Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 4 tháng 2 năm 1990
LỜI DẪN
Bộ kinh HOA NGHIÊM, dài
chừng 5000 trang, là bộ kinh nhằm diễn giải về cái bí ẩn của pháp giới này cũng
như về sự hiện hữu của các chúng hữu tình và y báo vô tình. Tuệ giác của kinh
không dừng ở quan niệm đơn sơ về một vị Thượng đế mô phỏng theo nhân ảnh và
biết thưởng phạt, mà dẫn dắt chúng ta đi rất xa, rất sâu vào bình diện Nhất
nguyên phi thần hóa. Tới những áng mây tuyệt vời che phủ niềm cô liêu bất nhị
của ngọn núi Tuyết sơn… Tới BIỂN TÂM UYÊN NGUYÊN… tuy mịt mùng hư ảo VÔ HÌNH
TƯỚNG nhưng lại chính là cỗi nguồn nguyên sơ của tất cả vũ trụ này.
Và trên mặt Biển Tâm
trong vắt và không có một vật ấy, tùy theo nghiệp lực ĐIÊN ĐẢO của chúng sanh
đứng nhìn, đã mọc lên bời bời vô lượng những sắc tướng trùng điệp, chập chùng
xen lẫn, chập chùng ẩn hiện.
V ì sao ?
Vì tất cả pháp giới
như-không-ngằn-mé này, chỉ được DỆT nên bằng những QUANG MINH tâm thức, những
quang minh này xoay vần miên viễn, lần lần chuyển động chậm lại do vọng tưởng
vọng tình rồi kết tụ thành những sắc tướng. Đó là một màn ẢO HÓA chập chùng
biến hiện của vô lượng những màn lưới quang minh, những màn THIÊN LA VÕNG phát
xuất từ NGHIỆP LỰC HẢI của chúng sanh, cũng như từ NGUYỆN LỰC HẢI của chư Đại
bồ tát và THẦN LỰC HẢI của những tâm niệm vô nhiễm của chư Phật.
Lời kinh xưa dạy như
vậy.
Trong các kinh lớn của
nhà Phật, kinh HOA NGHIÊM là lâu đài nguy nga đồ sộ nhất. (Suzuki cũng nhận
định rằng kinh Hoa Nghiêm là một lâu đài giáo lý mà các tôn giáo khác không có
nổi…) Và trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm NHẬP PHÁP GIỚI là lạ lùng kỳ diệu nhất,
độc nhất vô nhị.
Phẩm Nhập Pháp Giới, dài
1300 trang, mô tả một cách vô cùng kỳ thú, cuộc hành trình của một vị hành giả,
của ngài THIỆN TÀI đồng tử, đi lần lần học hỏi qua 53 vị thiện tri thức, cách
thức ĐI SÂU VÀO BIỀN TÂM, qua những giai đoạn Không quán rồi Giả quán, Trung
quán. Nhưng thực sự là Giả và Trung quán.
Tuy bối cảnh của cuộc
hành trình là cả pháp giới mênh mang bao la này, nhưng thực ra, cuộc hành trình
chi trải ra trong Tàng thức sơ năng biến của ngài, cũng như trong Tàng thức của
các bậc Thiện tri thức… Rốt cuộc, ngài nhập vào LỖ CHÂN LÔNG của ngài Phổ
Hiền, đi trong đó 12 năm, rồi:
NHẬP PHÁP GIỚI…!!!
Trong các kinh nhà Phật,
thường chỉ nói tới Giải thoát, rất ít khi nói tới Nhập pháp giới… Riêng kinh
Hoa Nghiêm chỉ nhấn mạnh tới Nhập pháp giới.
Vậy thế nào là GIẢI
THOÁT? Thế nào NHẬP PHÁP GIỚI?
Giải thoát cho riêng
mình không phải là cứu cánh của giáo lý Phật, mà chỉ là một chặng đường. Trong
khi Nhập pháp giới mới chính là cứu cánh tuyệt vời tối hậu.
Giải thoát là khi hành
giả tiến tu trên lịch trÌnh Không quán, lần lần vượt qua bốn màn sương mù Sắc
Thọ Tưởng Hành ấm, vào Diệt tận định, bước vào bờ mé của Tàng thức sơ năng
biến. Rồi ngồi đó, dùng Trí huệ vô lậu quán chiếu các Phiền não chướng tham sân
si mạn, nghi là những mầm mống sanh tử, tiêu dung các thứ đó. Lúc ấy, hành giả
không còn phải thọ sanh nữa, chấm dứt Phân đoạn sanh tử, bước vào trạng thái
niết bàn an lạc tịch diệt của các bậc Giải thoát cho riêng mình.
Vị đó, tuy đã tiêu dung
phiền não chướng và chấm dứt Phân đoạn sanh tử, song còn những Sở tri chướng
của Biến dịch sanh tử vi tế.
Cho nên, hành giả tu Bồ
tát đạo không dừng chân ở bờ Giải thoát. Mà còn tiến xa hơn nữa, sâu hơn nữa…
Còn LẶN SÂU hơn vào Tàng thức, khởi Giả quán và Trung quán, đi tới chỗ Tột
không tức Diệu hữu, tới Đại niết bàn Đại tịch diệt của chư Như lai. Để tiêu
dung mọi biến dịch sanh tử vi tế, mọi ranh giới giữa Tự và Tha, giữa Chánh báo
cùng Y báo. Để Thân tâm bao trùm pháp giới, NHẬP MỘT với pháp giới… Lúc đó,
không một cọng hoa nào nở, không một vi trần dấy lên, không một tinh hà thành
hoại, không một tâm niệm nào khởi lên… mà Bậc đó không hay biết. Vì sao? Vì tất
cả đều ở trong thân tâm Bậc đó… Lúc đó, Thân là Cõi và cõi là thân…
Và Nhập pháp giới chính
là đắc VÔ THƯỢNG CHÁNH GIÁC.
Tôi có cái hạnh ngộ
(không biết do túc duyên nào?!), tụng kinh Hoa Nghiêm, và diễn giảng trong mấy
năm tại một ngôi chùa nhỏ ở Santa Ana… Và phẩm Nhập pháp giới đã khiến tôi say
mê thích thú, tưởng chừng như đọc một bộ tiểu thuyết nhà trời kỳ diệu.
Những trang sau đây là
phẩm Nhập pháp giới diễn giảng, lời giảng thường đi theo lời kinh được trích
yếu.
Tuy lời diễn giảng nôm
na, đôi khi thô lậu, nhưng có thể góp ý và gợi ý cùng bạn đọc về cuộc hành
trình Đi Sâu vào Biển Tâm.
Và bây giờ, xin mời bạn
đọc theo dõi từng bước chân, từng cử chỉ lời nói của ngài Thiện Tài đồng tử.
Nam mô Văn Thù, Phổ Hiền
Đại Bồ Tát
Cung kính đề
Tịnh Liên
ĐI, đi mãi… đi hoài đi
hủy… trong pháp giới xum la vạn tượng và như không-ngằn-mé này, cũng chỉ là ĐI
TRONG VƯỜN TÂM của mình thôi.
Hôm nay là buổi thuyết
giảng đầu năm và cũng là buổi thuyết giảng thứ 101 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa
này.
Hôm nay, chúng ta sẽ đi
vào phẩm “Nhập Pháp Giới.” Trong phẩm này, các vị thiện trí thức rất nhiều (53
vị), mà vị nào cũng vậy, nếu nói theo ngôn ngữ hơi… “thô lỗ” của thế gian thì
vị nào cũng đều… “quái dị” cả. Nhưng mỗi lời của các ngài đều là những công án,
nên vì vậy, xin quí vị về đọc trước cho dễ đi vào mạch kinh.
Phẩm Nhập Pháp Giới là
một phẩm hết sức lạ lùng và có lẽ độc nhất vô nhị của kinh Phật. Không biết đối
với quí vị ra sao, nhưng riêng tôi, nhiều khi đọc tôi thích thú như đang đọc
một bộ tiểu thuyết kỳ diệu, lạ lùng và khó hiểu, đồng thời như mình đang đứng
ngắm nhìn một giòng sông chảy trong đó toàn là kim cương mà không có cách nào
lấy được những viên kim cương ấy. Bây giờ chúng tôi xin nói qua về chữ “Nhập
Pháp Giới.” Thường thường trong các kinh khác, ngài chỉ nói đến chữ “Giải
Thoát,” hoặc giới, định, huệ, giải thoát, hay giải thoát tri kiến mà thôi.
Nhưng kinh Hoa Nghiêm
lại không nhấn mạnh ở chữ “Giải Thoát,” mà lại nói đến chữ “Nhập Pháp Giới.”
Vậy thì mục tiêu tuyệt vời của giáo lý nhà Phật là gì? Là giải thoát hay nhập
pháp giới? Và hai cái đó khác nhau ra sao??
Trong những kinh khác,
thường thường đức Phật bao giờ cũng nhắc đi nhắc lại chữ giải thoát và giải
thoát tri kiến, còn trong kinh Hoa Nghiêm thỉnh thoảng ngài nói đến chữ giải
thoát nhưng ngài chỉ nói lược qua mà lại nhấn mạnh đến chữ “Nhập Pháp Giới.”
Để hiểu rõ hơn về bản
hoài của chư Phật và chữ giải thoát lẫn nhập pháp giới, chúng ta phải trở lại
nói lược về con đường tu của thanh văn và con đường tu của bồ tát.
Thường các Phật tử đi
chùa, ai cũng nghĩ một cách đơn giản tu là phải giải thoát mà thôi. Nhưng nếu
suy nghĩ kỹ thì sự giải thoát còn thua xa so với sự nhập pháp giới. Theo những
kinh của Nam Tông kể rằng: “có đức Phật ngồi dưới cây bồ đề đắc được ngũ thông,
khi sao mai nổi lên ngài đắc được thiên nhãn thông, rồi thiên nhĩ thông, rồi
tha tâm thông, thần túcthông, cuối cùng đến lậu tận thông.” Riêng Hoa Nghiêm
thì lại nói khác hẳn, nói thập thông, thập định, thập nhẫn và nhập pháp giới.
Vậy phải hiểu ý của chư Phật như thế nào???
Xin trích ra một đoạn
ngắn tả về nhập pháp giới:
Kinh:
…Lúc đó đức Phật Thế Tôn
ngự trên tòa sư tử này thành Vô Thượng chánh Đẳng Chánh Giác, trí Phật chứng
nhập thời gian ba đời đều bình đẳng…
Giảng:
Bên Thanh Văn thừa, chỉ
nói là có túc mạng thông, biết được một số những kiếp trước và vị lai. Nhưng
đây lại nói đức Phật chứng nhập thời gian ba đời đều bình đẳng, tức là đã hóa
giải thời gian.
