hãi, và không còn có điều gì có thể lưu ngại được ta nữa.

Đến vị thứ 12, vị này là Đồng Tử Tự Tại Chủ, ngài thị hiện như một đứa trẻ nhỏ chỉ khoảng độ mười một tuổi, đứng bên bờ sông (tượng trưng cho bờ sông sanh tư), ngài đương đếm một đống cát để chơi, tức là đếm những phiền não của chúng sanh. Ngài nói rằng, ta ở nơi ngài Văn Thù Sư Lợi học được môn gọi là Nhái thiết công xảo trí chúng nghệ, tức là học tất cả những công nghệ ở thế gian, từ tướng số, chữa bệnh, toán pháp .v.v.., ngài nói về toán số cũng tương tự như trong phẩm A-tăng-kỳ mà Đức Phật nói, đại ý là khi tâm mình mở rộng vô lượng thì cũng biết được những con số vô lượng, và ngài học những công xảo này chỉ để độ cho chúng sanh, và vẫn phải quán chiếu như huyễn. Sau đó, ngài chỉ đến vị thiện tri thức khác là bà ưu Bà Di Cụ Túc. Khi Thiện Tài đến gặp vị này thì ngài đã có thiên nhãn, ngài có phước trí trang nghiêm tương ưng, nên Thiện Tài nhìn thấy y báo của vị ưu Bà Di Cụ Túc rất đẹp. Kinh tả vị này đã lớn tuổi, nhưng vẫn xinh đẹp đoan trang, mặc áo trắng, áo trắng nghĩa là ngài tu hành đã chuyển dần tàng thức của mình thành Bạch Tịnh Thức, và ngài để rủ tóc, không đeo hạt châu trên búi tóc. Cũng nên hiểu rằng thường thường hạt châu trên búi tóc tượng trưng cho pháp bảo, nhưng ngài lại không đeo, và không đeo trang sức. Trong nhà thì rỗng rang, chỉ có một cái bát nhỏ, bát đó tượng trưng cho cái điểm không hư (tức hưtâm), và ở nơi đó có thể khởi tất cả pháp giới này, vì vậy ngài đã dùng bát đó làm hiện ra đồ ăn để bố thí cho chúng sanh. Ngài bảo rằng ngài đã đắc được pháp môn gọi là Vô Tận Tạng Phước Đức Giải Thoát Môn, vì sao? Vì ngài lấy trong Diệu Tâm ấy vô số đồ cần dùng cho chúng sanh mà không bao giờ hết. chúng tôi đã giải thích nhiều lần về điểm này, vì khi vào sâu đến Bạch Tịnh Thức, hành giả có thể lấy ra vô lượng những cõi kim cương, hoặc trăm ngàn thiên nữ. Sau đó, Thiện Tài đến một vị khác là Minh Trí, ngài này cũng tu theo hạnh bố thí, nhưng có lẽ cao hơn vị trước một bậc, vì ngài Minh Trí ngồi ở giữa đường, ngoài chợ, tức là cơ duyên trí bình đẳng về cơ duyên cao hơn. Vì sao? Vì ở trong nhà thì cơ duyên gần hơn, có quen biết mới được mời tới, còn vị này thì ngồi ngay giữa chợ, cơ duyên nào đi qua cũng tiếp cả, đều độ hết, tức là tâm bình đẳng trí cao hơn. Ngài Minh Trí bảo rằng vì bố thí như vậy nên ngài đắc được môn Tùy Niệm Xuất Sanh Phước Đức Tạng. Tùy niệm có nghĩa rằng khi ngài muốn bô’ thí thì không cần đến ngoại vật như dùng đến cái bát nữa, mà chỉ cần nhiếp niệm ngẩng mặt lên hư không, thì tự nhiên sẽ có những đồ cần dùng tùy niệm của ngài mà mưa xuống để bố thí cho chúng sanh. Sau đó đến một vị khác là vị Pháp Bửu Kế, ngài cũng tu Vô lượng xuất sanh phước đức tạng, sau đó đến vị Phổ Nhãn, rồi đến vị vua Vô Yểm Túc, tức là vị vua ngồi xử những tội nhân, thị hiện rất nhiều hình phạt ghê sợ, nhưng tất cả chỉ là những hóa nhân, ngài thị hiện để răn dạy chúng sanh thôi, nên ngài tu theo Giải thoát như huyễn. Đến vị thiện tri thức sau là Vua Đại Quang, ngài nhập Đại Từ Tràng Hạnh thì tất cả chúng sanh chung quanh ngài đều khởi tâm từ cả, ngay cả cây cỏ cũng ngả xuống để hướng về ngài. Cũng như ngài Huyền Trang đi Tây Du về, cây tùng ở trong chùa ngài trụ trì đều ngả về phía Tây để đón ngài, như những vị thiền SƯ ngồi trong rừng quán tâm từ lên đến mức độ cao, thì thú dữ đều đến chầu hầu hết, chim chóc đi kiếm những hoa lạ đem đến cúng dường. Nhưng đó cũng còn thấp, quán tâm từ đến mức độ cao ghê gớm hơn nhiều, như Đức Phật, khi ngài khởi tâm từ thì có một luồng gió nổi lên chữa lành cho năm trăm tên cướp khỏi cảnh mù lòa. Trong đạo Phật, đường tu hành thì lắt lay xa vời, nhưng khi tới lại rất ghê gớm, thần biến không cùng. Nên ta thấy trong kinh, các vị thiện tri thức đều nói rằng ta tu từ vô lượng vô số kiếp, không có vị nào nói mới tu đây mà được những thần biến như vậy, rồi thì tu mãi, sẽ có cái tâm không mỏi nhàm, mà không xả bỏ, cứ làm hoài mà không còn nghĩ đến thời gian nữa.



19.- BẤT ÐỘNG ƯU BÀ DI

 

Bất Ðộng Ưu bà di nói : Ta chỉ được  "CẦU NHỨT THIẾT PHÁP VÔ YỂM TÚC TAM MUỘI QUANG MINH" này, vì tất cả chúng sanh mà nói vi diệu pháp đều làm cho hoan hỷ.


 

Lúc đó Thiện Tài đồng tử ra khỏi thành Diệu Quang đi theo đường lớn về phía Nam, chánh niệm tư duy ý nghĩa của vua Ðại Quang đã dạy, nhớ môn Bồ Tát đại từ tràng hạnh, tư duy môn Bồ Tát tùy thuận thế gian tam muội quang minh. Tăng trưởng sức phước đức tự tại nguyện bất tư nghì đó. Kiên cố trí bất tư nghì thành tựu chúng sanh đó. Quán sát đại oai đức bất tư nghì cộng thọ dụng đó. Ghi nhớ tướng bất tư nghì sai biệt đó. Suy gẫm quyến thuộc thanh tịnh bất tư nghì đó. Suy xét công hạnh bất tư nghì đó sanh tâm hoan hỉ, tâm tịnh tín, tâm mãnh lợi, tâm hân duyệt, tâm dũng dước, tâm khánh hạnh, tâm vô trược uế, tâm thanh tịnh, tâm kiên cố, tâm quảng đại, tâm vô tận.

Thiện Tài tư duy như vậy buồn khóc rơi lệ, nghĩ thiện tri thức thiệt là hi hữu, là chỗ xuất sanh tất cả công đức, xuất sanh tất cả Bồ Tát hạnh, xuất sanh tất cả Bồ Tát tịnh niệm, xuất sanh tất cả đà la ni luân, xuất sanh tất cả tam muội quang minh, xuất sanh tất cả chư Phật tri kiến, mưa khắp tất cả chư Phật pháp vũ, hiển thị tất cả Bồ Tát nguyện môn, xuất sanh nan tư trí huệ quang minh, tăng trưởng gốc mầm tất cả Bồ Tát.

Thiện Tài lại nghĩ rằng : Thiện tri thức có thể cứu hộ khắp tất cả ác đạo, có thể diễn thuyết khắp các pháp bình đẳng, có thể hiển thị khắp những đường bằng đường hiểm, có thể khai xiển khắp áo nghĩa Ðại thừa, có thể khắp khuyên phát những hạnh Phổ Hiền, có thể khắp dẫn đến thành Nhất thiết trí, có thể làm cho vào khắp pháp giới đại hải, có thể làm cho thấy khắp tam thế pháp hải, có thể khắp trao cho chúng Thánh đạo tràng, có thể khắp tăng trưởng tất cả bạch pháp.

Lúc Thiện Tài bi ai tư niệm như vậy, đức Như Lai khiến Thiên Vương hiện trên hư không bảo rằng :

Này thiện nam tử ! Có ai tu hành đúng lời dạy của thiện tri thức, chư Phật Thế Tôn thảy đều hoan hỷ. Có ai tùy thuận theo lời của thiện tri thức thời được gần bậc Nhứt thiết trí. Có ai đối với lời của thiện tri thức không nghi hoặc thời thường gặp gỡ tất cả thiện hữu. Có ai phát tâm nguyện thường chẳng rời thiện trì thức thời được đầy đủ tất cả nghĩa lợi.

Này thiện nam tử ! Ngươi nên đến Vương đô An Trụ sẽ được gặp BẤT ÐỘNG ƯU BÀ DI đại thiện tri thức.

Thiện Tài từ tam muội trí quang minh dậy, đi lần đến thành An Trụ tìm hỏi Bất Ðộng Ưu bà di.

Ðại chúng bảo rằng Bất Ðộng Ưu bà di là đồng nữ ở nhà với cha mẹ, mẹ cùng với quyến thuộc vô lượng nhơn chúng diễn nói diệu pháp.

Thiện Tài nghe nói lòng rất hoan hỷ như được gặp cha mẹ, liền đến nhà Bất Ðộng Ưu ba di.

Vào trong nhà thấy ánh sáng màu chơn kim chiếu khắp nơi, người gặp ánh sáng này thời thân tâm mát mẻ.

Ánh sáng chiếu đến thân, Thiện Tài liền chứng được năm trăm môn tam muội. Như là môn tam muội rõ tất cả tướng hy hữu, môn tam muội nhập tịch tịnh, môn tam muội xa lìa tất cả thế gian, môn tam muội phổ nhãn xả đắc, môn tam muội Như Lai tạng, v.v…

Do được năm trăm môn tam muội nên thân tâm nhu nhuyến như thai bảy ngày.

Lại nghe mùi hương, cõi trời cõi người không có được.

Thiện Tài đến chỗ Ưu bà di cung kính chắp tay nhất tâm quán sát, thấy hình sắc của Ưu bà di đoan trang xinh đẹp. Tất cả nữ nhơn trong mười phương thế giới không ai sánh kịp huống là có người hơn. Chỉ trừ đức Như Lai và chư quán đảnh Bồ Tát. Miệng Ưu bà di phát ra diệu hương.

Cung điện rất trang nghiêm và quyến thuộc của Ưu bà di này không đâu sánh bằng.

Tất cả chúng sanh không ai sanh tâm nhiễm trước đối với Ưu bà di này.

Nếu ai được tạm thời thấy Ưu bà di này thời tất cả phiền não thãy đều tự tiêu diệt, ví như trăm ngàn Ðại Phạm Thiên Vương, quyết định chẳng sanh phiền não cõi Dục.

Thập phương chúng sanh nhìn xem Ưu bà di này đều không nhàm chán. Chỉ trừ bậc đầy đủ đại trí tuệ.

Lúc đó Thiện Tài đồng tử cung kính chắp tay chánh niệm quán sát, thấy thân hình bất động Ưu bà di tự tại bất tư nghì, sắc tướng dung nhan thế gian không sánh kịp, quang minh chiếu suốt không vật gì ngăn được, vì khắp chúng sanh mà làm lợi ích. Lỗ lông nơi thân Ưu bà di thường phát ra diệu hương. Quyến thuộc vô biên, cung điện đệ nhất, công đức vô lượng không ngằn mé.

Thiện Tài vui mừng hớn hở nói kệ tán thán:

Giử gìn giới thanh tịnh

Tu hành nhẫn rộng lớn

Tinh tấn chẳng thối chuyển

Quang minh chiếu thế gian.

Nói kệ xong, Thiện Tài thưa :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Tôi nghe đức Thánh khéo chỉ bảo, xin dạy cho.

Bất Ðộng Ưu bà di dùng lời nhu nhuyến duyệt ý của Bồ Tát an ủi Thiện Tài rằng :

Lành thay, lành thay ! Thiện nam tử đã phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Này thiện nam tử ! Ta được môn giải thoát Bồ Tát nan tồi phục trí huệ tạng. Ta được Bồ Tát kiên cố thọ trì hạnh giải thoát môn. Ta được Bồ Tát nhất thiết pháp bình đẳng địa tổng trì môn. Ta được Bồ Tát chiếu minh nhất thiết pháp biện tài môn. Ta được Bồ Tát cầu nhất thiết pháp vô bì yểm tam muội môn.

Thiện Tài thưa : Bạch đức Thánh ! Cảnh giới của Bồ Tát nan tồi phục trí huệ tạng giải thoát môn nhẫn đến cảnh giới của Bồ Tát cầu nhất thiết pháp vô bì yểm tam muội môn như thế nào ?

Bất Ðộng đồng nữ nói : Này thiện nam tử ! Chỗ này khó biết.

Thiện Tài thưa : Mong đức Thánh thừa Phật thần lực giảng giải cho. Tôi sẽ nhơn thiện tri thức mà tin được, thọ được, biết được, rõ được, có thể xu nhập, quán sát, tu tập, tùy thuận, rời các phân biệt rốt ráo bình đẳng.

Bất Ðộng nói : Này thiện nam tử ! Quá khứ có một kiếp tên là Ly Cấu, Phật hiệu Tu Tý.

Thuở đó có Quốc Vương tên là Ðiển Thọ chỉ sanh một gái, chính là tiền thân của ta.

Một đêm khuya kia, lúc dẹp âm nhạc, vương phụ, vương mẫu, vương huynh, vương đệ và năm trăm đồng nữ đều đã ngủ.

Công nương ở trên lầu ngước xem tinh tú, ở trong hư không thấy đức Tu Tý Như Lai như tòa bửu sơn hai bên có vô lượng vô biên Thiên, Long, Bát Bộ và chúng Bồ Tát hầu hạ.

Thân Phật phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương không chướng ngại. Toàn thân Phật, các lỗ lông đều phát diệu hương.

Công nương nghe diệu hương của Phật thân thể nhu nhuyến, lòng hoan hỷ, bèn xuống lầu đứng trên đất, chắp mười ngón tay đảnh lễ đức Phật. Công nương lại quán sát vô kiến đảnh tướng của đức Phật, thấy thân Phật phía tả phía hữu không biết được ngằn mé. Tư duy các tướng tùy hảo của Phật không nhàm chán. Tự nghĩ thầm :

Ðức Phật Thế Tôn đây thật hành công hạnh gì mà được thân tướng tốt đẹp viên mãn quang minh đầy đủ, quyến thuộc thành tựu, cung điện trang nghiêm tốt đẹp, phước đức trí huệ thảy đều thanh tịnh, tổng trì tam muội chẳng thể nghĩ bàn, thần thông tự tại, biện tài vô ngại.

Ðức Phật biết tâm niệm của Công nương nên bảo rằng : Ngươi nên phát tâm bất khả hoại, diệt các phiền não. Nên phát tâm vô năng thắng, phá các chấp trước. Nên phát tâm không thối khiếp, nhập các pháp môn. Nên phát tâm nhẫn nại, cứu chúng sanh ác. Nên phát tâm không mê hoặc, thọ sanh khắp các loài. Nên phát tâm không nhàm đủ, cầu thấy chư Phật không thôi ngớt. Nên phát tâm không biết đủ, lãnh thọ tất cả pháp vũ của Như Lai. Nên phát tâm chánh tư duy, sanh khắp tất cả Phật pháp quang minh. Nên phát tâm đại trụ trì, chuyển khắp tất cả chư Phật pháp luân. Nên phát tâm rộng lưu thông, tùy sở thích của chúng sanh mà ban cho pháp bửu.

Công nương nghe Phật dạy những pháp như vậy liền phát tâm cầu Nhứt thiết trí, cầu Phật thập lực, cầu Phật biện tài, cầu Phật quang minh, cầu Phật sắc thân, cầu Phật tướng hảo, cầu Phật chúng hội, cầu Phật quốc độ, cầu Phật oai nghi, cầu Phật thọ mạng.

Tâm của Công nương như kim cang, tất cả phiền não nhẫn đến Nhị thừa đều không phá hoại được.

