Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 18 tháng 2 năm 1990
Trong lần trước, chúng tôi đã trình bày với quí vị trên đại
cương lộ trình tiến tu của Thanh Văn thừa và lộ trình tiến tu của Bồ Tát đạo,
và cũng có đi vào một đoạn kinh ngắn. Hôm nay, trước khi đi vào kinh, chúng tôi
xin mạn phép lấy một chút thì giờ để nói thêm về con đường thiền quán của Bồ
Tát đạo. Vì cần phải hiểu những điều này rành rẽ thì mới có thể theo dõi bước
tiến tu của Thiện Tài được.
Trong lần trước chúng
tôi đã nói rằng, Thanh Văn thừa thường tu giới và thiền quán đi đến chỗ tiêu
diệt những phiền não và chấm dứt phân đoạn sinh tử, tức là đi đến chỗ giải
thoát cá nhân. Còn Bồ Tát đạo thì tu hành cao hơn nhiều, xa gấp mấy lần đoạn
đường đó, vì không những phải tiêu dung phiền não chướng và phân đoạn sanh tử,
mà còn phải tiêu dung sở tri chướng cùng biến dịch sanh tử để đi tới nhập pháp
giới.
Hôm nay, cần nói thêm
mấy điểm về vấn đề thiền quán để quí vị thấy rõ Thiện Tài tu theo quán
giả và quán trung chứ không phải ngài cần tu theo quán không.
Thanh Văn chỉ tu có giới
và thiền quán thôi mà không tu tất cả các hạnh như các vị Bồ Tát. Bồ Tát thường
phải tu mười hạnh, còn bên Thanh Văn cũng tu bố thí nhưng cũng rất ít, chưa đi
đến chỗ bố thí ba la mật như các vị Bồ Tát. Còn trì giới thì các ngài Thanh Văn
cũng trì giới một cách tiêu cực gọi là biệt giải thoát giới, trong khi các vị
Bồ Tát phải trì tâm địa tịnh giới, vì ngoài cái biệt giải thoát giới để trừ
điều ác, các ngài còn phải làm tất cả điều lành, gọi là thiện pháp giới, và cả
nhiêu ích hữu tình giới, tức là tu những hạnh làm nhiêu ích cho tất cả chúng
sanh… Bồ Tát không bao giờ nghĩ đến riêng mình cả mà lúc nào cũng nghĩ đến tất
cả chúng sanh. Còn về chữ “nhẫn” là nhẫn nhục thì Bồ Tát phải tu nhẫn nhục đến
mức ba la mật, bố thí cũng phải bố thí ba la mật, tinh tấn cũng là tinh tấn ba
la mật, thiền định cũng thiền định ba la mật v.v… Bồ Tát không chĩ thuần tu
không quán mà còn phải tu cả giả quán và trung quán nữa, và trí huệ là trí huệ
“Đại bát nhã ba la mật” chứ không phải là trí huệ nhất thiết trí của Thanh Văn.
Bồ Tát còn có những độ sâu hơn nữa là độ nguyện, độ phương tiện, độ lực và độ
trí mà bên Thanh Văn hoàn toàn không có. Trong kinh thường có một câu mà quí vị
cần nhớ, đó là câu “Nhất tâm tam quán,” tức là chỉ có một cái tâm đó thôi mà có
thể quán ba cách. Đạo Phật dạy rằng tất cả các pháp đều tùy sự lắt lay của
tâm thức, chúng ta sống trong đời, cứ nghĩ rằng cái này có hoặc không, nhưng
đạo Phật đặc biệt dạy rằng tâm mình có thể quán được nhiều cách, nếu quán lâu
bền một vật là có thì tự nhiên nó trở thành có, nếu quán không thì lần lần nó
trở thành không, dù đó là vật cứng chắc ù lì đến đâu chăng nữa. Hoặc nếu quán
cao hơn nữa là “chẳng có chẳng không” thì sự vật trước mắt ta đều như huyễn cả.
Tất cả các kinh đều chỉ dạy có vậy thôi. Nên người tu cần quán cái tâm chẳng có
chẳng không ấy, tương tự như người đi dây, hoặc như con chim bay, không nghiêng
về một bên nào cả thì mới bay bổng tuyệt vời được. Ngày xưa tôi cứ thắc mắc,
lấy làm lạ nghĩ rằng: “Quái! chỉ có một tí đó thôi mà nó lại
là cái bí ẩn cao vời của đạo Phật.” Cái “một tí” đó chính là
cái chẳng có, chẳng không, tức là giữ cái tâm bồng bềnh đập đúng theo nhịp đập
của diệu tâm ấy, một nhịp đập nguyên sơ trước khi bị vô minh che đậy. Ngày xưa,
ngài Trí Khải lập tông Thiên Thai về thiền quán nối được cả tông lẫn giáo. Tông
là cái yếu chỉ của tâm, còn giáo là sự giải thích về cái Tâm đó, và ngài có nói
về Nhất tâm tam quán. Trong kinh Lăng Nghiêm và Viên Giác cũng nói đến ba lối
quán đó, tức là quán không, sau quán giả rồi sau cùng đến quán trung, trung đạo
song chiếu.
Kinh Lăng Nghiêm và Viên
Giác gọi quán không là Samatha, quán giả gọi là Sa-ma-bát-đề, còn trung quán
song chiếu gọi là Thiền Na hoặcTam-na-đề. Như vậy, Bồ Tát đạo có ba giai đoạn
tu, từ sắc vào Không, rồi khởi Giả rồi Trung đạo song chiếu, trong khi bên
Thanh Văn chỉ tu quán không mà thôi. Một hành giả, muốn làm con cá tích đi
ngược dòng qua năm màn sương mù là sắc, thọ, tưởng, hành để vào đến thức ấm thì
gọi là thành tựu không quán. Rồi khi vào đến biển không hải ấy, các vị Thanh
Văn thường dừng lại ở đó, không khởi tâm tiến tu nữa, các ngài đã tiêu trừ
những mầm mống sinh tử và vào Niết Bàn, lúc còn sắc thân thì gọi là hữu dư niết
bàn. Sau khi chết thì gọi là vô dư niết bàn. Nhưng các ngài vẫn còn những tập
khí của biến dịch sanh tử, những vi tế của sở tri chướng chiếu soi chấp
ngã, chấp thọ giả, tri giả v.v…, nên trong kinh Pháp Hoa mới nói rằng đó chỉ
là Niết Bàn hóa thành mà thôi, chứ không phải Niết Bàn thực,
mà Niết Bàn thực là Đại tịch diệt của Như Lai, là sự nhập pháp giới trọn vẹn
đồng thời cũng là sự giải thoát tột độ nữa. Nên đại thừa không nhấn mạnh đến sự
giải thoát, tức nhập Niết Bàn cho riêng mình, mà phải ôm trọn pháp giới vào
thân mình mới là sự giải thoát rốt ráo, mới là nhập đại niết bàn tịch diệt, đó
chính là Nhập Pháp Giới.
Nên con đường tu chứng
của các vị Thanh Văn thì các ngài chỉ mới đi được một phần ba con đường thôi,
có thể là một phần tư, một phần năm vì hai đoạn kia dài xa cần khổ hơn nhiều,
phải qua nhiều a tăng kỳ kiếp mới thành tựu. Trong kinh nói, Thanh Văn có thể
tu trong 60 kiếp, nếu kiếp nào cũng xuất gia, trì giới, thiền quán thì có thể
đắc A La Hán, (tức là vào được đến thức ấm). Trong khi đi con đường quán giả
và quán trung, thường các vị Bồ Tát phải qua 3 a tăng kỳ kiếp, phải thí thân
hoài hoài, bố thí hoài hoài, làm tất cả những hạnh, nguyện và phương tiện để độ
sanh, như thế đủ hiểu con đường Bồ Tát mênh mang dài xa, cần khổ như thế nào.
Nên Thiện Tài tu trong thức ấm ấy, quán chiếu những sở tri chướng để tiêu dung
những tập khí vọng tưởng về ngã, về pháp giới, về ngã giả, về thọ giả, về tri
giả, về kiến giả, về chiếu soi v.v…, phải làm như thế mới có đại tự tại lực,
mới biến hóa không cùng được, mới có thể độ được tất cả chúng sanh. Đó là điểm
“nhất tâm tam quán” mà chúng tôi muốn nhắc quí vị, khi quí vị hiểu được
sự bí ẩn lắt lay của tâm thức, mà tất cả sự lắt lay ấy đậu
trên đầu một tâm niệm thì lúc đó chúng ta có thể thấy được đạo. Vì nếu
khởi một niệm có thì pháp giới này trở thành có, vì sao? Vì tâm niệm ấy cứ huân
tập hết kiếp này đến kiếp khác từ vô số kiếp về trước đến giờ nên nó trở thành
có, hiện tướng để chúng ta có cảm giác cái này là thực có, là
ù lỳ chướng ngại, chứ thực ra, nó chỉ là những tâm niệm của chúng ta mà thôi.
Ngược lại, nếu ta muốn trở về, muốn làm con cá tích bơi ngược dòng trở về diệu
tâm, thì cần khởi tâm niệm là không, rồi lên cao hơn nữa là chẳng có, chẳng
không. Như thế, trong vô lượng vô số kiếp thì đến một lúc nào đó pháp giới này
sẽ biến chuyển đúng theo tâm thức của người tu hành, lên đến bực cao nhất là
Phật thì tâm các ngài là tâm bình đẳng, chẳng có, chẳng không vậy.
Điểm thứ hai chúng tôi
xin nhắc ở đây là câu “Tam đế viên dung.” Đế là chân lý. Đạo pháp có thế đế
(tục đế), là đế của người phàm phu chúng ta, đế thứ hai cao hơn một nấc là Chân
Đế, tức là chân lý của hàng Thanh Văn, Duyên Giác, đế thứ ba là Đệ Nhất Nghĩa
Đế, tức là chân lý của chư Phật và chư Đại Bồ Tát. Thế đế của phàm phu thường
chấp một bên. Ví như trông thấy cái bàn thì chúng ta coi là có cái bàn, trông
lên hư không chúng ta gọi là không, hoặc tốt hoặc xấu, rõ rệt một cách nhị biên
như thế. Nhưng khi tu lên đến bực Thanh Văn thì các ngài quán không và vào chỗ
chân đế, thì các ngài cho pháp giới này là không, cái ngã cũng không. Lên cao
hơn nữa đến chư Đại Bồ Tát thì các ngài vượt luôn qua cả chân đế đó, vượt qua
cái trệ không, các ngài giữ tâm chẳng có, chẳng không như một người đi dây giữa
không trung vậy. Đây gọi là Đệ Nhất Nghĩa Đế.
Nhân đây, tôi xin trở
lại một chút về “tứ cú” mà tôi đã giảng mấy lần ở đây rồi. Ta
sẽ thấy rằng, phàm phu là đệ nhất cú, tục đế, chân đế của Thanh Văn là cú thứ
hai, đệ nhất nghĩa đế của các vị Bồ Tát là cú thứ tư, còn đệ tam cú, cũng có
cũng không là của ngoại đạo. Đệ nhất nghĩa đế là đệ tứ cú, chẳng có chẳng không
hoặc giữ im lặng là tối thượng. Còn khoa học mà người ta thường tôn sùng là chỉ
ở đệ nhất cú mà thôi (thế đế), vì họ đều chấp có vi trần, có núi non, có người,
có vật v.v… Nên phải nhớ rằng giáo lý tự tâm biến hiện của Phật giáo mà chưa
tin thì chưa hẳn là một Phật tử.
Trước đây, có một người
Tầu được giải Nobel, khi ủy ban trao giải Nobel hỏi ông rằng, gần như năm nào
anh cũng làm được một việc đáng được giải Nobel cả, vậy thì tại sao anh lại
giỏi như vậy? Ông trả lời rằng, tôi chỉ đọc và hiểu đạo Phật mà thôi.
Điều thứ ba là cả Thanh
Văn lẫn Bồ Tát tu hành đều dùng tâm. Bên Thanh Văn thì dùng tâm chỉ và
quán, chỉ tức là định, quán tức là huệ. Bồ Tát thừa cũng dùng chỉ và
quán nhưng dụng tâm sâu sắc hơn. Song Bồ Tát thừa lại có thêm một điểm quan
trọng đó là nguyện lực. Bên Thanh Văn dùng nhiều định lực
(chỉ), một ít huệ lực (quán), không có nguyện lực. Trái lại, Bồ Tát dùng định
lực, huệ lực đều nhau và nhiều hơn hết là nguyện lực.
Tôi xin nói về Thanh Văn
thừa trước…
Các vị Thanh Văn thừa là
những vì rất nhàm chán thân máu mủ này, rất chán thế gian này, vì các ngài luôn
quán rằng không có cái gì vui được lâu, cái vui bây giờ cũng sẽ chuyển thành
cái khổ. Còn xác thân này thì luôn luôn phải chịu sanh già bệnh và chết. Nên
không có gì gọi là vui cả. Nên khi đức Phật nhập diệt, có mười tám ngàn A La
Hán tự đốt thân theo Phật và mưa xá lợi. Các ngài tu để giải thoát cho mình,
diệt những phiền não chướng, để khỏi thọ sinh thân máu thịt, các ngài dùng định
lực và huệ lực, nhưng dùng định lực nhiều hơn.
Trong con đường diệt
phiền não, các ngài có hai cách tu: Trạch diệt vô vi và phi trạch diệt vô vi. Trạch
là săm xoi, quán chiếu để hiểu rành rẽ nguyên do nào phiền não được cấu tạo, để
tiêu dung, nên trạch diệt thuộc nhiều về quán, tức là thuộc về trí huệ. Còn phi
trạch diệt thuộc về chỉ, dùng định lực để đè các phiền não không cho khởi, mà
không săm xoi cỗi nguồn phiền não, giống như ta lấy một tảng đá đè lên đám cỏ
dại, hoặc xây ciment lên thì cỏ dại sẽ không mọc. Còn trạch diệt là cứ để phiền
não mọc lên rồi quán chiếu rành rẽ và tiêu dung những phiền não đó đi, như
người để cỏ dại mọc và nhổ cho đến khi hết sạch. Phi trạch diệt dùng định lực
đè phiền não thì sẽ vào được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, bốn vô
sắc định. Nhưng chưa chắc đã đắc bốn quả thánh, vì phiền não chưa được diệt.
Như trường hợp của Thiện Tinh Tỳ Kheo, ngài đã đắc đệ tứ thiền, nhưng chưa đắc
được quả thánh nào cả, nên đến khi chết thấy thân trung ấm cùa mình vẫn còn, và
vẫn thấy đầy rẫy phiền não, nên ngài mới kêu lên: “Chẳng có Niết Bàn gì cả, chư
Phật chỉ nói lời hư vọng,” vì vậy ngài bị đọa địa ngục. Còn dùng trạch diệt vô
vi là quán chiếu để tiêu dung nó đi. Phương pháp này dùng huệ để tiêu dung
phiền não, biết rằng nó chỉ là giả huyễn, do vô lượng nhân duyên họp thành
tham, sân, si, mạn, nghi v.v…, các vị chiếu soi hoài hoài sẽ tiêu dung được cội
rễ của phiền não chướng, sẽ đắc bốn thứ quả thánh là Tu Đà Hoàn, Tu Đà Hàm, A
Na Hàm và A La Hán, đồng thời có thể được bốn quả thiền, bốn vô sắc định và
diệt tưởng định.
Hỏi: Có phải sau khi
diệt thân này thì mới đắc bốn quả thánh haỵ đắc được quả ngay khi còn thân này?
Đáp: Ngay khi còn thân này đã có thể đắc được rồi.
Hỏi: Thiền này có đồng
nghĩa với thiền đốn ngộ nói rằng: trên đầu sào trăm trượng nên bước thêm bước
nữa không?
Đáp: Thiền đốn ngộ thuộc Đại Thừa nên cao hơn. Nhưng trước
sau cũng là đi vào thức ấm, và khi vào đến đây, phải “bước thêm bước nữa,” có
nghĩa là phải diệt thêm sở tri chướng để trờ thành Bạch Tịnh Thức.
Nếu ta làm một sự so
sánh về định lực, thì một Bồ Tát đệ ngũ địa bằng định lực của một vị A La Hán,
nhưng về huệ lực và nguyện lực thì vị Bồ Tát đệ ngũ địa hơn A La Hán rất nhiều,
các vị Bồ Tát thường quán không, quán giả, và quán trung, còn bên Thanh Văn các
ngài quán không mà thôi. Nhưng ở chặng giữa, ở chặng đường thập hồi hướng thì
định lực của các vị Bồ Tát thua các vị A La Hán.
Hỏi: Vậy thì thiền
vipassana (Minh sát tuệ) của Nam Tông thuộc loại gì? Trạch diệt vô vi hay phi
trạch diệt vô vi?
Đáp: Đó là trạch diệt vô vi, nhưng tuệ đó chưa phả là tuệ cao
lắm vì chỉ dùng trạch diệt vô vi để tiêu dung phiền não thôi. Ở đạo Phật, khổ
một cái là danh từ cứ trùng trùng điệp điệp, (vì thế gian trùng điệp), quá
nhiều danh từ nên nhiều Phật tử bị lạc lõng.
Đại khái, các vị Thanh
Văn tu trạch diệt vô vi và phi trạch diệt vô vi, dùng định lực và huệ lực. Còn
các vị Bồ Tát cũng tu cả định lẫn huệ, đồng thời thêm nguyện lực nữa. Nguyện
lực nó rất ghê gớm ở chỗ nó vừa là định, cũng vừa là huệ tâm lớn hiểu rõ mình
và pháp giới là gì, Phật là gì, nhân duyên, như huyễn v.v… Rồi do huệ tâm sanh
ra Đại bi và Nguyện. Vì vậy, chĩ ở chỗ nguyện thôi mà những vị quĩ thần hay hộ
trì cho những vị này. Như trong kinh, có những vị ngồi thiền đắc sơ thiền, nhị
thiền, nhưng kinh không hề nói có chư Thiên đến cúng dường, vì các ngài chưa
phát được những thệ nguyện rộng lớn, chưa làm lợi ích cho ai.
Còn điểm thứ tư là định và tam
muội. Vậy định và tam muội khác nhau ra sao? Trong kinh thường nói đến
cửu thứ đệ định mà thôi, từ tứ thiền, tứ không định và diệt tận định. Còn tam
muội thì trong kinh Hoa Nghiêm hoặc Pháp Hoa thì nói đến vô số tam muội. Nhưng
khi lên đến chỗ tột cao như thủ Lăng Nghiêm tam muội thì kinh cũng gọi là thủ
Lăng Nghiêm định. Vậy là sao? Nếu ta quyết đoán định khác tam muội, thì tại sao
trong kinh lại nói là Đại Định Thủ Lăng Nghiêm cũng là Thủ Lăng Nghiêm Tam
Muội, và cũng là Như Huyễn Tam Ma Đề?
Trong giáo lý nhà Phật
thường các ngài chỉ nói ẩn hiện thế thôi, một người muốn tìm hiểu phải bơi lội
bì bõm trong ấy lâu mới hiểu được.
Chữ Định thường được
dùng trong hành trình đi vào Không quán. Trong bước đường đi
vào không quán, có những thứ bậc rõ rệt, một hành giả vào đến sơ thiền, nhị
thiền rồi đến tam thiền là đã vào đến bình diện thọ ấm, qua
đến tứ thiền là vào đến bình diện tưởng ấm, vào đến bốn vô sắc
định là vào đến bình diện của hành ấm, đến khi vào diệt tận
định là vào được bình diện thức ấm, mức độ đi vào không thì
chỉ có từng đó mức độ ấy thôi (cửu thứ đệ định). Dĩ nhiên là không kể đến những
thứ định lặt vặt khác, như ta quán một một điểm đen đằng xa, khi có chú tâm thì
đó cũng là định, nhưng định đó còn rất thấp. Lại còn có những thứ định
như biến xứ định, là khi hành giả quán tất cả nhà cửa, cây cỏ,
núi sông đều mầu vàng, quán lâu hành giả sẽ thấy tất cả đều biến thành màu
vàng, nhưng chỉ riêng đối với hành giả quán chiếu thấy vậy thôi. Nếu vị này đi
sâu vào định hơn nữa thì vị đó sẽ chuyển cái định của mình thành định
quả sắc, tức là khiến người chung quanh cũng nhìn thấy mọi vật
trở thành màu vàng. Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ xin nói lược đến những
định chính thôi, chứ nói nhiều quá thì quá dài mà có thể đi lạc xa với ý chính…
Còn về tam muội thì trái lại, tam muội thường đi vào giả quán nhiều,
nên trong kinh có vô số tam muội, vì trong pháp giới có vô số cảnh giới. Khi
quán giả, hành giả có thể quán bất cứ một cảnh giới nào. Như trong phẩm Hiền
Thủ (số 12) khi một hành giả quán đất, hoặc nước, lúc nhập định thì có nước,
đến khi xuất định thì nước biến thành lửa. Khi quán giả, ta có thể mang thân
này nhập tam muội đến khi xuất mang thân rồng, mang một thân nhập tam muội lúc
xuất lại vô lượng thân .v.v… Vì vậy quán giả tức là quán một cảnh giới, lên cao
hơn là quán cái biến hóa của nó, như vậy mới có thể hóa thân vô lượng bời bời
để độ sanh được. Khi một hành giả quán không đi vào biển Bát Nhã của Thanh Văn
rồi, sự biến hóa chưa có mấy, vì trong kinh thường nói, các vị Thanh Văn chỉ có
18 phép biến hóa thôi, còn Bồ Tát thì biến hóa vô lượng. Tam muội khác định là
ở chỗ đó, tức là phải dùng đại bi nhiều để đi vào giả, vì đại bi là
mầm mống của sự biến hóa. Chính vì vậy, Đại Bi Tâm rất cần thiết
cho đường tu chứng của các vị Bồ Tát, không có Đại Bi Tâm mà chỉ có Bát Nhã thì
hành giả rất dễ rơi vào con đường Thanh Văn. Nên sự biến hóa của tam muội vô
lượng, đồng thời, trong tam muội các vị Bồ Tát lại chuyển từ tam muội này sang
tam muội khác một cách rất thần kỳ, có thể trong một niệm nhập xuất hàng ngàn
tam muội, đó mới thật là biến hóa, mới thật là có tự tại lực, còn bên Thanh Văn
thì từ một định này chuyển qua một định khác phải mất thời gian nhiều hơn, mà
chuyển biến cũng không được mau lẹ, không được chập chùng vô lượng. Thí dụ như
từ sơ thiền, các ngà i qua nhị thiền, rồi qua tam thiền v.v… từng nấc một, chứ
không như bên các tam muội của các vị Bồ Tát, có thể nhập một tam muội mà xuất
cả ngàn tam muội được, chỗ khác nhau của định và tam muội là như vậy. Song khi
lên đến Trung quán tuyệt vời, vào được như huyễn tam ma đề ở
bực Bồ Tát thập địa, thì lúc đó định và tam muội là một, nên Đại ĐịnhThủ Lăng
Nghiêm cũng là Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, cũng là Như Huyễn Tam Ba Đề.
Chìa khóa của đạo Phật
là đi đến chỗ biến hóa không cùng, mà cái tâm có thể biến hóa nhiều nhất là cái
tâm đại bi, và cũng là tâm Bát Nhã tuyệt vời, vì tột không cũng là diệu hữu
vậy. Nên phải nhớ, khi hành giả còn tu ở dưới thì tách ra làm hai, nhưng lên
tột bờ mé thì nhập lại làm một.