Kinh:
…Thân Phật đầy khắp tất
cả thế gian…
Giảng:
Nghĩa là đầy khắp pháp
giới, ở đây, không gian cũng bị hóa giải, tức là thân và tâm
Phật trùm đầy tất cả pháp giới: không có một cọng hoa nào nở ra, một hạt bụi
nào rưới lên, một vi trần động đậy, một tâm niệm của chúng sanh, một tinh hà nở
ra, một phiền não chúng sanh khởi lên mà ngài không biết. Vì TẤT CẢ đều ở trong
tâm của ngài đó là ý nghĩa của chữ nhập pháp giới…
Khi một vị hành giả tu
hành đến mức tâm mình lớn bao trùm tất cả vũ trụ này. Thí dụ như ta ngồi đây,
thấy người đói rét mà ta không cảm thấy gì hết, có chăng một chút lòng ái ngại
và thương xót rồi sau đó quên ngay. Tức là sao? Đó là tại tâm mình quá nhỏ, chỉ
thu ở phạm vi cái gì “của mình” thôi. Nhưng đến khi nào quí vị cảm nhận rằng
mình đau được cái đau khổ ấy, rét được cái rét đó, đói được cái đói đó, thì bắt
đầu tâm của quí vị đã nới ra hơn một chút, và cho đến khi nào quí vị cảm thấy
rằng bất cứ chúng sanh nào đau khổ hay vui mừng, mình cũng cảm nhận sự đau khổ,
vui mừng đó y như họ vậy. Lúc đó tâm càng ngày càng lớn, về sau mình sẽ có thần
lực, thân ngồi đây bất động, nhưng tâm bao trùm cả pháp giới này, không có vi
trần nào mà thân tâm mình không đến được. Đó là nhập pháp giới…
Kinh:
…Thân Phật khắp đầy tất
cả thế gian, tiếng Phật thuần khắp cõi nước mười phương, ví như hư không bao
gồm tất cả các tướng…
Giảng:
Ý nói rằng thân và tâm
Phật rộng lớn như hư không, lúc nào cũng thấm thâu khắp pháp giới.
Kinh:
…Đối với cảnh giới không
có phân biệt…
Giảng:
Không phân biệt vì chỗ
nào cũng là thân và tâm của mình cả.
Kinh:
…Lại như hư không cùng
khắp bình đẳng trong tất cả quốc độ.
Giảng:
Vào trong quốc độ là vào
trong tất cả vi trần, tinh hà.
Kinh:
Thân Phật thường khắp
ngồi trong đạo tràng của chúng Bồ Tát, oai quang của Phật chói rỡ như mặt trời
mọc lên soi sáng thế giới. Phước đức của Phật rộng lớn như biển cả đều đã thanh
tịnh, mỗi đầu sợi lông đều có thể dung thọ tất cả thế giới mà vẫn không chướng
ngại, đều hiện vô lượng thần thông giáo hóa điều phục chúng sinh…
Giảng:
Như vậy, kinh Hoa Nghiêm
đều dính liền với tất cả thần thông, không có cách gì tách ra được. Vì nếu tách
ra tức không hiểu gì hết. Vậy thì, thế nào là giải thoát? Thế nào là nhập pháp
giới? Đồng thời, ta cũng phải lược lại lộ trình tu chứng của Thanh Văn thừa và
lộ trình tu chứng của Bồ Tát đạo…
Thanh Văn tu cái gì, và
tới cái gì? Niết Bàn là thế nào? Khi vào Niết Bàn các vị A La Hán đó có còn
thân hay không? Và dùng tâm gì để tu? Chỉ, quán là chỉ quán cái gì? Còn Bồ Tát
đạo thì các ngài tu ra sao và dùng cái gì để tu?
Bên Thanh Văn thừa,
dùng trực tâm. Trực tâm là tâm ngay thẳng, không lệch lạc, một
vị thanh văn giữ giới với một tâm không lệch lạc, chưa phải là Bồ Đề tâm. Còn
con đường Bồ Tát đạo là dùng Bồ Đề tâm tức là tâm Bát Nhã và Đại Bi bình đẳng,
là tâm chẳng có, chẳng không…
Chúng ta vốn là những
Phật tử, nhất là đã đọc Hoa Nghiêm rồi, cần phải hiểu rõ thế nào là mục tiêu
tuyệt vời của chư Phật. Đây, xin nói trước về lộ trình tu chứng của Thanh Văn
thừa.
Một bên, Thanh Văn thừa
dùng trực tâm, một tâm ngay thẳng, giữ giới, chưa biết được tâm Bồ Đề, Bát Nhã
và Đại Bi, các ngài có 250 giới cho tỳ kheo, 348 giới cho tỳ kheo ni. Một bên,
Bồ Tát thừa dùng tâm Bồ Đề, Đại Bát Nhã và Đại Bi, dùng tâm chẳng có, chẳng
không. Ngoài những giới gần giống như bên Thanh Văn thừa, Bồ Tát còn có những
giới khác như giới phải giữ Bồ Đề Tâm, giới phải tu đại thừa, giới nhiêu ích
hữu tình .v.v… Sự khác nhau chỉ ở chỗ một đằng là đến chỗ giải thoát, nhập Niết
Bàn cho riêng mình thôi (Thanh Văn), một đằng là đến chỗ nhập pháp giới trọn
vẹn (Bồ Tát). Bồ Tát nhiều khi không nghĩ đến mình nữa, nên có nhiều vị cố tình
để lại một ít kiết sử để thọ sinh lại trong các đường ác, và coi sự giải thoát
cho chính mình là thứ yếu, mà chỉ cầu tới chỗ nhập pháp giới, mà tới chỗ đó thì
tất cả mọi việc đều xong.
Quí vị sẽ thấy Niết Bàn
của Thanh Văn rất khác với đại tịch diệt Niết Bàn của Như Lai. Và khi vào đại
tịch diệt, hành giả sẽ có đủ thần lực kéo cả pháp giới đi đến chỗ cứu cánh.
Trở lại vấn đề giải
thoát bên Thanh Văn. Xin đặt câu hỏi: Một hành giả tu theo Thanh Văn thừa là
như thế nào? Giữ giới ra sao? Trong Thanh Văn thừa được chia ra hai phần: ngoại
phàm, và nội thánh. Lúc đầu, một hành giả mới vào tu, trước hết hành giả phải
tu ngũ đình tâm quán: đó là những môn để luyện tâm mình và đối trị những bệnh
của mình. Ngũ đình tâm quán có năm thứ:
1/ Quán tâm bất
tịnh: để cho nhàm chán cái thân này ra
khỏi dục giới. Nếu còn đắm luyến thân này, thì hành giả chưa thể bước một bước
— dù rất nhỏ — trên con đường Phật đạo. Phải biết thân này là
máu mủ đờm rãi, không có gì là đẹp cả. Vì do tập khí cũ nên mắt không thể thấy
gì khác ngoài cái da bao bọc ngoài thân.
2/ Quán nhân
duyên: Đó là một loại quán cốt yếu của
nhà Phật. Hành giả phải quán không có pháp nào là đơn thuần cả, đều do vô lượng
nhân duyên hội tụ lại mà thành. Khoa học ngày nay cũng thấy rằng, trong các vi
trần dù nhỏ đến đâu, như những hạt nhân, những trung hòa tử, những âm điện tử,
dương điện tử v.v…, nếu đi sâu hơn nữa vào những vật ấy, họ lại có thể phân
tách thành những vật khác. Họ lại tìm thấy những thứ gọi là “phản vật,” phản
dương điện tử, phản âm điện tử, v.v… rồi thì liên miên biên hóa không ngừng.
Nên khi tâm nhãn mình rọi soi đến đâu thì nó lại càng biến hóa trùng
trùng đến đó mà không thể tìm được một vật nào đơn thuần hết. Vì vậy,
kinh Phật mới dạy rằng: “Tất cả các pháp đều không có thực thể, đều là do vô
lượng nhân duyên hội tụ mà thành.” Quán nhân duyên là một lối quán sơ bộ, nhưng
rất quan yếu của tiểu thừa, đồng thời đó là một lối quán để nối liền với lối
quán như huyễn của đại thừa.
3/ Quán từ bi: Chúng ta quán nhân duyên, bất tịnh để đối trị với tham
dục của chúng ta, còn quán từ bi để đối trị sự sân hận. Khi một hành giả thấy
rằng mình sắp sửa nổi sân lên vì một người nào đó, thì hãy khởi quán tâm từ,
nghĩ rằng người đó cũng có nhiều điều đau khổ như mình vậy, và biết đâu họ đã loại bỏ đi qua bao nhiêu kiếp chìm nổi để có được thân người như ngày nay. Đại
khái là như vậy.
4/ Quán giới
phân biệt: Giới là sáu căn, sáu trần, sáu
thức và tất cả giới đều do lục đại hòa hiệp mà thành, ở đây xin mở một dấu
ngoặc là theo Thanh Văn thừa thì có sáu đại, nhưng trong kinh Lăng Nghiêm lại
nói bảy đại: đất, nước, gió, lửa, hư không, thức, và kiến đại. Khi một hành giả
luôn luôn quán như vậy, thì tâm càng ngày càng sắc bén hơn lên, thành cái gươm
trí huệ, bất cứ pháp nào hành giả cũng có thể chia chẻ ra được. Như trong kinh
tả ngài Xá Lợi Phất, không có một điều gì mà ngài nghe qua mà không hiểu. Nhìn
thấy một người nào ngài cũng biết rằng người này vướng vào cái gì, có cái gì
lợi căn và cái gì hại căn v.v…
5/ Quán sổ tức: sổ tức để ngừng tâm lại không để cho nó buông lung tán
loạn, đó là một trong những pháp môn căn bản để bắt đầu.
Sau khi qua được giai
đoạn tu ngũ đình tâm quán, (nhưng nhiều khi các vị THANH Văn chỉ tu một phần
của ngũ đình tâm quán thôi mà cũng có thể bước qua phần khác được) thì các vị
bước qua phần thứ hai. ở phần này, là một pháp môn tu nửa tiểu thừa, nửa đại
thừa để bắt đầu cho những vị khởi tâm muốn qua đại thừa. Phần này tu tứ niệm xứ
gồm có:
1/ Quán thân bất
tịnh, cũng là pháp môn như trên. Nhưng trong đạo Phật, thường phải tu
đi, tu lại một hạnh, hay một độ nào đó, vì nhiều khi, tu đến một mức nào đó lại
phải tu sâu hơn nữa, vì tâm thức đi theo con đường vòng xoáy trôn ốc. Chẳng
hạn như lúc đầu đã tu hạnh bố thí rồi, nhưng sau các vị lại trở lại tu bố thí,
hoặc có ngài như ngài Vô Yểm Túc dạy tu từ tâm, sau đó lại có ngài Đại Quang
cũng dạy tu từ tâm, nhưng ngài này dạy đi vào mức độ sâu hơn, (Trong kinh Hoa
Nghiêm, phẩm nhập pháp giới, lúc ngài Thiện Tài đi gặp các vị thiện tri thức).