Này thiện nam tử ! Từ đời làm Công nương phát tâm như vậy đến nay, trải qua Diêm Phù Ðề vi trần số kiếp, ta còn chẳng móng một tâm niệm ái dục, huống là làm sự ấy. Trong những kiếp ấy, đối với quyến thuộc chẳng khởi một niệm sân hận, huống là với chúng sanh khác. Trong những kiếp ấy, đối với tự thân không có một niệm ngã kiến, huống là có niệm ngã sở đối với đồ vật. Từ những kiếp ấy, lúc chết lúc sanh và lúc ở trong bào thai chưa từng mê muội sanh trưởng chúng sanh và tâm vô ký, huống là những lúc khác. Trong những kiếp đó, tùy thấy một đức Phật nào, chưa từng quên mất, huống là Bồ Tát thập nhãn ngó thấy. Trong những kiếp ấy, thọ trì tất cả Như Lai chánh pháp, chưa từng quên sót một chữ một câu, nhẫn đến tất cả ngôn từ của thế tục còn chẳng quên mất, huống là lời từ kim khẩu của đức Như Lai. Trong những kiếp ấy, thọ trì tất cả Như Lai pháp hải, không một câu một chử nào mà chẳng tư duy quán sát nhẫn đến tất cả pháp thế tục cũng như vậy. Trong những kiếp ấy, thọ trì tất cả pháp hải như vậy chưa từng ở trong một pháp mà chẳng được tam muội, nhẫn đến những kỹ thuật thế gian, mỗi mỗi pháp cũng đều như vậy. Trong những kiếp ấy, trụ trì tất cả Như Lai pháp luân, tùy pháp đã trụ trì chưa từng bỏ một chữ một câu, nhẫn đến chưa sanh thế trí, chỉ trừ khi vì muốn điều phục chúng sanh. Trong những kiếp ấy, thấy chư Phật hải chưa từng ở chỗ một đức Phật nào mà chẳng thành tựu đại nguyện thanh tịnh, nhẫn đến ở chỗ Hóa Phật cũng như vậy. Trong những kiếp ấy, thấy chư Bồ Tát tu hành diệu hạnh không có một hạnh nào mà chẳng thành tựu. Trong những kiếp ấy, có bao nhiêu chúng sanh, không có một chúng sanh nào mà ta chẳng khuyên phát tâm Vô thượng Bồ đề, chưa từng khuyên ai phát tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật. Trong những kiếp ấy, nơi tất cả Phật pháp, nhẫn đến chẳng nghi hoặc có một câu một chữ. Cũng chẳng có tưởng sai khác, chẳng có tưởng phân biệt, chẳng có các thứ tưởng chẳng có tưởng chấp trước, chẳng có tưởng thắng liệt, chẳng có tưởng yêu ghét.

Này thiện nam tử ! Từ ấy đến nay, ta thường thấy chư Phật, thường thất Bồ Tát, thường thấy chơn thiện tri thức, thường nghe chư Phật nguyện, thường nghe Bồ Tát hạnh, thường nghe Bồ Tát na la mật môn, thường nghe Bồ Tát địa trí quang minh môn, thường nghe Bồ Tát vô tận tạng môn, thường nghe nhập vô biên thế giới võng môn, thường nghe xuất sanh vô biên chúng sanh giới nhơn môn. Thường dùng trí huệ quang minh thanh tịnh diệt trừ tất cả chúng sanh phiền não. Thường dùng trí huệ sanh trưởng tất cả chúng sanh thiện căn. Thường tùy chúng sanh sở thích mà hiện thân. Thường dùng ngôn âm thượng diệu thanh tịnh khai ngộ pháp giới tất cả chúng sanh.

Này thiện nam tử ! Ta được Bồ Tát cầu nhất thiết pháp vô yểm túc trang nghiêm môn. Ta được nhất thiết pháp tổng trì môn hiện bất tư nghì tự tại thần biến. Ngươi muốn thấy chăng ?

Thiện Tài thưa :

Vâng ! Bạch đức Thánh ! Tôi muốn được thấy.

Lúc đó Bất Ðộng Ưu bà di ngồi trên tòa long tạng sư tử, nhập cầu nhất thiết pháp vô yểm túc trang nghiêm tam muội môn, bất không luân trang nghiêm tam muội môn, thập lực trí luân hiện tiền tam muội môn, Phật chủng vô tận tạng tam muội môn, nhập một vạn tam muội môn như vậy.

Lúc Ưu bà di nhập tam muội môn này, mười phương đều có bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới chấn động sáu cách, đều bằng lưu ly đều thanh tịnh.

Trong mỗi mỗi thế giới có trăm ức ức tứ thiên hạ, trăm ức Như Lai, hoặc trụ Ðâu suất Thiên, nhẫn đến nhập Niết bàn, mỗi mỗi Như Lai phóng quang minh võng chiếu khắp pháp giới, đạo tràng chúng hội thanh tịnh vây quanh chuyển diệu pháp luân khai ngộ quần sanh.

Bất Ðộng Ưu bà di xuất tam muội, hỏi Thiện Tài :

Ngươi có thấy chăng ?

Thiện Tài thưa :

Vâng ! Tôi đã thấy.

Bất Ðộng Ưu bà di nói :

Ta chỉ được "CẦU NHỨT THIẾT PHÁP VÔ YỂM TÚC TAM MUỘI QUANG MINH" này, vì tất cả chúng sanh mà nói vi diệu pháp đều làm cho hoan hỷ.

Như chư đại Bồ Tát du hành hư không vô ngại như Kim Sí Ðiểu, có thể vào tất cả chúng sanh đại hải, thấy có ai thiện căn đã thành thục, liền bắt lấy để trên bờ Bồ đề.

Lại như thương gia vào đại bửu đảo lượm lấy Như Lai thập lực trí bửu.

Lại như nhà chài lưới cầm lưới chánh pháp vào biển sanh tử ở trong nước ái lược bắt chúng sanh.

Như A Tu La Vương có thể khắp khuấy động khắp tam hữu đại thành những biển phiền não.

Lại như mặt nhựt xuất hiện hư không chiếu nước ái dơ làm cho khô cạn.

Lại như mặt trăng tròn xuất hiện hư không làm cho người đáng hóa độ, tâm hoa được khai nở.

Lại như đại địa đều bình đẳng với tất cả, tất cả chúng sanh nương ở nơi đó được tăng trưởng gốc mầm tất cả pháp lành.

Lại như đại phong thổi vô ngại, có thể nhổ trốc tất cả cây lớn kiến chấp.

Như Chuyển Luân Vương du hành thế gian, dùng Tứ nhiếp pháp nhiếp các chúng sanh.

Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh ấy.

Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một đại thành tên là Vô Lượng Ðô Tát La. Trong thành đó có một xuất gia ngoại đạo tên là Biến Hành.

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Bất Ðộng Ưu bà di, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi.



Bây giờ chúng ta đi vào Vị Ưu Bà Di Bất Động thứ 19.

KINH: Này thiện nam tử, phương nam đây có một kinh đô tên là An Trụ, có Ưu Bà Di tên là Bất Động. Lúc đó Thiện Tài đồng tử ra khỏi thành Diệu Quang đi theo đường lớn về phía Nam… (bỏ một đoạn kinh...) Thiện Tài tư duy như vậy buồn khóc rơi lệ, nghĩ thiện tri thức thiệt là hy hữu, là chỗ xuất sanh tất cả công đức, xuất sanh tất cả bồ tát hạnh, xuất sanh tất cả bồ tát tịnh niệm, xuất sanh tất cả đà la ni luân…

GIẢNG: Đà la ni là những diệu đức của tâm thức, vì khi tâm thức vào sâu trong tàng thức, thì nó sẽ nở ra những diệu đức, lúc đó hành giả nhớ hết mọi thứ, như trông cái cây kia biết có bao nhiêu lá, trông con sông có thể biết có bao nhiêu giọt nữớc, nghe chim hót cũng hiểu nó nói cái gì, đó đều là những diệu đức đà la ni. Còn chữ luân có nghĩa là những cơn lốc xoáy mạnh, như khi tâm tưởng xoáy tròn thì hiện tướng ở giữa, nên xoáy tròn trôn ốc là sự chuyển động chung của pháp giới này. Nhất là tâm tưởng của chúng ta luôn luôn xoay tròn, không bao giờ có một tâm tưởng nào đi thẳng tắp cả mà phải đi theo vòng trôn ốc, vì xoay tròn nên hiện tướng, nên khi tu lên cao, nó sẽ hiện lên các thứ đà la ni. Nên phải biết rằng pháp giới này không có đường thẳng, đó chỉ là ảo tưởng của mắt thịt thô kệch này thôi, và trong kinh Phật hay dùng chữ “luân/’để chỉ tất cả mọi sự, mọi vật đều đi theo đường vòng trôn ốc cả.

KINH: Này thiện nam tử, ngươi nên đến Vương Đô An Trụ sẽ được gặp Bất Động Ưu Bà Di Đại thiện tri thức… Đại chúng bảo rằng Bất Động Ưu Bà Di là đồng nữ ở nhà với cha mẹ….

GIẢNG: “Ở nhà với cha mẹ…” cũng có nghĩa bóng là đối với một vị tu hành cao, người Mẹ tượng trưng cho Bát Nhã, còn người cha tượng trưng cho phương tiện huệ, luôn luôn hai thứ đó phải đi liền nhau như cha mẹ vậy. Như trong cuốn kinh Duy Ma Cật có nói rõ một bài kệ như sau:

Trí độ, mẹ Bồ Tát (trí độ tức là độ Bát Nhã)
Phương tiện ấy là cha
Đạo sư tất cả chúng
Đều do đấy mà ra
Pháp hỷ chính là vợ
Tâm từ bi là gái…

Nếu một hành giả đọc kinh mà được pháp hỷ, thì thấy còn thân thiết như người vợ mình, vì pháp hỷ đó không bao giờ ly mình cả. Còn tâm từ bi thì lúc nào cũng hằng khởi gần gũi như con gái mình vậy. Nên trong kinh Phật, chúng ta phải luôn nhớ lòng đại bi bình đẳng và cái tâm như huyễn.

KINH: Vào trong nhà thấy ánh sáng màu chân kim chiếu khắp nơi, người gặp ánh sáng này thời thân tâm mát mẻ…

GIẢNG: “Thân tấm mát mẻ…” nghĩa là những ánh sáng đó rất vi diệu, tác động mạnh vào tàng thức của mình nên lúc đó thấy thân tâm mát mẻ.

KINH: Ánh sáng chiếu đến thân, Thiện Tài liền chứng được năm trăm môn tam muội…

GIẢNG: Thiện Tài chứng được năm trăm tam muội vì ngài có thể vào sâu trong tàng thức sơ năng biến, vào sâu thì uyển chuyển thay những nhịp điệu rung động nên dễ dàng chuyển từ tam muội này sang tam muội khác mà không bao giờ dứt, vì vậy trong kinh nói lúc đó thân (âm nhu nhuyễn thư thai bảy ngày.

KINH: Thiện Tài đến chỗ Ưu bà di cung kính chắp tay nhất tâm quán sát, thấy hình sắc của Ưu bà di đoan trang xinh đẹp. Tất cả nữ nhân trong mười phương thế giới không ai sánh kịp huống là có người hơn. Chỉ trừ Đức Như Lai và chư quán đảnh bồ tát. Miệng Ưu Bà Di phát ra diệu hương.

GIẢNG: Trong tất cả các vị thiện tri thức, vị này được tả là vị xinh đẹp nhất, vì tất cả nữ nhân trong mười phương thế giới không ai sánh kịp, vị này hiện chánh báo rất đẹp, lại y báo thì có cung điện rất trang nghiêm.

KINH: … Lúc đó Thiện Tài đồng tử cung kính chắp tay chánh niệm quán sát, thấy thân hình bất động Ưu Bà Di tự tại bất tư nghi, sắc tướng dung nhan thế gian không sánh kịp. Quang minh chiếu suốt không vật gì ngăn dược, vì khắp chúng sanh làm lợi ích. Lổ lông nơi thân Ưu Bà Di thường phát ra diệu hương…

GIẢNG: Nói về những mùi hương thì chúng ta cần biết rằng, tất cả mọi chúng sanh, từ chư thiên, trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, người, quỉ v.v… đều phát ra mùi hương thơm hay không thơm, như hơi người chẳng hạn, vì chúng ta ngửi quen quá nên không còn nhận thấy nữa. Thí dụ như người hay uống rượu thì thân thể họ phát ra mùi hôi của rượu, người hay ăn tiết canh, thì phát ra mùi tanh của máu thịt, cũng vậy người ăn chay thì có một mùi thanh tịnh khác, còn người đồng nữ hay đồng nam cũng có mùi riêng của họ, nhưng chúng ta vì cái mũi thịt này quá thô nên không thể phân biệt rõ những mùi vị đó. Chúng ta thường chỉ nhận được một số mùi vị mà chúng ta hay chú ý đến, chẳng hạn như người nghiện rượu thì họ ngửi hơi rượu rất thính. Càng tu cao bao nhiêu thì mùi hương lại càng diệu hơn, thơm như mùi hương chiên đàn, hoặc như một mùi hoa trên trời, rất thơm, nếu có túc duyên một người nào có thể ngửi được những mùi hương này đều cảm thấy thân tâm nhu nhuyễn thanh tịnh.

Trở lại vị thiện tri thức Ưu Bà Di, ngài đắc được môn tam muội Giải thoát Bồ Tát nan tồi phục trí huệ tạng.

KINH: Này thiện nam tử, ta được môn giải thoát Bồ Tát nan tồi phục trí huệ tạng, Ta được bồ tát kiên cố thọ trì hạnh giải thoát môn. Ta được bồ tát nhất thiết pháp bình đẳng địa tổng trì môn. Ta được bồ tát chiếu minh nhất thiết pháp biện tài môn. Ta được bồ tát cầu nhất thiết pháp vô bì yểm tam muội môn…

GIẢNG: Vị này đắc được nhiều thứ môn nhưng chung qui chúng ta chỉ nhớ rằng vẫn là cái tâm thức ấy xoay vần thành nhiều môn tam muội. Như “Giải thoát bồ tát nan tồi phục trí huệ tạng” tức là trí huệ khó chế phục, nói cách khác, ngài được cái Phật tri kiến, tức là cái tâm mà ngoài cái đó chẳng còn cái gì khác. Vì vậy, ngài được “Bồ tát nhất thiết pháp bình đẳng địa tổng trì môn” cũng từ diệu tâm ấy mà ra, tâm thức xoay tròn một cách nào đó để nhập vào tam muội bình đẳng, thấy không có pháp nào hơn pháp nào cả, tất cả cảnh giới đều bình đẳng… Ngài lại được “Bồ tát chiếu minh nhất thiết pháp biện tài môn,” vì sao? Vì ngài nhìn rõ tất cả pháp nên có biện tài vô tận. Rồi ngài lại được “Bồ tát cầu nhất thiết pháp vô bì yểm tam muội môn,” cũng vậy, cầu tất cả pháp, biết tất cả pháp mà “vô bì yểm” tức là không mỏi nhọc. Rồi ngài lại kể cho Thiện Tài nghe khi ngài tu trong vô lượng kiếp, không bao giờ ngài khởi lên một niệm tham dục cả, và cũng không bao giờ có niệm ngã kiến, tức là không bao giờ nghĩ là có mình.

KINH: Trong những kiếp ấy trụ trì tất cả Như Lai pháp luân…

GIẢNG: Ngài nghe tất cả các pháp Như Lai, mà pháp nào cũng tu cùng trì.

KINH: Tùy pháp đó thụ trì chưa từng bỏ một chữ, một câu, nhẫn đến chưa từng ở trong một pháp mà chẳng được tam muội, nhẫn đến trong một chữ, một câu chưa hề sanh thế trí…

GIẢNG: “Chưa hề sanh thế trí…” tức là không dùng thế gian trí để phân biệt ý nghĩa vi diệu của lời kinh, mà lúc nào cũng dùng cái trí huệ mầu nhiệm vô phân biệt. Thí dụ như một người thường, trông thấy cái cây thì nghĩ rằng cái cây kia là vật, đẹp, xấu, Ưa thích hay không Ưa thích, dùng ý thức phân biệt chủ thể và khách thể có thể dùng vào việc gì nhưng cái nhìn của Bồ Tát lại khác, các ngài nhìn cái cây đó chỉ thây toàn là quang minh và những quang minh ấy đều mọc lên từ tâm, và nếu cây có nhiều bóng mát thì các ngài lại có thể đặt một nồi nước để cho những chúng sanh đi qua ngồi nghỉ mát có nước mà uống, và các ngài lại quán chiếu rằng cây đó cũng là huyễn, mà chính mình cũng huyễn, và giữa mình và cái cây ấy chẳng phải là một, cũng chẳng phải là khác, không bao giờ sanh thế trí cả, mà luôn luôn khởi sanh vô phân biệt trí.



20.- BIẾN HÀNH NGOẠI ĐẠO



Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết  "CHÍ NHẤT THIẾT XỨ BỒ TÁT HẠNH" này.

 

Thiện Tài Ðồng tử được nghe pháp nơi Bất Ðộng Ưu bà di rồi, chuyên tâm nghĩ nhớ lời dạy thảy đều tin thọ tư duy quán sát, đi lần đến thành Ðô Tát La. Lúc vào thành mặt trời đã lặn, Thiện Tài đi khắp phố phường, khắp các ngã đường tìm Biến Hành.

Thành đông có núi tên là Thiện Ðức. Giửa đêm Thiện Tài thấy đỉnh núi ấy, có cây đồi gộp đều sáng chói như mặt trời mới mọc.

Thiện Tài mừng rỡ nghĩ rằng : Tôi chắc được gặp thiện tri thức nơi núi ấy.

Thiện Tài liền ra khỏi thành lên núi ấy, thấy BIẾN HÀNH NGOẠI ĐẠO, đi kinh hành chậm rải nơi khoảng đất bằng trên núi. Dung sắc viên mãn, oai quang chiếu sáng hơn cả Ðại Phạm Thiên Vương. Có mười ngàn trời Phạm Chúng vây quanh.

Thiện Tài đến đảnh lễ nơi chân Biến Hành, hữu nhiễu vô lượng vòng chắp tay cung kính thưa :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin vì tôi mà giảng nói :

Biến Hành nói :

Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ta đã an trụ chí nhất thiết xứ Bồ Tát hạnh, đã thành tựu phổ quán thế gian tam muội môn, đã thành tựu vô y vô tác thần thông lực, đã thành tựu phổ môn Bát Nhã Ba la mật.

Này thiện nam tử ! Ta ở khắp nơi trong thế gian, những hình mạo, những hạnh giải những chết sống, tất cả các loài : Loài Trời, loài Rồng, loài Dạ Xoa, loài Càn Thát Bà, loài A Tu La, loài Ca Lâu La, loài Khẩn Na La, loài Ma Hầu La Già, Ðịa ngục, Súc sanh, Diêm La Vương, loài Phi Nhơn, loài Người.