Điểm thứ năm là nói đến lịch trình không, giả và trung quán. Không quán
thì ai cũng hiểu rồi, còn giả quán là sao? Tại sao lại phải giả quán? Ta nên
nhớ đến câu kệ của ngài Quán Thế Âm: “Sắc bất dị không” tức là đi từ sắc vào
không, là quán không. “Không bất dị sắc” là đi từ không ra sắc tức là quán giả.
“Sắc tức là không, không tức là sắc” là quán trung. Chỉ một câu nói trong bài
Bát Nhã Tâm Kinh mà thâu tóm tất cả đường tu, nhưng khổ nỗi là chúng ta không
làm nổi mà thôi.
Câu “sắc bất dị không”
tức ta phải quán tất cả đều là không. Và cũng cần biết rằng khi quán chiếu vào
không hải có hai cách: một là quán theo lối nhân duyên, tức là theo Thanh Văn
thừa, hai là quán theo lối như huyễn của Bồ Tát đạo.
Quán Nhân duyên thì ai
cũng biết rằng tất cả sắc trần đều do vô lượng nhân duyên họp lại mà thành, nếu
quán lâu hành giả có thể tiêu dung được những vật ù lì này để đi vào không hải
kia. Rồi các vị Thanh Văn hay dừng lại đó, còn vị Bồ Tát thì vẫn “yết đế” (vượt
lên), đi nốt con đường còn lại bằng cách quán giả, từ không ra sắc. Quán giả để
trưởng dưỡng tâm đại bi thêm lớn và có thể biến hóa không lường được. Nên chư
Phật bao giờ cũng khuyên rằng, chớ có dừng chân nơi không hải, vì đó mới chỉ
một phần ba đoạn đường thôi. Phải yết đế, yết đế, vượt lên, vượt lên nữa để lặn
sâu đến chỗ tột không, làm con thoi đi từ không ra giả, từ giả vào không, mà
mỗi lần ra vào như vậy thì lại xuống sâu không hải một nấc, ngày càng biến hóa
thêm cho đến mức viên dung gọi là “chân không mà diệu hữu.”
Trong kinh tả ngài Thiện
Tài đã đến cửa bể rồi, giờ đi tìm cầu thiện tri thức, học thêm về quán giả để
chỉ có một mục đích đi vào đến đáy bể đó. Còn trong kinh Viên Giác nói đến chỗ
khởi giả là tam ba bát đề, là phải khởi huyễn để trừ huyễn, đó là ngài dạy cho
những vị cao. Còn phàm phu chúng ta, chỉ cần biết con đường tu chứng là như thế
thôi, sức của chúng ta chỉ có thể quán nông cạn, quán nhân duyên, như huyễn một
chút thôi. Nhìn vật gì ta cũng quán nó như một lớp sương mù khởi dậy từ diệu
tâm, chứ chúng ta chưa thể biến hóa được. Còn các vị Bồ Tát khi vào được thức
ấm rồi thì các ngài biến hóa rất dễ, lúc đó các ngài sắp trở thành pháp
thân Bồ Tát, vì thế các ngài không thể ngồi trong thức ấm mà an hưởng
sự trầm không thú tịch mà các ngài luôn luôn phải hóa hiện thân hình, hoặc cảnh
giới để độ sanh. Tức là khởi những cảnh huyễn để độ huyễn.
Ta cũng cần định nghĩa
lược qua chữ tam ba bát đề. Nó có nghĩa thứ nhất là phải nhớ
tưởng chư Phật mười phương, sau đó khởi những cảnh huyễn để độ huyễn, nên vì
thế trong kinh thường nói đến chữ “thiện thệ,” tức là qua lại, sang giả rồi trở
lại không, vào không rồi trở ra giả, cứ thế, luôn luôn làm con thoi qua lại,
không trụ bờ bên này, không trụ bờ bên kia, cũng không dừng ở giữa dòng. Càng qua
lại thần tốc bao nhiêu thì tự tại lực càng thần biến bấy nhiêu, trong một niệm
có thể qua lại vài ngàn lần, hoặc vài vạn lần, hay vô lượng vô số lần, thần tốc
càng ngày càng lớn, thì tự tại lực càng biến hóa vô lượng. Như đức Phật nói
rằng: “Ta ở nơi không hải mà vẫn diễn nói lịch kiếp tu hành…,” có nghĩa là tâm
ngài vẫn ở tột không tịch tĩnh, nhưng đồng thời ngài vẫn khởi Đại Bi nói tất cả
pháp để độ sinh, ngài làm như vậy một cách thường trực và hết sức thần tốc, vì
vậy mới gọi là thiện thệ. Thiện thệ lâu sẽ biến thành trung đạo song chiếu
tuyệt vời, tức là trôi vào biển Đại Giác. Đại cương không, giả và trung là như
vậy. Ngay cả tâm thức của chúng ta cũng thế, tuy chẳng quán chiếu giỏi giang
gì, nhưng nó cũng đi qua đi lại mà không có mấy người biết. Có điều sự đi qua,
đi lại của tâm thứ chúng ta không vào sâu được đến thức ấm mà chỉ có từ sắc ấm
vào đến tưởng ấm là cùng. Sở dĩ chúng ta vẫn còn bị trôi lăn vì tất cả những
hành vi của chúng ta đều vướng mắc ở những điều vọng, nên không được thần biến,
tự tại như chư Đại Bồ Tát và chư Phật.
Nay nói đến điểm cuối
cùng là điểm Ma chướng. Thường khi tu hành trong giai đoạn
không hay gặp ma chướng. Còn trong kinh, ngài Thiện Tài đi vào giả, nên rất ít
gặp ma chướng, ngài chỉ gặp một chỗ thôi nhưng lại diệt được ngay, tức là ở
đoạn đi gặp Thắng Nhiệt Bà La Môn. Ông này tu theo lối trí huệ, ông để một rừng
gươm rồi đốt một đống lửa lớn, sau đó trèo lên cao rồi nhảy vào rừng gươm đó.
Lúc Thiện Tài đến hỏi đạo, thì Thắng Nhiệt Bà La Môn cũng bảoThiệnTài làm y như
vậy, Thiện Tài ngần ngừ và nổi lên một ý nghi ngờ: “đây có phải là ma chăng mà
sui ta làm như vậy?” Thiện Tài vừa nghĩ thế thôi, thì chư Thiên hiện xuống,
người nào cũng bảo cho Thiện Tài biết ông Thắng Nhiệt Bà La Môn này tu theo trí
huệ mà không phải cảnh giới là ma, nên cứ việc theo lời thiện trí thức này mà
làm. Thiện Tài nghe lời, nhảy đến nửa chừng thì đắc được hai tam muội. Nên phải
hiểu, con đường tìm cầu thiện trí thức của Thiện Tài rất ít bị ma chướng, vì
chỉ trong giai đoạn tu không quán là bị ma chướng nhiều nhất mà thôi, ở đây, ta
lại phải trở về với Lăng Nghiêm để dẫn chứng. Trong Lăng Nghiêm nói rằng, một
khi hành giả vượt sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm đều bị ma chướng về tham dục, nhưng
khi vào đến hành ấm và thức ấm thi thiên ma không chiếu cố nữa mà chỉ còn ma ý
của chính hành giả mà thôi. Tỷ dụ như khi vào đến không hải, lại tưởng đó là
Niết Bàn, hoặc nghi cái này, cái khác, đó gọi là ma ý. Còn đi ra giả quán thì
ít bị, thiên ma không chiếu cố vì các ngài tu đã khá cao rồi, lại có rất nhiều
thiện thần hộ trì, hơn nữa thiên ma chi ngự ở dục giới tức quanh quẩn từ sắc ấm
đến hành ấm mà thôi. Sau đó, Thiện Tài lại hơi bị một chút chướng ngại ở chỗ
gặp vị thiện trí thức Ba Tu Mật Đa. Đó là một người đàn bà rất đẹp, lại thị
hiện làm kỹ nữ. Khi Thiện Tài đến nơi, nghe thấy dân chúng nói về vị này, có
người khen, kẻ chê, họ nói rằng: “Đồng tử này trông tướng mạo đoan trang, mắt
không nháy, tại sao đi tìm bà dâm nữ này làm gì?” Nhưng có người hiểu và biết
rằng Ba Tu Mật Đa là một vị Bồ Tát thị hiện, vì ngài dạy cho Thiện Tài môn “Ly
Tham Dục Tế,” tức là lìa hết tham dục. Nếu ai được trông thấy bà đều mất hết
tất cả tham dục, “chỉ cần nhìn ta hoặc liếc mắt, hay cầm tay ta là mất
hết tham dục…” Như vậy, trong kinh muốn nói rằng Thiện Tài đã tu vào
đến thức ấm rồi, nhưng kinh vẫn nhắc đến chuyện tham dục, vì nhiều khi hành giả
phải mài tâm mình, tu đi, tu lại nhiều lần, cũng như đức Phật Thích Ca ngồi Bồ
Đề Đạo Tràng, đã là bậc Đẳng Giác rồi, thì tại sao ma nữ còn có thể hiện ra để
quấy phá ngài được? Tại sao lại phải tranh đấu với Ma Vương làm chi? Trong kinh
đại thừa nói rằng, lại còn có cả Ma Vương đem quân đến quấy nhiễu ngài nữa, tại
sao thế? Đức Phật đã gần làm chủ pháp giới này rồi thì sao Ma Vương còn có thể
quấy phá được? Vì rằng, trong kinh Hoa Nghiêm có dạy, chính vì lòng đại bi, có
những chúng sanh thích chiến đấu, thích quân trận nên ngài thị hiện có Ma Vương
đến phá, đồng thời thị hiện cả ma nữ đến phá nữa, để nhắc chúng sanh biết rằng,
cửa ải tham dục là một cửa ải rất ghê gớm, khó vượt, vì có những bậc tu đã cao
rồi mà vẫn còn bị ma nữ ám ảnh, nên ngài khởi từ bi tâm để nhắc nhở chúng ta
thôi. Tôi vẫn nghĩ rằng, nếu chúng ta tu cao lên một chút, vượt qua được tưởng
ấm mà vào đến hành ấm thì lúc đó chúng ta không còn bị ma chướng nhiều nữa. Lúc
đó chỉ còn ma ý, cái nghi và cái mạn mà thôi. Đó là sáu điểm chúng ta cần phải
nhớ trước khi đi vào kinh theo dõi con đường tìm cầu thiện trí thức của ngài
Thiện Tài đồng tử…
Nay xin đi vào kinh…
Trên kia, chúng ta thấy
đức Phật ngồi vườn cấp Cô Độc trong Trùng các đại trang nghiêm, có năm trăm vị
Bồ Tát, năm trăm vị Thanh Văn. về số 500 này, thực tôi chưa hiểu rõ tại sao
kinh lại lấy số năm trăm, nhưng hình như kinh hay dùng con số mười là để chỉ cái
vô tận và số năm là để cho sự thành tựu hoàn mãn, cũng
như Ngũ Cổ Như Lai là năm vị Phật xưa vậy…
Kinh:
Bấy giờ chư Đại Bồ Tát,
Đại Đức Thanh Văn những chủ thế gian và quyến thuộc đều nghĩ rằng: cảnh giới
của Như Lai, trí hạnh của Như Lai, sức gia trì của Như Lai, lực của Như Lai, vô
úy của Như Lai v.v… không tin giải được, không rõ biết được, không nhẫn thọ
đưực, chỉ trừ sức gia bị của chư Phật…
Giảng:
Đại khái đoạn này nói
đến các vị Bồ Tát và những vị Thế Gian Chủ v.v… tự nghĩ về những cảnh giới, những
trí hạnh của Như Lai là thế nào, các ngài chỉ nghĩ thế thôi, nhưng đức Phật vì
có tha tâm thông nên ngài biết được các sự nghi đó, thì đây, trong kinh tả…
Kinh:
Bấy giờ đức Thế Tôn biết
tâm niệm của các vị Bồ Tát đó rồi liền dùng đại từ bi làm thân, đại bi làm đầu,
dùng pháp dại bi mà làm phương tiện đầy khắp hư không, nhập sư tử tần thân tam
muội…
Giảng:
Đức Phật biết tâm niệm
của các vị Bồ Tát rồi, ngài không giảng bằng lời, mà chĩ giảng bằng tam muội,
trong đoạn này, kinh không hề nói đến sự triển khai về Bát Nhã (Tánh Không), mà
chỉ dùng Đại bi, mà đại bi là cái tâm sở đưa chúng ta đến chỗ biến hóa nhiều
hơn là Bát Nhã. Và ngài đã khởi tâm đại bi, nên ngài đã nhập tam muội gọi là
“Sư Tử tần thân tam muội,” Sư tử tần thân là con sư tử chuyển thân, vờn cầu mà
không có gì vấp váp cả, đức Phật vào tam muội này cũng thế, ngài cũng thần kỳ
chuyển tam muội, chuyển từ tam muội này sang tam muội khác…
Kinh:
Khi đức Thế Tôn nhập tam
muội này rồi, tất cả thế gian đều khắp nghiêm tịnh…
Giảng:
Ngài vào tam muội thì ở
khu rừng đó trở thành lâu các Đại trang nghiêm, bỗng dưng rộng rãi, không có
ngằn mé. Tất cả đều nói lên sự biến hóa, khi ngài muốn nói pháp lớn thì ngài
thường nhập tam muội nên đạo tràng trở thành trang nghiêm rộng lớn hơn. Cũng
như tôi vẫn nói rằng, khi chúng ta lên núi Linh Thứu ở bên Ấn Độ, chỉ thấy một
mảnh sân rất nhỏ, nhưng đến khi ngài ngồi nói pháp thì tự nhiên chỗ đó bỗng
rộng rãi ra, dù bao nhiêu người đến dự cũng vừa. Ở đây cũng vậy, nên sau
khi nhập tam muội rồi thì tất cả hào quang phóng đi mười phương các cõi, nên
mười phương chư Đại Bồ Tát đều vân tập.
Kinh:
Lúc đó, lại do thần lực
của Phật, rừng Thệ Đa bỗng nhiên rộng rãi đồng với bất khả thuyết Phật sát vi
trần số quốc độ. Tất cả đều diệu bửu xen lẫn trang nghiêm. Bất khả thuyết
bửu trải khắp mọi nơi. Vô số bửu làm tường rào. Cây đa la báu trang nghiêm bên
dường…
Giảng:
Chỗ này hiện lên cảnh
giới y như bên Cực Lạc, vì có những cây, những hoa báu, những giòng nước…
Kinh:
Lại có vô lượng hương
hà, đầy những nước thơm sóng gợn xoay quanh. Tất cả hoa báu theo dòng chuyển về
phía hữu…
Giảng:
Khi nào hiện tướng thì
luôn xoay về phía hữu, khi nào xoay về phía tả tức là chìm vào không, là Bát
Nhã, hiện tướng là đại bi. Tôi nghĩ rằng, tất cả những sông, hay giòng nước bát
công đức bên Cực Lạc cũng đều xoay theo chiều phía hữu.
Kinh:
Vô số báu phóng đại
quang minh…, vô số báu trang nghiêm mặt đất, đốt những diệu hương mùi thơm ngào
ngạt…
Giảng:
Chỗ này nói khoảng mấy
trang, nhưng nếu đọc hết thì dài quá, nên xin đọc lược qua chỉ cần hiểu ý chính
là được rồi…
Kinh:
Bấy giờ, trong hư không
trên rừng Thệ Đa, có bất tư nghì thiên cung điện vân, vô số bửu liên hoa vân,
thiên y vân v.v… Tại sao vậy, vì thiện căn đức Như Lai bất khả tư nghi. Vì oai
đức của đức Như Lai bất khả tư nghì. Vì đức Như Lai ở trong một lỗ lông thị
hiện quá khứ tất cả chư Phật bất tư nghì. Vì đức Như Lai tuy phóng mỗi một
quang minh đều có thể chiếu khắp tất cả thế giới bất khả tư nghì. Vì đức Như
Lai có thể ở trong một lỗ lông phát ra tất cả Phật sát vi trần biến hóa vân đầy
khắp tất cả chư Phật, tất cả chư quốc độ bất tư nghì v.v…
Giảng:
Những chỗ này đã giảng
trước nhiều lần rồi, nghĩa là cả hội trường biến hóa hẳn lên, như cảnh giới của
Cực Lạc, có khi còn hơn thế nữa. Khi hội trương biến hóa thế rồi, thì mười
phương đông, nam, tây, bắc, và giữa những phương ấy, đều có những vị Bồ Tát từ
mười phương vân tập. Lề lối và nghi thức của một đạo tràng lớn là như vậy, tức
là đức Phật ngồi đó, vào tam muội phóng quang tất cả các nơi, thay đổi tất cả
đạo tràng, rồi chiếu ánh sáng đi mười phương thế giới, tất cả những vị đại Bồ
Tát gặp được ánh sáng ấy, đều vân tập đến để nghe pháp, các vị đến thường là
đảnh lễ Phật rồi hóa hiện những tòa sen lớn và ngồi lên đó để nghe pháp. Đại
lược là như vậy, sau khi các vị Đại Bồ Tát vân tập thì nói đến các vị Thanh
Văn…
Kinh:
Lúc đó chư thượng thủ
Đại Thanh Văn như ngài Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp v.v… chư
Đại Thanh Văn này ở tại rừng Thệ Đa mà đều chẳng thấy thần lực của Như Lai.
Giảng:
Tất cả sự biến hiện đó,
cùng chư Đại Bồ Tát vân tập đến mà các vị Thanh Văn, A La Hán là những hàng đệ
tử cao của Phật không nhìn thấy gì cả.
Kinh:
Chẳng thấy sự nghiêm hảo
của Như Lai. Chẳng thấy cảnh giới của Như Lai. Chẳng thấy sự du hí của Như Lai…
Giảng:
Du hí tức là thần thông
du hí, tại sao lại gọi là thần thông du hí? Tức là độ sanh mà vẫn tiêu dao,
không chấp chước, chữ “du hí” không có nghĩa là giỡn chơi đâu, mà nghĩa của nó
là các vị Đại Bồ Tát làm Phật sự một cách dễ dàng, không chấp, không khởi một
tâm thiên lệch nào cả…
Kinh:
Chẳng thấy sự tôn thắng
của Như Lai, chẳng thấy diệu hạnh và oai đức của Như Lai… Chư Đại Thanh
Văn chẳng thấy được thần lực của chư Phật, cũng chẳng thấy được thân những Bồ
Tát. Tại sao vậy? Vì thiện căn chẳng đồng…
Giảng:
Thiện căn tức là tu
phước, huệ không đồng, vì sao? Vì các vị Thanh Văn chưa có tâm Đại Bi bình
đẳng, thứ nữa, các ngài không có tâm Bát Nhã sâu xa, nên nhãn lực các ngài còn
rất hạn hẹp, không có thiên nhãn tuyệt vời như chư Đại Bồ Tát và Phật được…
Kinh:
Vì vốn không tu tập
thiện căn thấy Phật tự tại. Vì vốn chẳng khen nói công đức thanh tịnh của tất
cả Phật độ ở mười phương. Vì vốn chẳng ca ngợi thần biến của chư Phật
Thế Tôn…
Giảng:
Phàm phu chúng ta tuy
rằng không có định và huệ gì, nhưng chúng ta có được lòng tin và đôi lúc cũng
nói sự tán thán.
Kinh:
Vì vốn chẳng ở trong
sanh tử phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, vì vốn chẳng làm cho kẻ khác phát tâm Bồ Đề,
vì vốn chẳng có thể làm cho chủng tánh Như Lai không đoạn tuyệt, vì vốn chẳng
biết tất cả pháp như huyễn, chư Bồ Tát như mộng…, vì cớ này nên chư Đại Thanh
Văn không thấy được, chẳng chứng được, chẳng niệm được, chẳng quán sát được,
chẳng tính lượng được, chẳng tư duy được, chẳng phân biệt được. Thế nên dầu
cũng ở trong rừng Thệ Đa mà chẳng thấy được những đại thần biến của Như Lai.
Giảng:
Vì thân các vị Bồ Tát
quá vi diệu, trụ xứ của các ngài quá sâu, diệu sắc thân của các ngài dệt bằng
những hào quang vi tế quá, mà các hàng Thanh Văn chưa đủ nhãn lực để nhìn thấy.
Tất cả vi diệu của đạo Phật là ở chỗ đó, mở nhãn lực ra, đó là tâm nhãn, trong
kinh có rất nhiều thí dụ để giảng về việc này, tôi xin đọc đại lược một số…
Kinh:
Ví như có ngươi ở giữa
đại hội ngủ say, chiêm bao thấy trên đảnh núi Tu Di thiên đế ngự nơi thành
thiện kiến, cung điện vườn cây các thứ nghiêm tốt, ngàn muôn ức thiên tử, thiên
nữ, thiên hoa rải khắp mọi nơi. Những y thọ sanh ra y phục đẹp. Nhưng hoa thọ đơm
nở hoa đẹp. Những âm nhạc thọ trỗi thiên âm nhạc. Những thiên thể nữ ca ngâm
tiếng nói. Vô lượng chư thiên ở trong đó vui chơi. Người nằm
mộng này tự thấy mặc thiên y đi dạo khắp thiên cung… ở trong đại hội tất cả mọi
người dầu đổng ở một chỗ mà chẳng thấy, chẳng biết cảnh giới thiên cung
như vậy…
Giảng:
Ở đây, tôi xin nhắc
lại chữ “thọ,” như là những y thọ, những hoa thọ, những âm nhạc thọ v.v… đó
chính là những loại cây trên trời, mọc ra những cái áo gọi là y thọ, phát ra
những thứ âm nhạc gọi là âm nhạc thọ v.v… chứ chữ thọ đây không phải để chỉ cho
thọ ấm đâu. Trong khi người nằm mộng nhìn thấy tất cả những cảnh giới đó, thì
những người ở chung quanh không ai nhìn thấy cả, vì thiện căn không đồng. Cũng
vậy, tuy các vị Thanh Văn cũng có mặt trong rừng Thệ Đa, nhưng thiện căn của
các ngài không đồng nên chẳng nhìn thấy gì cả…
Kinh:
Ví như núi tuyết có đủ
các dược thảo, lương y đến đó đều có thể phân biệt hết, còn những thợ săn,
những người chăn súc vật thường ở trên đó mà chẳng thấy biết được thuốc hay.
Giảng:
Cũng như ví dụ trên, đức
Phật lại cho một tỷ dụ khác về dược thảo, chỉ có lương y mới nhận rõ từng loại
thuốc mà thôi, còn người thường thì chẳng biết gì hết. Hoặc người không có
phước, nhiều khi nhìn thấy một cây rất quí, nhưng cũng chẳng biết gì hơn.