Như chúng ta, đọc kinh một lần đầu đâu có thể hiểu ngay được, mà phải đọc đi,
đọc lại 50, 60 lần mới mong hiểu chút phần, vì thế cứ phải xoáy dần sâu vô mãi…
2/ Thọ thì khổ. ở
đây, hành giả ngồi quán chiếu mọi cảm giác của mình, thấy rằng bất cứ thọ cái
gì cũng là khổ cả. Nhiều cái thọ thấy lúc đầu rất vui, nhưng sau cùng đều đưa
đến cái thọ khổ. Thí dụ như ta mới được một cái xe mới, cảm giác lúc đó rất
vui, nhưng sau lại phải đương đầu với lắm sự phiền nhiễu, tiền trả xe hàng
tháng, tiền bảo trì, tiền bảo hiểm v.v… nghĩa là chuyện gì, lúc nào cũng chỉ
đem đến cho ta nhiều lo lắng, phiền não, mà sự vui lại rất ít. Một thí dụ khác
là ăn uống, lúc đương đói, ăn vào thì rất thích, nhưng sau đó, ăn no quá lại
thấy nặng bụng, phải tiêu hóa, hoặc đau bụng, đó là chưa kể về già lại nhiều
phiền não hơn nữa, có khi không đi cầu được chẳng hạn. Tóm lại, tất cả sự thọ
đều là khổ.
3/ Tâm vô
thường. Tâm đây không phải là diệu tâm đâu, mà là vọng tâm. Tâm tưởng
của chúng sinh, đều thay đổi từng giờ phút, giây, ngay cả từng sát na một. Hôm
nay có thể ta nghĩ thế này, mai lại nghĩ khác, hôm nay ta thích cái này, vài ba
ngày sau lại chán cái đó ngay. Vì vậy nên tâm vô thường, nên pháp vô định…
4/ Pháp vô ngã. Mọi
pháp đều không có cái gì là tự tánh của nó cả, nên gọi là pháp vô ngã.
Tóm lại, tất cả những
phần tu nói trên đều là sơ bộ, cốt để tập cho tâm mình thuần thục một chút.
Trong thời gian tu tập sơ bộ đó, đạo Phật lại chia làm bốn thứ bậc của ngoại
phàm, (là những người còn lơ mơ ở ngưỡng cửa). Những vị này, sẽ chứng được bốn
bậc: noãn, đảnh, nhẫn và thế đệ nhất.
— Noãn là hơi ấm, nếu một hành giả quán chiếu thân bất tịnh,
quán lâu thì thấy nó đúng, giống như một người dùi cây lâu ngày thì nó bật lửa.
Ở mức độ này, hành giả thấy một chút trí tuệ phát khởi nên gọi là noãn.
— Đảnh là sau khi dùi cây lấy lửa lâu rồi sắp được kết quả thì
được đảnh. Đảnh tức là lên đến đảnh núi rồi, nhưng hành giả ấy vẫn chưa với
được những cụm mây trên cao, đồng thời chân còn dính vào đất mà chưa bay bổng
tuyệt vời được.
— Nhẫn đây là nhẫn của tiểu thừa thôi, chưa phải cái nhẫn lớn
của vô sanh pháp nhẫn của các vị đại bồ tát. Trong đạo Phật rất lạ lùng, vẫn
chỉ là một thứ thôi, nhưng sau lại chia ra đi vòng tròn xoáy trôn ốc lên. ở
tiểu thừa chỉ nói một thứ nhẫn, nhưng lên đại thừa thì có cả mười mấy thứ nhẫn.
Nhẫn của đại thừa đại khái như sau: Phục nhẫn, cho những vị
mới tu thập tín, thập trụ. Phục nhẫn là dùng chữ nhẫn của mình để dẹp bớt những
phiền não. Tín nhẫn là lòng tin sâu chắc khiến nhẫn chịu được
các pháp, cho dù có ai chửi cũng không thấy giận nữa. Tùy thuận nhẫn, là
thuận theo chân lý của đại thừa, và khi đã hiểu được chân lý đó thì có thể chịu
được nhiều thứ pháp, đói không thấy sợ lắm, bệnh cũng không thấy sợ lắm, ngay
cả đến sự chết cũng không thấy sợ. Vì sao, vì lúc đó hành giả đã hiểu rõ các
pháp, hiểu rằng mình bất tử, không có cách gì có thể chết được cả. Đó chỉ là
cái thân này chết thôi, còn luồng sức tâm không thể chết được.
Nhân đây, tôi cũng xin
nói qua về cái “bất tử” của nhà Phật. Tất cả các đạo khác nhằm đến một sự bất
tử rất hạn hẹp, giả dụ như tu tiên, muốn giữ hình hài này độ vài nghìn năm
nhưng đó vẫn chưa đến chỗ bất tử rốt ráo, vì rồi hết hạn cũng phải chết. Đạo
Phật cho rằng đó chỉ là sự bất tử hình tướng và thô kệch. Vì nếu đi sâu được
vào thức ấm và dùng thức ấm liên tục nhớ từ kiếp này sang kiếp khác, dùng sợi
dây ấy để làm “cái-gạch-nối-liền” đi qua các cõi, các kiếp để tạo nên cái bất
tử của mình, thì đó mới thực sự là bất tử, là biến hóa tràn đầy thế gian mà
không bao giờ có thể hết được. Khi đi sâu vào thức ấm thuần thục, hành giả chỉ
cần khởi một niệm cũng có thể hiện bời bời nhiều sắc thân và trụ nhiều kiếp.
Như một người được vãng
sinh Cực Lạc, có thể sống vô lượng kiếp nhưng không phải trụ ở thân máu mủ này
đâu, mà có một thân hào quang của thức ấm. Nói tóm lại, bất tử của đạo Phật sâu
xa vô cùng và vượt xa tất cả các đạo khác. Vì thế, ngày xưa có một vị sư tên
Đàm Loan đi gặp một ông tiên và được ông cho một ít sách để tu tiên. Giữa
đường, lại gặp một vị hòa thượng, được nghe hòa thượng đó tả nói về Tịnh Độ,
ngài Đàm Loan hiểu được sự vi diệu, nên ngài đã quẳng sách tu tiên để tu theo
Tịnh Độ và sau được vãng sanh.
Vô sanh pháp nhẫn là nhẫn của Bồ Tát đệ bát địa. Lúc này, bực Bồ Tát đã có
nhiều thần thông biến hóa lắm rồi, nên không có pháp nào mà không nhẫn được.
Hư không nhẫn là chữ “nhẫn” của chư Phật, tức là đã hoàn toàn nhập
pháp giới trọn vẹn.
Trở lại chữ nhẫn ở tiểu
thừa, nó còn rất hạn hẹp, chỉ có thể chịu đựng được một số pháp thôi, như
chuyện tham dục, bệnh tật v.v… Vì sự hiểu biết nhân duyên: bất tịnh, khổ,
không, vô thường, vô ngã nên các vị đó có sự nhẫn chịu được một số pháp,
nên tâm được một chút thong dong, tự tại.
4/ Thế đệ nhất, ở
mức độ này, trong thế gian, hành giả phàm phu được phong làm đệ nhất của hàng
người.
Sau khi đi qua bốn bậc
đó gọi là tứ thiện căn, hoặc tứ gia hạnh, lúc này cá cvị tiểu thừa bước vào
quán tứ đế: khổ, tập, diệt, đạo.
Quán tất cả pháp
là khổ. Chúng ta nên nhớ rằng không có gì là không khổ. Như
cái thân này chẳng hạn, phải bắt buộc qua bốn thời kỳ sanh, già, bệnh, chết.
Đồng thời phải hiểu rằng có một trạng thái tâm thức gọi là Niết Bàn, mà trạng
thái đó là trạng thái giải thoát, an lạc, tịch tĩnh… Nên các vị luôn luôn phải
quán mấy thứ đó, không lúc nào quên và phải nhớ rành rẽ từng thứ một. Nhìn đâu
cũng đều thấy là khổ, không, vô thường, vô ngã cả… duy Niết Bàn là an lạc, tịch
tĩnh. Từ tâm tưởng đến trí thông minh của mình thật ra không hề có tác giả,
không có thọ giả. Hiểu rằng tác giả, thọ giả đều là Ảo Vọng. Đồng thời, hiểu
rằng mình sẽ đến một giai đoạn gọi là giải thoát mà trong đó tâm thức an lạc,
tịnh tĩnh. Sau khi quán khổ như thế, lại quán tập, diệt, đạo.
Tập đế là tất cả nguyên nhân của sự khổ do tập khí cũ từ vô
lượng kiếp, nên cần phải diệt tập khí đó đi để tu hành đến đạo quả, tức là Niết
Bàn tịnh tĩnh. Trong kinh còn nói nhiều thứ phức tạp hơn, nhưng tôi chỉ tóm tắt
cho quí vị biết được cái sườn tu của các vị Thanh Văn.
Ở đây, hành giả đã
bắt đầu vào nội thánh rồi, có thể được bốn quả tiểu thánh, đồng thời cũng có
thể được bốn thiền, bốn vô sắc định và diệt tận định.
Thế nào là quả thánh và
thế nào là quả thiền? Có nhiều trường hợp hành giả tu được bốn quả thiền nhưng
chưa được một quả thánh nào cả. Như đắc sơ thiền nhưng chưa chắc đã đắc được
quả thánh Tu Đà Hoàn, (Xin nhắc sơ bốn quả tiểu thánh là Tu Đà Hoàn, Tư Đà
Hoàn, A Na Hàm và A La Hán). Khi bắt đầu có những quả thánh đó thì trong nhà
Phật gọi là kiến đạo, sau đến chỗ tu đạo và sau cùng là vô học đạo. Còn tứ
thiền là: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, và tứ thiền, rồi tứ vô sắc định là
không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Cuối cùng là diệt tận định. Tóm lược là cửu thứ đệ định.
Bốn quả thánh và cửu thứ
đệ định đều do tu thiền mà được. Nhưng có những vị đắc được tứ thiền như ngài
Thiện Tinh Tỳ Kheo, có thể ngưng tim đập, bặt hơi thở, phóng quang, vào được xả
niệm thanh tịnh địa (đệ tứ thiền), nhưng ngài không đắc một quả thánh nào cả, ngay
cả quả thánh thấp nhất là Tu Đà Hoàn. Nên khi lâm chung, thấy chẳng vào được
Niết bàn, vẫn thấy có thân trung ấm, nên ngài kinh ngạc kêu lên rằng: “Chư Phật
đều nói lời hư vọng, chả có Niết Bàn gì cả.” Vì thế mà ngài bị đọa địa ngục.
Thiền là mức định lực
nông sâu của mình, quả thánh là do diệt được những phiền não hữu lậu. Một vị
hành giả tu thiền khá có thể ly dục và vào được sơ thiền, nhưng sân, si, nghi,
mạn v.v… vẫn còn nhiều, chưa diệt được mấy đỗi, vì vậy mà chưa đắc quả thánh.
Muốn đắc quả thánh thấp nhất phải diệt được một số kiến hoặc và tư hoặc. Tất cả
bốn quả thánh bên Thanh Văn thừa đều căn cứ vào vấn đề diệt phiền não nhiều hay
ít, còn thiền chỉ thuần do định lực mà có. Trong kinh thường nói có những kiến
hoặc và tư hoặc mà các vị tu muốn đắc quả phải diệt.
Kiến hoặc là cái nhìn
lệch lạc, tỷ dụ như thân kiến, biên kiến, giới cấm thủ kiến, chấp thủ kiến, và
tà kiến.
Thân kiến là chấp có
thân này do đó chấp có ngã, (cái ta). Biên kiến là nghĩ rằng các pháp có một
biên giới rõ rệt như tự và tha, như một là có, hai là không, một là đoạn, hai
là thường, một là có mình, hai là có người v.v… Không bao giờ hiểu rằng các pháp
là chẳng có, chẳng không cả, là không quyết định, là tùy tâm người nhìn.