Tất cả các loài hoặc trụ kiến chấp, hoặc tin Nhị thừa, hoặc có kẻ tin ưa đạo Ðại thừa. Trong tất cả chúng sanh như vậy, ta dùng những phương tiện, những trí môn mà làm lợi ích cho họ.

Như là hoặc vì họ mà diễn nói tất cả kỹ nghệ thế gian cho họ được đầy đủ trí đà la ni tất cả xảo thuật.

Hoặc vì họ mà diễn nói tứ nhiếp phương tiện cho họ đầy đủ đạo Nhứt thiết trí.

Hoặc vì họ mà diễn nói các môn Ba la mật, cho họ hồi hướng về Nhứt thiết trí.

Hoặc vì họ mà tán dương tâm đại Bồ đề, cho họ chẳng mất tâm Vô thượng đạo.

Hoặc vì họ mà tán dương những hạnh Bồ Tát, cho họ được hoàn mãn nguyện tịnh Phật độ, cứu chúng sanh.

Hoặc vì họ mà diễn nói hể tạo nghiệp ác thời bị những khổ báo địa ngục vv… cho họ nhàm lìa những ác nghiệp.

Hoặc vì họ mà diễn nói cúng dường chư Phật trồng các căn lành, quyết định được quả Nhứt thiêt trí, cho họ phát sanh tâm hoan hỷ.

Hoặc vì họ mà diễn nói những công đức của Như Lai Ðẳng Chánh Giác, cho họ thích thân Phật, cầu Nhứt thiết trí.

Hoặc vì họ mà diễn nói oai đức của chư Phật cho họ ưa thích thân bất hoại của Phật.

Hoặc vì họ mà diễn nói thân tự tại của Phật, cho họ cầu thân đại oai đức của Như Lai.

Lại này thiện nam tử ! Trong thành Ðô Tát La này khắp mọi nơi, tất cả tộc loại, trong nhơn chúng hoặc nam hoặc nữ, ta đều dùng phương tiện thị hiện đồng thân hình như họ, để tùy cơ nghi mà thuyết pháp độ họ.

Chúng nhơn ấy đều chẳng biết ta là ai, từ đâu đến, chỉ làm cho người nghe như thiệt tu hành.

Này thiện nam tử ! Như sự làm lợc ích chúng sanh trong thành này, khắp cõi Diêm Phù Ðề, những thành ấp tụ lạc chỗ có người ở, ta cũng đều làm lợi ích cho mọi người như vậy.

Này thiện nam tử ! Trong Diêm Phù Ðề có chín mươi sáu chúng đều sanh kiến chấp khác nhau. Ở trong những chúng đó, ta phương tiện đều phục cho họ bỏ lìa những kiến chấp.

Như ở Diêm Phù Ðề, ba thiên hạ kia cũng vây.

Như tứ thiên hạ, khắp Ðại Thiên thế giới cũng vậy.

Ðến mười phương vô lượng thế giới các chúng sanh hải, ta đều ở trong đó tùy tâm sở thích của các chúng sanh, dùng những phương tiện, những pháp môn mà hiện những sắc thân dùng các thứ ngôn âm mà vì họ thuyết pháp cho họ được lợi ích.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết "CHÍ NHẤT THIẾT XỨ BỒ TÁT HẠNH" này.

Như chư đại Bồ Tát, thân cùng đồng với số chúng sanh, được cùng chúng sanh không thân sai khác, dùng thân biến hóa, vào khắp các loài, nơi tất cả xứ đều hiện thọ sanh, hiện ở khắp chỗ chúng sanh thanh tịnh quang minh soi sáng thế gian, dùng vô ngại nguyện trụ tất cả kiếp, được những hạnh vô đẳng như đế võng, thường siêng lợi ích tất cả chúng sanh, hằng ở chung với họ mà không chấp trước, khắp tam thế thảy đều bình đẳng, dùng trí vô ngã soi khắp mọi nơi, dùng đại bi tạng quán sát tất cả.

Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.

Này thiện nam tử ! Phương nam đây có một nước tên là Quảng Ðại, nơi đó có Trưởng giả buôn hương tân là Ưu Bát La Hoa.

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Thiện Tài đồng nử đảnh lễ nơn chân Biến Hành, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.



KINH: Này thiện nam tử, phương Nam đây có một đại thành tên là Vô Lượng Đô-Tát-La. Trong thành đó có một xuất gia ngoại đạo tên là Biến Hành.

GIẢNG: Đô-Tát-La có nghĩa là Hạnh Phúc.

KINH: Thiện Tài đồng tử được nghe pháp nơi Bất Động Ưu Bà Di rồi, chuyên tâm nghĩ nhớ lời dạy bảo, thảy đều tin thọ tư duy, quán sát. Đi lần đến thành Đô-Tát-La. Lúc vào thành mặt trời đã lặn, Thiện Tài đi khắp phố phường, khắp các ngã đường tìm Biến Hành. Thành Đông có núi tên là Thiện Đức. Giữa đêm Thiện Tài thấy đỉnh núi ấy, cỏ cây, đồi gộp đều sáng chói như mặt trời mới mọc…

GIÁNG: Trong kinh thường tả, những vị tu hành cao, ngồi ở chỗ nào thì hào quang sáng chói tỏa ra đầy khắp.

KINH: … Thiện Tài liền ra khỏi thành lên núi ấy, thấy Biến Hành ngoại đạo đi kinh hành chậm rãi nơi khoảng đất bằng trên núi. Dung sắc viên mãn, oai quang chiếu sáng hơn cả Đại Phạm Thiên Vương. Có mười ngàn trời Phạm Chúng vây quanh…

GIẢNG: “Đi kinh hành chậm rãi…” chúng ta phải hiểu là ngài tu theo vừa chỉ, vừa quán. Trong khi đi chú tâm vào đó tức là tu chỉ, còn trong khi đi kinh hành ngài suy nghĩ, hoặc quán xét điều gì đó thì gọi là quán. Như trong kinh A Di Đà, khi chúng sanh ở cõi đó đi cúng dường Chư Phật rồi, trở về nhà ăn cơm xong đi kinh hành. “Ăn cơm” tức là nghe pháp, ăn pháp hỷ, sau đó tu chỉ quán, chứ trên đó đâu cần phải ăn cơm. Nên trong kinh.nói nhiều khi rất đơn sơ, nhưng chúng ta cần phải hiểu cái nghĩa sâu của nó. Còn cái tên “Biến Hành” tức là đi khắp mọi chỗ, vị này đi tất cả mọi chỗ. Cũng như trong phẩm Thập hồi hướng, chúng ta thấy có “trí nhất thiết xứ hồi hướng” có nghĩa rằng tâm tưởng hồi hướng của hành giả phải đi khắp tất cả mọi chỗ, như vậy cũng gọi là biến hành. Nhưng vị này rất cao rồi, vì ngoài sự đi vào tâm tưởng của chúng sanh, ngài còn có thể hóa thân khắp mọi chỗ để độ sanh nữa.

KINH:… Biến Hành nói: Lành thay, lành thay, nầy thiện nam tử, ta đã an trụ chí-nhất-thiết-xứ bồ-tát- hạnh, đã thành tựu phổ quán thế gian tam muội môn, đã thành tựu vô y, vô tác thần thông lực, đã thành tựu phổ môn bát nhã ba la mật.

GIẢNG: Thành tựu vô y vô tác thần thông lực là đã ghê gớm lắm rồi, mà ngài còn thành tựu phổ môn bát nhã ba la mật nữa. Bát nhã tức bát nhã, phổ môn tức đại bi. Ngài dùng bát nhã đại bi đó để hóa thân đi khắp tất cả các xứ để làm bồ tát hạnh, nơi ác đạo nào ngài cũng vào, từ địa ngục, các nẻo luân hồi.

KINH: Nầy thiện nam tử, ta ở khắp nơi trong thế gian, những hình mạo, những hạnh giải, những chết sống, tất cả các loài: loài trời, loài rồng, loài Dạ Xoa, loài Càn Thát Bà, loài A Tu La, loài Ca Lâu La, loài Khẩn Na La, loài Ma Hầu La Già, Địa ngục, súc sanh, Diêm La Vương, loài phi nhơn, loài người… Lại này thiện nam tử, trong thành Đô Tát La này, khắp mọi nơi, tất cả tộc loại, trong nhơn chúng hoặc nam, hoặc nữ, ta đều dùng phương tiện thị hiện đồng thân hình như họ, để tùy cơ nghi mà thuyết pháp độ họ… Đến mười phương vô lượng thế giới các chúng sanh hải, ta đều ở trong đó tùy tâm sở thích của các chúng sanh, dùng những phương tiện, những pháp môn mà hiện những sắc thân, dùng các thứ ngôn âm mà vì họ thuyết pháp cho họ được lợi ích…

GIẢNG:Chỗ này, phần nhiều các ngài nói về phương tiện huệ để độ sanh. Nên phải hiểu chữ “phương tiện” và chữ “Đại bi” rất quan trọng. Khi một hành giả tu cao, thì vị đó có thể làm ra những hóa thân bời bời đi khắp mọi nơi để độ sanh, còn người tu hành ở dưới chưa có hóa thân thì giỏi lắm suốt đời cũng chỉ độ được vài ngàn người là cùng.



KINH THỦ LĂNG NGHIÊM


Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám

 

THẬP HẠNH

 

A-nan, thiện-nam-tử đã thành Phật-tử rồi, đầy-đủ diệu-đức vô-lượng của Như-lai và tùy-thuận mười phương; gọi là Hoan-hỉ-hạnh.

Khéo biết làm lợi-ích cho tất-cả chúng-sinh; gọi là Nhiêu-ích-hạnh.

Tự-giác và giác-tha, được không chống trái; gọi là Vô-sân-hận-hạnh.

Theo các chủng-loại mà hiện ra sắc-thân cùng-tột vị-lai, ba đời đều bình-đẳng, mười phương được thông-suốt; gọi là Vô-hận-hạnh.

Tất-cả đều hợp về đồng, nơi các thứ pháp-môn, được không sai-lầm; gọi là Ly-si-loạn-hạnh.

Rồi ở trong đồng, hiện ra các cái khác, nơi mỗi mỗi tướng khác, mỗi mỗi đều thấy là đồng; gọi là Thiện-hiện-hạnh.

Như vậy, cho đến mười phương hư-không, đầy khắp vi-trần và trong mỗi mỗi vi-trẩn hiện ra thập phương thế-giới; hiện vi-trần, hiện thế-giới, không ngăn-ngại nhau; gọi là Vô-trước-hạnh.

Các thứ hiện-tiền, đều là Đệ-nhất-ba-la-mật-đa; gọi là Tôn-trọng-hạnh.

Viên-dung như vậy, có thể thành-tựu quy-tắc của chư Phật mười phương; gọi là Thiện-pháp-hạnh.

Mỗi mỗi đều là Nhất-chân-vô-vi Thanh-tịnh-vô-lậu, vì tính bản-nhiên là như vậy; gọi là Chân-thật-hạnh.




21.- TRƯỞNG GIẢ ƯU BÁT LA HOA

 

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết  “PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU HÒA CÁC THỨ HƯƠNG” đây.

 


Nhờ thiện tri thức dạy bảo, Thiện Tài chẳng đoái thân mạng, chẳng ham của báu, chẳng thích nhơn chúng, chẳng mê ngũ dục, chẳng luyến quyến thuộc, chẳng trọng ngôi vua.

Chỉ nguyện cứu độ tất cả chúng sanh, chỉ nguyện nghiêm tịnh tất cả Phật độ, chỉ nguyện cúng dường tất cả chư Phật, chỉ nguyện chứng biết thật tánh của các pháp, chỉ biết nguyện tu tập biển công đức lớn của tất cả của Bồ Tát, chỉ nguyện tu hành tất cả công đức trọn không thối chuyển, chỉ nguyện hằng ở trong tất cả kiếp dùng đại nguyện lực tu Bồ Tát hạnh, chỉ nguyện vào khắp tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng, chỉ nguyện nhập một môn tam muội mà hiện khắp tất cả môn tam muội tự tại thần lực, chỉ nguyện ở trong một lỗ lông của Phật, thấy tất cả Phật tâm không nhàm đủ, chỉ nguyện được tất cả pháp trí huệ quang minh, có thể thọ trì pháp tạng của chư Phật.

Thiện Tài chuyên cầu công đức của tất cả chư Phật và Bồ Tát như vậy, đi lần qua thành Quảng Ðại, đến chỗ TRƯỞNG GIẢ ƯU BÁT LA HOA, đảnh lễ chân Trưởng giả hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay cung kính thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề muốn cầu trí huệ bình đẳng của tất cả Phật. Muốn đủ vô lượng đại nguyện của tất cả Phật. Muốn tịnh sắc thân tối thượng của tất cả Phật. Muốn thấy pháp thân thanh tịnh của tất cả Phật. Muốn biết trí thân quảng đại của tất cả Phật. Muốn tịnh trị những hạnh của tất cả Bồ Tát. Muốn chiếu sáng tam muội của tất cả Bồ Tát. Muốn an trụ tổng trì của tất cả Bồ Tát. Muốn diệt trừ tất cả chướng ngại. Muốn du hành tất cả thế giới mười phương. Mà tôi chưa biết thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo, để có thể xuất sanh Nhứt thiết chủng trí.

Trưởng giả nói :

Lành thay, Lành thay ! Thiện nam tử có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Này thiện nam tử ! Ta khéo biết rõ tất cả những thứ hương, cũng biết phương pháp điều hiệp tất cả thứ hương. Như là tất cả thứ hương, tất cả hương đốt, tất cả hương thoa, tất cả hương bột.

Ta cũng biết chỗ xuất sanh tất cả thứ hương như vậy.

Ta lại khéo biết Thiên hương, Long hương, Dạ Xoa hương, Càn Thát Bà hương, A Tu La hương, Ca Lâu La hương, Khẩn Na La hương, Ma Hầu La Già hương, Nhơn hương, Phi Nhơn hương.

Ta lại khéo biết các thứ hương trị bịnh. Như là hương dứt ác, hương sanh hoan hỷ, hương thêm phiền não, hương diệt phiền não, hương làm cho ở nơi pháp hữu vi sanh ưa mến, hương làm cho sanh lòng nhàm lìa pháp hữu vi, hương bỏ những kiêu mạn phóng dật, hương phát tâm niệm Phật, hương chứng hiểu pháp môn, hương Thánh thọ dụng, hương tất cả Bồ Tát sai biệt, hương tất cả địa vị Bồ Tát. Các thứ hương như vậy, hình tướng sanh khởi, xuất hiện thành tựu cảnh giới phương tiện thanh tịnh an ổn, oai đức nghiệp dụng và cùng căn bổn, ta đều biết rõ cả.

Này thiện nam tử ! Ở nhơn gian có thứ hương tên là Tượng Tạng, nhơn rồng đấu nhau mà sanh. Nếu đốt một hoàn, liền nổi mây hương che trùm vương đô, trong bảy ngày mưa thơm pháy pháy. Nếu đeo trên thân thời thân thành màu chơn kim. Nếu giắt trong y phục, cung điện, lầu gác, cũng đều màu chơn kim. Nếu gió thổi vào trong cung điện, chúng sanh ngửi được, thời trọn bảy ngày đêm hoan hỷ thơ thới, khoái lạc không bịnh chẳng xâm hại nhau, lìa các ưu khổ, chẳng kinh chẳng sợ, chẳng loạn chẳng giận, thương mến nhau, chí ý thanh tịnh. Ta biết như vậy rồi bèn vì họ mà thuyết pháp, cho họ quyết định phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Này thiện nam tử ! Núi Ma la Gia xuất sanh chiên đàn hương tên là Ngưu Ðầu. Nếu dùng hương này thoa trên thân, thời dầu vào hầm lửa cũng chẳng bị cháy.

Này thiện nam tử ! Trong biển có hương tên là Vô Năng Thắng, nếu đem thoa trống và các loa ốc, lúc phát tiếng lên thời tất cả quân địch đều tự thối tán.

Này thiện nam tử ! Ở bên ao A Nậu Ðạt xuất sanh trầm thủy hương tên là Liên Hoa Tạng, nếu đốt chừng bằng hạt mè, thời hơi hương lan khắp Diêm Phù Ðề chúng sanh ngửi hương này thời lìa tất cả tội, giới phẩm thanh tịnh.

Này thiện nam tử ! Núi Tuyết có hương tên là A Lô Na, nếu có chúng sanh ngửi hương này thời tâm họ quyết định lìa những nhiễm trước, ta vì họ mà thuyết pháp, tất cả đều được ly cấu tam muội.

Này thiện nam tử ! Trong cõi La Sát có thứ hương tên là Hải Tạng. Hương này chỉ có Chuyển Luân Vương được dùng. Nếu đốt một viên hương này để xông, thời Vương và bốn bộ binh đều bay đi trên không.

Này thiện nam tử ! Trong Trời Thiện Pháp có thứ hương tên là Tịnh Trang Nghiêm, nếu đốt lên một viên, liền khiến khắp chư Thiên đều niệm Phật.

Này Thiện Nam Tử ! Trời Dạ Ma có thứ hương tên là Tịnh Tạng, nếu đốt lên một viên, thời tất cả trời Dạ Ma đều vân tập đến chỗ Dạ Ma Thiên Vương để nghe pháp.

Này thiện nam tử ! Trong trời Ðâu Suất có thứ hương tên là Tiên Ðà Bà, nếu đốt lên một viên trước chỗ ngồi của đức Nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát, thời nổi mây hương lớn khắp pháp giới, khắp mưa tất cả những đồ cúng dường, để cúng dường tất cả chư Phật, Bồ Tát.