Kinh:
Đây cũng như vậy, chư
Đại Đệ Tử Thanh Văn, dầu ở trong rừng Thệ Đa, thân cận đức Thế Tôn mà chẳng
thây thần lực tự tại của Như Lai, vì không có tịnh nhãn vô ngại của Đại Bồ Tát
nên chẳng có thể thứ đệ ngộ nhập pháp giới…
Giảng:
Vì không có tịnh nhãn
nên chẳng thể nhìn được hết thứ tự lớp lang của pháp giới này. Tùy theo tịnh
nhãn của mình càng rộng bao nhiêu thì ta càng nhập pháp giới
nhiều bấy nhiêu. Phàm phu chúng ta chỉ nhìn thấy được một khúc rất hạn hẹp,
thấy được cây cối, nhà cửa, vợ con, của cải v.v… vì tâm chúng ta chỉ mở được
đến đó mà thôi, không thể nhìn thấy sâu, rộng hơn được. Còn chư Đại Bồ Tát lại
khác, các ngài nhìn thấy được tất cả từ thai sanh, noãn sanh, hóa sanh, ma quỉ,
chư thiên v.v…
Kinh:
Ví như Tỳ Kheo ở giữa
đại chúng nhập biến xứ định, như là địa biến xứ định, thủy biến xứ định, hỏa
biến xứ định, phong biến xứ định, thanh biến xứ định, huỳnh biến xứ định, xích
biến xứ định (tức là tùy theo tâm mà có thể nhìn
thấy được các màu khác nhau). Người nhập định này thấy những cảnh đó
nhưng người khác không thấy được chỉ trừ người trụ trong chánh định này…
Giảng:
Xin nói đến thái độ của
các vị Thanh Văn không nhìn thấy gì cả, các ngài ngồi như đui, như điếc vậy
thôi. Sau đó, trong pháp hội, các vị Đại Bồ Tát đứng lên, người nào cũng nói
kệ, mỗi vị đại diện cho một số Đại Bồ Tát nói kệ tán thán đức Phật, rồi sau mới
vào ngồi trong pháp hội. Sau cùng, ngài Phổ Hiền mới đứng lên, ngài giảng giải
qua về những tam muội của đức Phật, tu pháp môn gì thì được tam muội này. Trong
khi đức Phật nhập tam muội để dắt những vị thính chúng (Bồ Tát) cùng vào tam
muội đó, cũng như sau này, quí vị thấy rằng Thiện Tài đi gặp một vị thiện tri
thức là ngài Tỳ Mục Cù Sa cũng đưa Thiện Tài vào tam muội của ngài vậy.
Kinh:
Bấy giờ đức Thế Tôn vì
muốn cho chư Bồ Tát an trụ trong Như Lai sư tử tần thân quảng đại tam muội…
Giảng:
Muốn cho các vị BồTát
vào được tam muội đó…
Kinh:
Nên từ tướng bạch hào
giữa chăng này, phóng ra quang minh lớn gọi là phổ chiếu tam thế pháp giới môn,
dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh làm quyến thuộc, chiếu khắp
chư Phật quốc độ trong tất cả thế giới hải ở mười phương… Lúc đó tại rừng Thệ
Đa, Bồ Tát đại chúng đều thấy tất cả cõi Phật khắp pháp giới hư không giới.
Trong mỗi một vi trần đều có tất cả Phật sát vi trần sấ Phật độ. Hoặc thây ở
trong bất khả thuyết Phật sát chúng hội phát ra âm thanh vi diệu đầy khắp pháp
giới chuyển chánh pháp luân.
Giảng:
Kinh giảng rằng tất cả
chư Bồ Tát cũng nhìn thấy tất cả cảnh giới trong tam muội y như Phật vậy, trong
cảnh giới đó chỉ có quang minh và âm thanh thôi, quang minh thuộc về con mắt,
âm thanh thuộc về cái tai, còn mấy căn khác không kể. Vì vậy, pháp giới này
được dệt bằng quang minh và diệu âm…
Kinh:
Trong hội này, đại chúng
Bồ Tát thấy thậm thâm tam muội đại thần thông lực của chư Phật Như Lai như vậy.
Giảng:
Sự độ sanh của đức Phật
rất ghê gớm, ngài chỉ cần ngồi đó, nhập cơn tam muội, đưa tất cả vào tam muội
mà không cần phải cất chân, đặt tay cả. Trong kinh kể ba, bốn trang về những
tam muội thần biến của chư Phật này…
Kinh:
Chư Bồ Tát đó thảy đều
đầy đủ đại trí thần thông, minh lợi tự tại, trụ ở trí địa,
dùng trí quảng đại quan sát khắp tất cả từ những trí huệ chủng tánh mà sanh,
nhất thiết chủng trí thường hiện ở trước. Thân của các ngài (thân của các vị Đại Bồ Tát) siêu xuất tất cả thế
gian, được trí huệ vô ngại đối với tất cả pháp, (trông thấy pháp gì
cũng hiểu cả), khéo hay tỏ ngộ ngằn mé tận, vô tận…
Giảng:
Trí huệ của các ngài đã
đến được ngằn mé tận và vô tận. Còn chúng ta thì khác, chỉ nhìn được có một
khúc thôi, không biết vô lượng là cái gì, không biết được cái tận đi vào cái vô
tận, như chúng ta không nhìn thấy được con sông lúc nhập vào biển cả… Nhưng chư
Đại BồTát thì khác, các ngài đã nhìn lên được chỗ ngằn mé của nó.
Kinh:
Trụ ở ngằn mé, phổ biến
nhập vào ngằn mé chân thiện.
Giảng:
Phổ biến tức là tất cả
pháp, tức là vô lượng. Khi thấy tất cả pháp vô lượng đều rơi vào cái không đó,
thì sẽ thấy được rõ tất cả. Trong Đại Thừa Khởi Tín, ngài Mã Minh nói rằng, khi
một vị Bồ Tát chỉ thấy được niệm trụ, niệm dị, niệm diệt mà chưa thấy được niệm
sanh thì chưa thấy được ngằn mé của tận và vô tận. Còn phàm phu chúng ta thì
chỉ thấy các niệm đã trụ và hiện tướng rồi, chứ không thể biết
được những niệm lúc sanh, tức là lúc nó khởi lên từ chân không. Phải lên đến Bồ
Tát đệ bát địa mới có thể biết được…
Kinh:
Lúc đó, chư Đại Bồ Tát
được bất tư nghì chánh pháp quang minh…
Giảng: Sau khi chư Phật dùng tâm đại bi cho tất cả chúng Đại Bồ
Tát vào được tam muội bất tư nghi này rồi, tức là trông thấy được tất cả pháp
giới, lúc này ngài Văn Thù Sư Lợi mới xuất hiện, ngài xuất hiện cũng chỉ để nói
một bài kệ thôi…
Kinh:
Các ngài đến rừng Thệ
Đa…
Giảng: Đại khái đoạn này ngài tán thán sức thần lực của chư
Phật, thì lúc đó Thiện Tài mới xuất hiện.
Kinh:
…Bấy giờ ngài Văn Thù Sư
Lợi Bồ Tát sau khi nói kệ rồi từ Thiện Trụ Lâu Các đi ra cùng vô lượng Bồ Tát
đồng hạnh và các thần Kim Cang thường theo thị vệ… Các túc hành thần từ
lâu phát kiên thệ nguyện thường tùy tùng theo ngài…, các chủ địa thần thích
nghe diệu pháp, các chủ thủy thần thương tu đại bi, các chủ hỏa thần chiếu
quang minh trí sáng, (những vị này tu theo
Bát Nhã), các chủ phong thần Ma Ni làm mão, các chủ dạ thần chuyên cần
diệt trụ vô minh hắc ám…
Giảng:
Trong phẩm này ta nên để
ý đến các chủ dạ thần, vì có nhiều vị thị hiện làm người nữ, mà chủ dạ thần
tượng trưng cho Bát Nhã, thường dạy chúng ta về trí huệ.
Kinh:
Các chủ trú thần xiển
minh Phật nhựt, nhất tâm không lười.
Giảng:
Chủ trú thần là những vị
coi ban ngày, còn chủ dạ thần là những vị coi ban đêm.
Kinh:
Các chủ không thần trang
nghiêm pháp giới tất cả hư không, các chủ sơn thần thường siêng chứa nhóm thiện
căn trợ đạo cao như núi, xu hướng nhất thiết trí, các chủ thành thần thường
siêng gìn giữ thành Bồ Đề Tâm của tất cả chúng sinh.
Giảng:
Đừng tưởng rằng các chủ
thành thần là các ngài thường là những vị thần giữ thành trì đâu, mà là giữ cái
thành Bồ Đề Tâm cho chúng sanh. Bởi vậy nên việc phát Bồ Đề Tâm rất quan trọng,
người đã phát Bồ Đề Tâm rồi luôn luôn có các vị thiện thần hộ trì cho, vì Bồ Đề
Tâm là Nhập Pháp Giới là nền tảng của đạo Phật.
Kinh:
Các đại long vương
thường siêng gìn giữ pháp thành vô lượng nhất thiết chủng trí…
Giảng:… (bỏ một đoạn nói đến các chủ thần…)
Kinh bắt đầu tả ngài Văn
Thù Sư Lợi ra đi về phía cửa Nam, tức là đi về cõi nhân gian. Ta cũng nên nhắc
lại ý nghĩa về “phía Nam” trong kinh. Theo như Mạn Đà La của Mật Tông, bao giờ
cũng bắt đầu từ phương Đông đi xuống phương Nam sang phương Tây rồi lên phương
Bắc, sau cùng mái đi vào giữa trung tâm. Phương Bắc tượng trưng cho sự tịch
diệt, tức là gần đến chỗ Niết Bàn rồi, chỗ đó tượng trưng cho chữ ÚM. Ở phương
Bắc có đức Phật Thiên Cổ Như Lai, gọi là Thiên Cổ Như Lai vì vị Phật này có
tiếng nói như giọng sâm ù ì của mùa đông, về mùa đông, tuy cái gì cũng rét mướt
và mang một khung cảnh chết, nhưng tiếng sấm ù ì đó như quẻ “chấn” trong kinh
Dịch, làm khởi lên tất cả mọi mầm sống, giống như sau một giấc ngủ dài lại khởi
lên mầm sống mới. Còn phương Nam tượng trưng cho buổi trưa, vạn vật đã sung
mãn, như sức nóng nhất của ánh sáng mặt trời. Còn phương Tây là tượng trưng cho
sự độ trì viên mãn của đức Phật A Di Đà. Đó là theo Mạn Đà La của Mật Tông. Vì
thế ngài Văn Thù Sư Lợi đi về phương Nam, về chỗ phát khởi đại bi viên mãn.
Thiện Tài về sau cũng đi về phương Nam, về chỗ đại bi.
Chúng ta cũng cần lưu ý
thêm về đoạn “... Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử Bồ Tát từ thiện trụ lâu các đi ra
cùng vô lượng vô số Bồ Tát đồng hạnh và các thần kim cang thường theo hộ vệ...”
Thiện trụ tức là giữ tâm mình chẳng có chẳng không, giữ tâm cân bằng giữa sắc
và không, đó là điều chúng ta cần phải nhớ…
Kinh:
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát cùng những chúng Bồ Tát công đức trang nghiêm như vậy ra khỏi chỗ mình ở,
đồng đến chỗ đức Phật, hữu nhiễu đức Thế Tôn vô lượng vòng. Dâng các món
cúng dường lên đức Phật. Cúng dường xong từ tạ Phật rồi đi qua phương Nam đến
trong nhơn gian…
Giảng:
Hữu nhiễu tức khởi tâm
đại bi đồng thời cũng có nghĩa rằng: Con xin phép đức Phật xuống nhân gian để
độ sanh. Và khi ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đến xin đức Phật đi về phương Nam
các vị Bồ Tát khác đều trông thấy cả, riêng các vị Thanh Văn không trông thấy
chỉ trừ ngài Xá Lợi Phất…
Kinh:
Lúc đó Tôn Giả Xá Lợi
Phất thừa thần lực của Phật thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng chúng hội Bồ Tát
trang nghiêm ra khỏi rừng Thệ Đa qua phương Nam du hành nhơn gian…
Giảng:
Ngài Xá Lợi Phất trông
thấy được vì do sức Phật gia trì. Nên chúng ta cũng phải hiểu rằng, ngài Thiện
Tài tự sức cũng trông thấy đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thì ngài là bậc tu chứng
cao rồi. Vì nếu so sánh, ngài Xá Lợi Phất đã đắc được quả A La Hán, tức là đã
chớm được vào đến không hải của thức ấm mà còn phải nhờ sức gia trì của Phật
mới nhìn thấy được ngài Văn Thù. Sau khi ngài Văn Thù xuất hiện thì có một số
vị tăng chạy theo, trong đó có ngài Xá Lợi Phất…
Kinh:
Ngài Xá Lợi Phất bèn
nghĩ rằng: Tôi nay nên theo ngài Văn Thù Sư Lợi qua phương Nam…
Giảng: Ý ngài Xá Lợi Phất muốn theo ngài Văn Thù Sư Lợi qua
phương Nam nhưng không hiểu vì sao sau này lại không thấy trong kinh nhắc đến
ngài nữa…
Kinh:
Nghĩ xong Tôn Giả Xá Lợi
Phất cùng sáu ngàn Tỳ Kheo đồng rời chỗ mình ở đến chỗ Đức Phật đảnh lễ chân
Phật rồi bạch ý muốn Đức Phật hứa khả. Các ngài hữu nhiễu đức Phật ba vòng từ
tạ đi đến chỗ ngài Văn Thù Sư Lợi.
Giảng:
Trong kinh nói ngài Văn
Thù Sư Lợi hữu nhiễu đức Phật vô lượng vòng, nhưng ngài Xá Lợi Phất và sáu ngàn
Tỳ Kheo chỉ hữu nhiễu ba vòng thôi. Vì sao? Vì cái tâm đại bi của các ngài còn
rất mỏng.
Kinh:
Sáu ngàn Tỳ Kheo này vốn
cùng ở chung với Tôn Giả Xá Lợi Phất xuất gia chưa lâu, những là Hải Giác
Tỳ Kheo, Thiện Sanh Tỳ Kheo v.v… những Tỳ Kheo này đã từng cúng dường vô lượng
Phật, trồng sâu căn lành, sức hiểu biết rộng lớn, tin nhãn sáng suốt, tâm lượng
rộng rãi, quán Phật cảnh giới, rõ pháp bổn tánh, lợi ích chúng sanh, thường cần
cầu công đức của chư Phật… Những Tỳ Kheo này đều do ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
thuyết pháp giáo hóa mà được thành tựu…
Giảng:
Sở dĩ sáu ngàn vị Tỳ Kheo này đi theo là vì có cơ duyên
cũ, trong nhiều kiếp, ngài Văn Thù đã thuyết pháp giáo hóa cho các vị Tỳ Kheo
này nghe rồi.
Kinh:
Ngài Xá Lợi Phát quán
sát rồi bảo Giác Hải Tỳ Kheo rằng: Giác Hải nên quán sát thân thanh tịnh tướng
tốt trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tất cả hàng nhơn thiên chẳng nghĩ
bàn được. Giác Hải nên quan sát viên quang chói sáng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
làm chỗ vô lượng chúng sanh phát tâm hoan hỷ…
Giảng:
Ngài Xá Lợi Phất khuyên các vị Tỳ Kheo nên quán sát ngài
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, vì càng quán sát bao nhiêu càng tăng thêm thiện căn bấy
nhiêu.
Kinh:
Bấy giờ Tôn Giả Xá Lợi
Phất vì chư Tỳ Kheo mà tán thán khai thị diễn thuyết ngài Văn Thù Sư Lợi đồng
tử có vô lượng công đức trang nghiêm như vậy, chư Tỳ Kheo nghe xong tâm ý thanh
tịnh, tin hiểu vững chắc. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát quay lại như tượng vương xoay
mình lại các Tỳ Kheo.
Giảng:
Kinh hay tả các chư Phật
và chư Đại Bồ Tát mỗi lần xoay mình như tượng vương vậy, tức là cả đầu và mình
đều xoay lại, không như phàm phu chúng ta, chỉ có ngoái cổ lại nhìn mà thôi.
Kinh:
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo Giác Hải Tỳ Kheo rằng, chư Tỳ Kheo, nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhân thành tựu mười hạnh xu hướng pháp đại thừa thời có thể mau nhập Như Lai địa, huống là Bồ Tát địa.
Đây là mười hạnh:
1. Chứa nhóm tất cả thiện căn lòng không mỏi nhàm.
2. Thấy tất cả Phật kính thờ cúng dường lòng không mỏi nhàm.
3. Cầu tất cả Phật pháp lòng không mỏi nhàm.
4. Thật hành tất cả hạnh Ba la mật lòng không mỏi nhàm.
5. Thành tựu tất cả Bồ Tát tam muội lòng không mỏi nhàm.
6. Thứ đệ nhập tất cả tam thế lòng không mỏi nhàm.
7. Nghiêm tịnh khắp mười phương cõi Phật lòng không mỏi nhàm.
8. Giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh lòng không mỏi nhàm.
9. Ở trong tất cả cõi tất cả kiếp thành tựu hạnh Bồ Tát lòng
không mỏi nhàm.
10. Vì thành tựu một chúng sanh mà tu hành tất cả Phật sát vi trần số Ba la mật, thành tựu Như Lai thập lực. Thứ đệ như vậy, vì thành thục tất cả chúng sanh giới mà thành tựu Như Lai tất cả trí lực lòng không mỏi nhàm.
Giảng:
Ý ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát dạy rằng, các ông đi theo con đường Bồ Tát đạo, làm tất cả các hạnh không
bao giờ được khởi tâm mỏi nhọc, nhàm chán, dù là hạnh gì. cũng vậy, bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định v.v…
Kinh:
…(Bỏ một đoạn kinh…) Chư
Tỳ Kheo, nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhân thành tựu lòng thâm tín Phật mười
hạnh lòng không mỏi nhàm này thời có thể trưởng dưỡng tất cả thiện căn, rời bỏ
tất cả những loại sanh tử, vượt thoát khỏi tất cả chủng tánh thế gian, chẳng sa
vào hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật…, trụ diệt tất cả phiền não, nhập Bồ Tát địa,
gần Như Lai địa…
Lúc đó chư Tỳ Kheo nghe
pháp này rồi thời được tam muội tên là vô ngại nhẫn (tức đã mở được tâm nhãn) có thể ghi nhớ trước sau
mười dời tất cả chúng sanh, có thể ghi nhớ những sự trong mười kiếp quá khứ,
mười kiếp vị lai của các thế giới đó. Cũng có thể ghi nhớ chư Như Lai do mười
lần bổn sanh sự, mười lần thành chánh giác. Chư Tỳ Kheo này liền thành tựu mười
ngàn Bồ Đề Tâm…
Giảng:
Chúng ta nên nhớ con số
mười có nghĩa là tượng trưng cho một số nhiều. Sau khi các Tỳ Kheo nghe pháp
xong, tâm thức các ngài tăng trưởng ghê gớm, sau đó, kinh không nói đến các vị
này theo ngài Văn Thù nữa, có lẽ thấy ngài Văn Thù dạy đủ rồi…
Kinh:
Lúc đó Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát khuyên các Tỳ Kheo trụ hạnh Phổ Hiền. Trụ hạnh Phổ Hiền rồi nhập biển đại
nguyện. Nhập biển đại nguyện rồi thành tựu biển đại nguyện, Vì thành tựu biển
đại nguyện nên được tâm thanh tịnh. Vì tâm được thanh tịnh nên thân được thanh
tỉnh. Vì thân thanh tịnh nên thân nhẹ nhàng nhặm lẹ. Vì thân thanh tịnh nhẹ
nhàng nhặm lẹ nên được đại thần thông không còn thối chuyển. Vì được thần thông
nên chẳng rời dưới chân của ngài Văn Thù Sư Lợi, đều hiện thân mình khắp tất cả
chỗ của chư Phật mười phương. Thành tựu đầy đủ tất cả Phật pháp…
Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát khuyên dạy sáu ngàn Tỳ Kheo phát Bồ Đề Tâm rồi, lần lượt đi về phía Nam,
trải qua nhân gian đến phía Đông Phước Thành, ở trong rừng trang nghiêm tràng
Ta La, chỗ đại pháp miếu mà chư Phật thủa xưa từng ngự giáo hóa chúng sanh…
Giảng:
Đến chỗ nhân gian ở làng
Phước Thành, trong kinh bao giờ cũng có hai nghĩa, có một chỗ gọi là Phước
Thành thực, đồng thời cũng chĩ rằng những người ở đó đều có phúc đức lớn…
Kinh:
…Rừng này thường được sự
thủ hộ cúng dường của chư thiên, long, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la,
khẩn na la, ma hầu la già, nhơn cùng phi nhơn. Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
và các quyến thuộc đến rừng trang nghiêm tràng Ta La rồi liền ở tại đó nói khế
kinh Phổ-Chiếu-Pháp-Giới cùng với trăm vạn ức na-đo-tha khế kinh.
Giảng:
Các quyến thuộc tức là
các vị túc hành thần, chủ dạ thần… ở đây, ngài Văn Thù Sư Lợi nói kinh cho các
vị chủ thần vương chứ chưa có người dự…
Kinh:
Khi nói kinh này, trong
đại hải có vô lượng trăm ngàn ức chư long đến nghe kinh, nghe kinh xong chư
long đều chán thân loài rồng…
Giảng:
Mặc dù làm loài rồng
cũng có rất nhiều phước báo thần thông, nhưng sau khi nghe kinh xong, các vị
này không còn thích làm thân rồng nữa mà khởi tâm muốn tu lên, phát Bồ Đề Tâm
để cầu nhập pháp giới.
Kinh:
Vì chán thân loài rồng
nên đều phát tâm cầu Phật đạo, đều xả thân rồng sanh vào loài người hoặc cõi
trời. Một muôn chư long đều chẳng thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác.
Giảng:
Trong kinh, tả có cả
muôn vị rồng xả thân ngay để được sanh trong chư thiên hoặc cõi người, ở cõi
người có một điểm hơn loài rồng là tuy không có phước báo và châu ngọc nhiều
như loài rồng, cũng không có thần thông, nhưng lại có trí huệ để có thể phát Bồ
Đề Tâm.
Kinh:
Lúc đó người Phước Thành
hay tin ngài Văn Thù Sư Lợi ở đại tháp miếu trong rừng trang nghiêm tràng Ta La,
vô lượng người ra khỏi thành đi đến rừng. Có Ưu Bà Tắc tên là Đại Trí cùng
quyến thuộc năm trăm Ưu Bà Tắc như là…, (bỏ một đoạn nói về tên của các vị ưu Bà Tắc). Lại có năm trăm Đồng
Tử như là Thiện Tài, Thiện Hạnh, Thiện Giới, Thiện Oai Nghi, Thiện Dũng Mãnh,
Thiện Ty, v.v… lại có năm trăm Đồng Nữ như là Thiện Hiền, Đại Trí Cư Sĩ Nữ v.v…
và Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di…
Giảng:
Trong kinh nhiều chỗ
không nói rõ là người xuất gia hay tại gia, vì tùy theo tâm người đọc, chứ kinh
không bao giờ nói một cách khẳng định cả.
Hỏi: Xin ông cho biết
trong sáu nẻo luân hồi, rồng thuộc về loại nào?
Đáp: Tuy là có thần thông và nhiều phước báo, nhưng rồng vẫn
bị xếp hạng vào loại súc sanh, nhưng là bàng sanh, đặc biệt ờ bàng sanh thì
nhiều phước báo, vẫn còn nhiều dâm dục và thích ngủ, trí huệ lại kém. Vì có
nhiều phước báo nên được một ít thần thông, một ít sanh đắc thông và có nhiều
châu ngọc. Rồng có thể thọ bát quan trai giới được, nhưng chỉ có thể đắc thiện
căn thôi, chứ không thể đắc giới được.
Hỏi: Từ xưa đến giờ,
chưa có một người nào được thấy một con rồng bằng xương bằng thịt, nếu ông xếp
nó thuộc vào loại súc sanh, thì nó cũng giống như những con vật khác, nghĩa là
cũng phải mang một cái thân máu thịt đáng lý mọi người phải thấy chứ, sao không
nghe có ai thấy cả?
Đáp: Súc sanh cũng có nhiều thứ, có những loại tuy gọi là súc
sanh nhưng không mang thân máu mủ. Dụ như loài A Tu La cũng có nhiều lớp, có
loại trên trời, có loại dưới bể, có loại ở nhân thế, và có loại ờ trong
ngạ quỉ nữa, mà con mắt thịt của loài người chỉ nhìn thấy được những loài súc
sanh có thân máu thịt thôi, ngoài ra còn những thứ súc sanh khác chúng ta không
thấy được.