Giới cấm thủ kiến là
những ngoại đạo thường hay lạc vào những giới cấm tà kiến. Chẳng hạn như nghĩ
rằng, cứ tu bằng cách đứng co một chân như con cò rồi sau khi chết sẽ sanh
thiên. Hoặc có vị nghĩ rằng phải hành hạ thân xác mình thật khổ sở, như nằm
trên giường đinh, sống bẩn thỉu như một con chó — gọi là cẩu giới — hoặc
kê giới, v.v… ăn thì không cầm tay, chỉ dục miệng vào bát để ăn, không đi đứng
chỉ bò như chó, khi ngủ thì tìm mấy cái xó bẩn thỉu để ngủ v.v… Họ nghĩ rằng
đày đọa thân này thì sau sẽ được sinh thiên. Phật Giáo gọi đó là giới cấm thủ
kiến, tức là giữ một giới cấm rất lệch lạc, không thể đưa con người đến một sự
giải thoát nào cả. Mà bên xứ Ấn, có rất nhiều trường hợp như vậy, nên chư Phật
mới phải từ bi thị hiện ở bên đó.
Chấp thủ kiến là như
ngài Thiện Tinh Tỳ Kheo, tu đến đệ tứ thiền rồi chấp là mình có sở đắc vào được
Niết Bàn.
Chứ không hiểu rằng
phiền não chưa diệt.
Tà kiến là tất cả sự
nhìn lệch lạc của mình. Tỷ dụ như bên Ấn có một phái tuyên bố rằng chẳng có
nhân quả nghiệp báo gì cả. Nên ai muốn làm gì thì làm v.v…
Hỏi: Xin ông nói rõ thêm
sự khác biệt giữa biên kiến và tà kiến là thế nào?
Đáp: Biên kiến là chấp có, không, đoạn, thường, khứ, lai v.v…
Nói cách khác, biên kiến là những thành kiến chấp có hai bên, chấp có cái này
cái kia, chấp có ta, có người. Luôn luôn phải có đối tượng và chủ thể. Còn tà
kiến là một cái chấp lệch lạc, như không có nhân quả nghiệp báo, v.v… Còn tư
hoặc là những vọng tình ẩn sâu vào trong tâm thức, nó kết tụ bao nhiêu đời
trước do những sự ái luyến suy tư, nó bền bỉ đan nhau từ kiếp này qua kiếp
khác, chẳng hạn như tham dục, sân khuể, ngu si, nghi, mạn v.v… Đó cũng gọi là
các mầm mống sinh tử nữa.
Trở về vấn đề thiền bên
Thanh Văn thừa, những vị này trong khi tu tứ đế, diệt được phần nào kiến hoặc
và tư hoặc, ít hay nhiều thì đạt được từ thấp lên cao bốn quả thánh. Đồng thời
có thể đi vào thiền định từ sơ thiền đến tứ thiền, đến vô sắc định, diệt tận
định, rồi vào đến không hải của thức ấm. Rồi vào Đại Thừa, hoặc dừng chân.
Nói về các quả, quả đầu
tiên là Tu Đà Hoàn. Đắc quả này, người tu chỉ trở lại cõi dục bảy lần nữa, phải
bảy lần làm người hoặc làm chư thiên, nếu tiếp tục tu thì mới đắc được quả A La
Hán, rồi vào Niết Bàn tịch diệt. Còn Tu Đà Hàm (Nhất Lai), là chỉ trở lại cõi
dục một lần thôi. A Na Hàm là những vị không trở lại dục giới nữa, các vị này
khi chết đi không thọ sinh làm chư thiên cõi dục, hoặc làm người, chỉ trừ khi
có nguyện độ sanh. Thường thường những vị này thọ sanh ở tầng trời sắc
giới, ở tầng trời này, không có tham dục và không có nam nữ. A
La Hán là ra khỏi tam giới rồi, tức là dục giới sắc giới và vô sắc giới.
Muốn hiểu rõ hơn con
đường tu thiền bên Thanh Văn thừa, tôi xin trở lại Lăng Nghiêm để ôn qua năm
màn sương mù của năm ấm. Ta nên lưu ý rằng: khi tu theo Thanh Văn thừa vượt qua
từ sơ thiền, nhị thiền, tam thiền đến tứ thiền lúc đó hành giả mới vào được đến
thọ ấm và tưởng ấm mà thôi. Vì sao? Vì sơ thiền là ly sanh hỷ lạc địa, nhị
thiền là định sinh hỷ lạc địa, tam thiền là ly hỷ diệu lạc địa. Mấy định này,
chỉ cho sự vui sướng mà sự vui sướng ấy thuộc về cảm thọ. Như trong kinh vẫn
nói rằng khi một vị Bồ Tát gieo mình vào miệng hổ đói, vị Bồ Tát đó thấy mình
sung sướng như một vị Tỳ Kheo nhập đệ tam thiền vậy. Hoặc ngài Đề Bà Đạt Đa
ngồi dưới địa ngục vui như một vị Tỳ Kheo nhập đệ tam thiền. Do đó, từ sơ thiền
đến tam thiền thuộc về thọ ấm. Lên đến tứ thiền là xả niệm thanh tịnh địa, tức
là vào được đến tưởng ấm, tứ vô sắc định là vào được đến hành ấm, đến diệt tận
định là bắt đầu bước vào không hải, tức là vào thức ấm.
Do vậy, ta nên hiểu rằng
trong kinh Hoa Nghiêm không thấy nói ngài Thiện Tài tu gì từ sắc ấm qua thọ ấm
đến tưởng ấm cả. Vì ngài bắt đầu đã tu ngay trong thức ấm đó. Do đó, ta phải
hiểu rằng, ngài đã thành tựu Không quán rồi. Chỉ còn học Giả quán và Trung quán
thôi.
Đó là kim chỉ nam cho
chúng ta hiểu đường đi của thiền định như thế nào. Vì vậy, ta thấy trong phẩm
Nhập Pháp Giới, lúc Thiện Tài gặp vị thiện tri thức đầu tiên thì vị này lập tức
dạy tu niệm Phật tam muội, tức là quán cái giả để đi sâu vào tột không nên phải
quán đức Phật. Vì trong biển không đó hiện ra đức Phật. Đến vị
thiện tri thức thứ hai thì dạy Thiện Tài quán biển tâm, mà trong biển đó mọc
lên một hoa sen tức là pháp giới này vậy. Ở vị thiện tri thức thứ hai này,
cũng vẫn dạy Thiện Tài quán giả, vị thứ ba là ngài Thiện Trụ Tỳ Kheo, dạy Thiện
tài quán tâm khéo giữ giữa sắc và không, không có cũng không không, đó gọi là
quán trung. Nên ta thấy rõ trình tự tu của Thiện Tài không hề đi qua sắc ấm,
thọ ấm, tưởng ấm, hay hành ấm là vì trong kinh nói rõ: thân, ngữ, ý
không có lỗi, tâm thanh tịnh như hư không. Có nghĩa rằng Thiện tài đã
vào đến thức ấm rồi vậy.
Trở lại con đường tu của
các vị Thanh Văn, sau khi các ngài vào được thức ấm rồi, thì đã được giải thoát
chưa? Các ngài còn thân hay không thân?
Giải thoát có hai hình
tướng, nếu các vị đó vẫn dùng sắc thân này đi vào thức ấm mà chưa mãn báo thân
thì gọi là hữu dư Niết Bàn. Đến khi vị đó bỏ báo thân này, tự
đốt thân mình thì luồng thần thức của các ngài đi vào chỗ gọi là vô dư
Niết Bàn. Trong kinh tiểu thừa đức Phật thường dạy như vậy, các vị đó
vào Niết Bàn như”củi hết lửa tắt,” ngài nói một cách rất mơ hồ, nhưng chúng ta
cũng phải hiểu rằng, khi một vị A La Hán đã diệt hết phiền não rồi và dùng hỏa
tam muội tự đốt thân mình thì thần thức của các ngài vào một nơi nào đó chưa
cần phải nói đến, nhưng liệu các ngài có còn thân hay không, và Niết Bàn là thế
nào?
Niết là không, Bàn là
dệt. Không dệt sinh tử, vấn đề là ta phải hiểu từng tầng lớp quang minh, từ thô
kệch gọi là sắc thân đến vi tế gọi là thức ấm. Khi các ngài diệt được hết phiền
não thô kệch rồi, thì thân của các ngài được dệt bằng một quang minh vi diệu
hơn, quang minh của thức ấm. Vì vậy trong kinh thường nói đến những khu vực mờ
ảo mà ta chỉ có thể đoán thôi, trừ những vị tu chứng lên đến mức độ đó mới hiểu
được dễ dàng. Trở lại vấn đề còn thân hay không thân của những vị A La Hán, nói
rằng các ngài không còn thân là không còn cái thân phân đoạn sinh tử như chúng
ta thôi, vì những mầm mống phiền não đã diệt rồi. Phiền não là những chủng tử
mầm mống sinh tử “phụt lên” tạo nên một hình tướng thô kệch là cái thân phân
đoạn sinh tử này. Đó là thân máu mủ bầy nhầy hoặc thai sinh, hoặc noãn sinh.