Này thiện nam tử ! Cõi trời Thiện Biến Hóa có thứ hương tên là Ðoạt Ý nếu đốt lên một viên thời trong bảy ngày khắp mưa tất cả những đồ trang nghiêm.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết “PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU HÒA CÁC THỨ HƯƠNG” đây.

Như chư đại Bồ Tát xa lìa tất cả tập khí của các pháp, chẳng nhiễm thế dục, dứt hẳn nơm rọ của chúng ma phiền não, thoát khỏi cõi hữu lậu, dùng hương trí huệ để tự trang nghiêm. Nơi các thế gian đều không nhiễm trước. Thành tựu đầy đủ giới vô trước, thanh tịnh trí vô trước, đi trong cảnh vô trước, ở tất cả xứ đều không chấp trước. Tâm của các Ngài bình đẳng, không chấp trước, không y tựa.

Ta thế nào biết được diệu hạnh đó, nói được công đức đó, hiểu được giới môn thanh tịnh của các Ngài, thị được công hạnh không sai lầm của các Ngài làm, biện được thân khẩu ý lìa nhiễm của các Ngài.

Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một thành lớn tên là Lâu Các, trong thành có một người lái thuyền tên là Bà Thi La.

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Trưởng giả, Ưu Bát La Hoa, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.



KINH: Này thiện nam tử, phương Nam đây có một nước tên là Quảng Đại, nơi đó có trưởng giả buôn hương tên là Ưu Bát La Hoa. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học bồ tát hạnh, tu bồ tát đạo…. Nhờ thiện trí thức dạy bảo, Thiện Tài chẳng đoái thân mạng, chẳng ham của báu, chẳng thích nhơn chúng, chẳng mê ngũ dục, chẳng luyến quyến thuộc, chẳng trọng ngôi vua…

GIẢNG: Khi một hành giả tu hành đến mức độ cao, thì tất cả ngoại cảnh, không còn bị thu hút và đắm nhiễm nữa.

KINH: Chỉ nguyện cứu độ tất cả chúng sanh, chỉ nguyện nghiêm tịnh tất cả Phật độ, chỉ nguyện cúng dường tất cả Chư Phật… Chỉ nguyện ở trong mỗi lỗ lông của Phật, thấy tất cả Phật tâm không nhàm đủ, chỉ nguyện được tất cả pháp trí huệ, quang minh, có thể thọ trì pháp tạng của chư Phật. Thiện Tài chuyên cầu công đức của tất cả chư Phật và Bồ Tát như vậy, đi lần qua thành Quảng Đại, đến chỗ trưởng giả Ưu Bát La Hoa… Bạch đức thánh, tôi đã phát tâm vô thượng Bồ Đề muốn cầu trí huệ bình đẳng của tất cả Phật. Muốn thấy pháp thân thanh tịnh của tất cả Phật… Muốn an trụ tổng trì của tất cả Bồ Tát. Muốn diệt trừ tất cả chứng ngại. Muốn du hành tất cả mười phương… Này thiện nam tử, ta khéo biết rõ tất cả những thứ hương, cũng biết phương pháp điều hiệp tất cả thứ hương, tất cả hương đốt, tất cả hương thoa, tất cả hương bột. Ta cũng biết chỗ xuất sanh tất cả thứ hương như vậy.

GIẢNG: Vậy, chữ “hương” nghĩa ở đây là gì? Ngoài cái nghĩa thế đế là ngài buôn hương thật, nhưng theo nghĩa bóng thì đó là tất cả những hương tu hành của ngài, đó là giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương. Chữ “hương” ở đây cũng ám chỉ đó là một pháp môn tu hành nữa, ngoài ra, hương cũng tượng trưng cho sự hồi hướng, và sự hồi hướng đó làm cho thiện căn của mình lớn ra rất nhiều.



22.- BÀ THI LA

 

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được  “ĐẠI BI TRÀNG HẠNH” này.


 

Bấy giờ Thiện Tài đi về phía thành Lâu Các, quán sát đường sá. Như là xem đường cao thấp, xem đườngg bằng hiễm, đường sạch dơ, đường cong ngay. Tự nghĩ rằng : Tôi phải thân cận thiện tri thức đó. Thiện tri thức là nhơn thành tựu tu hành những đạo Bồ Tát, là nhơn thành tựu tu hành đạo Ba la mật, là nhơn thành tựu tu hành đạo nhiếp chúng sanh, là nhơn thành tựu tu hành đạo vào khắp pháp giới vô ngại, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến tất cả chúng sanh trừ ác huệ, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến các chúng sanh lìa kiêu mạn, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến các chúng sanh diệt trừ phiền não, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến tất cả chúng sanh bỏ những kiến chấp, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến các chúng sanh nhỗ tất cả gai ác độc, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến tất cả chúng sanh đến thành Nhứt thiết trí.

Tại sao vậy ?

Vì ở chỗ thiện tri thức được tất cả thiện pháp. Vì nương sức thiện tri thức được đạo Nhứt thiết trí.

Thiện tri thức rất là khó thấy khó gặp.

Thiện Tài đồng tử suy nghĩ như vậy, đi lần đến thành Lâu Các, thấy BÀ THI LA đương đứng trên bở biển ở ngoài cửa thành. Trăm ngàn thương gia và vô lượng nhơn chúng vây quanh ông.

Bà Thi La vì họ mà nói đại hải pháp phương tiện khai thị Phật công đức hải.

Thiện Tài đến lễ chân Bà Thi La hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay cung kính thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo. Xin vì tôi mà nói.

Bà Thi La nói :

Lành thay, lành thay ! Thiện nam tử đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề nay lại có thể hỏi nhơn duyên sanh đại trí, nhơn duyên dứt trừ tất cả khổ sanh tử, nhơn duyên đến châu đại bửu nhất thiết trí.

Nhơn duyên thành tựu đại thừa bất hoại. Nhơn duyên xa lìa sự bố úy sanh tử an trụ trong những vòng tam muội tịch tịnh của hàng Nhị thừa. Nhơn duyên ngồi xe đại nguyện đi khắp mọi nơi thật hành Bồ Tát hạnh vô ngại thanh tịnh. Nhơn duyên dùng Bồ Tát hạnh trang nghiêm nhất thiết trí thanh tịnh. Nhơn duyên quán sát khắp tất cả các pháp mười phương đều vô ngại thanh tịnh. Nhơn duyên mau có thể xu nhập biển nhất thiết trí thanh tịnh.

Này thiện nam tử ! Ta ở trong đường trên bờ biển ngoài cửa thành Lâu Các này mà tịnh tu hạnh Bồ Tát đại bi tràng.

Này thiện nam tử ! Ta xe thấy chúng sanh nghèo cùng ở Diêm Phù Ðề này mà tu các khổ hạnh để lợi ích họ. Làm cho họ được thỏa mãn theo sở nguyện của họ. Trước đem thế lợi cho họ được đầy đủ rồi ban cho họ chánh pháp, cho họ hoan hỷ, cho họ tu phước hạnh, cho họ đạo sanh trí, cho họ thêm sức thiện căn, cho họ phát Bồ đề tâm, cho họ tịnh Bồ đề nguyện, cho họ vững chắc sức đại bi, cho họ tu đạo diệt sanh tử, cho họ chẳng nhàm hạnh sanh tử, cho họ nhiếp tất cả chúng sanh hải, cho họ tu tất cả công đức hải, cho họ chiếu rõ tất cả pháp hải, cho họ thấy tất cả Phật hải, cho họ vào Nhứt thiết chủng trí hải.

Này thiện nam tử ! Ta ở nơi đây suy gẫm như vậy, nghĩ tưởng như là, lợi ích như vậy, cho tất cả chúng sanh.

Này thiện nam tử ! Ta biết trong biển, tất cả đảo châu báu, tất cả chỗ có châu báu, tất cả loại châu báu, tất cả thứ châu báu. Ta biết trao dồi tất cả châu báu, xoi xỏ tất cả châu báu, sản xuất tất cả châu báu, làm tất cả châu báu. Ta biết tất cả bửu khí, tất cả bửu dụng, tất cả bửu cảnh giới, tất cả bửu quang minh. Ta biết tất cả chỗ cung điện của rồng, tất cả chỗ cung điện của Dạ Xoa, tất cả chỗ cung điện của Bộ Ða. Ta đều khéo xa tránh những chỗ đó để khỏi những tai nạn. Ta cũng biết rõ chỗ nước xoáy, chỗ cạn sâu sóng mòi xa gần, màu nước tốt xấu. Ta cũng biết rõ nhựt, nguyệt, tinh tú vận hành độ số, ngày đêm sớm chiều, thời tiết dài ngắn. Ta cũng biết rõ trên thuyền, sắt, gỗ, cứng chắc, mềm yếu, máy móc rít trơn, nước lớn nhỏ, gió nghịch thuận. Tất cả những sự tướng an nguy như vậy, ta đều biết rõ cả, nên đi thời đi, nên đậu thời đậu.

Này thiện nam tử ! Ta dùng trí huệ đã thành tựu đó để thường lợi ích tất cả chúng sanh.

Này thiện nam tử ! Ta dùng thuyền tốt chở các thương gia đi đường yên ổn, lại thuyết pháp cho họ hoan hỷ. Ta đưa họ đến chỗ châu báu, cho họ đầy đủ châu báu. Rồi ta đưa họ về bổn xứ.

Này thiện nam tử ! Ta đem thuyền lớn qua lại như vậy, chưa có lần nào bị tổn thất.

Nếu ai thấy thân ta, nghe ta thuyết pháp, thời họ trọn chẳng còn sợ biển sanh tử, mà được vào biển nhất thiêt trí, tất có thể tiêu diệt những biển ái dục, có thể dùng trí quang chiếu sáng biển tam thế, có thể làm hết biển khổ của tất cả chúng sanh, có thể làm sạch tâm hải của tất cả chúng sanh, có thể nghiêm tịnh tất cả sát hải, có thể qua đến khắp biển lớn mười phương, có thể biết khắp căn hải của tất cả chúng sanh, rõ biết khắp hạnh hải của tất cả chúng sanh, có thể thuận khắp tâm hải của tất cả chúng sanh.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được  “ĐẠI BI TRÀNG HẠNH” này.

Nếu có ai thấy ta, nghe đến ta, cùng ta đồng ở , nhớ tưởng đến ta, thời đều chẳng phí uổng.

Như chư đại Bồ Tát khéo du hành trong biển lớn sanh tử, chẳng nhiễm tất cả những biện phiền não, có thể bỏ tất cả những biển vọng kiến, có thể quán sát những biển pháp tánh, có thể dùng tứ nhiếp để nhiếp biển chúng sanh, đã khéo an trụ biển nhất thiết trí, có thể diệt trừ biển chấp trước của tất cả chúng sanh , có thể bình đẳng trụ nơi biển tất cả thời gian, có thể dùng thần thông độ biển chúng sanh, có thể theo thời nghi điều phục biển chúng sanh.

Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.

Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có thành tên là khả Lạc. Trong thành ấy có Trưởng giả tên là Vô Thượng Thắng.

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Bà Thi La, hữu nhiễu vô lượng vòng, buồn khóc rơi lệ, ân cần chiêm ngưỡng, tâm thiết tha cầu thiện tri thức từ ta mà đi.



KINH:… Này thiện nam tử, phương Nam đây có một thành lớn tên là Lâu Các, trong thành có một người lái thuyền tên là Bà Thi La…

Bấy giờ Thiện Tài đi về phía thành Lâu Các, quán sát đường xá. Như là xem đường cao thấp, xem đường bằng hiểm, đường sạch dơ, đường cong ngay. Tự nghĩ rằng: tôi phải thân cận thiện tri thức đó, thiện tri thức là nhân thành tựu tu hành những đạo bồ tát…

GIẢNG: Đi vào thành Lâu Các đó cũng như đi vào cái thành tâm của mình, “quán sát đường xá…” cũng có nghĩa là quán sát mọi đường sở hành trong tâm của mình, những đường cao, đường thấp, đường nguy hiểm, đường sạch, đường dơ v.v.., Thiện Tài đến thành Lâu Các thấy Ba Thi La đương đứng trên bờ biển ở ngoài cửa thành. “Trên bờ biển…” ta cũng phải nghĩ đó là trên bờ biển của tâm, thấy trăm ngàn thương gia vây quanh để hỏi về chuyện đi biển, cũng có nghĩa rằng hỏi cách đi vào biển tâm mà không gặp chướng ngại. Ngài bảo Thiện Tài rằng: Ta tu môn “Bồ Tát Đại Bi Tràng'” dùng tâm đại bi chỉ đường cho chúng sanh, ở đây chúng ta hiểu rằng một vi Bồ Tát tương tự như một vị thuyền trưởng, không dừng ở bờ bên này, cũng không dừng ở bờ bên kia, luôn luôn qua lại thiện thệ giữa giòng, làm đủ phương tiện để độ sanh.

KINH: Này thiện nam tử, ta ở nơi đây suy gẫm như vậy, … (bỏ một đoạn kinh), ta biết trong biển, tất cả đảo châu báu, tất cả chỗ có châu báu, tất cả loại châu báu, tất cả thứ châu báu. Ta biết trau dồi tất cả châu báu, soi sỏ tất cả châu báu, sản xuất tất cả châu báu…

GIẢNG: Ý ngài muốn nói rằng, ở trong biển ngài rành rẽ tất cả, đó là nói về phương diện thực. Còn về phương diện tâm, ý ngài muốn nói rằng trong tâm bổn cụ (vốn đủ) rất nhiều thứ, ta có thể lấy những châu báu vô lượng từ tâm ấy, ta soi sỏ vào nhau, tức là “triền đà la ni” từ đà la ni này có thể chuyển thành đà la ni khác. Tóm lại, ngài này tu về “Đại Bi Tràng Hạnh.”

KINH: … (bỏ một đoạn kinh…) Thiện Tài Đồng Tử đảnh lễ nơi chân Bà Thi La, hữu nhiễu vô lượng vòng, buồn khóc rơi lệ, ân cần chiêm ngưỡng, tâm thiết tha cầu thiện tri thức từ tạ mà đi. Lúc đó Thiện Tài phát tâm đại từ cùng khắp, tâm đại bi nhuần thấm tiếp nối không dứt, phước đức trí huệ hai thứ trang nghiêm. Bỏ rời tất cả phiền não trần cấu, chứng pháp bình đẳng, tâm không cao hạ, nhổ gai bất thiện, diệt tát cả chướng, kiên cố tinh tấn dùng làm hào tường, thậm thâm tam muội dùng làm vườn tược…

GIẢNG: Nhập tam muội như đi dạo trong vườn tâm của hành giả ấy vậy, từ đây trở đi kinh tả Thiện Tài chỉ toàn mong cầu Nhất thiết chủng trí cả.



23.- TRƯỞNG GIẢ VÔ THƯỢNG THẮNG

 

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết 

“PHÁP MÔN CHÍ NHẤT THIẾT XỨ TU BỒ TÁT HẠNH THANH TỊNH, SỨC THẦN THÔNG VÔ Y VÔ TÁC”.


 

Lúc đó Thiện Tài phát tâm đại từ cùng khắp, tâm đại bi nhuần thấm tiếp nối không dứt, phước đức trí tuệ hai thứ trang nghiêm. Bỏ rời tất cả phiền não trần cấu, chứng pháp bình đẳng, tâm không cao hạ, nhổ gai bất thiện, diệt tất cả chướng, kiên cố tinh tấn dùng làm hào tường, thậm thâm tam muội làm vườn tược. Dùng mặt nhựt trí tuệ phá tối vô minh. Dùng gió phương tiện nở hoa trí tuệ. Dùng vô ngại nguyện sung mãn pháp giới. Tám thường hiện nhập thành nhất thiết trí. Như vậy mà cầu đạo Bồ Tát.

Thiện Tài đi lần đến thành khả lạc, thấy TRƯỞNG GIẢ VÔ THƯỢNG THẮNG ở nơi thành Ðông, trong rừng vô ưu đại trang nghiêm tràng, có vô lượng thương gia và năm ngàn cư sĩ vây quanh. Trưởng giả quản lý phán đoán những sự vụ nhơn gian. Rồi Trưởng giả lại nhơn đó vì đại chúng mà thuyết pháp. Làm cho họ khỏi hẳn tất cả ngã mạn, rời ngã và ngã sở, bỏ chỗ tích tụ, diệt tham xan tật đố, tâm được thanh tịnh không trược uế, được sức tịnh tín, thường thích thấy Phật thọ trì Phật pháp sanh Bồ Tát lực, khởi Bồ Tát hạnh, nhập Bồ Tát tam muội , được Bồ Tát trí huệ, trụ Bồ Tát chánh niệm, thêm Bồ Tát chí nguyện.

Thiện Tài thấy Trưởng giả Vô Thượng Thắng đã vì đại chúng thuyết pháp xong, liền đến đảnh lễ chân Trưởng giả giây lâu mới đứng dậy thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi là Thiện Tài. Tôi là Thiện Tài. Tôi chuyên tìm cầu hạnh Bồ Tát.

Bạch đức Thánh ! Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh ? Bồ Tát thế nào tu Bồ Tát đạo ? Lúc tu học thường có thể hóa độ tất cả chúng sanh, thường có thể hiện thấy tất cả chư Phật, thường được nghe tất cả Phật pháp, thường có thể trụ trì tất cả Phật pháp, thường có thể xu nhập tất cả pháp môn, vào tất cả cõi học Bồ Tát hạnh, trụ tất cả kiếp tu Bồ Tát đạo, có thể biết thần lực của tất cả Như Lai, có thể được tất cả Như Lai hộ niệm, có thể được tất cả Như Lai trí huệ.