Hỏi: Có thực là loài
rồng cũng có thể đi thọ bát quan trai giới được không?
Đáp: Thì trong kinh có
nói, một hôm có một vị sư mách với đức Phật rằng, có một con rồng đi thọ bát
quan trai giới, (chẳng nói đâu xa, cụ Tuyên Hóa ở Cali này, cụ cũng nói rằng cụ
có một số đệ tử là rồng). Thì đức Phật bảo rằng, rồng có thể thọ được bát quan
trai giới, nhưng chỉ tăng được thiện căn thôi mà không thể đắc giới được, muốn
đắc giới cần phải có trí huệ, phải hiểu các giới.
Hỏi: Như vậy chắc con
rồng không có hình tướng nên mọi người tưởng tượng ra một hình dáng nhất định
nào đó gọi là rồng, chứ nếu không có thân máu mủ như ông vừa nói thì làm gì có
hình tướng, còn nếu có hình tướng thì phải có thân máu mủ chứ, vậy thì ông giải
thích ra sao về những hình vẽ của rồng ngày nay? Tưởng tượng hay có thân máu
mủ?
Đáp: Bây giờ xin hỏi ông, chư thiên có thân máu mủ không?
Hỏi: Ở đây, tôi đang hỏi
về rồng chứ có nói đến chư thiên đâu, vì ông vừa bảo nó là loài súc sanh kia
mà, mà nếu làm thân súc sanh thì dứt khoát nó phải có thân máu mủ, như vậỵ nó
mới có hình tướng thì người ta mới vẽ lại được chứ?
Đáp: Ông nên nhớ một điều là chúng sanh không nhất thiết phải
có một thân máu mủ. Dụ như loài địa ngục, ngạ quỉ đâu có thân máu mủ. Vì rồng
có phước báo rất nhiều nên nó không còn thân máu mủ nữa, nó có một cái thân hào
quang nhưng thấp thôi.
Hỏi: Vậy người ta căn cứ
vào đâu để tạc hình con rồng bây giờ?
Đáp: Là vì chúng ta, cả ông lẫn tôi đều chỉ có hai con mắt
thịt, nên không trông thấy, và không tin có một loài gọi là loài rồng, nhưng
ngày xưa nhiều vị có thiên nhãn họ nhìn thấy và vẽ lại cho chúng ta xem. Vì
vậy, phải hiểu rằng, trong pháp giới này không có cái gì là không có được. Lối
lập luận của ông cũng đúng đấy, nhưng đó là lối nhìn của thế nhân, lấy nhục
nhãn để nhìn sự vật. Nhưng không phải tất cả những vật chúng ta không nhìn thấy
có nghĩa là không có, và cũng không nên trụ vào nhục nhãn nhiều, vì như thế sẽ
cản trở con đường tu của mình, vì sao? Vì có tin vào những nhãn trên mới phải
tu, vì tin vào sự biến hiện của diệu tâm mới phải tu, vì tin vào huyễn hóa mới
phải tu.
Kinh:
Ngài Văn Thù Sư Lợi Đồng
Tử biết người Phước Thành đều đã đến đông đủ, tùy tâm sở thích của họ mà hiện
thân tự tại ánh sáng rực rỡ chói lấp đại chúng.
Giảng:
Ngài ngồi đó, dân chúng
không trông thấy ngài mà chỉ thấy một vùng hào quang sáng chói. Cũng như ngài
Long Thọ nhập “Nguyệt Luân Tam Muội,” dân chúng không thấy được thân ngài mà
chỉ thấy hiện lên một vừng trăng tròn lấp lánh. Thì ở đây, ngài Văn Thù Sư Lợi
cũng thế, nhưng trong kinh không nói rõ đó là nguyệt luân tam muội.
Kinh:
Lại dùng đại từ tự tại
làm cho họ thanh lương, dùng đại bi tự tại khởi tâm thuyết pháp, dùng trí huệ
tự tại biết tâm sở thích của họ, dung biệt tài quảng đại sắp vì họ mà thuyết
pháp.
Giảng:
“Dùng đại từ tự tại làm
cho họ thanh lương…” tức dùng tâm đại từ để cho những người chung quanh cảm
thấy mát mẻ. Trong khi ngài Văn Thù hiện hào quang lấp lánh thì ngài nhìn ngắm
Thiện Tài…
Kinh:
Lúc đó ngài lại quán sát
Thiện Tài Đồng Tử do cớ gì mà có tên như vậy…
Giảng:
Tài có nghĩa bóng là bảy
thánh tài, tức là giới tâm, tín tâm, định tâm, huệ tâm, tàm tâm, quý tâm, v.v…
Vì Thiện Tài tu tập công
đức sâu dày nên có bảy thứ báu đó.
Kinh:
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát biết Đồng Tử này lúc mới nhập thai, trong nhà tự nhiên hiện ra lâu các thất
bửu. Dưới lâu các đó có bảy phục tạng. Trên phục tạng đất tự nứt ra mọc
lên nanh thất bửu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, trân châu, xà cừ, mã não…
Giảng:
Phước đức của Thiện Tài
lớn đến mức độ lúc sanh, đất nứt ra và có nanh thất bửu trồi lên, không phải
hoang đường đâu, đúng thật là như vậy. Cũng như chúng ta đây, có người sinh ra
trong nhung lụa, có kẻ sinh ra trong nhà hạ tiện, bần hàn v.v… đều tùy theo
phước báo của mình cả. Vì suy luận như vậy, nên tất cả những gì trong kinh nói
đều có thể xảy ra được, nhưng vì thời này là thời mạt pháp nên ít ai có đủ
phước để có những chuyện như thế xảy ra, do vậy mà đôi khi chúng ta khởi lòng
nghi mà không chịu tin.
Kinh:
Ngài Văn Thù Sư Lợi lại
biết Thiện Tài đã từng cúng dường quá khứ chư Phật, gieo sâu căn lành, tin hiểu
rộng lớn, thường thích gần gũi các thiện tri thức. Thân ngữ ý đều không lỗi
lầm, tu Bồ Tát đạo, cầu nhất thiết trí, thành Phật pháp khí. Tâm Đồng Tử này
thanh tịnh như hư không, hồi hướng Bồ Đề không chướng ngại…
Giảng:
Vì tâm Thiện Tài thanh
tịnh như hư không, hồi hướng Bồ Đề không chướng ngại, nên ta phải hiểu rằng,
Thiện Tài đã đi gần hết bậc thập hồi hướng rồi, mà tâm thanh tịnh như hư không
tức là đã gần vào được đến không hải. Trong kinh thường tả ở không hải cũng có
nhiều mức độ thanh tịnh, tu càng sâu thì càng vào đến mức độ thanh tịnh tột
bực, tức là vào đến tột không cũng là ngằn mé của diệu hữu.
Kinh:
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát quán sát Thiện Tài như vậy rồi, liền an ủy chỉ dạy tất cả Phật pháp. Những
là nói pháp tích tập của tất cả Phật, pháp tương tục của tất cả Phật. Pháp thứ
đệ của tất cả Phật. Pháp chúng hội thanh tịnh của tất cả Phật. Pháp pháp luân
hóa đạo của tất cả Phật…
Giảng:
Bây giờ đã hết giờ rồi,
ta nên tạm ngưng ở đây, sẽ tiếp theo kỳ sau…
ĐẠI
PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA
NGHIÊM KINH
Phẩm
Nhập Pháp Giới
Thứ ba
mươi chín
Hán Dịch:
Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch:
Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
Bấy giờ chư đại Bồ Tát, đại đức Thanh Văn, những chủ thế gian
và quyến thuộc đều nghĩ rằng : cảnh giới của Như Lai, trí hạnh của Như Lai, gia
trì của Như Lai, lực của Như Lai, vô úy của Như Lai, tam muội của Như Lai, sở
trụ của Như Lai, tự tại của Như Lai, thân của Như Lai, trí của Như Lai, tất cả
thế gian chư Thiên cùng người đời không thông đạt được, không xu nhập được,
không tín giải được, không rõ biết được, không nhẫn thọ được, không quán sát
được, không giảng trạch được, không khai thị được, không tuyên minh được. Không
ai có thể làm cho chúng sanh hiểu rõ. Chỉ trừ sức gia bị của Chư Phật, sức thần
thông của Phật, sức oai đức của Phật, sức bổn nguyện của Phật, và sức thiện căn
đời trước của họ, sức nhiếp thọ của thiện tri thức, sức tinh tín sâu, sức minh
giải lớn, sức tâm thanh tịnh xu hướng Bồ đề, sức nguyện rộng lớn cầu nhứt thiết
trí. Cúi xin đức Thế Tôn tùy thuận chúng tôi và những dục giải của các chúng
sanh, những trín những ngôn ngữ, những tự tại, những trụ đại, những căn thanh
thịnh, những ý phương tiện, những tâm cảnh giới, những y chỉ công đức của Như
Lai, những pháp đã được nghe thọ của chúng tôi và các chúng sanh mà hiển thị
đức Như Lai : thuở xưa xu cầu tâm Nhứt thiết trí, thuở xưa phát khởi đại nguyện
Bồ Tát, thuở xưa tu tịnh, những môn Ba La Mật, thuở xưa đã nhập những bực Bồ
Tát, thuở xưa viên mãn những hạnh Bồ Tát, thuở xưa thành tựu phương tiện, thuở
xưa tu hành những đạo, thuở xưa chứng được pháp xuất ly, thuở xưa đã làm những
sự thần thông, thuở xưa đã có bổn sự nhơn duyên, đến thành Ðẳng Chánh Giác,
chuyển diệu pháp luân, tịnh Phật quốc độ, điều phục chúng sanh, mở thành pháp Nhứt
thiết trí, chỉ đường tất cả chúng sanh, thọ sự cúng dường của tất cả chúng
sanh, vì tất cả chúng sanh mà nói công đức bố thí, vì tất cả chúng sanh mà hiện
ảnh tượng của Chư Phật. Những pháp như vậy, xin đức Phật vì chúng tôi mà giải
thuyết.
Bấy giờ đức Thế Tôn biết tâm niệm của chư Bồ Tát, liền dùng
đại bi làm thân, đại bi làm môn, đại bi làm đầu, dùng pháp đại bi mà làm phương
tiện, đầy khắp hư không, nhập sư tử tần thân tam muội.
Khi đức Thế Tôn nhập tam muội này rồi, tất cả thế gian đều
khắp nghiêm tịnh.
Liền đó, lâu các đại trang nghiêm bỗng nhiên rộng rải không có
ngằn mé, kim cang làm đất, bửu vương che phía trên, vô lượng bửu hoa và những
châu ma ni rải đầy khắp trong lầu, lưu ly làm cột, các thứ báu hiệp thành,
trang nghiêm với đại quang ma ni, vàng diêm phù đàn, như ý bửu vương trùm khắp
phía trên nghiêm sức. Lầu cao thành dãy, đường gác kèm bên. Kèo máy thừa nhau,
cửa nghạch chói nhau. Thềm, bực, hiên, bao lơn đều đầu đủ. Tất cả đều trang
nghiêm với diệu bửu. Những bửu ấy đều là hình tượng nhơn thiên, kiên cố đẹp lạ
đệ nhứt thế gian. Lưới báu ma ni che khắp phía trên. Bên cửa đều dựng tràng
phan, đều phóng quang minh cùng khắp giới. Ngoài đạo tràn, thềm cấp lan can
nhiều vô lượng không thể kể nói, đều bằng ngọc ma ni.
Lúc đó lại do thần lực của Phật, rừng Thệ Ða bỗng nhiên rộng
rãi đồng với bất khả thuyết Phật sát vi trần số quốc độ. Tất cả diệu bửu xen
lẫn trang nghiêm. Bất khả thuyết bửu trải khắp mọi nơi. Vô số bửu làm tường
rào. Cây đa la báu trang nghiêm bên đường.
Trong rừng lại có vô lượng hương hà, đầy những nước thơm sóng
gợn xoay quanh. Tất cả hoa báu theo dòng chuyển về phía hửu, tự nhiên diễn ra
âm thanh Phật pháp. Bất tư nghì bạch liên hoa báu búp nở thơm tho giăng bày
trên mặt nước. Những cây bông báu trồng hàng bên bờ sông. Bất tư nghì những
đài, nhà mát xếp hàng trên bờ sông, lưới báu ma ni che trùm. Vô số báu phóng
đại quang minh. Ðốt những diệu hương mùi thơm ngào ngạt.
Lại dựng vô lượng bửu tràng. Những là : bửu hương tràng, bửu y
tràng, bửu phan tràng, bửu thắng tràng, bửu hoa tràng, bửu anh lạc tràng, bửu
man tràng, bửu linh tràng, ma ni bửu cái tràng, đại ma ni bửu tràng, quang minh
biến chiếu ma ni bửu tràng, xuất nhứt thiết Như Lai danh hiệu âm thanh ma ni
vương tràng, sư tử ma ni vương tràng, thuyết nhứt thiết Như Lai bổn sự hải ma
ni vương tràng, hiện nhứt thiết pháp giới ảnh tượng ma ni vương tràng. Những
bửu tràng này bày hàng trang nghiêm cùng khắp mười phương.
Bấy giờ trong hư không trên rừng Thệ Ða có bất tư nghì thiên
cung điện vân, Vô số hương thọ vân, bất khả thuyết Tu Di sơn vân, bất khả
thuyết kỹ nhạc vân phát ra tiếng hay diệu ca ngợi đức Như Lai, bất khả thuết
bửu liên hoa vân, bất khả thuyết bửu tòa vân trải thiên y Bồ Tát ngồi trên đó
ca ngợi công đức của Phật, bất khả thuyết thiên vương hình tượng ma ni bửu vân,
bất khả thuyết bạch chơn châu vân, bất khả thuyết xích châu lâu các trang
nghiêm cụ vân, bất khả thuyết vũ kim cang kiên cố châu vân. Những bửu vân này
đều dừng ở hư không bao vòng cùng khắp để trang nghiêm.
Tại sao vậy ?
Vì thiên căn của đức Như Lai bất tư nghì. Vì bạch pháp của đức
Như Lai bất tư nghì. Vì oai lực của đức Như Lai bất tư nghì. Vì đức Như Lai có
thể dùng một thân tự tại biến hóa khắp tất cả thế giới bất tư nghì. Vì đức Như
Lai có thể dùng thần lực làm cho tất cả Phật và Phật quốc trang nghiêm đều nhập
vào thân mình bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một vi trần hiện khắp
ảnh tượng tất cả pháp giới bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ
lông thì hiện quá khứ tất cả chư Phật bất tư nghì. Vì đức Như Lai tùy phóng mỗi
một quang minh đều có thể chiếu khắp tất cả thế giới bất tư nghì. Vì đức Như
Lai có thể ở trong một lỗ lông phát ra tất cả Phật sát vi trần số biến hóa vân
đầy khắp tất cả chư Phật quốc độ bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một
lỗ lông hiện khắp tất cả thế giới mười phương : thành trụ hoại kiếp bất tư
nghì.
Như ở tại rừng Thệ Ða vườn cấp Cô Ðộ thấy Phật quốc thanh tịnh
trang nghiêm, mười phương tất cả pháp giới hư không giới, tất cả thế giới cũng
đều thấy như vậy.
Những là thấy thân đức Như Lai ở rừng Thệ Ða, chúng hội Bồ Tát
thảy đều cùng khắp. Thấy khắp nơi mưa những mây trang nghiêm. Thấy khắp nơi mưa
những mây bửu quang minh chiếu sáng. Thấy khắp nơi mưa những mây ma ni bửu.
Thấy khắp nơi mưa những mây lọng trang nghiêm che trùm cõi Phật. Thấy khắp nơi
mưa những mây thiên thân. Thấy khắp nơi mưa những mây hoa thọ. Thấy khắp nơi
mưa những mây y thọ. Thấy khắp nơi mưa những mây bửu man anh lạc nối tiếp chẳng
dứt cùng khắp tất cả đại địa. Thấy khắp nơi mưa những mây đồ trang nghiêm. Thấy
khắp nơi mưa những mây thơm hình chúng sanh. Thấy khắp nơi mưa những mây lưới
hoa báu vi diệu tiếp nỗi chẳng ngớt. Thấy khắp nơi mưa những mây chư Thiên nữ
cầm tràng phan báu đi qua lại ở trong hư không. Thấy khắp nơi mưa những mây bữu
liên hoa, ở trong cánh hoa tự nhiên phát ra những tiếng nhạc. Thấy khắp nơi mưa
những mây tòa sư tử lưới báu anh lạc dùng trang nghiêm.
Lúc đó phương Ðông qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số
thế giới hải, có thế giới tên là Kim Ðăng Vân Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Tỳ
Lô Giá Na Thắng Ðức Vương.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Tỳ Lô Giá Na
Nguyện Quang Minh, cùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát câu hội đến
chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện những lùm mây : mây thiên hoa, mây thiên
hương, mây thiên mạt hương, mây thiên man, mây thiên bửu, mây thiên trang
nghiêm cụ, mây thiên bửu cái, mây thiên vi diệu y, mây thiên bửu tràng phan,
mây những diệu bửu trang nghiêm đầy dẫy hư không.
Ðến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật. Liền ở nơi
phương Ðông hóa làm lâu các bửu trang nghiêm và tòa sư tử bửu liên hoa tạng
chiếu khắp mười phương. Lưới như ý bửu choàng trên thân. Rồi cùng quyến thuộc
ngồi kiết già trên đó.
Phương Nam qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế
giới hải, có thế giới tên là Kim Cang Tạng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Quang
Minh Vô Thắng Tạng Vương.
Trong chúng hội của đức Phật đó, có Bồ Tát hiệu là Bất Khả
Hoại Tinh Tấn Vương, cùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát câu hội đến
chỗ đức Phật, đồng cầm những lưới bửu hương, những bửu anh lạc, những bữu hoa
đới, những bửu man đới, những kim cang anh lạc, những lưới bửu ma ni, những bửu
y đới, những bửu anh lạc đới, những thắng quang minh ma ni đới, những sư tử ma
ni bửu anh lạc. Ðều dùng thần lực làm cho những bửu vật trên đầy khắp tất cả
thế giới hải.
Ðến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật. Liền ở nơi
phương Nam hóa làm lâu các biến chiếu thế gian ma ni bửu trang nghiêm, và tòa
sư tử phổ chiếu thập phương bửu liên hoa tạng. Dùng những lưới bửu hoa choàng
trên thân, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên đó.
Phương Tây qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế
giới hải, có thế giới tên là Ma Ni Bửu Ðăng Tu Di Sơn Tràng. Ðức Phật nơi đó
hiệu là Pháp Giới Trí Ðăng.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Phổ Thắng Vô
Lượng Oai Ðức Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ
Ðức Phật. Ðều dùng thần lực hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số những hương
thoa, hương thắp, mây Tu Di sơn, những mây Tu Di sơn hương thủy nhiều màu,
những mây Tu Di sơn quang minh ma ni bửu vương, những mây Tu Di sơn quang diệm
luân trang nghiêm tràng, những mây Tu Di sơn kim cang tạng ma ni vương trang
nghiêm nhiều màu, những mây Tu Di sơn diêm phù đàn ma ni bửu tràng chiếu khắp
tất cả thế giới, những mây Tu Di sơn ma ni bửu hiện tất cả pháp giới, những mây
Tu Di sơn ma ni bửu vương hiện tất cả chư Phật tướng hảo, những mây Tu Di sơn
ma ni bửu vương hiện bổn sự nhơn duyên của chư Phật nói tất cả công hạnh tu
hành của chư Bồ Tát, những mây Tu Di sơn ma ni bửu vương hiện tất cả Phật ngồi
Bồ đề đề tràng. Những mây này đầy khắp pháp giới.
Ðến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở
phương Tây hóa lâu các nhứt thiết hương vương, lưới báu chơn châu giăng trùm trên
đó, và hóa toà sư tử bửu liên hoa tạng tràng bóng Thiên Ðế, dùng lưới ma ni
diệu sắc choàng nơi thân, trên đầu trang nghiêm với mão tâm vương bửu, cùng các
quyến thuộc ngồi kiết già trên trên tòa đó.
Phương Bắc qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế
giới, có thế giới tên là Bửu Y Quang Minh Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Chiếu
Hư Không Pháp Giới Ðại Quang Minh. Trong chúng hội của Ðức Phật đó, có Bồ Tát
hiệu là Vô Ngại Thắng Tạng Vương cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội
đồng đến chỗ đức Phật đều dùng thần lực hiện những mây bửu y. Những là mây bửu
y quang minh màu vàng, những mây bửu y ướp hương, mây bửu y nhựt tràng ma ni
vương, mây bửu y kim sắc xí nhiên ma ni, những mây bửu y quang diệm, những mây
bửu y ma ni thượng diệu tượng tinh tú, những mây bửu y ma ni bạch ngọc quang,
những mây bửu y ma ni thù thắng quang minh biến chiếu, những mây bửu y ma ni
oai thế quang minh biến chiếu, những mây bửu y ma ni trang nghiêm hải. Những
mây bửu y này đầy khắp hư không.
Khi đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật, liền ở
phương Bắc hóa làm lâu các ma ni bửu hải trang nghiêm, và toà sư tử liên hoa
tạng tỳ lưu ly bửu. Dùng lưới ma vi vương sư tử oai đức choàng trên thân. Dùng
bửu vương thanh tịnh minh châu trang nghiêm trên đầu. Cùng chư quyến thuộc ngồi
kiết già trên tòa đó.
Phương Ðông Bắc qua khởi bất khả thyuết Phật sát vi trần số
thế giới, có thế giới tên là Nhất Thiết Hoan Hỉ Thanh Tịnh Quang Minh Võng. Ðức
Phật nơi đó hiệu là Vô Ngại Nhãn.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Hoá Hiện
Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng
đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện mây lâu các báu, mây lâu các hương,
mây lâu các hương đốt, mây lâu các hoa, mây lâu các chiên đàn, mây lâu các kim
cang, mây lâu các ma ni, mây lâu các huỳnh kim, mây lâu các bửu y, mây lâu các
liên hoa, che khắp thế giới mười phương.
Khi đã đến chỗ Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở
phương Ðông Bắc hóa làm lâu các đại ma ni pháp giới môn, và tòa sư tử liên hoa
tạng vô đẳng hương vương, dùng lưới ma ni hoa choàng trên thân, đội mão diệu
bửu tạng ma ni vương, cùng chư quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Phương Ðông Nam qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số
thế giới, có thế giới hiệu là Hương Vân Trang Nghiêm Tràng. Ðức Phật nơi đó
hiệu là Long Tự Tại Vương.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là pháp Huệ
Quang Diệm Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức
Phật, đều dùng thần lực hiện mây kim sắc viên mãn quang minh, mây vô lượng bửu
sắc viên mãn quang minh, mây Như Lai hào tướng viên mãn quang minh, mây những
bửu sắc viên mãn quang minh, mây liên hoa tạng viên mãn quang minh, mây bửu thọ
chi viên mãn viên quang minh, mây Như Lai đảnh kế viên mãn quang minh, mây diêm
phù đàn kim sắc viên mãn quang minh, mây nhựt sắc viên mãn quang minh, mây tinh
nguyệt sắc viên mãn quang minh, đầy khắp hư không.