Nhưng sau khi bỏ được thân phân đoạn sinh tử thì các ngài vẫn còn thân, gọi
là thân biến dịch sinh tử, dệt bằng một thứ quang minh vi tế của thức ấm. Vì
vậy, tất cả đại thừa là tu trong thức ấm để chuyển thành Bạch tịnh thức, trong
khi tiểu thừa chỉ đến mấp mé, bắt đầu bước vào thức ấm thì dừng lại và cho rằng
đã nhập Niết Bàn rồi. Tóm lại, Niết Bàn có thể nói đó là biển
quang minh vi diệu của thức ấm, nên trong kinh có kể, các vị A La Hán độn căn
ngồi trong đó, lâu dần, chư Phật lại phải khởi đại bi tâm, nhón tay đưa các
ngài sang Cực Lạc, cho ngồi trong hoa sen nơi biên địa để tắm được quang minh
của chư Phật vài ba kiếp mới có thể khởi được tâm đại bi, phát được lòng mong
cầu nhất thiết trí, muốn tiến tu đến tuệ giác Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tóm lại, tất cả con
đường tu của Thanh Văn thừa chỉ tiêu diệt được phiền não chướng mà thôi, tức
tham, sân, si, mạn, nghi, kiến, chứ chưa hề tiêu diệt được sở tri chướng. Còn
bước sang Đại Thừa thì phải đi nốt con đường còn lại, tiêu diệt nốt phần sở tri
chướng và những biến dịch sinh tử, chẳng hạn như những vọng tưởng về ta, về
pháp giới, về tác giả, ngã giả, tri giả, kiến giả, thọ giả v.v… Tất cả đó là
con đường của Đại Thừa, phải đi sáưvào biển diệu tâm ấy, phải diệt luôn ý tưởng
có người chiếu soi cùng cảnh bị chiếu soi, phải nhập với pháp giới làm một,
viên mãn, tròn đầy…
Tóm lại, chúng ta nên
nhớ, phiền não chướng là vọng tình, lên đến tột cao thì vọng tình
chuyển thành Đại Bi. Sở tri chướng là vọng tưởng, lên đến tột cao
thì vọng tưởng chuyển thành Bát Nhã (trí sáng suốt). Nên trong
kinh Lăng Nghiêm có dạy, nếu có bảy phần tình, ba phần tưởng thì đọa địa ngục,
tưởng nhiều tình ít thì bay bổng lên cao…
Nay ta sang lộ trình tu
chứng của các vị Bồ Tát…
Thông thường, các vị Bồ Tát mới tu cũng chập choạng vì nhiều khi chưa rõ được đường lối. Các vị cũng tu theo ngũ đình tâm quán, tứ niệm xứ, tứ đế, thập nhị nhân duyên v.v… Đến một ngày kia, đọc kinh hiểu và càng ngày càng thầm kinh thì bắt đầu bước vào thập tín. Cũng nên mở dấu ngoặc để giảng thêm chữ tín. Các vị này có tín tâm rất sâu chắc và một ít huệ tâm. Về định lực và giới lực thì thua xa một vị A La Hán, nhưng riêng về cái tín tâm, thì lại hơn ghê gớm lắm rồi, tin sâu chắc đến độ nở ra thành một căn gọi là tín căn. Vậy thì, các vị tin cái gì? Bên Thanh Văn, các ngài tin có Phật, có pháp, có giải thoát, có con đường tứ đế, từ khổ đế đến tập đế, đến diệt đế rồi đến đạo đế. Nhưng các ngài vẫn chưa hiểu rõ về pháp giới, mà đôi khi cũng không hiểu rốt ráo Phật là gì? Thường các ngài chỉ biết đến đức Phật Thích Ca thôi, mà chưa chắc đã biết đến đức Phật A Di Đà. Vì vậy các ngài mới chê là không có đức Quán Thế Âm, các ngài chưa hiểu cái lẽ một với nhiều, các ngài tu bằng cái tâm giữ giới và ngay thẳng, cốt tránh ác mà chưa biết những giới tích cực, chưa biết những giới nhiêu ích hữu tình giới v.v… Ngoài ra, các ngài rất nhàm chán cái thân máu thịt này, e sợ sanh tử, và đôi khi quay đầu lại nhìn pháp giới bời bời, thấy chúng sanh vô lượng thì tâm rất e ngại, nên không dám khởi đại bi tâm, không tin mình có thể độ hết được tất cả chúng sanh. Đó là một lòng tin còn hạn hẹp. Nhưng trái lại, các vị Bồ Tát ỏ bậc thập tín, tức là những vị mới bắt đầu bước chân vào con đường Bồ Tát đạo, tuy rằng không có định lực, nhưng các ngài có được một lòng tin rất ghê gớm, hơn hẳn các vị Thanh Văn. Vì các ngài hiểu rằng, tất cả pháp giới này chỉ là huyễn mộng, đều do duy tâm sở hiện, thứ nữa, các vị cũng tin rằng chính mình cũng là huyễn, đồng thời các ngài tin rằng chính Phật biến ra pháp giới này, và thân Phật nhập pháp giới hoàn toàn, đồng thời cả pháp giới này cũng đều là huyễn mộng mà thôi. Mục đích cuối cùng của các vị Bồ Tát là để nhập pháp giới chứ không phải chỉ để giải thoát nhập Niết Bàn cho riêng mình, chữ tín của Bồ Tát lớn lao như thế, nên ngài Hiền Thủ đã nói rằng:” …dù có một người đứng giữa không gian trọn mười kiếp hai tay bưng một quốc độ, không bằng công đức của người tin pháp này…” (tức là tin được lý như huyễn và duy tâm sở hiện). Nên những vị Bồ Tát ở thập tín này, tuy chưa cứu độ được mấy, nhưng đã dõng mãnh phát Bồ Đề Tâm, biết rằng tâm đó, một mặt là Bát Nhã, một mặt là Đại Bi, và chính cái tâm đó phát hiện ra pháp giới này, phải tu theo cái “huyễn tâm” đó để nhập pháp giới trọn vẹn, trong khi các vị vẫn tu thiền quán, cũng quán nhân duyên, quán từ bi, nhưng những thứ đó là sơ khởi để sau này bắc cầu lên đến quán như huyễn mà thôi. Từ thập tín, các ngài bước qua thập trụ để trưởng dưỡng về lý, và giữ được Bồ Đề Tâm không bị lung lay thối thất. Trụ là trụ Bồ Đề Tâm lại để trưởng dưỡng. Một vị Bồ Tát phải có một tín căn sâu chắc không có gì lay chuyển được, dù gặp tất cả các nạn nước, lửa, đói, khát cũng vẫn tin chắc về con đường tu của mình. Đó mới gọi là trụ được Bồ Đề Tâm. Qua đến Thập hạnh là các ngài đi vào sự, tức là mang cái Bồ Đề Tâm đó vào pháp giới, đi vào cuộc đời, đi vào tất cả cảnh giới. Rồi sang đến Thập hồi hướng là để xóa hết những vết tích giữa tự và tha, không có sự phân chia nữa, coi pháp giới này chính là mình và luôn luôn lúc nào cũng hồi hướng cho tất cả, và hiểu rõ rằng càng hồi hướng rộng lớn bao nhiêu thì cái ngã và phi ngã lại càng bị xóa bấy nhiêu. Mười hạnh là tu mười độ: bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ, nguyện, phương tiện, lực và trí. Tu đến thập hạnh thì các vị chưa đến được bốn độ sau cùng.
Tu đạo Phật vẫn là một
lịch trình vòng tròn xoáy trôn ốc, vì tới chỗ Đăng địa, tức là
vào Thập địa thì lại tu mười hạnh ấy, nhưng lên càng cao sự tu chứng càng sâu
hơn. ở đây, tôi xin nhắc lại về vấn đề luận lý và biện chứng. Đạo học của Đông
phương, nhất là đạo Phật, đó là một sự vận hành Tâm thức theo biện chứng chứ
không phải theo luận lý, vì nhiều khi nó phi luận lý. Còn bên Tây phương chỉ
biết có luận lý thôi, luận lý tức là đi theo cái ý thức thứ sáu hay phân biệt,
còn biện chứng là vừa dùng thức thứ sáu liễu tri lại vừa dùng vô phân biệt trí.
Vì vậy, luận lý của Tây phương là một luận lý nhị biên, chỉ có thể một là có,
hai là không, một là trắng, hai là đen, một là thường, hai là đoạn v.v… mà
không bao giờ biết cái phi có phi không, chỉ có biết đệ nhất cú (có) và đệ nhị
cú (không) là cùng, mà không bao giờ biết đến đệ tam cú (cũng có cũng không) và
đệ tứ cú (chẳng có chẳng không) cả. Còn bên Đông phương thì không đi đường
thẳng như vậy mà đi vòng trôn ốc, đôi khi thấy nó rất tương khắc nhưng kỳ thực
nó đều là tương sinh, tương duyên lẫn nhau, và bao giờ cũng đều có hai mặt, một
mặt là luồng sóng ba động, một mặt là hạt tử. Mà phải hai mặt đi đôi với nhau
mà không bỏ cái nào cả. Đó là biện chứng nhất như, là dùng cả
hai lối phân biệt trí và vô phân biệt trí. Nên lên đến chỗ Đăng địa, thì tu lại
mười hạnh trên. Sau này, ta sẽ lấy Thiện Tài đều đi trở lại những điều này,
nhưng càng ngày càng đi sâu vào tột không cũng
tức là đi sâu vào diệu hữu. Rồi sẽ lên đến Đẳng Giác, đẳng
giác là tất cả pháp giới bình đẳng. Rồi lên Diệu Giác, là trạng thái như như
tịnh tĩnh mà vẫn chiếu soi vằng vặc, giữ được tâm ở mức này là đến chỗ tuyệt
vời, việc làm gần như đã xong. Vì ở bình diện này, tâm thức chuyển biến song
chiếu giữa Bát Nhã và Từ Bi rất mau lẹ, như con thoi đi qua, đi lại,
không ngừng ở bờ bên này, cũng không dừng ở bờ bên kia, cũng không ngừng ở giữa
giòng, đó là việc làm của một bậc Đại Bồ Tát và chư Phật.
Tóm lại, Bồ Tát Đạo là
ngoài việc diệt phiền não chướng, tức là vọng tình, đồng thời còn phải diệt
thêm phần sở tri chướng là vọng tưởng vi tế. Như trong kinh, khi Thiện Tài đến
dần những vị thầy cuối cùng, các vị này đều dạy Thiện Tài quán chiếu như huyễn
cả…
Lại có mấy điểm mà chúng
ta cần biết, trước khi đi vào kinh. Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh dạy về sự chuyển hiện của những ngằn
mé chập chùng, thứ hai là nói về pháp giới đồng thời cũng là nói
về cái tầm của chúng sinh.
Tại sao lại chuyển hiện
ngằn mé chập chùng??
Những tài liệu khoa học
ngày nay đã gần đi đến chiều hướng của Hoa Nghiêm, tức là chuyển hiện chập
chùng ngằn mé, nhưng rất tiếc, họ vẫn chưa hiểu gì về đạo Phật, nên họ vẫn còn
ngơ ngác và lạc lõng trong bước đi. chẳng hạn những nhà bác học ở Princeton,
như wheeler và những nhà bác học lớn khác, họ chỉ hiểu gần gần như đạo Phật mà
thôi, tức là đến mức “chẳng có chẳng không,” còn về đến cái ngằn mé vi tế thì
họ thấy mờ mịt, không biết phải sao nữa. Có thể họ sẽ đi đến chỗ Tứ cú của
đạo Phật nhưng chỉ một số rất ít. Nên biết rằng càng hiểu về đạo Phật, càng
thấy tuệ giác của nhà Phật thật vi diệu, bao quát và lạ lùng. Tôi mới nhận được
một cuốn sách nhan đề là la melodiedu secret của một người bạn
bên Pháp gửi qua, tác giả là một người Việt tên là Trịnh Xuân Thuận. Viết rất
thơ mộng, hiện giờ ông dạy ở trường đại học Virginia. Ông nói về khoa học cũng
hơi giống như đạo Phật, ông dạy về Astro physic (Thiên văn học), ông nói rằng
mỗi năm thường có nhiều tinh hà nở ra, một tinh hà có hằng triệu triệu tinh tú,
triệu triệu mặt trời và trái đất mà chất hydrozen (khinh khí) chiếm gần hết cả
pháp giới này, nhưng chất đó không có trọng lượng gì mấy, mà chỉ có chừng
2% chất đặc (sắc ấm) ở trong pháp giới này mà thôi. Ông phát
biểu rằng: “Những giải tinh hà nở ra và cũng có những tinh hà khác cụp
lại…” và đi đến kết luận rằng chất hydrozen kia hình như ở
khoảng không mà ra. Rất tiếc, các nhà khoa học chưa biết gì về Hoa
Nghiêm cả, nên nhiều khi gặp những trường hợp bị bế tắc mà không thể giải được.