Trưởng giả Vô Thượng Thắng nói :

Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Này thiện nam tử ! Ta thành tựu "chí nhất thiết xứ Bồ Tát hạnh môn", sức thần thông vô y vô tác.

Nay thiện nam tử ! Thế nào là "Chí nhất thiết xứ Bồ Tát hạnh môn ?"

Này thiện nam tử ! Ta ở tại Ðại Thiên thế giới này, trong tất cả chúng sanh nơi Dục giới. Những là tất cả Ðao Lợi Thiên, tất cả Tu Dạ Ma Thiêm, tất cả Ðâu Suất Ðà Thiên, tất cả Thiện Biến Hóa Thiên, tất cả Tha Hóa Tự Tại Thiên, tất cả Ma Thiên và tất cả chỗ ở của chư Thiên. Long, Dạ Xoa, La Sát, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn và Phi Nhơn. Ta ở trong tất cả nơi đó mà vì tất cả các chúng sanh thuyết pháp, làm cho họ bỏ phi pháp dứt tranh luận, trừ chiến đấu, thôi giận tranh, phá oan kiết, mở trói buộc, khỏi lao ngục, thoát bố úy, không sát sanh nhẫn đến không tà kiến. Ðều làm cho họ cấm chỉ tất cả ác nghiệp những sự chẳng nên làm, khiến họ thuận làm tất cả pháp lành, khiến họ học tất cả kỹ nghệ, làm lợi ích ở thế gian. Vì họ mà phân biệt các thứ luận cho họ hoan hỉ, cho họ lần lần thành thục. Tùy thuận ngoại đạo, vì họ mà giảng thắng trí, cho họ dứt kiến chấp, cho họ nhập Phật pháp. Nhẫn đến tất cả Phạm Thiên cõi Sắc, ta cũng vì họ mà nói pháp siêu thắng.

Như ở Ðại Thiên thế giới này, trong mười bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số thế giới, ta cũng vì tất cả chúng sanh mà giảng nói Phật pháp, Bồ Tát pháp, Thanh Văn pháp, Ðộc Giác pháp.

Ta giảng nói địa ngục, chúng sanh địa ngục, nghiệp đạo hướng địa ngục.

Ta giảng nói súc sanh, súc sanh sai biệt, súc sanh thọ khổ, nghiệp đạo hướng súc sanh.

Ta giảng nói Diêm La Vương thế gian, khổ của Diêm La Vương thế gian, nghiệp đạo hướng Diêm La Vương thế gian.

Ta giảng nói nhơn gian, khổ vui của nhơn gian, nghiệp đạo hướng nhơn gian.

Ta giảng nói Thiên thế gian, vui của Thiên thế gian, nghiệp đạo hướng Thiên thế gian.

Ta thuyết pháp là vì muốn khai hiển công đức của Bồ Tát vì làm cho chúng sanh bỏ lìa khổ hoạn sanh tử, vì làm cho họ biết thấy những diệu công đức của nhất thiết trí, ví muốn cho họ biết trong các loài mê hoặc thọ khổ, vì cho họ thấy biết pháp không chướng ngại, vì muốn hiển thị sở nhơn sanh khởi thế gian, vì muốn hiển thị thế gian tịch diệt là vui, vì làm cho chúng sanh bỏ những chấp tưởng, vì làm cho họ chứng pháp vô y của Phật, vì làm cho họ diệt hẳn các phiền não, vì làm cho họ có thể chuyển Phật, pháp luân.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết “PHÁP MÔN CHÍ NHẤT THIẾT XỨ TU BỒ TÁT HẠNH THANH TỊNH, SỨC THẦN THÔNG VÔ Y VÔ TÁC”.

Như chư Bồ Tát đầy đủ tất cả thần thông tự tại, đều có thể đến khắp tất cả cõi Phật, được bậc phổ nhãn, đều nghe tất cả âm thanh ngôn thuyết, trí huệ tự tại vào khắp các pháp, không trái không sai, dũng kiện không ai bằng, dùng tướng lưỡi rộng dài nói bình đẳng, thân các Ngài diệu hảo cùng chư Như Lai rốt ráo không hai không khác, trí thân quảng đại vào khắp tam thế cảnh giới không ngắn mé đồng với hư không.

Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.

Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một quốc độ tên là Thâu Na. Nước đó có thành tên là Ca Lăng Ca Lâm. Trong thành có Tỳ Kheo Ni tên là Sư Tử Tần Thân.

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Trưởng giả Vô Năng Thắng, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.



KINH: Thiện Tài đi lần đến thành Khả Lạc, thấy trưởng giả Vô Thượng Thắng ở nơi thành đông, trong rừng vô ưu đại trang nghiêm tràng, có vô lượng thương gia và trăm ngàn cư sĩ vây quanh…

GIẢNG: Thường trong kinh nói phía đông là phía khởi tâm đại bi, còn phía bắc, nói đến cái tâm tịch diệt… Như sau này, khi nói đến vị thiện tri thức là Ba Tu Mật Đa, thì thấy nói là nàng ở cái chợ phía Bắc, nàng thị hiện làm dâm nữ, nhưng tâm vẫn ở trong miền bắc, tức là ở chỗ tịch diệt mà không dính vào tham dục.

Sở dĩ tôi đi lướt qua những đoạn này vì quý vị cũng có thể đọc lấy mà hiểu được, vì cũng chùng nhau, đại khái là tu như huyễn tam muội thôi, ở ngài Vô Thượng Thắng cũng giống như ngài Biến Hành, vì ngài Biến Hành đi tất cả xứ, thì ngài Vô Thượng Thắng cũng làm Bồ Tát hạnh trí nhất thiết xứ, tức là hóa thân đi tất cả mọi nơi. Con đường bồ tát hạnh khi tu lên cao, vị nào cũng phải hóa thân đi khắp mọi nơi để độ sanh, nhưng còn hơi khác nhau ở chỗ hạnh mình chọn, có vị chọn hạnh bố thí, nhẫn nhục, hoặc đưa người đi qua sông, qua biển v.v… nên chúng ta phải hiểu, chúng sanh vô lượng nên hạnh độ sanh của các vị bồ tát cũng vô lượng, và sự biến hóa cũng vô cùng.

 


24.- TỲ KHEO NI SƯ TỬ TẦN THÂN

 

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT THÀNH TỰU NHẤT THIẾT TRÍ” này.

 

 

Thiện Tài đi lần đến thành Ca Lăng Ca Lâm tìm TỲ KHEO NI SƯ TỬ TẦN THÂN.

Người trong thành bào rằng Tỳ Kheo Ni ấy hiện ở tại trong vườn Nhựt Quang của Thắng Quang Vương hỷ cúng, đương thuyết pháp lợi ích vô lượng chúng sanh.

Thiện Tài liền đến vườn Nhựt Quang. Thấy trong vườn có một đại thọ tên Mãn nguyệt, tàng cây như lâu các, phóng ánh sáng chiếu một do tuần. Thấy một diệp thọ tên Phổ Phúc, hình như cây lọng, phóng ánh sáng màu tỳ lưu ly xanh biếc. Thấy một hoa thọ tên Hoa tạng cao lớn hình như núi Tuyết, tuôn những hoa đẹp không cùng tận.

Như cây Ba lợi chất đa la nơi cung trời Ðao Lợi. Lại thấy một cam lộ quả thọ, hình như tòa núi vàng thường phóng quang minh, sai trĩu những trái cam lộ. Lại thấy một ma ni bửu thọ tên Tỳ lô giá na tạng, hình đẹp không gì bằng, tâm vương ma ni bửu ở trên chót cây, vô số ma ni bửu trang nghiêm khắp cây. Lại thấy y thọ tên Thanh tịnh những y phục nhiều màu thòng rủ nghiêm sức. Lại có âm nhạc thọ tên Hoan hỷ, vang tiếng âm nhạc hơn cả nhạc trời. Lại có hương thọ tên Phổ trang nghiêm, hằng phát mùi thơm huân khắp mười phương không chướng ngại.

Trong vườn lại có suối chảy, ao mát, tất cả đều bằng thất bửu trang nghiêm, bùn hắc chiên đàn chứa đọng trong đó, các chơn kim trải mặt đáy, toàn nước bát công đức. Hoa sen bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng phô trên mặt nước.

Trong vường có vô lượng bửu thọ bày hàng khắp nơi. Mỗi gốc cây có một tòa sư tử, trang nghiêm với các thứ diệu bửu, dùng thiên y để trải, ướp bằng diệu hương, thòng những lụa báu, giăng những bửu trướng, vàng diêm phù đàn che phía trên, lạc báu chạm reo vang tiếng vi diệu.

Hoặc có gốc cây thiết tòa liên hoa tạng sư tử. Có gốc cây thiết tòa hương vương ma ni tạng sư tử. Có gốc cây thiết tòa long trang nghiêm ma ni vương tạng. Có gốc cây thiết tòa bửu sư tử tụ ma ni vương tạng. Có gốc cây thiết tòa tỳ lô giá na ma ni vương tạng sư tử. Có gốc cây thiết tòa thập phương tỳ lô giá na ma ni vương tạng sư tử.

Mỗi sư tử tòa đều có mười vạn tòa báu vây quanh, đều đủ vô lượng thứ trang nghiêm.

Trong vườn Nhựt Quang này, đầy những châu báu như bửu đảo ngoài đại hải. Dùng y ca lân đà trải mặt đất, y này rất êm diệu mềm mát. Ðạp lên thời lún bàn chân, dở chân thời hoàn lại.

Có vô lượng thức chim vang tiếng hòa nhã.

Rừng cây bửu chiên đàn rất trang nghiêm, thường tuôn diệu hoa vô tận, như vườn tạp hoa của Thiên Ðế Thích.

Hương vương vô tỷ thơm ngát khắp nơi, như Thiện Pháp Ðường của Thiên Ðế.

Những cây âm nhạc, cây bửu đa la, những lưới linh báu, vang tiến vi diệu, như tiếng ca ngâm của Thiện Khẩu Thiên nữ ở cung trời Tự Tại.

Những cây như ý thòng rũ các thứ y đẹp trang nghiêm rộng lớn như đại hải, có vô lượng màu sắc.

Trăm ngàn lâu các trang nghiêm bằng châu báu, như thành Thiện Kiến ở Ðao Lợi Thiên cung.

Lọng báu giăng rộng như đảnh núi Tu Di.

Quang minh chiếu sáng như cung trời Phạm Vương.

Thiện Tài thấy vườn Nhựt Quang có số lượng công đức, vô lượng trang nghiêm. Ðâu là do công hạnh của Bồ Tất cảm thành, căn lành xuất thế phát khởi, cúng dường chư Phật sanh ra, tất cả thế gian không đâu sánh bằng.

Ðây là do Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân thấu rõ pháp như huyễn, chứa nhóm phước đức lành thanh tịnh quảng đại mà thành tựu cảnh vườn trang nghiêm này.

Thiên, Long, Bát Bộ vô lượng chúng sanh trong Ðại Thiên thế giới đều vào vườn này vẫn không chật hẹp.

Tai sao vậy ?

Vì do oai thần bất tư nghì của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân này khiến nên như vậy.

Thiện Tài thấy Tỳ Kheo Ni này ngồi khắp trên tất cả tòa đại sư tử dưới những cội cây. Thân tướng đoan nghiêm, oai nghi tịch tịnh. Các căn điều thuận như đại tượng vương. Tâm không cấu trược như thanh tịnh địa. Khắp giúp ích chỗ cầu của mọi người như bửu châu như ý. Không nhiễm thế gian nhu hoa sen. Tâm vô úy như sư tử vương. Hộ trì tịnh giới vững vàng như núi Tu Di. Có thể làm cho người thấy lòng được thanh tịnh như diệu hương vương. Có thể trừ phiền não của chúng sanh như hương diệu chiên đàn trong núi Tuyết. Chúng sanh được thấy thời tiết khổ như Thiện Kiến Dược Vương. Người thấy chẳng luống uổng như Bà Lâu Na Thiên. Có thể sanh trưởng tất cả mầm thiện căn như ruộng phì nhiêu.

Tại mỗi tòa đại sư tử chúng hội không đồng nhau. Lời thuyết pháp cũng đều sai khác.

Hoặc thấy chỗ thời chúng hội là Tịnh Cư Thiên, thượng thủ là Ðại Tự Tại Thiên Vương. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn Vô tận giả thoát.

Chỗ thời chúng hội là Phạm Thiên, Ái Lạc Phạm Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phổ môn sai biệt thanh tịnh ngôn âm luân.

Chỗ thời chúng hội là Tha Hóa Tự Tại Thiên Tử Thiên Nử, Tự Tại Thiên Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Bồ Tát Thanh Tịnh Tâm.

Chỗ thời chúng hội là Thiện Biến Hóa Thiên Tử Thiên Nử, Thiện Hóa Thiên Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Nhứt thiết pháp thiện trang nghiêm.

Chỗ thời chúng hội là Ðâu Suất Thiên Tử Thiên Nử, Ðâu Suất Thiên Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Tâm tạng triền.

Chỗ thời chúng hội là Dạ Ma Thiên Tử Thiên Nử, Dạ Ma Thiên Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Vô biên trang nghiêm.

Chỗ thời chúng hội là Ðao Lợi Thiên Tử Thiên Nử, Thích Ðề Hoàn Nhơn làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Yễm ly môn.

Chỗ thời chúng hội là chư Long Tử Long Nử, Bá Quang Minh Long Vương, Nan Ðà Long Vương, Ưu Ba Nan Ðà Long Vương, Ma Na Tư Long Vương, Y La Bạt Nan Ðà Long Vương, A Na Bà Ðạt Ða Long Vương v.v… Ta Già Long Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phật thần thông cảnh giới quang minh trang nghiêm.

Chỗ thời chúng hội là thần Dạ Xoa, Tỳ Sa Môn Thiên Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Cứu hộ chúng sanh tạng.

Chỗ thời chúng hội là thần Càn Thát Bà, Trì Quốc Thiên Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Vô tận hỷ.

Chỗ thời chúng hội là A Tu La, La Hầu A Tu La Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Tốc tật trang nghiêm pháp giới trí môn.

Chỗ thời chúng hội là Ca Lâu La, Thiệp Trì Ca Lâu La Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Bố động chư hữu hải.

Chỗ thời chúng hội là Khẩn Na La, Ðại Thọ Khẩn Na La Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phật hạnh quang minh.

Chỗ thời chúng hội là Ma Hầu La Già, Am La Lâm Ma Hầu La Già Vương làm thượng thủ.Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Sanh Phật hoan hỷ tâm.

Chỗ thời chúng hội là vô lượng nam tử nữ nhơn. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Thù thắng hạnh.

Chỗ thời chúng hội là La Sát, Thường Ðoạt Tinh Khí Ðại Thọ La Sát Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phát sanh bi mẫn tâm.

Chỗ thời chúng hội là chúng sanh tin ưa Thanh Văn thừa. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Thắng trí quang minh.

Chỗ thời chúng hội là chúng sanh tin ưa Duyên Giác thừa. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phật công đức quảng đại quang minh.

Chỗ thời chúng hội là những chúng sanh tin ưa Ðại thừa. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phổ môn tam muội trí quang minh môn.

Chỗ thời chúng hội là sơ phát tâm Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Nhứt thiết Phật nguyện tụ.

Chỗ thời chúng hội là đệ nhị địa Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Ly cấu luân.

Chỗ thời chúng hội là đệ tam địa Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Tịch tịnh trang nghiêm.

Chỗ thời chúng hội là đệ tứ địa Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Sanh nhứt thiết trí cảnh giới.

Chỗ thời chúng hội là đệ ngũ địa Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Diệu hoa tạng.

Chỗ thời chúng hội là đệ lục địa Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Tỳ Lô Giá Na Tạng.

Chỗ thời chúng hội là đệ thất địa Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phổ trang nghiêm địa.

Chỗ thời chúng hội là đệ bát địa Bồ Tát, Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Biến pháp giới cảnh giới thân.

Chỗ thời chùng hội là đệ cửu địa Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Vô sở đắc lực trang nghiêm.

Chỗ thời chúng hội là đệ thập địa Bồ Tát.Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Vô ngại luân.

Chỗ thời chúng hội là Chấp Kim Cang Thần.Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Kim cang trí na la diên trang nghiêm.

Thiện Tài thấy khắp nơi, các loài, các chúng sanh đã thành thục, đã điều phục, kham làm pháp khí đều vào trong vườn này quây quần ngồi quanh dưới bửu tọa. Sư Tử Tần Thân Tỳ Kheo Ni tùy theo trí giải thắng liệt sai khác của họ mà vì họ thuyết pháp cho họ chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề .

Tại sao vây ?

Vì Tỳ Kheo Ni này nhập phổ nhãn xả, chứng được môn Bát Nhã Ba la mật, môn Bát Nhã Ba la mật diễn nói tất cả Phật pháp, môn Bát Nhã Ba la mật pháp giới sai biệt, môn Bát Nhã Ba la mật tán hoại tất cả chướng ngại, môn Bát Nhã Ba la mật sanh thiện tâm cho tất cả chúng sanh, môn Bát Nhã Ba la mật thù thắng trang nghiêm, môn Bát Nhã Ba la mật vô ngại chân thật tạng, môn Bát Nhã Ba la mật pháp giới viên mãn, môn Bát Nhã Ba la mật tâm tạng, môn Bát Nhã Ba la mật khắp xuất sanh tạng.

Trong mười môn này, đầu tiên là Bát Nhã Ba la mật môn.

Tỳ Kheo Ni này nhập vô số trăm ngàn môn Bát Nhã Ba la mật như vậy.