Ðến chỗ đức Phật rồi Chư Bồ Tát đảnh lể chân đức Phật, liền ở
Phương Ðông Nam hóa làm Lâu các tỳ lô giá na tối thượng bửu quang minh, và tòa
sư tử kim cang ma ni liên hoa tạng lưới bửu quang diệm ma ni vương choàng trên
thân, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Phương Tây Nam qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế
giới, có thế giới tên là Nhựt Quang Ma Ni Tạng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ
Chiếu Chư Pháp Trí Nguyệt Vương.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Tồi Phá Nhứt
Thiết Ma Quân Trí Tràng Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội,
đồng đến chỗ đức Phật. Ở trong tất cả lỗ lông hiện ra mây hoa diệm khắp hư
không giới, mây hương diệm, mây bửu diệm, mây kim cang diệm, mây thiêu hương
diệm, mây điển quang diệm, mây tỳ lô giá na ma ni bửu diệm, mây nhứt thiết kim
quang diệm, mây thắng tạng ma ni vương quang diệm, mây đồng tam thế Như Lai hải
quang diệm, mỗi mỗi đều từ những lỗ lông hiện ra khắp hư không giới.
Khi đã đến chỗ đức Phật chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền
ở phương Tây Nam hóa làm lưới phổ hiện thập phương pháp giới quang minh lâu các
đại ma ni bửu, và tòa sư tử hương đăng diệm bửu liên hoa tạng, dùng lưới ly cấu
tạng ma ni choàng trên thân, đội mảo xuất nhứt thiết chúng sanh phát thu âm ma
ni vương nghiêm sức, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Phương Tây Bắc qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế
giới, có thế giới tên là Tỳ Lô Giá Na Nguyện Ma Ni Vương Tạng.
Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Quang Minh Tối Thắng Tu Di Vương.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Nguyện Trí
Quang Minh Tràng, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức
Phật. Trong khoảng mỗi niệm, nơi tất cả tướng hảo, tất cả lỗ lông, tất cả thân
phần đều hiện ra mây hình tượng tất cả tam thế Như Lai, mây hình tượng tất cả
Bồ Tát, mây hình tượng chúng hội của tất cả Như Lai, mây hình tượng thân biến
hoá của tất cả Như Lai, mây hình tượng thân bổn sanh của tất cả Như Lai, mây
hình tượng tất cả Thanh văn, Bích Chi Phật, mây hình tượng Bồ đề tràng của tất
cả Như Lai, mây hình tượng thần biến của tất cả Như Lai, mây hình tượng tất cả
thế gian chủ, mây hình tượng tất cả quốc độ thanh tịnh, đầy khắp hư không.
Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật, liền ở
phương Tây Bắc hóa làm lâu các ma ni bửu trang nghiêm phổ chiếu thập phương và
toà sư tử bửu liên hoa tạng phổ chiếu thế giang. Dùng lưới chơn châu vô năng
thắng quang minh choàng trên thân, đội mão phổ quang minh ma ni bửu, cùng các
quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Hạ phương qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế
giới, có thế giới tên là Nhứt Thiết Như Lai Viên Mãn Quang Phổ Chiếu. Ðức Phật
nơi đó hiệu là Hư Không Vô Ngại Tướng Trí Tràng Vương.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Phá Nhứt
Thiết Chướng Dũng Mãnh Trí Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội
đồng đến chỗ đức Phật. Trong tất cả lỗ lông hiện ra mây âm thanh nói ngữ ngôn
hải của tất cả chúng sanh mây âm thanh nói tu hành phương tiện hải của tất cả
tam thế Bồ Tát, mây âm thanh nói phát nguyện phương tiện hải của tất cả Bồ Tát,
mây âm thanh nói tất cả Bồ Tát thành mãn thanh tịnh Ba la mật phương tiện hải,
mây âm thanh nói tất cả Bồ Tát viên mãn hạnh khắp tất cả cõi, mây âm thanh nói
tất cả Bồ Tát thành tựu tự tại dụng, mây âm thanh nói tự tại dụng của tất cả
Như Lai qua ngồi đạo tràng phá chúng ma quân thành Ðẳng Chánh Giác, mây âm
thanh nói tất cả Như Lai chuyển pháp luân khế kinh : môn danh hiệu hải, mây âm
thanh nói tất cả pháp phương tiện hải tùy cơ giáo hóa đều phục chúng sanh, mây
âm thanh nói tất cả phương tiện hải tùy thời tùy thiện căn tùy nguyện lực khiến
khắp chúng sanh chứng được trí huệ.
Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chư Phật, liền ở
Hạ phương hóa làm lâu các chúng bửu trang nghiêm hiện hình tượng cung điện của
tất cả Như Lai, và toà sư tử bửu liên hoa tạng, đội mão phổ hiện đạo tràng ảnh
ma ni bửu, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên toà đó.
Thượng phương qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế
giới hải, có thế giới tên là Thuyết Phật Chủng Tánh Vô Hữu Tận. Ðức Phật nơi đó
hiệu là Phổ Trí Luân Quang Minh Âm.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Pháp Giới
Sai Biệt Nguyện, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức
Phật Thích Ca Mâu Ni. Nơi tất cả tướng hảo, tất cả lỗ lông, tất cả thân phần,
tất cả chi tiết, tất cả đồ trang nghiêm, tất cả y phục hiện ra tất cả chư Phật
quá khứ như đức Tỳ Lô Giá Na v.v… tất cả chư Phật vị lai hoặc đã được thọ ký
hay chưa được thọ ký, hiện tại mười phương tất cả quốc độ tất cả chư Phật và
chúng hội. Cũng hiện ra những bổn sự hải thật hành Ðàn Ba la mật và tất cả
người thọ bố thí thuở quá khứ. Cũng hiện ra những bổn sự hải thật hành Thi Ba
la mật thuở quá khứ. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ thật hành nhẫn
nhục Ba La mật cắt dứt chi thể tâm không động loạn. Cũng hiện những bổn sự hải
thuở quá khứ thật hành Tinh tấn Ba la mật dũng mãnh bất thối. Cũng hiện những
bổn sự hải thuở quá khứ cầu Như Lai Thiền Ba la mật hải mà được thành tựu. Cũng
hiện những bổn sự hải thuở quá khứ cầu chư Phật chuyển pháp luân mà được thành
tựu pháp phát tâm dũng mãnh tất cả đều xả bỏ. Cũng hiện những bổn sự hải thuở
qúa khứ thích thấy chư Phật, thích hành Bồ Tát đạo, thích giáo hoá chúng sanh.
Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ những Bồ Tát đại nguyện thanh tịnh
trang nghiêm. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ chư Bồ Tát thanh lực Ba
la mật dũng mãnh thanh tịnh. Cũng hiện những bổ sự hải thuở quá khứ tất cả Bồ
Tát tu viên mãn trí Ba la mật. Tất cả những bổ sự hải như vậy thảy đều đầy khắp
quảng đại pháp giới.
Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật,
liền ở Thượng phương hóa làm lâu các kim cang tạng trang nghiêm, và toà sư tử
liên hoa tạng đế thanh kim cang vương, dùng lưới bửu quang minh ma ni vương
choàng trên thân dùng ma ni bửu vương diễn thuyết tam thế Như Lai danh hiệu làm
minh châu trên mão, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Mười phương tất cả Bồ Tát và quyến thuộc đều từ trong hạnh
nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát mà sanh, dùng trí nhãn thanh tịnh thấy tam thế Phật,
khắp nghe tu đa la hải của chư Phật chuyển pháp luân, đã được đến nơi tất cả Bồ
Tát tự tại bĩ ngạn. Trong mỗi niệm hiện đại thần biến. Gần gũi tất cả chư Phật
Như Lai. Một thân đầy khắp tất chúng hội đạo tràng của tất cả Như Lai trong tất
cả thế giới. Trong mỗi vi trần, hiện khắp tất cả cảnh giới thế gian. Giáo hóa
thành tựu tất cả chúng sanh chưa từng lỗi thời. Trong một lỗ lông phát ra âm
thanh thuyết pháp của tất cả Như Lai. Biết tất cả chúng sanh thảy đều như
huyễn. Biết tất cả đức Phật thảy đều như ảnh. Biết tất cả loài thọ sanh thảy
đều như mộng. Biết tất cả nghiệp báo thảy đều như tượng trong gương. Biết tất
cả những gì có sanh khởi thảy đều như ánh nắng gắt. Biết tất cả thế giới đều
như biến hóa. Thành tựu Thập lực vô uý của đức Như Lai. Dũng mãnh tự tại hay sư
tử hống. Vào sâu trong biển cả vô tận biện tài. Ðược ngôn từ hải của tất cả
chúng sanh. Những pháp trí nơi hư không pháp giới, việc làm vô ngại. Biết tất
cả pháp không chướng ngại. Tất cả Bồ Tát thần thông cảnh giới đều đã thanh
tịnh. Dũng mãnh tinh tấn xô dẹp ma quân. Hằng dùng trí huệ thấu rõ tam thế. Biết
tất cả pháp dường như hư không, chẳng có nghịch trái cũng không chấp lấy. Dầu
siêng tinh tấn mà biết nhứt thiết trí trọn không chỗ đến. Dầu quán cảnh giới mà
biết tất cả những gì có đều là bất khả đắc. Dùng trí phương tiện nhập tất cả
pháp giới. Dùng trí bình đẳng nhập tất cả quốc độ. Dùng sức tự tại khiến tất cả
thế giới xoay vần nhập nhau. Xứ xứ thọ sanh trong tất cả thế giới. Thấy những
loại hình tướng của tất cả thế giới. Nơi cảnh vi tế hiện cõi quảng đại. Nơi
cảnh quảng đại hiện cõi vi tế. Nơi một chỗ đức Phật, trong khoảng một niệm được
tất cả đức Phật oai thần gia hộ. Thấy khắp mười phương không bị mê lầm. Trong
khoảng sát na đều có thể qua đến.
Tất cả Bồ Tát có công đức trí huệ vô biên như vậy ngồi đầy
trong rừng Thệ Ða. Ðây là nương thần lực của đức Như Lai.
Lúc đó chư thượng thủ đại Thanh Văn các Trưởng lão : Xá Lợi
Phất, Ðại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ly Bà Ða, Tu Bồ Ðề, A Nâu Lâu Ðà, Na
Ðà, Kiếp Tân Na, Ca Chiên Diên, Phú Lâu Na v.v… Chư đại Thanh Văn này ở tại
rừng Thệ Ða mà đều chẳng thấy thần lực của Như Lai. Chẳng thấy sự nghiêm hảo
của Như Lai. Chẳng thấy cảnh giới của Như Lai. Chẳng thấy sự du hí của Như Lai.
Chẳng thấy sự thần biến của Như Lai. Chẳng thấy sự tôn thắng của Như Lai. Chẳng
thấy sự diệu hạnh và oai đức của Như Lai. Chẳng thấy sự trụ trì của Như Lai.
Chẳng thấy cõi thanh tịnh của Như Lai. Lại cũng chẳng thấy cảnh giới Bồ Tát bất
tư nghì, Bồ Tát đại hội, Bồ Tát phổ nhập, Bồ Tát phổ chí, Bồ Tát phổ nghệ, Bồ
Tát thần biến, Bồ Tát du hí, Bồ Tát quyến thuộc, Bồ Tát phương sở, Bồ Tát trang
nghiêm sư tử tòa, Bồ Tát cung điện, Bồ Tát trụ xứ, Bồ Tát nhập tam muội tự tại,
Bồ Tát quán sát, Bồ Tát tần thân, Bồ Tát dũng mãnh, Bồ Tát cúng dường, Bồ Tát
thọ ký, Bồ Tát thành thục, Bồ Tát dũng kiện, Bồ Tát pháp thân thanh tịnh, Bồ
Tát trí thân viên mãn, Bồ Tát nguyện thân thị hiện, Bồ Tát sắc thân thành tựu,
Bồ Tát tướng hảo cụ túc thanh tịnh, Bồ Tát quang minh thường nhiều màu trang
nghiêm, Bồ Tát phóng lưới đại quang minh, Bồ Tát khởi mây biến hóa, Bồ Tát thân
khắp mười phương, Bồ Tát các hạnh viên mãn. Những sự như vậy, tất cả Thanh Văn
đại A La Hán thảy đều không thấy.
Tại sao vậy ?
Vì thiện căn chẳng đồng. Vì vốn không tu tập thiện căn thấy
Phật tự tại. Vì vốn chẳng khen nói công đức thanh tịnh của tất cả Phật độ ở
mười phương. Vì vốn chẳng ca ngợi những thần biến của chư Phật Thế Tôn. Vì vốn
chẳng ở trong sanh tử phát tâm Vô thượng Bồ đề. Vì vốn chẳng làm cho kẻ khác
phát tâm Bồ đề. Vì vốn chẳng có thể làm cho chủng tánh Như Lai không đoạn
tuyệt. Vì vốn chẳng nhiếp thọ chúng sanh. Vì vốn chẳng khuyên kẻ khác tu hạnh
Ba La mật của Bồ Tát. Vì lúc ở trong sanh tử lưu chuyển, vốn chẳng khuyên bảo
chúng sanh cầu đại trí nhãn tối thắng. Vì vốn chẳng tu tập thiện căn phát sanh
Nhứt thiết trí. Vì vốn chẳng thành tựu thiện căn xuất thế của Như Lai. Vì vốn
chẳng được trí thần thông nghiêm tịnh Phật độ. Vì vốn chẳng được cảnh sở tri
của Bồ Tát nhãn. Vì vốn chẳng cầu những thiện căn siêu xuất thế gian bất cộng
Bồ đề. Vì vốn chẳng phát Bồ Tát đại nguyện. Vì sanh ra vốn chẳng từ sự gia bị
của đức Như Lai. Vì vốn chẳng biết tất cả pháp như huyễn, chư Bồ Tát như mộng.
Vì vốn chẳng được sự hoan hỷ quảng đại của chư đại Bồ Tát. Những điều trên đây
đều là cảnh giới trí nhãn Phổ Hiền Bồ Tát chẳng cùng chung với tất cả hàng Nhị
thừa. Do cớ này, nên chư đại Thanh văn không thấy được, chẳng biết được, chẳng
nghe được, chẳng nhập được, chẳng chứng được, chẳng niệm được, chẳng quán sát
được, chẳng tính lường được, chẳng tư duy được, chẳng phân biệt được. Thế nên
dầu cũng ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy được những đại thần biến của Như
Lai.
Lại vì chư đại Thanh Văn không có thiện căn như vậy, không có
trí nhãn như vậy, không có tam muội như vậy, không có giải thoát như vậy, không
có thần thông như vậy, không có oai đức như vậy, không có thế lực như vậy,
không có tự tại như vậy, không có trụ xứ như vậy, không có cảnh giới như vậy,
vì thế nên ở nơi đây không biết được không thấy được, không nhập được, không
chứng được, không trụ được không hiểu được, không quán sát được, không nhẫn thọ
được, không xu hướng được, không noi theo được.
Lại cũng vì chẳng có thể vì người khác mà khai diễn giải
thoát, tán thán thị hiện dắt dìu khuyến tấn, cho họ xu hướng, cho họ tu tập,
cho họ an trụ, cho họ chứng nhập.
Tại sao vậy ? Vì chư đại đệ tử y theo Thanh Văn thừa mà xuất
ly, thành tựu Thanh Văn đạo, đầy đủ Thanh Văn hạnh, an trụ Thanh Văn qủa. Nơi
chơn đế vô hữu được quyết định trí, trụ luôn nơi thiệt tế rốt ráo tịch tịnh,
lìa xa đại bi, bỏ các chúng sanh an trụ nơi việc của mình. Nơi trí huệ kia
chẳng chứa nhóm được, chẳng tu hành được, chẳng an trụ được, chẳng nguyện cầu
được, chẳng thành tựu được, chẳng thanh tịnh được, chẳng xu nhập được, chẳng
thông đạt được, chẳng thấy biết được, chẳng chứng đắc được. Vì thế nên dầu ở
trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy được thần biến quảng đại của đức Như Lai.
Chư Phật tử ! Như ở bờ sông Hằng, có trăm ngàn ức vô lượng ngạ
quỷ lõa lồ đói khát, khắp mình lửa cháy. Những quạ, kên kên, chó sói đua nhau
rượt bắt. Các ngạ quỷ này vì quá khát muốn tìm nước uống, nhưng dầu ở bên sông
mà chẳng thấy nước. Cũng có kẻ thấy sông nhưng lại thấy khô cạn.
Tại sao vậy ? Vì các ngạ quỷ này bị nghiệp chướng sâu nặng che
mờ.
Cũng vậy, chư đại Thanh Văn dầu đến ở trong rừng Thệ Ða mà
chẳng thấy thần lực quảng đại của đức Như Lai. Vì bỏ Nhứt thiết chủng trí, bị
màn vô minh che loà đôi mắt. Vì chẳng từng gieo trồng những thiện căn Nhứt
thiết chủng trí.
Ví như có người ở giữa đại hội ngủ say chiêm bao thấy trên
đảnh núi Tu Di, Thiên Ðế ngự nơi thành Thiện Kiến, cung điện vườn cây các thứ
nghiêm tốt. Ngàn muôn ức Thiên Tử Thiên nữ. Thiên hoa rải khắp mọi nơi. Những y
thọ sanh ra y phục đẹp. Những hoa thọ đơm nở hoa đẹp. Những âm nhạc thọ trổi
thiên âm nhạc. Những thiên thể nữ ca ngâm tiếng tốt. Vô lượng chư thiên ở trong
đó vui chơi. Người nằm mộng này tự thấy mặc thiên y đi dạo khắp Thiên cung.
Ở trong đại hội tất cả mọi người dầu đồng ở một chỗ mà chẳng
thấy chẳng biết cảnh giới Thiên cung như vậy.
Cũng vậy, tất cả Bồ Tát vì từ lâu chứa nhóm thiện căn, vì phát
nguyện quảng đại cầu Nhứt thiết chủng trí, vì học tập tất cả Phật công đức, vì
tu hành đạo trang nhgiêm của Bồ Tát, vì viên mãn pháp Nhứt thiết chủng trí, vì
đầy đủ những hạnh nguyện Phổ Hiền, vì xu nhập trí địa của tất cả Bồ Tát, vì du
hí những tam muội sở trụ của tất cả Bồ Tát, vì đã có thể quán sát Cảnh giới trí
huệ của tất cả Bồ Tát không chướng ngại. Do đây nên đều thấy thần biến tự tại
bất tư nghì của Như Lai Thế Tôn.
Tất cả Thanh Văn đều chẳng thấy được, đều chẳng biết được, vì
không có thanh tịnh nhãn của Bồ Tát.
Ví như núi Tuyết đủ những dược thảo. Lương y đến đó đều có thể
phân biệt biết. Còn những thợ săn, những người chăn súc vật thường ở trên đó mà
chẳng thấy biết được thuốc.
Ðây cũng như vậy, bởi chư Bồ Tát nhập trí cảnh giới đủ sức tự
tại, có thể thấy thần biến quảng đại của đức Như Lai.
Chư Thanh Văn đại đệ tử chỉ cầu tự lợi chẳng muốn lợi tha, chỉ
cầu tự an chẳng muốn an tha, nên dầu ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy chẳng
biết.
Ví như trong đất có mỏ thất bảo. Nhà bác học trí huệ sáng suốt,
có thể khéo phân biệt biết thấy những mõ báu đó. Người này có đại phước đức nên
tùy ý lấy dùng tự tại : Phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp kẻ nghèo bịnh cơ hàn cô
độc.
Những người không trí huệ không phước đức dầu cũng đến chỗ mõ
báo mà chẳng biết chẳng thấy chẳng được lợi ích.
Cũng vậy, chư đại Bồ Tát có trí nhãn thanh tịnh có thể nhập
cảnh giới thậm thâm bất tư nghì, thấy được thần lực của Phật, nhập được các
pháp môn, du hành được tam muội hải, hay cúng dường chư Phật, hay dùng chánh
pháp khai ngộ chúng sanh, hay dùng Tứ nhiếp pháp nhiếp thọ chúng sanh.
Chư đại Thanh Văn chẳng thấy được thần lực của Chư Phật, cùng
chẳng thấy được chúng Bồ Tát.
Ví như người mù đến chỗ châu bảo, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc
ngồi, hoặc nằm vẫn chẳng thấy được châu bảo. Vì không thấy nên không lấy được,
chẳng dùng được.
Ðây cũng như vậy, chư đại đệ tử Thanh Văn dầu ở rừng Thệ Ða
thân cận đức Thế Tôn mà chẳng thấy thần lực tự tại của đức Thế Tôn, cũng chẳng
thấy được đại hội Bồ Tát, vì không có tịnh nhãn vô ngại của đại Bồ Tát, nên
chẳng có thể thứ đệ ngộ nhập pháp giới thấy thần lực tự tại của đức Như Lai.
Ví như có người được thanh tịnh nhãn gọi là ly cấu quang minh,
tất cả màu tối không làm chướng được. Bấy giờ ở trong đêm tối có vô lượng ức
người, hoăc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hình tướng oai nghi. Người này
ở trong đại chúng đó đều thấy biết rõ ràng. Còn đại chúng đó lại không thấy
biết oai nghi tấn thối của người minh nhãn này.
Cũng vậy, đức Phật thành tựu trí nhãn thanh tịnh vô ngại thấy
rõ tất cả thế gian.
Ðức Phật thị hiện thần thông biến hóa, chúng đại Bồ Tát câu
hội. Hàng đại đệ tử Thanh Văn đều chẳng thấy được.
Ví như Tỳ Kheo ở giữa đại chúng nhập biến xứ định. Những là
địa biến xứ định, thủy biến xứ định, hỏa biến xứ định, phong biến xứ định,
thanh biến xứ định, huỳnh biến xứ định, xích biến xứ định, bạch biến xứ định,
thiên biến xứ định, chúng sanh thân biến xứ định, ngữ ngôn âm thanh biến xứ
định, cảnh duyên biến xứ định. Người nhập định này thấy những cảnh đó. Những
người khác không thấy được. Chỉ trừ người trụ trong chánh định này.
Cũng vậy, đức Như Lai hiện Phật cảnh giới bất tư nghì, Bồ Tát
thấy cả, Thanh Văn chẳng thấy.
Ví có người dùng thuốc ẩn thân tự thoa lên mắt, ở trong chúng
hội tới lui ngồi đứng, không ai thấy được. Người này thời thấy tất cả những sự
trong đại chúng.
Cũng vậy, đức Như Lai siêu quá thế gian, thấy khắp thế gian.
Chẳng phải hàng Thanh Văn thấy được. Chỉ trừ chư đại Bồ Tát xu hướng cảnh giới
Nhứt thiết trí.
Như người khi đã sanh ra thời có hai Thiên thần hằng theo kề.
Một Thiên thần hiệu Ðồng Sanh. Một Thiên thần hiệu Ðồng Danh. Thiên thần thường
thấy người. Người thời chẳng thấy được Thiên thần.
Cũng vậy đức Như Lai ở trong đại hội Bồ Tát hiện đại thần
thông. Chư đại Thanh Văn đều chẳng thấy được.
Ví như Tỳ Kheo được tâm tự tại nhập diệt tận định, sáu căn
chẳng hiện hành, chẳng hay chẳng biết tất cả ngữ ngôn. Vì định lực chấp trì nên
chẳng nhập diệt.
Cũng vậy, tất cả đại Thanh Văn dầu ở tại rừng Thệ Ða, đủ cả
sáu căn mà đối với những sự tự tại của Như Lai cùng chúng hội Bồ Tát, chẳng
biết chẳng thấy, chẳng hay chẳng nhập.