Nói đến nguyên tử thì ông bảo rằng đó vừa là sóng vừa là hạt. Lời nói này cũng
tương tợ như lời dạy trong kinh là vừa là Bát Nhã, vừa là Đại Bi, khi nào hạt
(hiện tướng) thì là đại bi, còn khi nào sóng (vô tướng) thì là bát nhã. Tất cả
những thứ đó đều là ngằn mé của pháp giới này, vì nó luôn luôn
chuyển động, nên không có một pháp nào là không chuyển động, và sự chuyển hiện
đó là sự chuyển hiện giữa cái có và cái không, giữa cái lớn và cái nhỏ, giữa
cái ẩn và cái hiện, từ chỗ phi thời gian ra có thời gian, từ chỗ không có không
gian ra hiện tướng không gian và ngược lại, từ chỗ tận đến vô tận, từ chỗ phổ
huyền môn đi vào chân thật tế, từ chỗ đồng thời ra chỗ thứ đệ, (thứ đệ tức là
có thời gian rồi, còn đồng thời là không có thời gian), v.v… Vì vậy, mười huyền
môn của Hoa Nghiêm là ở chỗ đó như huyền môn Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại là
từ lớn thành nhỏ, từ nhỏ thành lớn, huyền môn Đồng Thời Cụ Túc Tương
ưng là ẩn hiện từ chỗ đồng thời đến chỗ thứ đệ v.v… Nên Hoa Nghiêm là
sự biến hóa và ẩn hiện chập chùng, là kinh của pháp giới, là chuyển hiện giữa
bát nhã và đại bi. Tất cả Hoa Nghiêm đều là Quang Minh và Diệu Âm mà ra.
Quang minh tượng trưng cho không gian, làn sóng tượng trưng cho bát nhã. Diệu
âm tượng trưng cho thời gian, cho đại bi và cho hạt tử. Tất cả quang minh và
diệu âm đó đều trùng trùng từng lớp, mỗi một lớp quang minh đến một lớp diệu âm
lồng vào nhau xoay vần miên viễn tạo nên vô vàn bông hoa, mà mỗi một chúng sanh
đều là một bông hoa của pháp giới, những bông hoa đó lúc nở ra thành chữ hồng, lúc
cụp lại thành chữ úm. Và lộ trình đó là lộ trình mà Thiện Tài
đi qua, đôi khi ngài có thể là một vị Phật thị hiện, cũng có thể chỉ là một
hành giả, cũng có thể là một trong chúng ta… Ngài đã vượt qua những chặng đường
của sắc, thọ, tưởng, hành rồi, nên con đường đi này là con đường khởi sự đi vào
thức ấm, khi thì ngài niệm Phật tam muội, lúc quán tâm, lúc thì quán giữa sắc
và không, quán trung, bố thí, tu trì giới, tu đại từ, đại bi, đại hĩ, đại xả,
lúc tu tất cả công nghiệp thế gian, nên không thể nhất định nói rằng ngài đi từ
bậc sơ trụ, nhị trụ, v.v… Những vị bên Tầu hay cho rằng Thiện Tài đi gặp 52 vị
thiện tri thức là qua 52 bậc tu chứng từ sơ trụ đến Đẳng Giác. Nhưng nếu ta xét
từng vị thiện tri thức một, thì thấy có rất nhiều vị không dính dáng gì đến
những thứ bậc tu ấy cả. Như vị đầu trong mười hạnh thì đáng lẽ Thiện Tài phải
học bố thí, vị thứ hai phải dạy trì giới, vị thứ ba dạy tu nhẫn nhục v.v…, nhưng
các ngài lại dạy Thiện Tài những thứ khác. Nên cần suy xét từng trường hợp một,
vì ta chỉ thấy Thiện Tài tu những đại hỉ, đại xả, bát nhã phổ đắc, hoặc những
chúng nghệ ở thế gian, tu toán số, những đà la ni, thần chú tức diệu âm, cuối
cùng là tu như huyễn để trôi vào Đẳng Giác, rồi đến khi Thiện Tài gặp ngài Phổ
Hiền thì nhập pháp giới. Nhưng đó chỉ là một lối nghĩ của chúng ta thôi, chưa
dám chắc hẳn là đúng…
Hỏi: Có phải ý đức Phật
trong kinh Hoa Nghiêm muốn đưa chúng ta nhìn ra ngoài không gian vô tận
không?
Đáp: Đúng, vì đây chính là kinh của không gian và thời gian, mà không gian và thời gian đều là trong tâm của
chúng sinh, nó đều là vọng tưởng. Nhưng kinh không những chỉ giảng nói về không
gian thời gian, còn bao trùm cả pháp giới nữa. Sự thực thì các pháp đều ẩn
hiện lẫn nhau cả. Khoa học hiện cũng nhận được rằng khi nào thời gian chạy rất
chậm lại thì không gian cũng co lại. Song những điều khoa học nói thì chỉ
tạm thời đúng trong một giai đoạn, và khoảng năm, bảy năm sau lại đổi di chút
phần, vì sao? Lúc đó nhãn lực của khoa học nới rộng ra được một chút thì thấy
rằng những cái thuyết cũ không còn đúng nữa. Nên chỉ có lời kinh của
các bậc Đại Giác mới hoàn toàn đúng, song, những lời dạy ấy chỉ như ẩn như
hiện, chúng ta cần suy tư lâu ngày mới có thể hiểu được chút phần.
Sau đây, chúng ta đi vào
phẩm Nhập Pháp Giới…
Kinh:
Bấy giờ đức Thế Tôn ở
nước Thát La Phiệt trong trùng các đại trang nghiêm, tại rừng Thệ Đa vườn Cấp
Cô Độc..
Giảng:
Ngay câu đầu này, kinh
Hoa Nghiêm đã sang một cảnh giới khác, vì chúng ta nên nhớ rằng đầu kinh bắt
đầu ở Bồ Đề Đạo Tràng. Sau đó, do thần lực của Phật, ngài nâng tất cả pháp hội
lên dần đến đỉnh núi Tu Di ở tầng trời Đao Lợi, rồi lên tầng trời Đâu Xuất, rồi
đến Tha Hóa Tự Tại, sau đó trở lại xuống Bồ Đề Đạo Tràng. Trong kinh này, chỉ
có những vị Đại Bồ Tát vân tập, mà không có người dự. Riêng đến phẩm nhập pháp
giới này, thì có người dự, nhưng lại xuất phát ở nơi khác, ở nước Thất La
Phiệt, nơi trùng các đại trang nghiêm vườn cấp Cô Độc, xuất phát ở nhân thế.
Kinh:
Câu hội đến năm trăm Đại
Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát v.v… (bỏ một đoạn kinh nói tên
các vị Đại Bồ Tát),… năm trăm Đại Bồ Tát như vậy đến câu hội, những Bồ Tát này
thảy đều thành tựu hạnh nguyện Phổ Hiền…
Giảng:
Thành tựu hạnh nguyện
Phổ Hiền tức là gần đến bậc Đẳng Giác cả.
Kinh:
Cảnh giới vô ngại vì
cùng khắp tất cả cõi Phật, hiện thân vô lượng vì thân cận tất cả Như Lai, tịnh
nhãn vô ngại vì thấy tất cả sự thần biến của chư Phật, xứ đến vô hạn vì hằng
khắp đến chỗ của tất cả Như Lai thành Chánh Giác, quang minh vô tế vì trí huệ
quang chiếu khắp tât cả thật Pháp Hải, thuyết pháp vô tận vì thanh tịnh biện
tài vô biên tế kiếp không cùng tận, khắp hư không giới không chỗ y chỉ…
Giảng:
Quang minh vô tế là quang minh không có bờ bến. Thật pháp hải là thật tướng của diệu tâm. Vô biên tế là cùng tận không có biên giới. Ở đây, kinh tả các vị Đại Bồ Tát đã đến tất cả cõi Phật, quang minh các ngài đều là vô tế gần như Phật.
Kinh:
Hàng Thanh Văn năm trăm
vị câu hội…
Giảng:
Kinh muốn nói đến các vị
Thanh Văn đã đến chỗ giải thoát mà chưa nhập pháp giới. Vì các
vị đến chỗ giác ngộ chân đế, sau mới vào đệ nhất nghĩa đế, còn người phàm phu
chúng ta là ở tục đế, vì chấp tất cả thế gian là có, còn các ngài Thanh Văn đến
chỗ chân đế là đến chỗ không, đều chứng thật tế, nhưng chưa đến chỗ như như
tịnh tĩnh. Thâm nhập pháp tánh nhưng chưa thâm nhập đến tột cùng, thoát hẳn
biển hữu lậu, thoát được ba cõi để vào được thức ấm kia, nhưng vẫn chưa lặn sâu
để trở thành Bạch Tịnh Thức, nên vẫn phải nương vào Phật công đức để lìa sự
trói buộc của sở tri chướng và trụ chỗ vô ngại, (nhưng là chỗ vô ngại của Thanh
Văn thừa thôi chứ chưa vào được chỗ vô ngại của các bậc Bồ Tát.)
Kinh:
Tâm các ngài tịch tĩnh
như hư không, vào chỗ chư Phật dứt hẳn nghi lầm, nơi trí chư Phật tin sâu xu
nhập…
Giảng:
Trong kinh, lời kinh hay dạy trùng nhau nên những người mới đọc kinh cứ hay bị lầm, chẳng hạn như “tâm các ngài tịch tĩnh như hư không…” nhưng ta phải hiểu rằng có nhiều mức độ nông sâu của tịch tĩnh.
Kinh:
Vô lượng thế chủ câu
hội…
Giảng:
Vô lượng các vua cõi
trời…
Kinh:
Những thế chủ này đều đã
từng cúng dường chư Phật, thường hay làm lợi ích tất cả chúng sanh…
Giảng: Trong kinh Hoa Nghiêm, ở phẩm đầu đã kể tất cả các thế
chủ, các ngài có những lợi ích gì đều kể hết cả. Nên chúng ta đều nằm trong các
quang minh của các ngài luôn luôn được gia trì mà chúng ta không hay biết, tuy
rằng gia trì theo sự chiêu cảm của nghiệp lực.
Kinh:
Làm bất thỉnh hữu…
Giảng:
Bất là không, Hữu là
bạn. Bất thỉnh hữu là làm người bạn không mời, những vị Bồ Tát là như vậy. Nếu
thấy người đáng được độ thì dù không mời thỉnh cũng cứ tới độ cho họ, ngược lại
chỗ nào chưa đáng độ thì nhiều khi có mời cũng không tương ứng.
Kinh:
Hằng siêng thủ hộ thệ
nguyện chẳng bỏ chúng sinh, đã nhập thế gian thù thắng trí môn. Từ Phật giáo
sinh. Hộ tất cả chánh pháp. Phát đại nguyện chẳng để dứt Phật chủng. Sinh nhà
Như Lai cầu nhứt thiết trí…
Giảng: Những vị thế gian chủ này nếu so với các vị Thanh Văn
thì hơn rất nhiều, vì các ngài toàn là Bồ Tát thị hiện cả, nhưng thị hiện thọ
sanh để cứu độ chúng sanh đáng được độ mà thôi.
Hỏi: Xin ông cho biết
thế nào là vô niệm?