Tất cả Bồ Tát và chúng sanh trong vườn Nhựt Quang đều là do Sư Tử Tần Thân Tỳ Kheo Ni khuyên phát tâm thọ trì chánh pháp tư duy tu tập, đều được bất thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh giác.

Thiện Tài đồng tử thấy khu vườn như vậy, bửu tòa như vậy, kinh hành như vậy, chúng hội như vậy, thần lực như vậy, biện tài như vậy. Lại nghe bất tư nghì pháp môn, pháp vân quảng đại nhuần thấm tâm mình, bèn nghĩ rằng tôi sẽ cung kính hữu nhiễu Tỳ Kheo Ni này vô lượng trăm ngàn vòng.

Lúc đó Sư Tử Tần Thân Tỳ Kheo Ni phóng đại quang minh chiếu khắp khu vườn Nhựt Quang và chúng hội.

Thiện Tài liền thấy thân mình cùng tất cả bửu thọ trong vườn đều đồng thời hữu nhiễu Tỳ Kheo Ni này cả vô lượng trăm ngàn muôn vòng.

Hữu nhiễu xong, Thiện Tài chắp tay thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.

Tỳ Kheo Ni nói :

Này thiện nam tử ! Ta được môn giải thoát tên là thành tựu nhất thiết trí.

Thiện Tài thưa :

Bạch đức Thánh ! Cớ sao gọi là thành tựu nhất thiết trí.

Tỳ Kheo Ni nói :

Này thiện nam tử ! Quang minh của trí này, trong một niệm chiếu khắp tất cả tam thế Phật pháp.

Thiện Tài thưa :

Bạch đức Thánh ! Quang minh của trí này, cảnh giới thế nào ?

Tỳ Kheo Ni nói :

Này thiện nam tử ! Ta nhập môn trí quang minh này được xuất sanh nhất thiết pháp tam muội vương. Do tam muội này nên được ý sanh thân qua đến mười phương tất cả thế giới, chỗ của nhất sanh bổ xứ Bồ Tát nơi cung Ðâu Suất.

Trước mỗi Bồ Tát, ta hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số thân. Mỗi thân dâng bất khả thuyết Phật sát vi trần số đồ cúng dường.

Như là hiện thân Thiên Vương nhẫn đến thân Nhơn Vương, cầm hoa vân, hương vân, y phục, anh lạc, bửu phan, bửu cái, bửu võng, bửu trướng, bửu tạng, bửu đăng, dâng lên cúng dường.

Như ở chỗ Bồ Tát nơi Ðâu Suất Thiên cung, nơi Bồ Tát trụ thai, xuất thai, tại gia, xuất gia, đến đạo tràng, thành chánh giác, chuyển pháp luân, nhập Niết bàn. Trong khoảng thời gian đó, hoặc ở Thiên cung, hoặc ở Long cung, nhẫn đến ở Nhơn cung, nơi mỗi mỗi đức Như Lai, ta đều cúng dường như vậy.

Nếu có chúng sanh nào biết ta cúng dường chư Phật như vậy, thời đều được chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề.

Nếu chúng sanh nào đến chỗ của ta, thời ta vì họ mà giảng nói Bát Nhã Ba la mật.

Này thiện nam tử ! Ta thấy tất cả chúng sanh, vì trí nhãn thấy rõ nên ta chẳng phân biệt chúng sanh tướng. Nghe tất cả ngữ ngôn, vì tâm không chấp trước nên ta chẳng phân biệt ngữ ngôn tướng.Thấy tất cả Như Lai, vì thấu rõ pháp thân nên ta chẳng phân biệt Như Lai tướng. Trụ trì tất cả pháp luân, vì ngộ pháp tự tánh nên ta chẳng phân biệt pháp luân tướng. Một niệm biết khắp tất cả pháp, vì biết pháp như huyễn nên ta chẳng phân biệt pháp tướng.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT THÀNH TỰU NHẤT THIẾT TRÍ” này.

Như chư đại Bồ Tát tâm vô phân biệt biết khắp các pháp, một thân ngồi yên mà đầy khắp cả pháp giới. Ở trong tự thân hiện tất cả cõi. Khoảng một niệm đến khắp tất cả chỗ Phật. Ở trong tự thân hiện khắp tất cả thần lực của chư Phật. Dùng một sợi lông đỡ khắp bất khả thuyết thế giới lên. Trong một lỗ lông nơi tự thân hiện bất khả thuyết thế giới thành hoại. Trong khoảng một niệm cùng với bất khả thuyết chúng sanh đồng ở. Trong khoảng một niệm nhập bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp.

Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.

Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một nước tên là Hiểm Nạn. Nước đó có thành tên là Bửu Trang Nghiêm. Trong thành ấy có một nử nhơn tên là Bà Tu Mật Ða.

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Sư Tử Tần Thân Tỳ Kheo Ni hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.


KINH: Này thiện nam tử, phương nam đây có một quốc độ tên là Thâu Na. Nước đó có thành tên là Ca-Lăng-Ca Lâm. Trong thành có tỳ kheo ni tên là Sư Tử Tần Thân…

GIẢNG: Thành tên là Ca-Lăng-Ca-Lâm, theo như người Tàu dịch có nghĩa là tự tại, không có sự sợ hãi. Vị tỳ kheo ni tên Sư Tử Tần Thân cũng có ý nghĩa thế thôi, tức là ngài rất tự tại trong tất cả sự độ sanh của mình, tương tự như một con sư tử chuyển động thân hình một cách rất tự tại, ung dung, không sợ hãi.

KINH: Thiện Tài đi lần đến thành Ca-Lăng-Ca-Lâm tìm tỳ kheo ni Sư Tử Tần Thân. …(Bỏ một đoạn kinh…), Thiện Tài liền đến vườn Nhật Quang, thấy trong vườn có đại thọ tên Mãn Nguyệt, (mặt trăng tròn đầy), … thấy một diệp thọ tên Phổ Phúc …, thấy một hoa thọ tên Hoa Tạng…, thấy một cam lộ quả thọ …, thây y thọ tên Thanh Tịnh … Lại có âm nhạc thọ tên Hoan Hỷ, vang tiếng âm nhạc hơn cả nhạc trời…

GIẢNG: Những cảnh này không phải thấy được ở nhân gian, mà do y báo của ngài xuất hiện ra. Đại khái khi tu, thì tàng thức biến hiện ra phổ vào cái y báo thì thấy như vậy, hoặc là y báo tương ưng thì ứng hiện ra. Người đi qua đường nếu có tâm nhãn tương ứng thì sẽ nhìn thấy, mắt thịt của phàm phu chúng ta sẽ không thể thấy được. Hiện tượng này trong kinh kể rất thường, chỉ có cái chúng ta có chịu tin hay không mà thôi.

KINH:… Đây là do tỳ kheo ni Sư Tử Tần Thân thấu rõ pháp như huyễn, chứa nhóm phước đức lành thanh tịnh quảng đại mà thành tựu cảnh vườn trang nghiêm này…

GIẢNG: Lúc nào cũng phải quán chiếu như huyễn, vì nếu quán chiếu được như huyễn thì ngay thần chết cũng không thể đến bắt được, rồi sẽ đi dần đến chỗ biến hóa, vì tất cả đạo Phật là ở chỗ đó, biến hóa không cùng tận, mà phải đi vào cái như huyễn đó thì biến hóa mới nhiều được. Sự vật, sở dĩ có thể biến hóa được vì nó như huyễn, chứ nếu nó cứ ù lì nhất định là một vật thì không thể biến hóa được.

HỎI: Xin ông vui lòng nói về sự liên quan giữa Kinh Lăng Nghiêm và Kinh Hoa Nghiêm.

ĐÁP: Tôi vẫn nói trong đạo tràng này rằng, đọc kinh Hoa Nghiêm thấy khó, nhưng khi hơi hiểu rồi thì thấy rất hớn hở, vì sao? Vì kinh nói đến những cảnh giới ở những bình diện cao và sâu, từ hành ấm, và nhất là thức ấm, và toàn những thần biến chập chùng. Còn Lăng Nghiêm ta lại có cảm giác rất sợ hãi, vì sao? Vì kinh Lăng Nghiêm nói đến những cảnh Địa Ngục do thức ấm, và nói ngay đến các căn, trần, thức của mình, và nếu chúng ta không khéo giữ sẽ bị đọa xuống dưới. Ngược lại, Hoa Nghiêm nói đến các quả vi diệu rất đẹp đẽ, thanh tịnh mà chúng ta sẽ tới, trong khi Lăng Nghiêm lại nói ngay vào vũng sình lầy mà chúng ta đang chịu khổ báo, đang bơi lội trong vũng sình lầy căn, trần, thức đó. Nếu bơi lội không khéo, lại tụt sâu trong vũng sình lầy ấy. Nên kinh nào cũng giống nhau và cũng khác nhau, vì mỗi kinh nói theo một bình diện của târh thức, nhưng đều là do thức tâm biến hiện cả.

Bây giờ xin trở lại Hoa Nghiêm và Nhập Pháp Giới…

GIẢNG: Ngài Sư Tử Tần Thân này ngồi thuyết pháp cho người, trời, chư thiên nhẫn đến đệ cửu địa, mà trong đó không biết cơ man tòa ngồi, chỗ nào cũng là thân của ngài.

KINH: … Tại mỗi tòa sư tử, chúng hội không đổng nhau. Lời thuyết pháp cũng đều sai khác. Hoặc thấy chỗ thời chúng hội là Tịnh cư Thiên, tỳ kheo ni này vì họ mà nói pháp môn “Vô Tận Giải thoát.” Chỗ thời chúng hội là Phạm Thiên, tỳ kheo ni này vì họ mà nói pháp môn “Phổ sai biệt thanh tịnh ngôn âm luân.” Chỗ thời chúng hội là Tha Hóa Tự Tại Thiên, tỳ kheo ni này vì họ mà nói pháp môn “Bồ Tát thanh tịnh tâm.” chỗ thời chúng hội là Thiện Biến Hóa Thiên tỳ kheo ni này vì họ mà nói pháp môn “Nhất thiết pháp thiện trang nghiêm.” Chỗ thời chúng hội là Đâu Xuất thiên, tỳ kheo ni này vì họ mà nói pháp môn “Tâm Tạng triền.” chỗ thời chúng hội là Dạ Ma thiên, tỳ kheo ni này vì họ mà nói pháp môn “Vô biên trang nghiêm.” Chỗ thời chúng hội là Đao Lợi Thiên, tỳ kheo ni này vì họ mà nói pháp môn “Yểm lỵ môn.” Chỗ thời chúng hội là chư Long Tử, Long Nữ…, tỳ kheo ni này vì họ mà nói pháp môn “Phật thần thông cảnh giới quang minh trang nghiêm.”… (bỏ một đoạn kinh thuyết pháp cho các loại thần…) chỗ thời chúng hội là đệ cửu địa Bồ Tát, tỳ kheo ni này vì họ mà nói pháp môn “Vô sở đắc lực trang nghiêm.”

GIẢNG: pháp môn “Vô sở đắc lực trang nghiêm,” là dùng tâm vô công dụng hạnh, dùng tâm vô sở đắc để làm những công hạnh.

KINH: Chỗ thời chúng hội là đệ thập địa, tỳ kheo ni này vì họ mà nói pháp môn “Vô ngại luân.”

GIẢNG: “Luân” ở đây ngài dạy là dùng cái tâm xoay vần rất thần kỳ để có thể biến hiện đủ mọi thứ mà vẫn vô ngại. Như thế mới gọi là “vô ngại luân.” Vị này đắc rất nhiều “phổ nhãn xả” ngài đắc những môn toàn là Bát Nhã, nhưng đồng thời trong bát nhã ấy vẫn có Đại Bi. Như môn “Bát Nhã ba la mật diễn nói tất cả Phật pháp/’ trong không hải ấy vẫn diễn nói tất cả các pháp môn, một đằng là Bát Nhã, một đằng là Đại Bi. Môn “Bát Nhã ba la mật pháp giới sai biệt,” trong không hải, ngài vẫn diễn nói tất cả pháp giới sai biệt, tức là đại bi. “Bát nhã ba la mật thù thắng trang nghiêm,” trong không hải ấy vẫn đem tâm mình trang nghiêm cõi đó. “Bát nhã ba la mật pháp giới viên mãn” trong không hải ấy làm cho pháp giới tròn đầy viên mãn đúng theo tinh thần Đại Bi bình đẳng v.v..

KINH: Này thiện nam tử, ta được môn giải thoát tên là thành tựu nhất thiết trí…

GIẢNG: ở đây, ngài quán chiếu như huyễn gần đến chỗ nhất thiết chủng trí rồi.

KINH:... Nầy thiện nam tử, ta nhập môn trí quang minh này được xuất sanh nhất thiết pháp tam muội vương. Do tam muội này nên được ý sanh thân qua đến mười phương tất cả thế giới, chỗ của nhất sanh bổ xứ bồ tát nơi cung Đâu Xuất…

GIẢNG: Ngài được tam muội đó, sanh tất cả những hóa thân tùy theo ý niện để đi mười phương. Có những vị hiện những hóa thân ở những nơi ác đạo, như nhân gian hoặc chư thiên cõi dục v.v…, Nhưng ngài này lại hóa thân đến chỗ “nhất sanh bổ xứ ở cung Đâu Xuất.”

KINH:... Trụ trì tất cả pháp luân vì ngộ pháp tự tánh nên ta chẳng phân biệt pháp luân tướng…, Ở trong tự thân hiện khắp tất cả thần lực của Chư Phật. Dùng một sợi lông đỡ khắp tất cả thế giới lên…

GIẢNG: Đó là như huyễn tam muội khiến nhập được thể tánh. Thể tánh là không, là như như tịch tĩnh… Vì chứng nhập được, nên tuy trụ trì tất cả pháp luân mà chẳng hề phân biệt pháp luân tướng.

Cũng từ nơi thể tánh mà có thể hiện tất cả thần lực. Dùng một sợi lông nâng các thế giới…



25.- BÀ TU MẬT ÐA NỮ

 

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết  “MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT LY THAM TẾ” này.


 

Thiện Tài được đại trí quang minh soi mở tâm, tư duy quán sát thấy tánh của các pháp. Ðược môn đà la ni rõ biết tất cả ngôn âm. Ðược môn đà la ni thọ trì tất cả pháp luân. Ðược sức đại bi làm chỗ quy y cho tất cả chúng sanh. Ðược môn quang minh quán sát nghĩa lý của tất cả pháp. Ðược thanh tịnh nguyện sung mãn pháp giới. Ðược trí quang minh chiếu khắp mười phương tất cả pháp. Ðược sức tự tại khắp trang nghiêm tất cả thế giới. Ðược viên mãn nguyện khắp phát khởi tất cả Bồ Tát hạnh.

Thiện Tài đi lần đến nước Hiễm Nạn, thành Bửu Trang Nghiêm tìm BÀ TU MẬT ÐA NỮ.

Trong thành, những người chẳng biết công đức trí huệ của cô gái ấy nên nghĩ rằng :

Ðồng tử này thân căn tịch tịnh, trí huệ sáng suốt chẳng mê chẳng loạn, nhìn kỹ một tầm không lười mỏi, không chấp trước, mắt ngó chẳng nháy, tâm không táng động sâu rộng như đại hải. Người như vậy chẳng nên ở nơi cô gái Bà Ta Mật Ða mà có tâm tham ái, có tâm điên đảo, sanh tưởng là sạch, sanh tưởng ái dục. Chẳng nên bị nữ sắc cám dỗ.

Ðồng tử này chẳng làm hạnh ma, chẳng nhập ma cảnh, chẳng chìm nước bùn ái dục, chẳng bị ma trói, chỗ chẳng nên làm đã có thể chẳng làm. Sao lại có ý gì mà tìm cô gái này.

Có người đã biết công đức trí huệ của cô gái này bèn bảo Thiện Tài rằng :

Lành thay, lành thay ! Nay thiện nam tử có thể tìm Bà Tu Mật Ða nữ. Thế là đã được lợi lành rộng lớn.

Thiện nam tử nên quyết định cầu quả vì Phật, quyết định vì chúng sanh mà làm chỗ y tựa, quyết định muốn nhổ mũi tên độc tham ái cho tất cả chúng sanh, quyết định muốn phá những ý tưởng sạch sẽ đối với nữ sắc của tất cả chúng sanh.

Này thiện nam tử ! Bà Tu Mật Ða nữ hiện ở nhà của cô tại chợ Bắc trong thành này.

Thiện Tài vui mừng hớn hở đến cổng nhà Bà Tu Mật Ða nữ.

Thấy nhà này rộng rãi nghiêm lệ, tường báu, cây báu, hào báu, mỗi mỗi bao quanh mười lớp. Trong hào báu đầy đủ nước thơm, cát vàng trải đáy, những bửu hoa, bông sen bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng đua nở trên mặt nước.

Cung điện lâu các đều tráng lệ. Cửa nẻo thành hàng nối nhau. Ðều treo lạc, treo lưới đều treo phan, treo tràng. Vô lượng trân kỳ dùng để nghiêm sức. Ðất bằng lưu ly xen lẫn những châu báu. Xông trầm thủy, thoa chiên đàn. Treo những linh báu, gió rung trỗi nhạc. Rải những thiên hoa trải khắp mặt đất. Những sự trang nghiêm tráng lệ không thể tả hết.

Những kho tàng trân bửu đến số trăm ngàn. Mười khu vườn lớn rất mực trang nghiêm.