Tại sao vậy ? Vì cảnh giới của đức Như Lai thậm thâm quảng
đại, khó thấy, khó biết, khó suy, khó lường. Siêu xuất thế gian chẳng thể nghĩ
bàn, chẳng gì làm hoại được. Chẳng phải cảnh giới của hàng Nhị thừa. Vì thế nên
Như Lai tự tại thần lực và chúng hội Bồ Tát cùng rừng Thệ Ða, cùng khắp tất cả
thanh tịnh thế giới. Những sự như vậy, chư đại Thanh Văn đều chẳng thấy biết,
vì họ chẳng phải căn khí này.
Lúc đó, Tỳ Lô Giá Na Nguyện Quang Minh Bồ Tát, thừa Phật thần
lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Các ngài nên quán sát
Phật đạo bất tư nghì
Nơi rừng Thệ Ða này
Thị hiện thần thông lực.
Oai thần lực của Phật
Biến hiện vô ương số
Tất cả các thế gian
Mê lầm chẳng rõ được.
Pháp vương pháp thâm diệu
Vô lượng khó nghĩ bàn
Hiện ra những thần thông
Thế gian chẳng lường được.
Vì biết pháp vô tướng
Thế nên gọi là Phật
Mà đủ tướng trang nghiêm
Xưng dương chẳng kể hết.
Nay ở trong rừng này
Thị hiện đại thần lực
Rất sâu vô biên lượng
Ngôn từ không biện được.
Ngài xem đại oai đức
Vô lượng chúng Bồ Tát
Mười Phương những quốc độ.
Mà đến thấy Thế Tôn.
Chỗ nguyên đều đầy đủ
Chỗ làm không chướng ngại
Tất cả các thế gian
Không ai suy lường được.
Tất cả chư Duyên Giác
Và đại Thanh Văn kia.
Thảy đều chẳng biết được
Bồ Tát hạnh cảnh giới.
Bồ Tát đại trí huệ
Các địa đều rốt ráo
Dựng cao tràng dũng mãnh
Khó xô khó động được.
Những bực Ðại Danh xưng
Vô lượng tam muội lực
Hiện ra những thần biến
Pháp giới đều sung mãn.
Bấy giờ, Bất Khả Hoại Tinh Tấn Vương Bồ Tát thừa Phật thần
lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Ngài xem các Phật tử
Trí tuệ tạng công đức
Rốt ráo hạnh Bồ đề
An ổn các thế gian.
Tâm Ngài vốn minh đạt
Khéo nhập những tam muội
Trí huệ vô biên tế
Cảnh giới không lường được.
Nay rừng Thệ Ða này
Mọi sự đều nghiêm sức
Chúng Bồ Tát vân tập
Thân cận bên Như Lai
Ngài xem vô lượng chúng
Những bực vô sở trước
Mười phương đến chỗ này
Ngồi toà bửu liên hoa.
Không đến cũng không ở
Không dựa không hí luận
Tâm ly cấu vô ngại
Rốt ráo nơi pháp giới
Kiến lập tràng trí huệ
Kiên cố chẳng động lay
Biết pháp không biến hoá
Mà hiện sự biến hoá
Mười phương vô lượng cõi
Tất cả chỗ chư Phật
Ðồng thời đều qua đến
Mà cũng chẳng phân thân
Ngài xem Thích Sư Tử
Sức thần thông tự tại
Hay khiến chúng Bồ Tát
Tất cả đều đến họp
Tất cả những Phật pháp
Pháp giới đều bình đẳng
Ngôn thuyết nên chẳng đồng
Chúng này đều thông đạt.
Chư Phật thường an trụ
Pháp giới bình đẳng tế
Diễn nói pháp sai biệt
Ngôn từ vô cùng tận.
Bấy giờ, Phổ Thắng vô Thượng Oai Ðức Vương Bồ Tát thừa Phật
thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Ngài xem vô thượng Sĩ
Trí quảng đại viên mãn
Khéo đạt thời phi thời
Vì chúng diễn thuyết pháp.
Xô dẹp chúng ngoại đạo
Tất cả những dị luận
Khắp tùy tâm chúng sanh
Vì hiện thần thông lực
Chánh Giác chẳng hữu lượng
Cũng lại chẳng vô lượng
Hoặc lượng, hoặc vô lượng
Mâu Ni đều siêu việt.
Như mặt nhựt trên không
Soi đến tất cả xứ
Phật trí cũng như vậy
Rõ thấu tam thế pháp.
Ví như chính đêm rằm
Vầng trăng không thiếu khuyết
Như Lai cũng như vậy
Bạch pháp đều viên mãn.
Như mặt nhựt trên không
Vận hành không tạm ngừng
Như Lai cũng như vậy
Thần biến thường tương tục.
Như mười phương quốc độ
Hư không chẳng chướng ngại
Thế đăng hiện biến hóa
Nơi thế cũng như vậy
Ví như đất thế gian
Chỗ nương của muôn loại
Chiếu thế đăng pháp luân
Làm chỗ nương cũng vậy
Ví như gió lốc mạnh
Thổi đi không chướng ngại
Phật pháp cũng như vậy
Mau khắp ở thế gian.
Ví như đại thủy luân
Thế giới nương trên đó
Trí huệ luân cũng vậy
Chỗ nương của chư Phật.
Bấy giờ, Vô Ngại Thắng Tạng Vương Bồ Tát thừa thần lực của
Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Ví như đại bửu sơn
Lợi ích các hàm thức
Phật sơn cũng như vậy
Lợi ích khắp thế gian.
Ví như, đại hải thủy
Ðứng sạch không nhơ bợn
Thấy Phật cũng như vậy
Trừ được những khát ái
Ví như, Tu Di sơn
Ở ngay giữa đại hải
Thế Gian Ðăng cũng vậy
Có từ nơi pháp hải.
Như biển đủ châu báu
Người cầu đều đầy đủ
Vô sư trí cũng vậy
Người thấy đều khai ngộ.
Như Lai trí thậm thâm
Vô lượng cũng vô số
Thế nên thần thông lực
Thị hiện khó nghĩ bàn
Ví như, nhà huyễn giỏi
Thị hiện những sự vật
Phật trí cũng như vậy
Hiện những tự tại lực.
Ví như, như ý bửu
Hay thỏa mãn ý muốn
Ðấng tối thắng cũng vậy
Làm mãn nguyện thanh tịnh
Ví như, minh tịnh bửu
Chiếu khắp tất cả vật
Phật trí cũng như vậy
Chiếu khắp tâm quần sanh.
Ví như, bát diện bửu
Soi khắp cả các phương
Vô Ngại Ðăng cũng vậy
Chiếu khắp cả pháp giới
Ví như, thủy thanh châu
Hay làm trong nước đục
Thấy Phật cũng như vậy
Sáu căn đều thanh tịnh.
Bấy giờ, Hóa Hiện Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương Bồ Tát thừa
Phật thần lực quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Ví như đế thanh bửu
Hay làm xanh các màu
Người thấy Phật cũng vậy
Ðều phát hạnh Bồ đề.
Trong mỗi mỗi vi trần
Phật hiện thần thông lực
Khiến vô lượng vô biên
Bồ Tát đều thanh tịnh
Sức thậm thâm vi diệu
Vô biên chẳng thể biết
Cảnh giới của Bồ Tát
Thế gian chẳng lường được.
Ðức Như Lai hiện thân
Tướng thanh tịnh trang nghiêm
Vào khắp những pháp giới
Thành tựu các Bồ Tát
Nan tư Phật quốc độ
Trong đó thành Chánh giác
Tất cả chư Bồ Tát
Thế chủ đều đầy dẫy.
Ðấng Thích Ca vô thượng
Nơi pháp đều tự tại
Thị hiện thần thông lực
Vô biên chẳng lường được.
Bồ Tát những công hạnh
Vô lượng cùng vô tận.
Như Lai tự tại lực
Vì Bồ Tát mà hiện
Phật tử khéo tu học
Những pháp giới thậm thâm
Thành tựu trí vô ngại
Biết rõ tất cả pháp.
Thiện thệ oai thần lực
Vì chúng chuyển pháp luân
Thần biến khắp sung mãn
Khiến thế gian thanh tịnh.
Như Lai trí viên mãn
Cảnh giới cũng thanh tịnh
Ví như đại Long Vương
Giúp khắp các quần sanh.
Bấy giờ, Pháp Huệ Quang Diệm Vương Bồ Tát, thừa thần lực của
Ðức Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Tam thế chư Như Lai
Thanh Văn đại đệ tử
Ðều chẳng biết được Phật
Sự cất chân hạ chân.
Quá khứ, hiện, vị lai
Tất cả hàng Duyên Giác
Cũng chẵng biết Như Lai
Sự cất chân hạ chân
Huống là các phàm phu
Kiết sử luôn buộc ràng
Vô minh che tâm thức
Mà biết được Ðạo Sư
Chánh Giác trí vô ngại
Siêu quá đường ngữ ngôn
Lượng kia chẳng lường được
Có ai thấy biết được.
Ví như minh nguyệt sáng
Không lường biên tế được
Phật thần thông cũng vậy
Chẳng thấy chung tận được,
Mỗi mỗi những phương tiện
Niệm niệm chỗ biến hoá
Ðều trong vô lượng kiếp
Tư duy chẳng biết được
Suy gẫm nhứt thiết trí
Pháp chẳng thể nghĩ bàn
Mỗi mỗi môn phương tiện
Chẳng biết được biên tế.
Nếu ai ở pháp này
Mà phát nguyện rộng lớn
Ở nơi cảnh giới này
Thấy biết chẳng khó lắm.
Dũng mãnh siêng tu tập
Biển pháp lớn khó nghĩ
Tâm đó không chướng ngại
Vào môn phương tiện này.
Tâm ý đã đều phục
Chí nguyện cũng rộng rãi
Sẽ được đại Bồ đề
Cảnh giới rất tối thắng.
Bấy giờ, phá Nhứt Thiết Ma Quân Trí Tràng Vương Bồ Tát thừa
thần lực của đức Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Trí thân chẳng phải thân
Vô ngại khó nghĩ bàn,
Dầu có ai nghĩ bàn
Tất cả không đến được.
Từ bất tư nghì nghiệp
Khởi thân thanh tịnh này
Thù đặc diệu trang nghiêm
Chẳng chấp nơi ba cõi
Quang Minh chiếu tất cả
Pháp giới đều thanh tịnh
Nghe Phật Bồ đề môn
Xuất sanh những trí huệ.
Như mặt nhựt thế gian
Phóng ánh sáng trí huệ
Xa rời những trần cấu
Diệt trừ tất cả chướng.
Thanh tịnh khắp ba cõi
Tuyệt hẳn dòng sanh tử
Thành tựu đạo Bồ đề
Xuất sanh Vô Thượng Giác.
Thị hiện vô biên sắc
Sắc này không sở y
Sở hiện dầu vô lượng
Tất cả bất tư nghì.
Bồ đề khoảng một niệm
Hay giác ngộ các pháp
Sao lại muốn nghĩ lường
Như Lai trí biên tế.
Một niệm đều thấu rõ
Tất cả pháp tam thế
Nên nói Phật trí huệ
Vô tận cũng vô hoại.
Người trí phải như vậy
Chuyên gẫm Phật Bồ đề
Gẫm này khó nghĩ bàn
Suy đó chẳng thể được
Bồ đề không thể nói
Siêu quá đường ngữ ngôn
Chư Phật từ đây sanh
Pháp này khó nghĩ bàn.
Bấy giờ Nguyện Trí Quang Minh Tràng Vương Bồ Tát, thừa thần
của đức Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Nếu khéo quán sát được
Bồ đề vô tận hải
Thời lìa được niệm si
Quyết định thọ trì pháp.
Nếu được tâm quyết định
Thời hay tu diệu hạnh
Thiền tịch tự tư lự
Dứt hẳn những nghi hoặc.
Tâm đó chẳng mỏi mệt
Lại cũng chẳng biến lười
Lần lượt tăng tấn tu
Rốt ráo những Phật pháp
Tín trí đã thành tựu
Niệm niệm khiến tăng trưởng
Thường thích thường quán sát
Pháp vô đắc vô y.
Vô lượng ức ngàn kiếp
Tu những công đức hạnh
Tất cả đều hồi hướng
Ðạo vô thượng của Phật.
Dầu ở nơi sanh tử
Mà tâm không nhiễm trước
An trụ trong Phật pháp
Thường thích Như Lai hạnh.
Những sự có thế gian
Những pháp uẩn, xứ giới
Tất cả đều bỏ lìa
Chuyên cầu Phật công đức.
Phàm phu bị mê lầm
Thường lưu chuyển thế gian
Bồ Tát tâm vô ngại
Cứu họ được giải thoát.
Bồ Tát hạnh khó nói
Thế gian chẳng suy được
Trừ khắp tất cả khổ
Khắp ban quần sanh vui.
Ðã được Bồ đề trí
Lại thương các chúng sanh
Quang Minh chiếu thế gian
Ðộ thoát tất cả chúng.
Bấy giờ, Phá Nhứt Thiết Chướng Dũng Mãnh Trí Vương Bồ Tát,
thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Vô lượng ức ngàn kiếp
Phật danh khó được nghe
Huống lại được thân cận
Dứt hẳn những nghi lầm
Như Lai thế Gian Ðăng
Thông đạt tất cả pháp
Khắp sanh phước tam thế
Khiến chúng đều thanh tịnh.
Như Lai diệu sắc thân
Tất cả chúng kính khen
Ức kiếp thường chiêm ngưỡng
Tâm họ không nhàm đủ.
Nếu có càc Phật tử
Quán Phật diệu sắc thân
Tất bỏ luyến thế gian
Hướng về Bồ đề đạo.
Như Lai diệu sắc thân
Hằng diễn quảng đại âm
Biện tài không chướng ngại
Khai Phật Bồ đề môn.
Hiểu ngộ các chúng sanh
Vô lượng chẳng nghĩ bàn
Khiến vào môn trí huệ
Ðược thọ ký Bồ đề.
Như Lai xuất thế gian
Làm phước điền thế gian
Dắt dẫn các hàm thức
Khiến họ tu phước hạnh.
Nếu có cúng dường Phật
Trừ hẳn sợ ác đạo
Diệt trừ tất cả khổ
Thành tựu thân trí huệ.
Nếu thấy Lưỡng Túc Tôn
Hay phát tâm quảng đại
Người này hằng gặp Phật
Tăng trưởng sức trí huệ.
Nếu thấy Nhơn Trung Tôn
Quyết ý hướng Bồ đề
Người này tự biết được
Tất sẽ thành Chánh Giác.
Bấy giờ, Pháp giới Sai Biệt Nguyện Trí Thần Thông Vương Bồ
Tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Thích Ca Vô Thượng Tôn
Ðủ tất cả công đức
Người thấy tâm thanh tịnh
Hồi hướng đại trí huệ
Như Lai đại từ bi
Xuất hiện ở thế gian
Khắp vì các quần sanh
Chuyển pháp luân vô thượng.
Như Lai vô số kiếp
Cần khổ vì chúng sanh
Thế nào các thế gian
Báo được ơn đức Phật
Thà trong vô lượng kiếp
Thọ những khổ ác đạo
Trọn chẳng bỏ Như Lai
Mà cầu nơi xuất ly.
Thà thay các chúng sanh
Chịu đủ tất cả khổ
Trọn chẳng bỏ Như Lai
Mà cầu được an lạc.
Thà tại các ác thú
Hằng được nghe Phật danh
Chẳng muốn sanh thiện đạo
Tạm thời chẳng nghe Phật.
Thà sanh các địa ngục
Mỗi mỗi vô số kiếp
Trọn chẳng xa rời Phật
Mà cầu thoát ác thú
Cớ sao nguyện ở lâu
Tất cả các ác đạo ?
Vì được thấy Như Lai
Trí huệ được trăng trưởng.
Nếu được thấy đức Phật
Diệt trừ tất cả khổ
Vào được cảnh đại trí
Của chư Phật Thế Tôn.
Nếu thấy được đức Phật
Bỏ rời tất cả chướng
Trưởng dưỡng phước vô tận
Thành tựu đạo Bồ đề.
Như Lai dứt hẳn được
Tất cả chúng sanh nghi
Tùy tâm họ sở thích
Ðiều khiến khắp đầy đủ.
Bấy giờ đức Phổ Hiền Bồ Tát quán sát khắp tất cả
chúng hội Bồ Tát, dùng phương tiện đồng pháp giới, phương tiện đồng hư không
giới, phương tiện đồng chúng sanh giới, đồng tam thế, đồng tất cả kiếp, đồng
tất cả chúng sanh nghiệp, đồng tất cả chúng sanh dục, đồng tất cả chúng sanh
giải, đồng tất cả chúng sanh căn, đồng lúc tất cả chúng sanh thành thục, phương
tiện đồng tất cả pháp quang ảnh, vì chư Bồ Tát, dùng mười thứ pháp cú, khai
phát hiển thị, chiếu rõ diễn thuyết sư tử tần thân tâm muội này.
Ðây là mười :
Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong pháp giới tất
cả Phật sát vi trần, chư Phật thứ đệ xuất thế, các cõi thứ đệ thành hoại.
Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới
tất cả cõi Phật, tận vị lai kiếp âm thanh tán thán công đức của Như Lai.
Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới
tất cả cõi Phật, Như Lai xuất thế vô lượng vô biên thành Chánh Giác môn.
Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới
tất cả cõi Phật, đức Như Lai ngồi đạo tràng giữa chúng hội Bồ Tát.
Diễn thuyết pháp cú nơi tất cả lỗ lông niệm niệm xuất hiện
đồng tam thế thân biện hóa của tất cả Chư Phật đầy khắp pháp giới.
Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho một thân đầy khắp mười
phương sát hải bình đẳng hiển hiện.
Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho trong tất cả những cảnh
giới hiện kháp tam thế Chư Phật thần biến.
Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho trong tất cả Phật sát vi
trần hiện khắp tam thế tất cả Phật sát vi trần số Phật, những thần trải qua vô
lượng kiếp.
Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho tất cả lỗ lông xuất sanh âm
tahnh đại nguyện hải của tất cả tam thế Chư Phật, tận vị lai kiếp, khai phát
hóa đạo tất cả Bồ Tát.
Diễn thuyết pháp cú có thẩ làm cho tòa sư tử củ Phật lượng
đồng pháp giới, chúng hội Bồ Tát, đạo tràng trang nghiêm, tận vị lai kiếp
chuyển những pháp luân vi diệu.
Chư Phật tử ! Mười Pháp cú này làm đầu, có bất khả thuyết Phật
sát vi trần số pháp cú đều là cảnh giới trí huệ của đức Như Lai.
Lúc đó đức Phổ Hiền muốn tuyên lại nghĩa này, thừa Phật thần
lực, quán sát đức Như Lai, quan sát chúng hội, quán sát cảnh giới khó nghĩ bàn
của Phật, quán sát vô biên tam muội của Chư Phật, quán sát những thế giới hải
bất tư nghì, quán sát pháp trí như huyễn bất tư nghì, quán sát tam thế Chư Phật
bất tư nghì thảy đều bình đẳng, quán sát vô lượng vô biên tất cả những pháp
ngôn từ, rồi nói kệ rằng :
Trong mỗi mỗi lỗ lông
Vi trần số sát hải
Ðều có đức Phật ngồi
Ðều đủ chúng Bồ Tát.
Trong mỗi mỗi lỗ lông
Vô lượng những sát hải
Phật ngự tòa Bồ đề
Khắp pháp giới như vậy.
Trong mỗi mỗi lỗ lông
Tất cả sát trần Phật
Chúng Bồ Tát vây quanh
Phật nói hạnh Phổ Hiền.
Phật ngồi một cõi nước
Ðầy khắp mười phương cõi
Vô lượng chúng Bồ Tát
Ðều vân tập chỗ Phật.
Ức cõi vi trần số
Bồ Tát công đức hải
Ðều từ trong hội khởi
Ðầy khắp mười phương cõi.
Ðều trụ hạnh Phổ Hiền
Ðều đi biển pháp giới
Hiện khắp tất cả cõi
Ðồng nhập hội chư Phật.
Ngồi an tất cả cõi
Lắng nghe tất cả pháp
Trong mỗi mỗi quốc độ
Ức kiếp tu các hạnh.
Bồ Tát chỗ tu hành
Khắp rõ pháp đại hải hạnh
Vào nơi đại nguyện hải
Trụ cảnh giới của Phật.
Thấu rõ hạnh Phổ Hiền
Xuất sanh các Phật pháp
Ðủ Phật công hải
Rộng hiện sự thần thông.
Thân vân khắp trần số
Ðầy khắp tất cả cõi
Khắp mưa pháp cam lộ
Cho chúng trụ Phật đạo.
Bấy giờ đức Thế tôn, vì muốn cho chư Bồ Tát an trụ trong Như
Lai sư tử tần thân quảng đại tam muội, nên từ tướng bạch hào giữa chặng mày,
phóng ra quang minh lớn gọi là phổ chiếu tam thế pháp giới môn, dùng bất khả
thuyết Phật sát vi trần số quang minh mà làm quyến thuộc, chiếu khắp chư Phật
quốc độ trong tất cả thế giới hải ở mười phương.
Lúc đó tại rừng Thệ Ða, Bồ Tát đại chúng đều thấy tất cả cõi
Phật khắp pháp giới hư không giới. Trong mỗi mỗi vi trần đều tất cả Phật sát vi
trần số Phật độ những danh, những sắc, những thanh tịnh, những trụ xứ, nhưng
hình tướng.
Trong tất cả Phật độ như vậy đều có đại Bồ Tát ngồi đạo tràng
trên tòa sư tử thành Ðẳng Chánh Giác. Ðại chúng Bồ Tát trước sau vây quanh. Các
Thế Gian Chủ thời cúng dường.
Hoặc thấy ở trong bất khả thuyết Phật sát chúng hôi phát ra âm
thanh vi diệu đầy khắp pháp giới chuyển chánh pháp luân.
Hoặc thấy tại Thiên cung điện, Long cung điện, dạ xoa cung
điện, trong những cung điện của Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma
Hầu La Già, Nhơn Phi Nhơn v.v…
Hoặc thấy tại nhơn gian : Thôn ấp, tụ lạc, vương đô, đại xứ mà
hiện những họ, những tên, những thân, những tướng, những quang minh. Trụ những
oai nghi, nhập những tam muội, hiện những biến. Hoặc có lúc tự dùng những ngôn
âm, hoặc làm cho những Bồ Tát ở trong những đại hội, dùng những ngôn từ thuyết
những chánh pháp.
Trong hội này, đại chúng Bồ Tát thấy thậm thâm tam muội đại
thần thôn lực, của chư Phật Như Lai như vậy.
Khắp pháp giới hư không giới, trong tất cả mười phương, nương
nơi tâm tưởng của chúng sanh mà an trụ. Bắt đầu từ tiền tế nhẫn đến hiện tại
nay, tất cả quốc độ thân, tất cả chúng sanh thân, tất cả hư không đạo, trong
đó, nơi chỗ bằng đầu lông, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi, do những nghiệp mà có
ra, thứ đệ an trụ. Cũng đều có đạo tràng. Bồ Tát chúng hội như vậy mà thấy thần
lực của Phật, chẳng hoại tam thế, chẳng hoại thế gian, ở trong tâm của tất cả
chúng sanh mà hiện hình tượng. Tùy theo tâm sở thích của tất cả chúng sanh mà
phát ra ngôn âm vi diệu vào khắp trong tất cả chúng hội, hiện khắp trước tất cả
chúng sanh. Sắc tướng có khác mà trí huệ không khác. Tùy sở nghi mà khai thị
Phật pháp, giáo hoá điều phục tất cả chúng sanh chưa lúc nào nghĩ.