Đáp: Vô niệm không phải là không nghĩ gì cả, vì khi còn nghĩ thấy cái không đó tức là đã nghĩ rồi. Theo như thiền sư Thích Thanh Từ nói rằng khi thiền quán mà dứt được niệm thì gọi là vô niệm. Nhưng câu hỏi đặt ra rằng: mình có thể dứt được niệm không? Theo thiển ý của tôi thì như thế này, chúng ta không có cách gì tách rời được ý niệm cả, không có cách gì dứt được ý niệm cả, chỉ có cái là chúng ta đừng khởi vọng tình và vọng tưởng mà thôi. Đó gọi là vô niệm. Vì ngay đến chỗ thấy biết đến cái không thì vẫn còn ý niệm. Nói tóm lại, tâm thức của chúng ta không thể nào không có ý niệm, nhưng khi ta có cái ý “không” đó, ta không khởi vọng tưởng cùng vọng tình thì gọi là vô niệm, nên nhớ rằng, chúng ta luôn luôn có sự chiếu soi, không khời vọng tình yêu, ghét thì tạm gọi là dễ, nhưng không khởi vọng tưởng rất khó, vì vậy mới gọi là biến dịch sanh tử… Thực ra, chỗ đó là tột bờ mé, khó thể ức đoán…
Hỏi: Vậy trong kinh nói
đến chỗ vô tưởng định thì sao?
Đáp: Đó là một lối diễn tả rằng hành giả đã dứt được những ý
tưởng thô thôi, nhưng vẫn còn những ý tưởng vi tế. Lúc đỏ hành giả thấy được
cái “không” đó, thì cái thấy đó là một ý tưởng vi tế, nhưng ý tưởng vi tế đó
quá nhỏ, nên hành giả cho rằng không có. Lên đến mức định gọi là phi tưởng phi
phi tưởng xứ, trong cơn định này tuy gọi là không tưởng nhưng vẫn có cái thấy,
nơi đó vẫn còn có ý tưởng vi tế. Ở mức độ phàm phu chúng ta, không khởi những
vọng tưởng thị gượng gọi là vô niệm, nhưng lên cao, đi trên con đường Bồ Tát
thì cũng phải gột luôn cả ý niệm vi tế đó, chỗ đó thì rất mờ mịt, tâm thức của
chúng ta chưa thể biết được, chỉ có cách là tu lên đến đó mới biết được mà
thôi.
Hỏi: Tôi nhớ trong Lăng
Nghiêm có câu nói về chân tâm “không hay biết thì không phải là tâm, còn hay
biết thì không phải là chân.” Ý nghĩa câu này thế nào?
Đáp: Nếu không hay biết thì hóa thành vật vô tri, thì đó
không phải là tâm. Còn hay biết thì còn vọng tâm do ý thức thứ sáu chia chẻ
phân biệt, thì không phải là chân. Chân có nghĩa là CHÂN TÂM, nó bao gồm tất
cả, nên phải hiểu như thế này, không phân biệt nhưng vẫn liễu tri rành rẽ, biết
một cách liễu tri rành rẽ nhưng không móng niệm, không khởi vọng tình vọng
tưởng thì như vậy mới gọi là biết, như vậy mới gọi là vô niệm.
Bây giờ cũng đã quá dài,
xin tạm ngưng ở đây…
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
Lời Nói
Ðầu Của Dịch Giả
Khảo cứu theo truyền sử
trong đại-tạng, khi thành đạo Vô-thượng Chánh-giác, chưa vội rời đạo-tràng
Bồ-Ðề, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật với pháp-thân Tỳ-Lô-Giá-Na, cùng chư đại Bồ-Tát
chứng giải-thoát-môn, tuyên thuyết Kinh Hoa-Nghiêm.
Sau khi đức Phật nhập diệt
lối sáu trăm năm, do Long-Thọ Bồ-Tát, Kinh Hoa-Nghiêm này mới được lưu truyền
bằng phạn-văn. Toàn bộ Kinh chữ Phạn có một trăm ngàn bài kệ, chia làm bốn mươi
tám phẩm.
Ðến nhà Ðường, Ðại-Sư
Thật-Xoa-Nan-Ðà từ nước Vu-Ðiền mang bổn Kinh chữ Phạn này sang Trung-Quốc
dịch ra Hán văn. Nhưng Ðại-Sư chỉ dịch ra được ba mươi chín phẩm, từ phẩm
'Thế-Chủ Diệu-Nghiêm' đến phẩm 'Nhập-Pháp-Giới', cộng có ba mươi sáu ngàn bài
kệ theo Phạn-văn, còn lại chín phẩm sáu mươi bốn ngàn bài kệ Phạn-văn chưa được
dịch ra Hán-văn.
Kế đó, Pháp-Sư
Bác-Nhã, người Kế-Tân dịch thêm phẩm Phổ-Hiền-Hạnh-Nguyện ra Hán-văn, thành
phẩm thứ bốn mươi của bộ Kinh Hoa-Nghiêm này.
Nguyên bổn chữ Hán chia ra
làm tám mươi mốt quyển. Vì xét thấy chia quyển ra như thế, có nhiều phẩm bị cắt
ra làm hai ba quyển hoặc nhiều hơn, thành thử mạch văn bị gián đoạn, nên khi
phiên dịch ra Việt-văn, tôi chỉ lấy phẩm mà không theo quyển của bổn chữ Hán.
Tuy nhiên, tôi vẫn chia số quyển của bổn chữ Hán trong bổn Việt-văn này, để
tiện sự so cứu cho người đọc.
Kinh này gọi đủ là 'Ðại-Phương-Quảng Phật Hoa-Nghiêm', ta quen gọi là Kinh Hoa-Nghiêm.
Nội dung của Kinh này đứng
trên cảnh-giới bất-tư-nghì giải-thoát, chư pháp-thân Ðại-Sĩ thừa oai thần của
đức Phật tuyên dương công-đức cùng cảnh-giới của chư Phật và xương minh nhơn
hạnh xứng tánh bất-tư-nghì của chư đại Bồ-Tát.
Kinh Hoa-Nghiêm này đã hoàn
toàn ở trong lãnh vực xứng tánh bất-tư-nghì giải-thoát mà xương minh, nên mỗi
lời mỗi câu trong Kinh này đều lấy toàn thể pháp-giới tánh làm lượng. Ðã là
toàn thể pháp-giới tánh nên tất cả Giáo, Lý, Hạnh, Quả nơi đây đều dung thông
vô-ngại, nên cũng gọi là vô-ngại pháp-giới.
Từng bực cứu cánh của
vô-ngại pháp-giới là Sự-sự vô-ngại pháp-giới, chỗ chứng nhập hoàn toàn của chư
Phật mà chư pháp-thân Bồ-Tát thời được từng phần.
Muốn hiểu thấu phần nào
cảnh-giới trên đây, người học đạo cần phải biết rõ bốn pháp-giới, bốn cấp bực
mà chư đại-thừa Bồ-Tát tuần tự tu chứng :
1. Lý vô-ngại pháp-giới
2. Sự vô-ngại pháp-giới
3. Lý sự vô-ngại pháp-giới
4. Sự-sự vô-ngại pháp-giới
'Lý' tức là chơn-lý
thật-tánh, là thể tánh chơn thật của tất cả pháp, nên cũng gọi là pháp-tánh hay
pháp-giới-tánh, chơn-như-tánh. Tất cả pháp trong vũ trụ đều đồng một thể tánh
chơn thật ấy. Thể-tánh ấy dung thông vô-ngại, nên gọi là 'Lý vô-ngại
pháp-giới'. Người chứng được lý vô-ngại này chính là bực thành-tựu căn-bổn-trí,
mà bắt đầu dự vào hàng pháp-thân Bồ-Tát.
Tất cả pháp 'Sự' đều đồng
một thể-tánh chơn-thật, tức là đồng lấy pháp-tánh làm tự thể. Toàn-thể 'Sự' là
pháp-tánh, mà pháp-tánh đã viên-dung vô-ngại, thời toàn sự cũng vô-ngại, nên
gọi là 'Sự vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được pháp-giới này chính là bực
pháp-thân Bồ-Tát thành-tựu sai-biệt-trí (cũng gọi là quyền-trí, tục-trí,
hậu-đắc-trí).
Lý là thể-tánh của 'Sự'
(tất cả pháp), 'Sự' là hiện-tượng của 'Lý-tánh'. Vậy thời lý-tánh tức là
lý-tánh của sự, còn sự lại là sự-tướng của lý-tánh. Chính Lý-tánh là toàn-sự,
mà tất cả sự là toàn Lý-tánh, nên gọi là 'Lý-sự vô-ngại pháp-giới'. Người chứng
được lý-sự pháp-giới này thời là bậc pháp-thân Bồ-Tát đồng thời hiển phát cả
hai trí (căn-bổn-trí và sai-biệt-trí).
Tất cả sự đã toàn đồng một
thể-tánh mà thể-tánh thời dung thông không phân chia riêng khác, nên bất luận
là một sự nào cũng đều dung nhiếp tất cả sự, và cũng đều tức là tất cả sự, một
sự nhiếp và tức tất cả sự, tất cả sự nhiếp và tức một sự. Thế là sự-sự vô-ngại
tự-tại, nên gọi là 'Sự-sự vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được Sự-sự pháp-giới
này là bực pháp-thân Bồ-Tát thành-tựu nhứt-thiết chủng-trí. Viên-mãn trí này
chính là Ðấng Vô-Thượng-Giác (Phật Thế-Tôn ).
Sự-sự vô-ngại pháp-giới
dung thông tự-tại, nội dung của toàn bộ Kinh Hoa-Nghiêm, được chứng minh trên
toàn thể văn Kinh này. Nay xin lược dẫn một vài đoạn văn rõ nhứt để chư học-giả
tiện tham cứu :
Sự-sự là tất cả sự hoặc là
tất cả pháp, tức là toàn thể không-gian và thời-gian.
Về không-gian dung thông
vô-ngại văn Kinh nói :
Bao nhiêu vi-trần trong
thế-giới
Trong mỗi vi-trần thấy các
cõi
Bửu quang hiện Phật vô
lượng số
Cảnh-giới tự-tại của
Như-Lai ...
Vô-lượng vô-số núi Tu-Di
Ðều đem để vào một sợi
lông,
Một thế-giới để vào tất cả
Tất cả thế-giới để vào một,
Thể tướng thế-giới vẫn như
cũ
Vô-đẳng vô-lượng đều cùng
khắp ...
Trong một chân lông đều
thấy rõ
Vô-số vô-lượng chư Như-Lai
Tất cả chân lông đều thế cả
Tôi nay kính lạy tất cả
Phật ...
Về thời-gian dung-thông
vô-ngại văn Kinh nói :
Kiếp quá-khứ để hiện,
vị-lai,
Kiếp vị-lai để quá,
hiện-tại,
Ba đời nhiều kiếp là một
niệm
Chẳng phải dài vắn : hạnh
giải-thoát ...
Tôi hay thâm nhập đời
vị-lai
Tất cả kiếp thâu làm một
niệm,
Hết thảy những kiếp trong
ba đời
Làm khoảng một niệm tôi đều
nhập ...