Thiện Tài thấy Bà Tu Mật Ða nữ nhan mạo đoan nghiêm, sắc tướng viên mãn. Da màu chân kim. Tóc và mắt màu xanh biếc, chẳng dài ngắn, chẳng thô tế, tất cả hàng nhơn thiên cõi Dục không ai sánh bằng. Tiếng nói thanh tốt hơn trời Phạm thế. Tất cả ngôn âm sai biệt của tất cả chúng sanh đều biết đều hiểu. Thấu rõ chữ nghĩa khéo luận đàm. Ðược trí như huyễn nhập môn phương tiện.

Trên thân của nữ nhơn này trang sức bằng những chuỗi ngọc báu và những đồ trang nghiêm. Ðầu đội mão như ý bửu châu.

Lại có vô lượng quyến thuộc vây quanh, đều đồng thiện căn, đều đồng hạnh nguyện, phước đức vô tận.

Bà Tu Mật Ða nữ, từ trên thân phóng quang minh quảng đại chiếu khắp cả nhà, tất cả cung điện.

Người được ánh sáng này chiếu đến thời thân được mát mẻ.

Thiện Tài đến đảnh lễ chân Bà Tu Mật Ða nữ, chắp tay cung kính thưa rằng :

Bạch đức Thanh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.

Bà Tu Mật Ða nữ nói :

Này thiện nam tử ! Ta được Bồ Tát giải thoát môn tên là "Ly tham dục tế", tùy chỗ sở thích của chúng sanh mà hiện thân.

Nếu chư Thiên thấy ta, thời ta là Thiên nữ xinh đẹp sáng chói. Như vậy nhẫn đến nhơn hay phi nhơn thấy ta, thời ta là nhơn nữ hay phi nhơn nữ.

Nếu có người vì lòng dục mà đến tìm ta, gặp ta thuyết pháp, họ nghe pháp rồi thời hết tham dục được Bồ Tát vô trước cảnh giới tam muội.

Nếu có chúng sanh tạm thấy ta thời lìa tham dục mà được Bồ Tát hoan hỷ tam muội.

Nếu có chúng sanh tạm cùng ta nói chuyện, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát vô ngại âm thanh tam muội.

Nếu có chúng sanh tạm cầm tay ta thời lìa tham dục mà được Bồ Tát tam muội đến khắp tất cả cõi Phật.

Nếu có chúng sanh tạm lên trên chỗ ngồi của ta, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát giải thoát quang minh tam muội.

Nếu có chúng sanh tạm nhìn ta, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát tịch tịnh trang nghiêm tam muội.

Nếu có chúng sanh thấy ta, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát tồi phục ngoại đạo tam muội.

Nếu có chúng sanh thấy mắt nháy, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát Phật cảnh giới quang minh tam muội.

Nếu có chúng sanh ôm ta, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát tam muội nhiếp tất cả chúng sanh hằng chẳng bỏ lìa.

Nếu chúng sanh nút môi ta, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát tam muội tăng trưởng phước đức tạng cho tất cả chúng sanh.

Phàm có chúng sanh nào thân cận ta, tất cả đều lìa tham dục mà được nhập Bồ Tát nhứt thiết trí hiện tiền giải thoát vô ngại.

Thiện Tài thưa :

Ðức Thánh gieo căm lành gì, tu phước nghiệp gì mà được thành tựu tự tại như vậy ?

Bà Tu Mật Ða nữ nói :

Này thiện nam tử ! Ta nhớ thuở quá khứ có đức Phật hiệu Cao Hạnh. Ðô thành chủ của vua nước ấy tên là Sa Môn.

Ðức Cao Hạnh Như Lai vào thành Sa Môn, chân Phật đạp lên ngạch cổng thành. Liền đó cả thành đều chấn động, bỗng trở nên rộng rãi, trang nghiêm với những châu báu, vô lượng quang minh chiếu suốt lẫn nhau. Những bửu hoa rải khắp mặt đất. Chư Thiên âm nhạc đồng thời hòa tấu tất cả chư Thiên sung mãn hư không.

Thuở ấy ta là vợ Trưởng giả tên là Thiện Huệ, thấy thần lực của Phật, tâm liền giác ngộ. Ta cùng Trưởng giả đến chỗ Phật, dâng lên Phật một bửu tiền.

Văn Thù Sự Lợi Ðồng Tử đương làm thị giả của đức Phật Cao Hạnh, vì ta mà thuyết pháp, khiến ta phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết  “MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT LY THAM TẾ” này.

Như chư đại Bồ Tát thành tựu vô biên trí xảo phương tiện, công đức quảng đại, cảnh giới vô tỷ.

Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.

Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có thành Thiện Ðộ. Trong thành ấy có Cư sĩ Tỳ Sắc Chi La. Ông ấy thường cúng dường tháp của đức Chiên Ðàn Tòa Như Lai.

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Bà Tu Mật Ða nữ, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.



KINH: Này thiện nam tử, phương Nam đây có một nước tên là Hiểm Nạn.., nước đó có thành tên là Bửu Trang Nghiêm. Trong thành ấy có một nữ nhân tên là Bà Tu Mật Đa.

GIẢNG: Nước đó rất “hiểm nạn” vì phải đi qua cửa ải của tham dục. Nhưng tuy gọi là hiểm nạn mà trong nước ấy có thành tên là Bửu Trang Nghiêm và lại có một vị nữ nhân tên là Bà Tu Mật Đa.

KINH: Thiện Tài được đại trí quang minh soi mở tâm, tư duy quán sát thấy tánh của các pháp. Được môn đà la ni rõ biết tất cả ngôn âm, được môn đà la ni thọ trì tất cả pháp luân, được sức đại bi làm chỗ qui y cho tất cả chúng sanh, được môn quang minh quán sát nghĩa lý của tất cả pháp v.v…

GIẢNG: Đại khái tâm Thiện Tài lúc bấy giờ nở ra như hoa, được các thứ diệu đức và diệu lực. Do sức Bát Nhã và Đại Bi, như chim hai cánh bay bổng tuyệt vời…

KINH: Thiện Tài đi lần đến nước Hiểm Nạn, thành Bửu Trang Nghiêm tìm Bà Tu Mật Đa nữ.

GIẢNG: Kinh kể rằng trong thành dân chúng nghĩ về Bà Tu Mật Đa theo nhiều mức độ tâm thức khác nhau. Có nhiều người hiểu lầm ngài là dâm nữ, nhưng cũng có người biết ngài là một vị Bồ Tát thị hiện.

Ở đây, ngài Bà Tu Mật Đa thị hiện thành một dâm nữ… Cũng như trong kinh Duy Ma Cật ngài Duy Ma Cật cũng nói một bài kệ như sau:

Thị hiện trong ngũ dục
Lại cũng hiện tu thiền 
Để tâm ma rối loạn
Không thừa dịp hại đặng
Hoa sen sanh trong lửa
Thật đáng gọi ít có
Cõi dục mà tu thiền
Ítt có cũng như thế

Nghĩa là những vị tu thiền cao, thị hiện trong cảnh ngũ dục để làm cho ma ngơ ngác không hiểu ra sao, là thật hay giả nữa. Người tu thiền trong cõi dục này đắc quả thật ít có như hoa sen sanh trong lửa vậy, vì trong cõi dục tu rất khó khăn, phải mang thân máu mủ thai sanh ở trần gian này thì chuyện đắc thiền, quả là rất khó. Những phong trào tu thiền hiện nay chỉ là một loại thiền rất sơ khởi, có thể giữ được tâm tương đối vắng lặng và được một ít sức khỏe mà thôi, còn mong cầu tu thiền giải thoát ở cõi dục này rất khó. Vì hầu hết đều bị vướng vào sắc dục (Sex).

Trong khi thiền giải thoát phải đi qua sắc ấm, qua thọ ấm, phải ly dục, rồi phải qua tưởng ấm, phá vỡ hành ấm để vào đến thức ấm. Còn phần đông các vị tu thiền bây giờ có thể nói rằng chưa mấy ai qua được sắc ấm, thọ ấm, vì cảm giác yêu, ghét, mừng, giận, lòng cầu danh lợi v.v… vẫn còn đầy rẫy, làm sao có thể quán chiếu đi vào cái không hải ấy được?!

Tôi nói lên đây chỉ là một tiếng chuông để cảnh giác thế thôi, phải tự mình biết lấy để đừng chấp chước mà rơi vào tà kiến. Tôi xin đọc tiếp bài kệ của ngài Duy Ma:

Hoặc hiện làm dâm nữ,
Dắt dẫn kẻ háo sắc
Trước lấy dục dụ người
Sau khiến vào trí Phật…

Trong kinh Hoa Nghiêm, ngài Bà Tu Mật Đa cũng thị hiện như vậy, dùng sắc đẹp, nụ cười, lời nói, ánh mắt, chạm xúc v.v… để dụ những người tham dục đến, sau khi đến gần, do sức gia trì của ngài, cộng thêm những túc duyên từ nhiều kiếp trước, họ sẽ cảm thấy nhàm chán tham dục. Nên nhớ rằng trong cuộc hành trình đi qua các cõi, các kiếp, những nhân duyên nam, nữ rất nhiều… ở những bậc cao nhưngài A Nan và bà Ma Đăng Già thì đã năm trăm trăm kiếp làm vợ chồng, lúc đầu bơi lội trong tình dục, cho đến kiếp thứ năm trăm, một là được gặp Phật, hai là do nhiều thiện duyên từ nhiều kiếp trước, lúc đó tình đời chuyển dần thành tình đạo, vọng tình chuyển thành thánh tình, cả hai cùng đắc đạo. Còn những người tầm thường như chúng ta, có thể kiếp này làm chồng vợ với nhau, bẵng đi một vài kiếp lại làm chồng, làm vợ người khác, rồi bẵng đi không biết bao nhiêu kiếp, nếu khéo tu thì cũng có thể chuyển tình đời thành tình đạo được. Theo đạo Khổng, một tôn giáo nói về nhân thừa và nhân sinh trước mắt thì dạy rằng, người đàn bà phải giữ tiết trinh với chồng, để giữ hệ thống gia tộc và trật tự xã hội, vì người Tầu thường có quan niệm không muốn có giòng giống khác lọt vào gia tộc mình. Nhưng lên cao hơn nữa, đạo Phật dạy ly dục, đồng thời cũng nói rằng mỗi chúng sanh có vô lượng nhân duyên, không chỉ riêng có một, các nhân duyên triển chuyển làm chồng, làm vợ làm con cháu cho nhau. Nhưng nếu có những cặp yêu nhau một cách liên tục, có thể nhiều đời kiếp liên tiếp làm vợ chồng với nhau, song rút cục đến mức độ nào đó thì hai người cũng phải dắt nhau vào đạo, thăng hoa tình đời thành tình đạo, vì nếu cứ thai sanh hoài mãi thì không bao giờ tiến lên được. Nên chúng ta phải khởi tâm sợ hãi tình dục và nhàm lìa thai sanh, vì đó chính là đầu mối lên lên, xuống xuống trong luân hồi sanh tử mà không biết bao giờ ra khỏi.

Trong kinh cũng kể rất nhiều trường hợp lứa đôi đang đi trên con đường chuyển hóa, tình đời rất ít mà tình đạo rất nhiều, cùng hẹn nhau đi trên bồ tát đạo, mang nhau ra để bố thí, vì tất cả đạo Phật chỉ nằm trong chữ “chuyển/’ chuyển từ tình đời sang tình đạo, chuyển từ thai sanh sang hóa sanh, tất cả chỉ là chuyển, vì tâm thức lúc nào cũng chuyển, chuyển tức là “biến hóa,” chuyển cho đến khi tâm ấy bao la không cùng tận, mở rộng không bờ bến để ôm trọn được pháp giới này.

Ngay như “định mệnh” mà nhiều người coi là cố định. Đạo Phật cũng dạy rằng, ta cứ chuyển tâm đi rồi định mệnh cũng sẽ chuyển.

KINH: Trong thành những người chẳng biết công đức trí huệ của cô gái ấy nên nghĩ rằng: Đồng tử này thân căn thanh tịnh, trí huệ sáng suốt chẳng mê, chẳng loạn, nhìn kỹ một tầm, không lười mỏi, không chấp trước, mắt ngó chẳng nháy, tâm không tán động sâu rộng như đại hải. Người như vậy chẳng nên ở nơi cô gái Bà Tu Mật Đa mà có tâm tham ái, có tâm điên đảo, sanh tưởng là sạch, sanh tưởng ái dục, chẳng nên bị nữ sắc cám dỗ… Có người đã biết công đức trí huệ của cô gái này bèn bảo Thiện Tài rằng: Lành thay, lành thay, nay thiện nam tử có thể tìm Bà Tu Mật Đa nữ, thế là đã được lợi lành rộng lớn.

GIẢNG: Người đời phần nhiều tri kiến khác nhau, nên sự hiểu biết không đồng. Có người coi Bà Tu Mật Đa là dâm nữ thật, nhưng người trí thì hiểu đó chỉ là sự thị hiện của Bồ Tát để độ sanh.

KINH: Này thiện nam tử, Bà Tu Mật Đa nữ hiện ở nhà của cô tại chợ Bắc trong thành này.

GIẢNG: Hướng Bắc tượng trưng cho Tâm tịch diệt.

Vị này thị hiện trong vũng sình lầy rất lớn, nhưng tâm vẫn an nhiên bất động.

KINH: Thiện Tài vui mừng hớn hở, đến cổng nhà Bà Tu Mật Đa, thấy nhà này rộng rãi nghiêm lệ, cây báu, hào báu, mỗi mỗi bao quanh mười lớp,… cung điện lầu các đều tráng lệ, của nẻo thành hàng nối nhau … (bỏ một đoạn nói về y báo rất đẹp đẽ…) Thiện Tài thấy Bà Tu Mật Đa nữ nhan mạo đoan nghiêm, sắc tướng viên mãn, da màu chân kim, tóc và mắt màu xanh biếc, chẳng dài, chẳng ngắn, chẵng thô tế. Tất cả hàng nhơn thiên cõi dục không ai sánh bằng…

GIẢNG: Trong kinh tả vị này kỹ hơn vị Ưu Bà Di Bất Động. Nhưng vị này không đẹp bằng vị Ưu Bà Di Bất Động. Kinh tả vị này dung mạo rất đoan trang nhưng chỉ có nhân thiên cõi dục là không ai sánh bằng thôi, còn vị Ưu Bà Di Bất Động thì rất nhiều cõi không có ai sánh bằng. Đọc dần dần chúng ta sẽ thấy đoạn kinh này nói về Căn, Trần, Thức cũng như kinh Lăng Nghiêm.

KINH: Tiếng nói thanh tôi hơn trời Phạm Thế, tất cả ngôn âm sai biệt của tất cả chúng sanh đều biết, đều hiểu. Thấu rõ chữ nghĩa khéo luận đàm. Được trí như huyễn nhập môn phương tiện.

GIẢNG: Vị này cũng tu theo Lăng Nghiêm, nghĩa là tu như huyễn tam ma đề, ngài tu đến mức “phương tiện độ.”

KINH: …Thiện Tài đảnh lễ chân Bà Tu Mật Đa nữ chắp tay cung kính thưa rằng, bạch đức thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết bồ tát thế nào học bồ tát hạnh, thế nào tu bồ tát đạo… Bà Tu Mật Đa nữ nói, này thiện nam tử ta được bồ tát giải thoát môn tên là “lỵ tham dục tế” tùy chỗ sở thích của chúng sanh mà hiện thân..

GIẢNG: “Tế” là ngằn mé. Có nghĩa là về tham dục, ngài đã diệt sạch đến chỗ ngằn mé rồi, và tùy chỗ sở thích của chúng sanh để thị hiện thọ thân, để độ cho họ…

KINH: Nếu chư Thiên thấy ta thời ta là Thiên Nữ xinh đẹp sáng chói. Như vậy nhẫn đến nhơn hay phi nhơn thấy ta thời ta là nhơn nữ hay phi nhơn nữ.

GIẢNG: Bà Tu Mật Đa có nghĩa là “bạn của thế gian này” trong sách gọi là “thế hữu.” Nhưng ở đây, ngài thị hiện là bạn của người và của chư thiên để kéo những người còn say mê ngũ dục ra khỏi bùn lầy của ngũ dục. Vì vậy, “khi chư thiên thấy ta thì ta hiện thành thiên nữ rất xinh đẹp sáng chói, còn người thấy ta thì ta hiện thành người nữ rất xinh đẹp, hoặc phi nhân cũng thế, nên tùy theo loại mà ngài thị hiện độ sanh.”

KINH: Nếu có người vì lòng dục mà đến tìm ta, gặp ta thuyết pháp, họ nghe pháp rồi thời hết tham dục được “Bồ Tát vô trước cảnh giới tam muội” …

GIẢNG: ở đoạn này kinh dạy về việc thanh tịnh sáu căn của chúng ta, cũng như trong kinh Lăng Nghiêm, vị thiện tri thức này cũng dạy quán chiếu đi lần vào các căn từ ngoài vào trong. Khi vào đến cuối cùng như trong kinh tả là “nếu có chúng sinh nào thân cận ta”…, tức là đã đi sâu vào tàng thức rồi. ở đoạn kinh trên, một người đến chỗ Bà Tu Mật Đa, chưa cần nhìn ngài, chỉ dùng tai để nghe thuyết pháp, cũng được nhĩ căn thanh tịnh, lìa tham dục và đắc tam muội. Vì vậy, đối với các cảnh giới của thế gian này không còn chấp trước nữa, và đó mới chỉ là nghe pháp thôi, chưa nhìn, cũng chưa đi sâu vào cái ý của ngài.

KINH: Nếu có chúng sanh tạm thấy ta, thời lìa tham dục mà được “Bồ Tát hoan hỷ tam muội.”