Những ai thấy được thần lực này, thời đều do sự nhiếp thọ của
thiện căn thuở quá khứ của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Hoặc thuở xưa từng dùng
pháp Tứ Nhiếp để nhiếp. Hoặc là thấy nghe, nhớ nghĩ, thân cận mà được thành
thục. Hoặc là ngày trước dạy cho phát tâm Vô thượng Bồ đề. Hoặc thuở xưa ở chỗ
chư Phật đồng gieo căn lành. Hoặc là quá khứ dùng Nhứt Thiết trí thiện xảo
phương tiện giáo hoá thành thục. Thế nên đều nhập nơi bất tư nghì thậm thân tam
muội đại thần lực khắp pháp giới hư không của Như Lai. Hoặc nhập pháp thân hoặc
sắc thân, hoặc nhập hạnh đã thành tựu thuở xưa. Hoặc nhập viên mãn các môn Ba
la mật, hoặc nhập hạnh luân trang nghiêm thanh tịnh, hoặc nhập các bực Bồ Tát,
hoặc nhập sức thành Chánh giác. Hoặc nhập tam muội vô sai biệt đại thần biến
của Ðức Phật an trụ. Hoặc nhập trí lực, trí vô úy của Như Lai. Hoặc nhập biển
vô ngại biện tài của Chư Phật.
Chư Bồ Tát đó dùng những giải, những đạo, những môn, những
nhập, những lý thú, những tùy thuận, những trí huệ, những trợ đạo, những phương
tiện, những tam muội mà nhập mười bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật thần
biến hải phương tiện môn như vậy.
Thế nào là những tam muội ?
Những là : Phổ trang nghiêm pháp giới tam muội, phổ chiếu nhứt
thiết tam thế vô ngại cảnh giới tam muội, pháp giới vô sai biệt trí quang minh
tam muội, nhập Như Lai cảnh giới bất động chuyển tam muội, phổ chiếu vô biên hư
không tam muội, nhập Như Lai lực tam muội, Phật vô úy dũng mãnh phấn tấn trang
nghiêm tam muội, nhứt thiết pháp giới triền chuyển tạng tam muội, như nguyệt
phổ hiện nhứt thiết pháp giới dĩ vô ngại âm đại khai diễn tam muội, phổ thanh
tịnh pháp quang minh tam muội, vô ngại tắng Pháp Vương tràng tam muội, nhứt
nhứt cảnh giới trung tất kiến nhứt thiết Chư Phật hải tam muội, ư nhứt thiết
thế gian tất hiện thân tam muội, nhập Như Lai vô sai biệt thân cảnh giới tam
muội, tùy nhứt thiết thế gian chuyển đại bi tạng tam muội, tri nhứt thiết pháp
vô hữu tích tam muội, tri nhứt thiết pháp cứu cánh tịch diệt tam muội, tuy vô
sở đắc nhi năng biến hóa phổ hiện thế gian tam muội, phổ nhập nhứt thiết sát
tam muội trang nghiêm nhứt thiết Phật sát thành chánh giác tam muội, quán nhứt
thiết thế gian chủ sắc tướng sai biệt tam muội, quán nhứt thiết chúng sanh cảnh
giới vô chướng ngại tam muội, năng xuất sanh nhứt thiết Như Lai mẫu tam muội,
năng tu hành nhập nhứt thiết Phật hải công đức đạo tam muội, nhứt nhứt cảnh
giới trung xuất hiện thần biến tận vị lai tế tam muội, nhập nhứt thiết Như Lai
bổn sự hải tam muội, tận vị lai tế hộ trì nhứt thiết Như Lai chủng tánh tam
muội, dĩ quyết định giải lực linh hiện tại thập phương nhứt thiết Phật sát hải
giai thanh tịnh tam muội, nhứt niệm trung phổ chiếu nhứt thiết Phật sở trụ tam
muội, nhập nhứt thiết cảnh giới vô ngại tế tam muội, linh nhứt thiết thế giới
vi nhứt Phật sát tam muội, xuất nhứt thiết Phật biến hóa thân tam muội, dĩ Kim
Cang vương trí tri nhứt thiết chư căn hải tam muội, tri nhứt thiết Như Lai đồng
nhứt thân tam muội, tri nhứt thiết pháp giới sở an lập tất trụ tâm niệm tế tam
muội, ư nhứt thiết pháp giới quảng đại quốc độ trung thị hiện Niết bàn tam
muội, linh trụ tối thượng xứ tam muội, ư nhứt thiết Phật sát hiên chủng chủng
chúng sanh sai biệt thân tam muội, phổ nhập nhứt thiết Phật trí huệ tam muội,
tri nhứt thiết pháp tánh tướng tam muội, nhứt niệm phổ tri tam thế pháp tam
muội, niệm niệm trung phổ hiện pháp giới thân tam muội, dĩ sư tử dũng mãnh trí
tri nhứt thiết Như Lai xuất hưng thứ đệ tam muội, ư nhứt thiết pháp giới cảnh
giới huệ nhản viên mãn tam muội, dũng mãnh xu hướng thập lực tam muội, phóng
nhứt thiết công đức viên mãn quang minh phổ chiếu thế gian tam muội, bất động
tạng tam muội, thuyết nhứt pháp phổ nhập nhất thiết pháp tam muội, ư nhứt pháp
dĩ nhứt thiết ngôn âm sai biệt huấn thích tam muội, diễn thuyết nhứt thiết Phật
vô nhị pháp tam muội, tri tam thế vô ngại tế tam muội, tri nhứt thiết kiếp vô
sai biệt tam muội, nhập thập lực vi tế phương tiện tam muội, ư nhứt thiết kiếp
thành tựu nhứt thiết Bồ Tát hạnh bất đoạn tuyệt tam muội, thập phương phổ hiện
thân tam muội, ư pháp giới tự tại thành chánh giác tam muội, sanh nhứt thiết an
ổn thọ tam muội, xuất nhứt thiết trang nghiêm cụ trang nghiêm hư không giới tam
muội, niệm niệm trung xuất đẳng chúng sanh số biến hóa thân vân tam muội, Như
Lai tịnh không nguyệt quang minh tam muội, thường kiến nhứt thiết Như Lai trụ
hư không tam muội, khai thị nhứt thiết Phật trang nghiêm tam muội, chiếu minh
nhứt thiết pháp nghĩa đăng tam muội, chiếu thập lực cảnh giới tam muội, tam thế
nhứt thiết Phật tràng tướng tam muộ, nhứt thiết Phật nhứt mật tạng tam muội,
niệm niệm trung sở tác giai cứu cánh tam muội, vô tận phước đức tạng tam muội,
kiến vô biên Phật cảnh giới tam muội, kiên trụ nhứt thiết pháp tam muội, hiện
nhứt thiết Như Lai biến hóa tất linh tri kiến tam muội, niệm niệm trung Phật
nhựt thường xuất hiện tam muội, nhứt nhựt trung tất tri tam thế sở hữu pháp tam
muội, phổ âm diễn thuyết nhứt thiết pháp tánh tịch diệt tam muội, kiến nhứt
thiết Phật tự tại lực tam muội, pháp giới khai phu liên hoa tam muội, quán chư
pháp như hư không vô trụ xứ tam muội, thập phương hải phổ nhập nhứt phương tam
muội, nhập nhứt thiết pháp giới vô nguyên để tam muội, dĩ tịch tịnh thân phóng
nhứt thiết quang minh tam muội, nhứt niệm trung hiện nhất thiết thần thông đại
nguyện tam muội, nhất thiết thời nhất thiết xứ thành chánh giác tam muội, dĩ
nhất trang nghiêm nhập nhất thiết pháp giới tam muội, phổ hiện nhất thiết chư
Phật thân tam muội, tri nhất thiết chúng sanh quảng đại thù thắng thần thông
trí tam muội, nhứt niệm trung kỳ thân biến pháp giới tam muội, hiện nhất thừa
tịnh pháp giới tam muội, nhập phổ môn pháp giới thị hiện đại trang nghiêm tam
muội, trụ trì nhứt thiết Phật pháp luân tam muội, dĩ nhứt thiết pháp môn trang
nghiêm nhứt pháp môn tam muội, dĩ nhơn đà la võng nguyện hạnh nhiếp nhất thiết
chúng sanh giới tam muội, phân biệt nhất thiết thế giới môn tam muội, thừa liên
hoa tự tại du bộ tam muội, tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng sai biệt thần
thông trí tam muội, linh kỳ thân hằng hiện nhất thiết chúng sanh tiền tam muội,
tri nhất thiết chúng sanh sai biệt âm thanh ngôn từ hải tam muội, tri nhất
thiết chúng sanh sai biệt trí thần thông tam muội, đại bi bình đẳng tạng tam
muội, nhứt thiết Phật nhập Như Lai tế tam muội, quán sát nhất thiết Như Lai
giải thoát xứ sư tử tần thân tam muội.
Bồ tát dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số tam muội như
vậy mà nhập Tỳ Lô Giá Na Như Lai niệm niệm sung mãn nhất thiết pháp giới tam
muội thần biến hải.
Chư Bồ Tát đó thảy đều đầy đủ đại trí thần thông minh lợi tự
tại, trụ ở trí địa, dù những trí quảng đại quán sát khắp tất cả từ những trí
huệ chủng tánh mà sanh, nhứt thiết chủng trí thường hiện ở trứơc, được trí nhãn
thanh tịnh rời si lòa, vì các chúng sanh làm Ðiều Ngự Sư, trụ Phật bình đẳng,
nơi tất cả pháp không có phân biệt, thấu rõ cảnh giới, biết các thế gian tánh
đều tịch diệt không có chỗ y tựa. Ðến khắp cõi nước của tất cả chư Phật mà
không chấp trước. Ðều có thể quan sát tất cả các pháp mà chẳng trụ. Vào khắp
tất cả diệu pháp cung điện mà không chỗ đến. Giáo hóa điều tất cả thế gian khắp
vì tất cả chúng sanh mà hiện nơi an ổn. Trí huệ giải thoát là chỗ đi của các
Ngài. Hằng dùng trí thân ở nơi ly tham, siêu việt biển hữu lậu mà hiển bày chơn
thiệt tế. Trí quang viên mãn thấy khắp các pháp. Trụ nơi tam muội kiên cố bất
động. Với các chúng sanh hằng khởi đại bi. Biết các pháp môn thảy đều như
huyễn, tất cả chúng sanh thảy như mộng, tất cả Như Lai thảy đều như bóng, tất
cả ngôn âm thảy đều như vang, tất cả pháp thảy đều như hóa, có thể khéo chứa
nhóm hạnh nguyện thù thắng. Trí huệ viên mãn thanh tịnh thiện xảo tâm rất tịch
tịnh. Khéo nhập tất cả cảnh giới tổng trì. Ðủ sức tam muội dũng mãnh không
kiếp. Ðược trí nhãn sáng suốt trụ pháp giới tế. Ðến chỗ vô sở đắc của tất cả
pháp. Tu tập trí huệ đải hải không bờ. Ðến Trí Ba la mật rốt ráo bỉ ngạn. Ðược
Bát Nhã Ba la mật nhiếp trì. Dùng Thần thông Ba la mật vào khắp thế gian. Nuơng
Tam muội Ba la mật được tâm tự tại. Dùng trí chẳng điên đảo biết tất cả nghĩa.
Dùng trí xảo phân biệt khai thị pháp tạng. Dùng trí hiển hiện biết rõ để giải
thích văn từ. Dùng nguyện lực lớn thuyết pháp vô tận. Dùng vô sở uý để đại sư
tử hống. Thường thích quán sát pháp không chỗ nương. Dùng tịnh pháp nhãn quán
sát khắp tất cả. Dùng tịnh trí nguyệt chiếu thế gian thành hoại. Dùng trí huệ
quang chiếu chơn thiệt đế. Phước đức trí huệ như núi kim cang, tất cả ví dụ
không thể đến được. Khéo quán sát các pháp huệ căn tăng trưởng. Dũng mạnh tinh
tấn xô dẹp chúng ma. Vô lượng trí huệ oai quang xí thạnh. Thân của các ngài
siêu xuất tất cả thế gian. Ðược trí huệ vô ngại đối tất cả pháp. Khéo hay tỏ
ngộ ngằn mé tận vô tận. Trụ ở ngằn mé phổ biến nhập vào ngằn mé chơn thiệt.
Quán trí vô tướng thường hiện ra trước. Thiện xảo thành tựu các hạnh Bồ Tát.
Dùng trí vô nhị biết các cảnh giới. Thấy khắp tất cả những loài ở thế gian. Trụ
khắp tất cả quốc độ của chư Phật. Trí đăng viên mãn, với tất cả pháp không
chướng ngại. Phóng tịnh pháp quang chiếu mười phương cõi. là phước điền chơn
thiệt của thế gian. Hoặc thấy hoặc nghe sở nguyện đều viên mãn. Phước đức cao
lớn vượt hơn các thế gian. Dũng mãnh vô uý dẹp các ngoại đạo. Diễn thuyết pháp
âm khắp tất cả cõi. Thấy khắp chư khắp chư Phật không có lòng nhàm đủ. Nơi pháp
thân của Phật đã được tự tại. Tùy cơ nghi hóa độ mà vì họ hiện thân. Một thân
đầy khắp tất cả cõi Phật. Ðã được thần thông thanh tịnh tư tại. Ngồi thuyền đại
trí đến lui vô ngại. Trí huệ viên mãn khắp cùng pháp giới, như mặt nhựt mọc lên
chiếu khắp thế gian. Tùy tâm của chúng sanh mà hiện sắc tượng. Biết rõ căn tánh
dục lạc của tất cả chúng sanh. Nhập vào cảnh giới vô tránh của tất cả pháp.
Biết pháp tánh không sanh không khởi. Có thể làm pháp lớn pháp nhỏ nhập vào
nhau tự tại. Quyết rõ lý thú thậm thâm của Phật địa. Dùng vô tận cú nói nghĩa
thậm thâm. Ở trong một câu diễn thuyết tất cả biển tu đa la. Ðược thân trí huệ
đà la ni. Phàm những pháp đã thọ trì thời vĩnh viễn không quên mất. Một niệm có
thể nhớ những sự việc trong vô lượng kiếp. Trong một niệm biết rõ trí của tất
cả tam thế chúng sanh. Hằng dùng tất cả môn đà la ni diễn thuyết vô biên pháp
hải của chư Phật. Thường chuyển pháp luân thanh tịnh bất thối, làm cho các
chúng sanh đều sanh trí huệ. Ðược Phật cảnh giới trí huệ quang minh. Nhập vào
nơi thiện kiến thậm thâm tam muội. Nhập vào ngằn mé vô chướng của tất cả pháp.
Với tất cả pháp được thắng trí tự tại. Tất cả cảnh giới đều thanh tịnh trang
nghiêm. Vào khắp tất cả pháp giới mười phương. Tùy xứ sở kia đều đến tất cả.
Trong mỗi mỗi vi trần hiện thành Chánh Giác. Nơi tánh vô sắc hiện tất cả sắc.
Ðem tất cả phương vào khắp một phương.
Chư Bồ Tát này đủ vô biên tạng phước đức trí huệ như vậy.
Thường được chư Phật khen ngợi. Bao nhiêu ngôn từ nói công đức của các Ngài
cũng không hết được. Tất cả chư Bồ Tát này đều ở trong Thệ Ða. Sâu vào biển
công đức lớn của Như Lai. Ðều thấy quang minh chiếu sáng của đức Phật.
Lúc đó chư Bồ Tát được bất tư nghì chánh pháp quang minh, lòng
trất hoan hỷ.
Ðều ở trên thân mình, cùng lâu các và những đồ trang nghiêm
với toà sư tử đương ngồi, trong tất cả vật khắp rừng Thệ Ða, hóa hiện các thứ
mây đại trang nghiêm, đầy khắp tất cả thập phương pháp giới.
Ở trong mỗi niệm phóng ra mây đại quang minh đầy khắp mười
phương, đều có thể khai ngộ tất cả chúng sanh. Hiện ra mây ma ni bửu linh đầy
khắp mười phương, phát âm thanh vi diệu ca tụng khen ngợi tất cả công đức của
tam thế chư Phật. Hiện ra tất cả mây âm nhạc đầy khắp mười phương. Trong âm
nhạc diễn nói những nghiệp quả báo của tất cả chúng sanh. Hiện ra mây những
nguyện hạnh sắc tướng của tất cả Bồ Tát đầy khắp mười phương, diễn nói đại
nguyện của chư Bồ Tát. Hiện ra mây tự tại biến hoá của tất cả Như Lai, đầy khắp
mười phương, diễn nói ngôn ngữ âm thanh của tất cả chư Phật Như Lai. Hiện ra
mây thân tướng hảo trang nghiêm của tất cả Bồ Tát, đầy khắp mười phương, nói
chư Như Lai thứ đệ xuất thế nơi tất cả quốc độ. Hiện ra mây đạo tràng của tam
thế Như Lai đầy khắp mười phương, hiển bày công đức trang nghiêm của tất cả Như
Lai thành Ðẳng Chánh Giác. Hiện ra mây tất cả Long Vương đầy khắp mười phương,
mưa tất cả thứ hương thơm. Hiện ra mây thân của tất cả Thế Chủ đầy khắp mười
phương, diễn thuyết hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát. Hiện ra mây Phật độ thanh tịnh
tất cả bửu trang nghiêm đầy khắp mười phương, hiển bày tất cả Như Lai chuyển
chánh pháp luân.
Chư Bồ Tát này vì được bất tư nghì pháp quang minh, nên theo
pháp phải hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số mây đại thần biến trang
nghiêm như vậy.
Lúc đó, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thừa thần lực của đức Phật, muốn
tuyên lại những sự thần biến trong rừng Thệ Ða, quán sát mười phương rồi nói kệ
rằng :
Các Ngài nên xem rừng Thệ Ða
Phật oai thần nên rộng vô biên
Tất cả trang nghiêm đều hiện bày
Thập phương thế giới đều đầy khắp.
Tất cả cõi nước ở mười phương
Vô biên phẩm loại đại trang nghiêm
Ở trong những bửu tòa các cảnh
Hiển hiện rõ ràng những sắc tượng.
Lỗ lông của Phật tử hiện ra.
Những mây trang nghiêm báu đẹp sáng
Và phát tiếng vi diệu Như Lai
Khắp cùng mười phương tất cả cõi.
Trong cây bông báu hiện diệu thân
Thân ấy sắc tướng đồng Phạm Vương
Từ thiền định dậy mà bước đi
Oai nghi đến lui hằng tịch tịnh.
Trong mỗi lỗ lông của Như Lai
Thường hiện nan tư thân biến hóa
Ðều như Phổ Hiền đại Bồ Tát
Những tướng đại nhơn để nghiêm hảo
Cõi không gian trên rừng Thệ Ða
Những đồ trang nghiêm phát tiếng diệu
Nói khắp tam thế chư Bồ Tát
Thành tựu tất cả biển công đức.
Những cây báu trong rừng Thệ Ða
Cũng phát vô lượng âm thanh diệu
Diễn nói tất cả các quần sanh
Những loại nghiệp hải đều sai khác.
Bao nhiêu cảnh giới ở trong rừng
Ðều hiện tam thế Phật Như Lai
Mỗi Phật đều hiện đại thần thông
Mười phương sát hải vi trần số.
Bao nhiêu những quốc độ mười phương
Tất cả sát hải vi trần số
Ðều nhập trong lỗ lông Như Lai
Thứ đệ trang nghiêm đều hiện thấy.
Bao nhiêu trang nghiêm đều hiện Phật.
Bằng số chúng sanh khắp thế gian
Mỗi mỗi đều phóng đại quang minh
Thảy đều tùy nghi độ muôn loại.
Những hoa thơm sáng và tạng báu
Tất cả những mây đẹp trang nghiêm
Ðều rộng lớn lượng đồng hư không
Ðầy khắp mười phương các quốc độ,
Mười phương tam thế tất cả Phật
Bao nhiêu trang nghiêm diệu đạo tràng
Ở trong cảnh giới viên lâm này
Mỗi mỗi sắc tượng đều hiện rõ.
Tất cả Phổ Hiền các Phật tử
Trăm ngàn kiếp hải cõi trang nghiêm
Số vô lượng bằng số chúng sanh
Tất cả hiện đủ trong rừng này.
Bấy giờ, chư Bồ Tát này được tam muội quang minh của Phật
chiếu đến nên liền được nhập tam muội ấy. Mỗi Bồ Tát đều được bất khả thuyết
Phật sát vi trần số môn đại bi, lợi ích an lạc tất cả chúng sanh. Ở trên thân
của chư Bồ Tát, mỗi lỗ lông đều phóng ra bất khả thuyết vi trần số quang minh.
Trong mỗi quang minh đều hóa hiện bất khả thuyết Phật sát vi
trần số Bồ Tát, thân tướng như các Thế Chủ, hiện khắp trước tất cả chúng sanh,
bao vòng khắp cùng mười phương pháp giới, dùng những phương tiện để giáo hóa
điều phục.
Hoặc hiện ra môn vô thường của bất khả thuyết Phật sát vi trần
số chư Thiên cung điện.
Hoặc hiện ra môn thọ sanh của bất khả thuyết Phật sát vi trần
số tất cả chúng sanh.
Hoặc hiện ra môn tu hành của bất khả thuyết Phật sát vi trần
số tất cả Bồ Tát.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn mộng cảnh.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn đại nguyện
của Bồ Tát.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn chấn động
thế giới.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn phân biệt
thế giới.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn hiện sanh
thế giới.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Ðàn Ba la
mật.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Thi Ba la
mật của tất cả Như Lai tu những công đức, những khổ hạnh.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Sằn Ðề Ba
la mật cắt đứt chi thể.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số Tỳ Lê Gia Ba
la mật siêng tu.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn thiền định
giải thoát của tất cả Bồ Tát tu những tam muội.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn trí quang
minh viên mãn Phật đạo.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn xả bỏ vô
số thân mạng để cầu một văn một câu Phật pháp.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn gần gũi
tất cả Phật, han hỏi tất cả pháp không có lòng nhàm mỏi.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn tùy theo
thời tiết dục lạc của tất cả chúng sanh, đến chỗ của họ để phương tiện thành
thục làm cho họ trụ nơi nhứt thiết trí hải quang minh.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn hàng phục
chúng ma, chế ngự các ngoại đạo, hiển bày sức phước trí của Bồ Tát.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí
biết tất cả công xảo.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí
biết tất cả chúng sanh sai biệt.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí
biết tất cả pháp sai biệt.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí
biết tâm sở thích sai biệt của tất cả chúng sanh.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí
biết căn hành phiền não tập khí của tất cả chúng sanh.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí
biết những nghiệp của tất cả chúng sanh.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn khai ngộ
tất cả chúng sanh.
Dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn phương tiện như
vậy, đến chỗ ở của tất cả chúng sanh mà thành thục họ.
Như là : hoặc đến Thiên cung, hoặc đến Long cung, hoặc đến cung
của Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già. Hoặc
đến cung của Phạm Vương. Hoặc đến cung của Nhơn Vương. Hoặc đến cung của Diêm
La Vương. Hoặc đến chỗ ở của súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Dùng đại bi bình
đẳng, đại nguyện bình đẳng, trí huệ bình đẳng, phương tiện bình đẳng để nhiếp
thọ các chúng sanh.
Hoặc có người thấy xong mà điều phục. Hoặc có người nghe xong
mà điều phục. Hoặc có người ghi nhớ mà điều phục. Hoặc có người nghe âm thanh
mà điều phục. Hoặc có người nghe danh hiệu mà điều phục. Hoặc thấy viên quang
mà điều phục. Hoặc thấy quang võng mà điều phục.