Về không-gian và thời-gian
dung thông vô-ngại nhau, văn Kinh nói :
Khắp hết mười phương các
cõi nước
Mỗi đầu lông đủ có ba đời
Phật cùng quốc-độ số
vô-lượng
Tôi khắp tu hành trải trần
kiếp.
Trong một niệm tôi thấy ba
đời
Tất cả các đấng Nhơn-Sư-Tử
Cũng thường vào trong
cảnh-giới Phật
Như-huyễn, giải-thoát và
oai-lực ...
Tất cả sự không ngoài
thời-gian và không-gian. Thời-gian dung thông thời-gian, không-gian dung thông
không-gian, thời-gian dung thông không-gian, không-gian dung thông thời-gian.
Một không-gian dung thông tất cả không-gian, một thời-gian dung thông tất cả
thời-gian, tất cả dung thông với một, thời-gian với không-gian, một cùng tất cả
cũng đều dung thông như vậy. Ðây chính là Sự-sự vô-ngại pháp-giới, mà cũng
chính là cảnh-giới giải-thoát bất-tư-nghì mà Kinh Hoa-Nghiêm này lấy đó làm
nội-dung như đã nói ở trên ...
Lược giải một vài điều, để
giúp phần nào cho học-giả khi cần thấy phải thấu triệt nội-dung của Kinh này.
Vị nào muốn nghiên cứu đầy đủ xin xem bộ Hoa-Nghiêm đại-sớ của
Tổ Thanh-Lương và Thập-huyền-môn của Tổ Hiền Thủ.
Tôi thành kính đem công-đức
phiên dịch Việt-văn này hồi hướng cho tất cả chúng-sanh đồng về Tịnh-Ðộ, đồng
sớm thành Phật.
Viết tại chùa Vạn Ðức
Thủ Ðức ngày Phật nhập
Niết-Bàn
Rằm tháng Hai 2508
Dịch-Giả
Hân-Tịnh Tỳ-Kheo
Thích Trí Tịnh
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
Bấy giờ đức Thế Tôn ở nước Thất La Phiệt, trong trùng các Ðại
Trang Nghiêm, tại rừng Thệ Ða, vườn Cấp Cô Ðộc.
Câu hội với năm trăm đại Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Sư
Lợi Bồ Tát làm thượng thủ. Tên của các ngài là :
Quang Diệm Tràng Bồ Tát, Tu Di Tràng Bồ Tát, Bửu Tràng Bồ Tát,
Vô Ngại Tràng Bồ Tát, Hoa Tràng Bồ Tát, Ly Cấu Tràng Bồ Tát, Nhựt Tràng Bồ Tát,
Diệu Tràng Bồ Tát, Ly Trần Tràng Bồ Tát, Phổ Quang Tràng Bồ Tát, Ðịa Oai Lực Bồ
Tát, Bửu Oai Lực Bồ Tát, Kim Cang Trí Oai Lực Bồ Tát, Ly Trần Cấu Oai Lực Bồ
Tát, Chánh Pháp Nhựt Oai Lực Bồ Tát, Công Ðức Sơn Oai Lực Bồ Tát, Trí Quang ảnh
Oai Lực Bồ Tát, Phổ Kiết Tường Oai Lực Bồ Tát, Ðịa Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng
Bồ Tát, Liên Hoa Tạng Bồ Tát, Tịnh Ðức Tạng Bồ Tát, Pháp Ấn Bồ Tát, Quang Minh Tạng
Bồ Tát, Tê Tạng Bồ Tát, Liên Hoa Ðức Tạng Bồ Tát, Thiện Nhãn Bồ Tát, Tịnh Nhãn
Bồ Tát, Ly Cấu Nhãn Bồ Tát, Vô Ngại Nhãn Bồ Tát, Phổ Hiền Nhãn Bồ Tát, Phổ Quán
Nhãn Bồ Tát, Thanh Liên Hoa Nhãn Bồ Tát, Kim Cang Nhãn Bồ Tát, Bửu Nhãn Bồ Tát,
Hư Không Nhãn Bồ Tát, Hỉ Nhãn Bồ Tát, Phổ Nhãn Bồ Tát, Thiên Quan Bồ Tát, Phổ
Chiếu Pháp Giới Trí Huệ Quan Bồ Tát, Ðạo Tràng Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Thập
Phương Quan Bồ Tát, Nhứt Thiết Phật Tạng Quan Bồ Tát, Siêu Xuất Nhứt Thiết Thế
Gian Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Quan Bồ Tát, Bất Khả Hoại Quan Bồ Tát, Trì Nhứt
Thiết Như Lai Sư Tử Toà Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Pháp Giới Hư Không Quan Bồ Tát,
Phạm Vương Kế Bồ Tát, Long Vương Kế Bồ Tát, Nhứt Thiết Hoá Phật Quang Minh Kế
Bồ Tát, Ðạo Tràng Kế Bồ Tát, Nhứt Thiết Nguyện Hải Âm Bửu Vương Kế Bồ Tát, Nhứt
Thiết Phật Quang Minh Ma Ni Kế Bồ Tát, Thị Hiện Nhứt Thiết Hư Không Bình Ðẳng
Tướng Ma Ni Vương Trang Nghiêm Kế Bồ Tát, Thị Hiện Nhứt Thiết Như Lai Thần Biến
Ma Ni Vương Tràng Võng Thuỳ Phúc Kế Bồ Tát, Xuất Nhứt Thiết Phật Chuyển Pháp Luân
Âm Kế Bồ Tát, Thuyết Tam Thế Nhứt Thiết Danh Tự Âm Kế Bồ Tát, Ðại Quang Bồ Tát,
Ly Cấu Quang Bồ Tát, Diệm Quang Bồ Tát, Pháp Quang Bồ Tát, Tịch Tịnh Quang Bồ
Tát, Nhựt Quang Bồ Tát, Tự Tại Quang Bồ Tát, Thiên Quang Bồ Tát, Phước Ðức
Tràng Bồ Tát, Trí Huệ Tràng Bồ Tát, Thần Thông Bồ Tát, Quang Tràng Bồ Tát, Hoa
Tràng Bồ Tát, Ma Ni Tràng Bồ Tát, Bồ Ðề Tràng Bồ Tát, Phạm Tràng Bồ Tát, Phổ
Quangtràng Bồ Tát, Phạm Âm Bồ Tát, Hải Âm Bồ Tát, Ðại Ðịa Âm Bồ Tát, Thế Chủ Âm
Bồ Tát, Sơn Tướng Kích Âm Bồ Tát, Biến Nhứt Thiết Pháp Giới Âm Bồ Tát, Chấn
Nhứt Thiết Pháp Hải Lôi Âm Bồ Tát, Hàng Ma Âm Bồ Tát, Ðại Bi Phương Tiện Vân
Lôi Âm Bồ Tát, Tức Nhứt Thiết Thế Gian Khổ An Uỷ Âm Bồ Tát, Pháp Thượng Bồ Tát,
Thắng Thượng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Phước Ðức Tu Di Thượng Bồ Tát, Công Ðức
San Hô Thượng Bồ Tát, Danh Xưng Thượng Bồ Tát, Phổ Quang Thượng Bồ Tát, Trí Hải
Thượng Bồ Tát, Phật Chủng Thượng Bồ Tát, Quang Thắng Bồ Tát, Ðức Thắng Bồ Tát,
Thượng Thắng Bồ Tát, Phổ Minh Thắng Bồ Tát, Pháp Thắng Bồ Tát, Nguyệt Thắng Bồ
Tát, Hư Không Thắng Bồ Tát, Bửu Thắng Bồ Tát, Tràng Thắng Bồ Tát, Trí Thắng Bồ
Tát, Ta La Tự Tại Vương Bồ Tát, Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát, Tương Tự Vương Bồ
Tát, Phạm Tự Tại Vương Bồ Tát, Sơn Tự Tại Vương Bồ Tát, Húng Tự Tại Vương Bồ
Tát, Tốc Tật Tự Tại Vương Bồ Tát, Tịch Tịnh Tự Tại Vương Bồ Tát, Bất Ðộng Tự
Tại Vương Bồ Tát, Thế Lực Tự Tại Vương Bồ Tát, Tối Thắng Tự Tại Vương Bồ Tát,
Tịch Tịnh Âm Bồ Tát, Vô Ngại Âm Bồ Tát, Ðịa Chấn Âm Bồ Tát, Hải Chấn Âm Bồ Tát,
Vân Âm Bồ Tát, Pháp Quang Âm Bồ Tát, Hư Không Âm Bồ Tát, Thuyết Nhứt Thiết
Chúng Sanh Thiện Căn Âm Bồ Tát, Thị Nhứt Thiết Ðại Nguyện Âm Bồ Tát, Ðạo Tràng
Âm Bồ Tát, Tu Di Quang Giác Bồ Tát, Hư Không Giác Bồ Tát, Ly Nhiễm Giác Bồ Tát,
Vô Ngại Giác Bồ Tát, Thiện Giác Bồ Tát, Phổ Chiếu Tam Thế Giác Bồ Tát, Quảng
Ðại Giác Bồ Tát, Phổ Minh Giác Bồ Tát, Pháp Giới Quang Minh Giác Bồ Tát.
Năm trăm đại Bồ Tát như vậy câu hội.
Những Bồ Tát này thảy đều thành tựu hạnh nguyện Phổ Hiền Cảnh
Giới Vô Ngại, vì cùng khắp tất cả cõi Phật. Hiện thân vô lượng, vì thân cận tất
cả chư Như Lai. Tịnh nhãn vô ngại, vì thấy tất cả sự thần biến của chư Phật. Xứ
đến vô hạn vì hằng khắp đến chỗ của tất cả Như Lai thành chánh giác. Quang minh
vô tế, vì trí huệ quang chiếu khắp tất cả thiệt pháp hải. Thuyết pháp vô tận,
vì thanh tịnh biên tài vô biên tế kiếp không cùng tận. Khắp hư không giới, vì
trí huệ ra làm đều thanh tịnh. Không chỗ y chỉ, vì tùy tâm chúng sanh hiện sắc
thân. Diệt trừ mê lòa, vì rõ chúng sanh giới không chúng sanh. Trí khắp hư
không, vì dùng lưới đại quang minh chiếu pháp giới.
Hàng Thanh Văn năm trăm vị câu hội. Những vị này đều giác ngộ
chơn đế, đều chứng thiệt tế, thâm nhập pháp tánh, thoát hẳn biển hữu lậu, nương
Phật công đức, lìa sự trói buộc của kiết sử, trụ chỗ vô ngại. Tâm Các ngài tịch
tịnh như hư không. Ở chỗ chư Phật, dứt hẳn nghi lầm. Nơi trí chư Phật, tin sâu
xu nhập.
Vô Lượng Thế Chủ câu hội. Những Thế Chủ này đều đã từng cúng dường vô lượng Chư Phật. Thường hay lợi ích tất cả chúng sanh, làm bất thỉnh hữu. Hằng siêng thủ hộ thệ nguyện chẳng bỏ chúng sanh. Ðã nhập thế gian thù thằng trí môn. Từ Phật giáo sanh. Hộ Phật chánh pháp. Phát đại nguyện chẳng để dứt Phật chủng. Sanh nhà Như Lai cầu nhứt thiết trí.
Comments
Post a Comment