GIẢNG: “Tạm thấy ta…” tức là nói cái mắt chỉ nhìn sơ qua thôi, chỉ thấy sắc tướng đẹp đẽ trang nghiêm ấy, chứ chưa đi vào đến cái ý thì đã được “bồ tát hoan hỷ tam muội” rồi, vì sao? Vì sắc tướng của ngài thanh tịnh, nên mắt người nhìn cũng trờ thành thanh tịnh mà được hoan hỷ tam muội. Khi tâm lìa được tham dục, thì tâm thênh thang hoan hỷ chứ không còn thô tháo lo âu như trước nữa.

KINH: Nếu có chúng sanh tạm cùng ta nói chuyện, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát vô ngại âm thanh tam muội.

GIẢNG: ở trên là chỉ nhìn qua thôi, bây giờ đi sâu hơn nữa là được nói chuyện với ngài mà nghe được âm thanh vi diệu của ngài, vì nghe cái trần thanh tịnh nên căn cũng được thanh tịnh. Vì vậy nên được ” Vô ngại âm thanh tam muội” . Cũng giống như khi một người gặp được đức Phật, khi nhìn được sắc tướng của ngài là tăng được thiện căn ngay.

KINH: Nếu có chúng sanh tạm cầm tay ta, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát tam muội đến khắp tất cả cõi Phật.

GIẢNG: “Tạm cầm tay ta” có nghĩa là thuộc về xúc giác, khi trần thanh tịnh, thì tự nhiên xúc cũng thanh tịnh, mà khi xúc thanh tịnh thì thân nhẹ nhàng bay bổng nên mới được “Bồ Tát tam muội đến khắp tất cả cõi Phật.”

Ở đây, tôi muốn nói thêm tại sao chúng ta không thể bay được? đi đâu cũng phải tùy vào những duyên bên ngoài như xe cộ, máy bay, tại sao thân này cũng hiện lên từ hào quang của tâm, đáng lẽ nó phải nhẹ nhàng bay được mới phải? Là vì từ vô lượng kiếp, chúng ta bơi lội trong tham dục, nên quên cái thân này, xúc giác này là do tâm ấy khởi lên, mà cứ nghĩ rằng thân này là vật có thật, ù lỳ, nặng chịch, nên nó trở thành vọng tưởng kiên cố và vì vậy chúng ta không thể bay được. Nên trong cuốn “Thiền căn bản” có dạy rằng phải quán tâm lực như gió, và thân như bông, quán lâu thì tự nhiên tâm lực đẩy thân này bay được… ở đoạn kinh này, nói rằng ta không cần phải quán gì nhiều nhưng chỉ cần cầm tay của Bà Tu Mật Đa, như thế là vì cầm được vào trần thanh tịnh, thì tự nhiên do lực của ngài nên xúc căn của ta cũng thanh tịnh, có thể bay được và đi tất cả cõi Phật.

KINH: Nếu có chúng sanh tạm lên trên chỗ ngồi của ta, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát giải thoát quang minh tam muội.

GIẢNG: Khi lên được chỗ ngồi gần ngài, nghe được mùi hương thanh tịnh của ngài thì tỷ cũng thanh tịnh vì vậy mới đắc được “Bồ tát giải thoát quang minh tam muội.” Tất cả chĩ là sự tương Ưng giữa căn và trần… Mùi hương là những quang minh vi diệu hơn, nên được Giải thoát quang minh tam muội.

KINH: Nếu có chúng sanh tạm nhìn ta thời lìa tham dục mà được Bồ tát tịch tịnh trang nghiêm tam muội.

GIẢNG: Trong đoạn kinh trước có nói đến chữ “tạm thấy ta,” ở đây lại nói đến chữ “tạm nhìn ta.” Vậy sự khác nhau là ở chỗ nào? chữ “tạm thấy…” thì chỉ là một cái nhìn thoáng qua, còn chữ “tạm nhìn ta…” là nhìn kỹ hơn, lúc này hành giả dùng cái mắt, đồng thời dùng ý của mình để nhận thức nên mới được “Bồ Tảt tịch tịnh trang nghiêm tam muội.” Sở dĩ chúng ta hay bồi hồi, sợ hãi lăng nhăng là vì cái ý của chúng ta không thanh tịnh, ý sợ cái này, lo cái khác v.v… nên tâm không được tịch tĩnh tang nghiêm.

KINH: Nếu có chúng sanh thấy mắt ta nháy, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát Phật cảnh giới quanh minh tam muội.

GIẢNG: Thỉnh thoảng chúng ta hay nháy mắt là vì tâm chúng ta động. Chư Thiên không bao giờ nháy mắt, vì vậy tâm chư Thiên không động mấy. Nháy tức là tâm ý của chúng ta vậy. Còn ở đây, chúng ta nhìn thấy Bà Tu Mật Đa nháy mắt, là ta phải hiểu cái tâm ý của ngài nên chúng ta cũng được ý thanh tịnh như ngài, và được “Bồ Tát Phật cảnh giới quang minh tam muội.

KINH: Nếu có chúng sanh ôm ta, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát tam muội nhiếp tất cả chúng sanh hằng chẳng bỏ lìa.

GIẢNG: “Ôm ta…” có nghĩa là cả ý và năm căn ở ngoài, vì vậy nên người ôm được cả sáu căn thanh tịnh, do đó có lòng đại bi được tam muội có thể độ chúng sanh chẳng hề bỏ lìa.

KINH: Nếu có chúng sanh nút môi ta, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát tam muội tăng trưởng phước đức tạng cho tất cả chúng sanh.

GIẢNG: Nếu theo sự suy nghĩ của người phàm tục, thì chắc nhiều người cũng phải khẽ cau mày mà nghĩ rằng, tại sao kinh lại nói gì mà có vẻ… thô tục thế? Nhưng như tôi đã nói nhiều lần, kinh thường mang đủ hai nghĩa trong ngoài, nghĩa đen, nghĩa bóng, ở đây chữ “Nút môi…” thuộc về vị căn và xúc căn vì vậy được vị và xúc căn thanh tịnh nên sanh trưởng rất nhiều phước đức, rồi hồi hướng cho tất cả.

KINH: Phàm có chúng sanh nào thân cận ta, tất cả đều lìa tham dục mà được nhập Bồ Tát nhất thiết trí hiện tiền giải thoát vô ngại.

GIẢNG: “Thân cận ta…” thì hơn cái mức “nút môi ta…” vì ở đây là bao gồm cả ý và năm căn kia, có nghĩa là biết rõ tâm thanh tịnh và thân thanh tịnh, có thể vào đến tàng thức rồi, nên được “Bồ Tát nhất thiết trí hiện tiền giải thoát vô ngại.”


Đó là hết vị thiện tri thức thứ 25.


KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám


DỤC GIỚI


"A-nan, các người thế-gian, không cầu-đạo thường-trụ, chưa có thể rời-bỏ được sự ân-ái với vợ mình, nhưng tâm không buông-lung trong việc tà-dâm, do tâm đứng-lặng sinh ra sáng-suốt, sau khi mệnh-chung ở gần với mặt trời, mặt trăng; một loài như thế, gọi là Tứ-Thiên-Vương-Thiên.

Đối với vợ mình, dâm-ái ít-ỏi, trong lúc tịnh-cư, không được toàn-vị, thì sau khi mệnh-chung, vượt ánh-sáng mặt trời, mặt trăng, ở trên chóp nhân-gian; một loài như thế, gọi là Đao-lợi-thiên.

Gặp cảnh-dục tạm theo, bỏ đi không nhớ-nghĩ, ở trong nhân-gian, động ít, tĩnh nhiều, thì sau khi mệnh-chung, sáng-rỡ ở yên trong cõi hư-không, ánh-sáng mặt trời, mặt trăng không soi đến được; và những người ấy tự mình có ánh-sáng; một loài như thế, gọi là Tu-diệm-ma-thiên.

Lúc nào cũng tĩnh, nhưng khi có cảm-xúc đến bên mình, chưa chống-đối được, thì sau khi mệnh-chung, lên trên chỗ tinh-vi, không tiếp với những cảnh nhân-thiên cõi dưới, cho đến gặp hoại-kiếp, tam-tai cũng không đến nơi; một loài như thế, gọi là Đâu-suất-đà-thiên.

Chính mình không có tâm dâm-dục, chỉ đáp-ứng với người khác mà làm, trong lúc phô-bày, vô-vị như ăn sáp, thì sau khi mệnh-chung, vượt lên sinh vào cảnh biến-hóa; một loài như thế, gọi là Lạc-biến-hóa-thiên.

Không có tâm thế-gian, chỉ đồng với thế-gian mà làm việc ngũ-dục; trong lúc làm việc ấy, rõ-ràng là siêu-thoát, thì sau khi mệnh-chung, vượt trên tất-cả những cảnh biến-hóa và không biến-hóa; một loài như thế, gọi là Tha-hóa-tự-tại-thiên.

A-nan, sáu cõi-trời như thế, hình-thức tuy khỏi động, nhưng tâm-tính còn dính-dấp; từ các cõi ấy trở xuống, gọi là Dục-giới. 



CHỈ VỀ QUYẾT ĐỊNH ĐOẠN LÒNG DÂM



"A-nan, thế nào thu-nhiếp cái tâm thì gọi là giới?


Nếu chúng-sinh lục-đạo các thế-giới, cái tâm không dâm, thì không đi theo dòng sinh-tử tiếp-tục. Ông tu phép Tam-muội cốt để ra khỏi trần-lao, nếu không trừ lòng dâm, thì không thể ra khỏi trần-lao được. Dầu có nhiều trí thiền-định hiện-tiền, nếu không đoạn lòng dâm, cũng chắc lạc vào ma-đạo, hạng trên thành ma-vương, hạng giữa thành ma-dân, hạng dưới thành ma-nữ; các bọn ma kia cũng có đồ-chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô-thượng. Sau khi tôi diệt-độ rồi, trong đời mạt-pháp, có nhiều bọn ma nầy sôi-nổi trong thế-gian, gây nhiều việc tham-dâm, lại giả làm người thiện-tri-thức, khiến cho các chúng-sinh sa vào hầm ái-kiến; bỏ mất con đường Bồ-đề. Ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-đề, trước hết phải đoạn cái dâm trong tự tâm. Ấy gọi là lời dạy-bảo rõ-ràng thanh-tịnh, quyết-định thứ nhất của các đức Như-lai Tiên-Phật Thế-tôn. Vậy nên ông A-nan, nếu không đoạn lòng dâm mà tu thiền-định, thì cũng như nấu cát, nấu đá muốn cho thành cơm, dầu trải qua trăm nghìn kiếp cũng chỉ gọi là cát nóng, đá nóng, vì cớ sao? Vì đó là giống cát, giống đá, không phải là bản-nhân của cơm vậy. Ông đem thân dâm cầu diệu-quả của Phật, dầu được diệu-ngộ, cũng chỉ là gốc dâm, cỗi-gốc đã thành dâm, thì phải trôi-lăn trong tam-đồ, chắc không ra khỏi, còn đường nào tu-chứng Niết-bàn Như-lai. Chắc phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống dâm, cho đến tính-đoạn cũng không còn nữa, thì mới trông-mong chứng quả Bồ-đề của Phật. Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba-tuần." 



Niệm Phật Thập Yếu


Hòa Thượng Thích Thiền Tâm



- Nhân tiện xin nhắc lại một câu chuyện về vọng tưởng vi tế, cho các bạn đồng tu thêm phần nhận thức: Quang Huệ và Giới Diễn là hai vị thiền sư đều ngộ đạo. Một hôm trong khi đồng ngồi thiền, nơi tiềm thức của ngài Giới Diễn thoạt nổi lên một niệm sắc ái, Ngài liền diệt trừ; song bên kia Quang Huệ thiền sư đã hay biết. Sau khi xuất định, ngài Quang Huệ làm bài kệ có ý trêu cợt ngài Giới Diễn. Giới Diễn thiền sư buồn thẹn, liền thâu thần nhập diệt. Ngài Quang Huệ hối hận, gọi đệ tử đến phó chúc rằng: "Bạn ta trong khi thiền định có một niệm sắc ái, sau tất lụy về sắc; vì phiền ta mà thị tịch, sau sẽ phá hoại Tăng Bảo. Lỗi ấy một phần do ở nơi ta, nếu ta không theo hóa độ, tất sẽ mang lấy hậu quả." 


Dặn dò xong, Ngài cũng viên tịch theo luôn. Sau Quang Huệ chuyển thân làm thiền sư Phật Ấn; Giới Diễn chuyển kiếp làm Tô Đông Pha. Đông Pha do kiếp trước có tu nên làm quan, thông minh trí huệ mà cũng đa tài đa tình. Ông có đến bảy người thiếp, và thường đem sự thông minh bác lãm của mình mà vấn nạn các vị thiền sư. Về sau bị ngài Phật Ấn chiết phục, ông mới quay lại đường lối tu Phật. Cho nên vọng tưởng vi tế, người tu lâu cũng phải e ngại là thế. Tiên đức có câu:


Công phu không thiếu cũng không dư.
Muôn kiếp tham si chửa dễ trừ!


Vậy người tu khi có chút cảnh giới tốt chớ vội khoe khoang tự đắc, phải nhìn gương ngài Giới Diễn. Và cũng đừng vội tự thị chê bai kẻ khác, mà phải xem gương Quang Huệ thiền sư.


- Lại một vị tiên là Lưu Trường Sanh sau khi luyện đơn thành, xuất thần bay lên chỗ bà Diêu Trì Kim Mẫu, thấy chư tiên nữ dung sắc cực kỳ xinh đẹp khó tả, khó họa, ông liền động tâm. Kim Mẫu quở rằng: "Ngươi tuy thành đạo, mà niệm sắc ái chưa tiêu, làm sao xứng đáng liệt vào hàng tiên phẩm?" Trường Sanh hổ thẹn, trở xuống cõi nhân gian, dùng phép điểm đá hóa vàng, vào chỗ lầu xanh mướn năm bảy cô dâm nữ đẹp nhất, cùng nhau chung sống. Trong hai năm trời ông nằm gần các cô dâm nữ lõa thể để luyện trừ niệm sắc dục. Khi xét thấy mình tâm đã bất động, ông bảo các cô ấy làm bánh, rồi để bánh trên bụng vận lửa đơn điền nướng chín, đem đãi các cô, nói đạo khai ngộ cho, xong mới cỡi mây bay đi.


- Một độ nọ bút giả về Phật Học Viện Huệ Nghiêm, gặp ngài tọa chủ chùa Thuyền Lâm. Trong khi đàm đạo ngài thuật chuyện rằng: "Trước kia ở ngoài Trung có một vị sư tu thiền khá công phu, mỗi lần có thể ngồi lâu đến sáu bảy giờ. Có lẽ muốn dứt trừ nhiễm duyên, sư thường lẩn tránh người nữ, thậm chí cô nào đến viếng chùa rồi về, ông cũng xách nước quét rửa chỗ ngồi của cô ấy. Thời gian sau, sư đến ở trọ chùa Thập Tháp tại Bình Định. Một buổi sáng, đang khi tọa thiền trong liêu, sư bỗng la lên rồi chạy ra ngoài. Hòa thượng Thập Tháp hỏi lý do, sư đáp: "Tôi đang tham thiền bỗng thấy một người nữ xinh đẹp đến ôm cổ." Nói xong, chiều lại sư mệt mỏi nằm bịnh, gọi hòa thượng Thập Tháp vào bảo: "Ngài phải làm sao cưới gấp cho tôi một cô vợ, bằng không bắt đầu từ chiều nay tôi sẽ tuyệt thực cho đến chết?" Cụ Thập Tháp cho gọi một bà Phật tử tín cẩn đến bàn luận, bà ấy bảo: "Để con về gọi đứa tớ gái của con, bảo nó giả vờ chịu đỡ để dẫn dụ sư ăn uống cho mạnh rồi sẽ hay." Sáng hôm sau, hòa thượng đưa cô tớ gái vào và bảo: "Tôi đã bàn định xong, có cô này ưng chịu làm vợ của Ngài đây." Sư nghe nói mở mắt ra nhìn, nắm tay cô tớ gái vuốt ve một hồi rồi tắt hơi."


- Nhớ lại hồi năm 1960 có các Phật tử đem tờ báo Tiếng Chuông đến, chỉ hình nhà sư Nhật Bản bắt tay một kỷ nữ lõa thể, chỉ còn mặc chiếc quần nhỏ, và phê bình là lối tu tân thời trái với đạo lý. Bút giả đã giải thích: "Chớ hiểu lầm, đó là lối nghiệm tâm của các thiền sư Nhật Bản, để xem mình đối với nữ sắc còn động chăng? Nếu chưa được như như bất động, họ sẽ trở về tu lại. Vị sư này cũng đã thiền định đến mức khá cao rồi, mới dám làm như thế."

Để kết luận, bậc trí lực chẳng những không ngại chướng duyên, mà còn mượn chướng duyên để tu tiến. Các vị ấy không còn chấp nê hình thức, vì hình thức chỉ là phương tiện mà nội tâm mới là cứu cánh.



Niệm Phật Phải An Nhẫn Các Chướng Duyên


 

Cửa rồng tăm cá vượt
Đỉnh nhạn bóng chim qua
Khách đi nghìn dặm biệt sơn hà
Đường tu gian khổ
Chướng ngại trải hằng sa
Nghịch thuận duyên ma khảo
Thương ghét nợ oan gia
Khá thương kham nhẫn cõi Ta Bà
Khổ vui bao quản
Vinh nhục tợ sương hoa
Nhẫn nại bền lòng tinh tiến mãi
Ác vàng thỏ bạc
Năm tháng sẽ dần dà...


Comments

Popular posts from this blog