Tùy tâm sở thích của các chúng sanh đều đến chỗ ở của họ mà
làm cho họ được lợi ích.
Chư Phật tử ! Nơi rừng Thệ Ða, chư Bồ Tát vì muốn thành thục
các chúng sanh nên hoặc có lúc hiện ở trong những cung điện nghiêm sức.
Hoặc có lúc thị hiện ở lâu các bửu tòa sư tử của mình, chúng
hội đạo tràng cùng khắp mười phương đều làm cho được thấy. Nhưng vẫn chẳng rời
khỏi rừng Thệ Ða, chỗ của đức Như Lai đây.
Chư Phật tử ! những Bồ Tát này, hoặc có lúc thị hiện vô lượng
hóa thân.
Hoặc hiện thân mình riêng một không bạn. Như là hiện thân Sa
Môn. Hoặc hiện thân Bà La Môn. Hoặc hiện thân khổ hạnh. Hoặc hiện thâ mập mạnh.
Hoặc hiện thân y vương. Hoặc hiện thân thương chủ. Hoặc hiện thân tịnh mạng.
Hoặc hiện thân kỹ nhạc. Hoặc hiện thân phụng sự chư Thiên. Hoặc hiện thân công
xảo kỹ thuật.
Qua đến tất cả xóm làng, thành ấp, đô thị chỗ của chúng sanh
ở, Bồ Tát này tùy sở nghi dùng mọi thứ thân, mọi oai nghi, mọi âm thanh, mọi
ngôn luận, những chỗ ở, mà thật hành hạnh Bồ Tát trong tất cả thế gian dường
như màng lưới của Thiên Ðế.
Hoặc nói công xảo sự nghiệp thế gian. Hoặc nói tất cả trí huệ
chiếu thế gian như đèn sáng. Hoặc nói tất cả chúng sanh do nghiệp lực trang
nghiêm. Hoặc nói cõi nước mười phương kiến lập những thừa vị. Hoặc nói đèn trí
huệ chiếu cảnh giới của tất cả pháp, giáo hóa thành thục tất cả chúng sanh.
Nhưng vẫn cũng chẳng rời khỏi rừng Thệ Ða của đức Như Lai đây.
Bấy giờ ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, từ Thiện Trụ lâu các đi
ra cùng vô lượng Bồ Tát đồng hạnh và các Thần Kim Cang thường theo thị vệ, các
Thân Chúng Thần khắp vì chúng sanh mà cúng dường chư Phật, các Túc Hành Thần từ
lâu phát kiên thệ nguyện thường tùy tùng, các Chủ Ðịa Thần thích nghe diệu
pháp, Các Thủ Thủy Thần thường tu đại bi, các Chủ Hỏa Thần trí quang chiếu
sáng. Các Chủ Phong Thần ma ni làm mão, các Chủ Phương Thần minh luyện tất cả
nghi thức mười phương, các Chủ Dạ Thần chuyên cần diệt trừ vô minh hắc ám, các
Chủ Trú Thần xiển minh Phật nhựt nhứt tâm không lười, các Chủ Không Thần trang
nghiêm pháp giới tất cả hư không, các Chủ Hải Thần độ khắp chúng sanh vượt khỏi
biển hữu lậu, các Chủ Sơn Thần thường siêng chứa nhóm thiện căn trợ đạo cao như
núi xu hướng Nhứt thiết trí, các Chủ Thành Thần thường siêng gìn giữ thành Bồ
đề tâm của tất cả chúng sanh, các Ðại Long Vương thường siêng gìn giữ pháp
thành vô thượng Nhứt thiết chủng trí, các Dạ Xoa Vương thường siêng hộ trì tất
cả chúng sanh, các Càn Thát Bà Vương thường làm cho chúng sanh thêm hoan hỉ,
các Cưu Bàn Trà Vương thường siêng trừ diệt những loài ngạ quỷ, các Ca Lâu La
Vương hằng thuận cứu tế tất cả chúng sanh ra khỏi biển hữu lậu, các A Tu La
Vương nguyện được thành tựu những thân Như Lai cao hơn thế gian, các Ma Hầu La
Già Vương thấy Phật hoan hỷ cúi mình cung kính, cá đại Thiên Vương hằng nhàm
sanh tử thường thích thấy Phật, các đại Phạm Vương tôn trọng chư Phật tán thán
cúng dường.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng những chúng Bồ Tát công đức trang
nghiêm như vậy ra khỏi chỗ mình ở, đồng đến chỗ đức Phật, hữu nhiễu đức Thế Tôn
đến vô lượng vòng. Dâng các món cúng dường lên đức Phật. Cúng dường xong, từ tạ
Phật rồi đi qua phương Nam đến trong nhơn gian.
Lúc đó Tôn giả Xá Lợi Phất thừa thần lực của Phật, thấy Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng chúng hội Bồ Tát trang nghiêm ra khỏi rừng Thệ Ða qua
phương Nam du hành nhơn gian, liền nghĩ rằng :
Tôi nay nên theo ngài Văn Thù Sư Lợi qua phương Nam.
Nghĩ xong, Tôn giả Xá Lợi Phất cùng sáu ngàn Tỳ Kheo đồng rời
chỗ mình ở đến chỗ đức Phật đảnh lễ chân Phật rồi bạch ý muốn, đức Phật hứa
khả. Các Ngài hữu nhiễu đức Phật ba vòng từ tạ đi dến chỗ ngài Văn Thù Sư Lợi.
Sáu ngàn Tỳ Kheo này vốn cùng ở chung với Tôn giả Xá Lợi Phất,
xuất gia chưa lâu, những là Hải Giác Tỳ Kheo, Thiện Sanh Tỳ Kheo, Phước Quang
Tỳ Kheo, Ðại Ðồng Tử Tỳ Kheo, Ðiển Sanh Tỳ Kheo, Tịnh Hạnh Tỳ Kheo, Thiên Ðức
Tỳ Kheo, Quân Huệ Tỳ Kheo, Phạm Thắng Tỳ Kheo, Tịch Huệ Tỳ Kheo, sáu ngàn Tỳ
Kheo như vậy.
Những Tỳ Kheo này đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, trồng
sâu căn lành, sức hiểu biết rộng lớn, tín nhãn sáng suốt, tâm lượng rộng rãi,
quán Phật cảnh giới, rõ pháp bổn tánh, lợi ích chúng sanh, thường cần cầu công
đức của chư Phật.
Những Tỳ Kheo này đều do ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thuyết
pháp giáo hóa mà được thành tựu.
Trong lúc đang đi nơi đường, Tôn giả Xá Lợi Phất quan sát chư
Tỳ Kheo rồi bảo Giác Hải rằng :
Giác Hải nên quán sát thân thanh tịnh tướng tốt trang nghiêm
của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tất cả hàng Nhơn Thiên chẳng nghĩ bàn được.
Giác Hải nên quán sát viên quang chói sáng của Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát làm cho vô lượng chúng sanh phát tâm hoan hỷ.
Giác Hải nên quán sát quang võng trang nghiêm của Văn Thù Sư
Lợi Bồ Tát diệt trừ vô lượng khổ não cho chúng sanh.
Giác Hải nên quán sát chúng hội đông đầy của Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát, đại chúng đó đều là bực Bồ Tát do thiện căn thuở xưa nhiếp thọ.
Giác Hải nên quán sát con đường của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đang
đi, hai bên cách tám bộ đều bằng thẳng trang nghiêm.
Giác Hải nên quán sát chỗ đứng của Văn Thù Sư Lợi Bố Tát khắp
vòng mười phương thường có đạo tràng luôn xoay theo.
Giác Hải nên quán sát con đường của Văn Thù Sư Lợi đang đi đủ
cả vô lượng phước đức trang nghiêm, hai bên đường có những kho trân bửu ngầm
dưới đất tự nhiên trồi lên.
Giác Hải nên quán sát Văn Thù Sư Lợi từng cúng dường chư Phật,
do thiện căn đó làm cho trong tất cả hàng cây đều hiện ra tạng báu trang
nghiêm.
Giác Hải nên quán sát các Thế Gian Chủ rưới mây cúng cụ, đảnh
lễ cung kính dâng cúng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Giác Hải nên quán sát tất cả chư Phật Như Lai mười phương, lúc
sắp thuyết pháp, đều phóng ánh sáng lông trắng giữa chặng mày chiếu đến thân
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, nhập vào nơi đảnh của Ngài.
Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất vì chư Tỳ Kheo mà tán thán khai
thị diễn thuyết ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử có vô lượng công đức trang nghiêm
như vậy.
Chư Tỳ Kheo nghe xong, tâm ý thanh tịnh, tin hiểu vững chắc,
vui mừng khôn xiết, toàn thân rúng nhảy không tự kềm được. Thân thể nhu nhuyến,
sáu căn vui đẹp, tất cả lo khổ đều trừ, cấu chướng đều hết. Thường được thấy
chư Phật thâm cầu chánh pháp đủ căn tánh Bồ Tát, được oai lực Bồ Tát, đại bi
đại nguyện đều tự xuất sanh, nhập vào cảnh giới thậm thâm của các môn Ba la
mật. Thập phương chư Phật thường hiện ở trước. Rất mến thích Nhứt thiết trí.
Chư Tỳ Kheo bạch Tôn giả Xá Lợi Phất rằng :
Mong Ðại Sư dẫn chúng tôi đến chỗ của ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát.
Xá Lợi Phất liền cùng chư Tỳ Kheo đồng đến chỗ Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát mà bạch rằng :
Thưa Ngài, chư Tỳ Kheo này xin được kính ra mắt Ngài.
Lúc đó Văn Thù Sư Lợi Ðồng tử có vô lượng tự tại Bồ Tát và đại
chúng vây quanh, như tượng vương xoay mình lại nhìn Tỳ Kheo.
Chư Tỳ Kheo liền đảnh lễ chân Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rồi chắp
tay cung kính mà bạch rằng :
Nay chúng tôi kính ra mắt, cung kính lễ bái và những thiện căn
của chúng tối có, ngưỡng mong ngài Văn Thù Sư Lợi, Hòa Thượng Xá Lợi Phất, Thế
Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, đều chứng biết cho.
Như ngài Văn Thù Sư Lợi có sắc thân thế này, âm thanh thế này,
tướng hảo thế này, tự tại thế này, nguyện cho tôi cũng dều có đủ như vậy.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo các Tỳ Kheo rằng :
Chư Tỳ Kheo ! Nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thành tựu
mười hạnh xu hướng pháp Ðại thừa thời có thể mau nhập Như Lai Ðịa, huống là Bồ
Tát Ðịa.
Ðây là mười hạnh :
Chứa nhóm tất cả thiện căn lòng không mỏi nhàm.
Thấy tất cả Phật kính thờ cúng dường lòng không mỏi nhàm.
Cầu tất cả Phật pháp lòng không mỏi nhàm.
Thật hành tất cả hạnh Ba la mật lòng không mỏi nhàm.
Thành tựu tất cả Bồ Tát tam muội lòng không mỏi nhàm.
Thứ đệ nhập tất cả tam thế lòng không mỏi nhàm.
Nghiêm tịnh khắp mười phương cõi Phật lòng không mỏi nhàm.
Giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh lòng không mỏi nhàm.
Ở trong tất cả cõi tất cả kiếp thành tựu hạnh Bồ Tát lòng
không mỏi nhàm.
Vì thành tựu một chúng sanh mà tu hành tất cả Phật sát vi trần
số Ba la mật, thành tựu Như Lai thập lực. Thứ đệ như vậy, vì thành thục tất cả
chúng sanh giới mà thành tựu Như Lai tất cả trí lực lòng không mỏi nhàm.
Chư Tỳ Kheo ! Nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thành tựu
lòng thâm tính phát mười hạnh lòng không mỏi nhàm này thời có thể trưởng dưỡng
tất cả thiện căn, rời bỏ tất cả những loài sanh tử vượt khỏi tất cả chủng tánh
thế gian, chẳng sa vào hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật. Sanh vào nhà chư Phật Như
Lai. Ðủ tất cả Bồ Tát nguyện. Học tập tất cả Như Lai công đức. Tu hành tất cả
hạnh Bồ Tát. Ðược Như Lai trí lực xô dẹp chúng ma và các ngoại đạo, cũng có thể
trừ diệt tất cả phiền não, nhập Bồ Tát địa, gần Như Lai địa.
Lúc đó, chư Tỳ Kheo nghe pháp này rồi thời được tam muội tên
là vô ngại nhãn, thấy tất cả cảnh giới Phật. Do được tam muội này nên đều thấy
chư Phật Như Lai trong vô lượng vô biên tất cả thế giới ở mười phương và những đạo
tràng chúng hội. Cũng đều thấy tất cả loài chúng sanh trong thế giới mười
phương. Cũng đều thấy những sai biệt của tất cả thế giới mười phương. Cũng đều
thấy những vi trần của tất cả thế giới đó. Cũng đều thấy những cung điện của
chúng sanh ở trong tất cả thế giới đó, dùng các báu mà làm trang nghiêm. Và
cũng nghe những ngôn âm của chư Phật. Như Lai diễn thuyết các pháp, văn từ giải
thích của chư Phật, nghe rồi thời đều hiểu rõ. Cũng có thể quán sát trong thế
giới đó, những căn dục của tất cả chúng sanh. Cũng có thể ghi nhớ trong những
thế giới đó, trước sau mười đời của tất cả chúng sanh. Cũng có thể ghi nhớ
những sự trong mười kiếp quá khứ, mười kiếp vị lai của các thế giới đó. Cũng có
thể ghi nhớ chư Như Lai đó mười lần bổn sanh sự, mười lần thành Chánh Giác,
mười lần chuyển pháp luân, mười thứ thần thông, mười thứ thuyết pháp, mười thứ
giáo giới, mười thứ biện tài.
Chư Tỳ Kheo này lại liền thành tựu mười ngàn Bồ đề tâm, mười
ngàn Tam muội, mười ngàn Ba la mật, tất cả đều thanh tịnh.
Lại được đại trí huệ viên mãn quang minh. Ðược Bồ Tát mười
thần thông nhu nhuyến vi diệu. Trụ Bồ Tát tâm kiên cố bất động.
Lúc đó Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyên các Tỳ Kheo trụ hạnh Phổ
Hiền. Trụ hạnh Phổ Hiền rồi nhập biển đại nguyện. Nhập biển đại nguyện, rồi
thành tựu biển đại nguyện. Vì thành tựu biển đại nguyện nên tâm được thanh
tịnh. Vì tâm thanh tịnh nên thân được thanh tịnh. Vì thân thanh tịnh nên thân
nhẹ nhàng nhậm lẹ. Vì thân thanh tịnh nhẹ nhàng nhậm lẹ nên được đại thần thông
không còn thối chuyển. Vì được thần thông này nên chẳng rời dưới chân của ngài
Văn Thù Sư Lợi, đều hiện thân mình khắp tất cả chỗ của chư Phật mười
phương.Thành tựu đầy đủ tất cả Phật pháp.
(1) Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyến dạy sáu ngàn Tỳ
kheo pháp Bồ đề tâm rồi, lần lượt đi về phía Nam, trải qua nhơn gian đến phía
đông Phước Thành, ở trong rừng Trang Nghiêm Tràng Ta La, chỗ đại tháp miếu mà
chư Phật thuở xưa từng ngự giáo hóa chúng sanh, nơi đây cũng là chỗ mà ngày xưa
đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn lúc tu Bồ Tát hạnh hay xả vô lượng sự khó xả. Do
đây nên rừng này có tiếng đến vô lượng cõi Phật. Rừng này thường được sự thủ hộ
cúng dường của chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn
Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn cùng Phi nhơn.
Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và các quyến thuộc đến rừng
Trang Nghiêm Tràng Ta La rồi, liền ở tại đó nói khế kinh Phổ Chiếu Pháp Giới
cùng với trăm vạn ức na do tha khế kinh.
Khi nói kinh, trong đại hải có vô lượng trăm ngàn ức chư Long
đến nghe kinh. Nghe xong chư Long đều chán thân loài rồng nên đều phát tâm cầu
Phật đạo. Ðều xả thân rồng sanh trong loài người hoặc cõi trời. Một muôn chư
Long được chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại có vô lượng vô số chúng sanh ở trong Tam thừa đều được
điều phục.
Lúc đó người Phước Thành hay tin ngàiVăn Thù Sư Lợi Ðồng Tử ở
đại tháp miếu trong rừng Trang Nghiêm Tràng Ta La, vô lượng người ra khỏi thành
đi đến rừng.
Có Ưu bà tắc tên là Ðại Trí cùng quyến thuộc năm trăm Ưu bà
tắc, như là : Tu Ðạt Ða, Bà Tu Ðạt Ða, Phước Ðức Quang, Hữu Danh Xưng, Thí Danh
Xưng, Nguyệt Ðức, Thiện Huệ, Ðại Huệ, Hiền Hộ, Hiền Thắng.v.v… đồng đến đảnh lể
chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, hữu nhiễu ba vòng, rồi lui ra ngồi qua một
phía.
Lại có năm trăm Ưu bà di, như là : Ðại Huệ, Thiện Quang, Diệu
Thân, Khả LaÏc Thân, Hiền Hạnh, Hiền Ðức, Hiền Quang, Tràng Quang, Ðức Quang,
Thiện Mục, v.v.. đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, hữu nhiễu
ba vòng rồi lui ra ngồi qua một phía.
Lại có năm trăm Ðồng tử, như là : Thiện Tài, Thiện Hạnh, Thiện
Giới, Thiện Oai Nghi, Thiện Dũng Mãnh, Thiện Tư, Thiện Huệ, Thiện Giác, Thiện
Nhãn, Thiện Tý, Thiện Quang, v.v.. đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn Thù Sư Lợi
Ðồng Tử, hữu nhiễu ba vòng rồi lui ra ngồi qua một phía.
Lại có năm Ðồng nữ, như là : Thiện Hiền, Ðại Trí Cư Sĩ Nữ,
Hiền Xưng Mỹ Nhan, Kiên Huệ, Hiền Ðức, Hữu Ðức, Phạm Thọ, Ðức Quang, Thiện
Quang, v.v.. đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tư,û hữu nhiễu ba
vòng rồi ngồi qua một phía.
Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử biết người Phước Thành đều đã đến
đông đủ, tùy tâm sở thích của họ mà hiện thân tự tại ánh sáng rực rỡ chói lấp
đại chúng. Ngài dùng đại từ tự tại làm cho họ thanh lương. Dùng đại bi tự tại
khởi tâm thuyết pháp. Dùng trí huệ tự tại biết tâm sở thích của họ. Dùng biện
tài quảng đại sắp vì họ mà thuyết pháp.
Lúc đó, Ngài lại quán sát Thiện Tài đồng tử do cớ gì mà có tên
như vậy. Ngài biết đồng tử này lúc mới nhập thai, trong nhà đó tự nhiên hiện ra
lầu các thất bửu. Dưới lâu các đó có bảy phục tạng. Trên phục tạng, đất tự nứt
ra mọc lên nanh thất bửu : vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chơn chân, xa cừ, mã não.
Sau mười tháng, Thiện Tài đản sanh thân hình tay chân đoan
chánh đầy đủ. Lúc đó bảy phục tạng từ đất trồi lên ánh sáng chói rực. Mỗi tạng
báu ngang dọc cao thấp đều vuông vức bảy thước tay.
Trong nhà đó lại tự nhiên có năm trăm món đồ bằng thất bửu,
mọi vật đều đựng đầy trong đó. Những là : trong chậu kim cang đựng tất cả thứ
hương thơm. Trong chậu hương đựng các thứ y phục. Trong bát mỹ ngọc đựng các
thứ thực phẩm thượng diệu. Trong bát ma ni đựng đầy những thứ trân bửu đẹp lạ.
Bình vàng đựng bạc. Bình bạc đựng vàng. Trong bình vàng bạc đựng đầy ngọc lưu
ly và ma ni. Trong bình pha lê đựng đầy xa cừ. Trong bình xa cừ đựng đầy pha
lê. Trong bình mã não đựng đầy chơn châu. Trong bình chơn châu đựng đầy mã não.
Bình hỏa ma ni đựng đầy thủy ma ni. Bình thủy ma ni đựng đầy hỏa ma ni. Năm
trăm đồ đựng châu bửu như vậy tự nhiên xuất hiện.
Nơi đó lại mưa các châu bửu và những tài vật làm cho tất cả
kho đụn trong nhà đó đều đầy ngập.
Do cớ trên đây nên cha mẹ thân thuộc và tướng sư đều kêu đứa
trẻ ấy là Thiện Tài.
Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử lại biết Thiện Tài đã từng cúng
dường quá khứ chư Phật, gieo sâu căn lành, tin hiểu rộng lớn, thường thích gần
gũi các thiện tri thức. Thân ngữ ý đều không lỗi lầm, tu Bồ Tát đạo cấu Nhứt
thiết trí thành Phật pháp khí. Tâm đồng tử này thanh tịnh như hư không, hồi
hướng Bồ đề không chướng ngại.
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát quán sát Thiện Tài như vậy rồi,
liền an ủi chỉ dạy tất cả Phật pháp.
Những là nói pháp tích tập của tất cả Phật, pháp tương tục của
tất cả Phật, pháp thứ đệ của tất cả Phật, pháp chúng hội thanh tịnh của tất cả
Phật, pháp pháp luân hóa đạo của tất cả Phật, pháp sắc thân tướng hảo của tất
cả Phật, pháp pháp thân thành tựu của tất cả Phật, pháp ngôn từ biện tài của
tất cả Phật, pháp quang minh chiếu diệu của tất cả Phật, pháp bình đẳng vô nhị
của tất cả Phật.
Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử vì Thiện Tài đồng tử và đại chúng
mà nói những pháp như vậy rồi, lại ân cần khuyên dạy cho họ tăng trưởng đạo lực,
cho họ hoan hỷ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại làm cho họ tự ghi
nhớ thiện căn thuở quá khứ.
Ngài lại vì tất cả đại chúng mà tùy nghi thuyết pháp. Sau đó
Ngài rời rừng mà đi.
Thiện Tài đồng tử được nghe pháp nơi ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát, được nghe những công đức của chư Phật như vậy, liền nhứt tâm cần cầu Vô
thượng Bồ đề, đi theo ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát mà nói kệ rằng :
Ba cõi làm thành quách
Kiêu mạn làm tường vách
Các loài làm cửa nẻo
Nước ái làm hào ao
Tối ngu si đậy che
Lửa tham sân cháy rực
Ma Vương làm quân chủ
Trẻ khờ ở trong đó.
Tham ái làm dây trói
Dua dối làm cương yên
Nghi hoặc che đôi mắt
Thẳng vào những đường tà.
Vì đầy tham ganh kiêu
Vào nơi ba đường ác
Hoặc đọa trong các loài
Khổ sanh già bịnh chết.
Mặt nhựt trí thanh tịnh
Vầng tròn đầy đại bi
Hay cạn biển phiền não
Xin ban diệu quán sát.
Mặt nguyệt trí thanh tịnh
Vầng trong sạch đại từ
Ban an vui tất cả
Xin thương soi xét tôi.
Vua tất cả pháp giới
Pháp bửu làm tiên đạo
Du không chẳng chướng ngại
Xin thương dạy bảo tôi.
Ðại Thương Chủ phước trí.
Dũng mãnh cầu Bồ đề
Lợi khắp các quần sanh
Xin thương thủ hộ tôi.
Thân mặc giáp nhẫn nhục
Tay cầm gươm trí huệ
Tự tại hàng quân ma
Xin thương cứu vớt tôi.
Ở đảnh pháp Tu Di
Ðịnh nữ thường hầu hạ
Diệt hoặc A tu la
Ðế thích xin xem tôi.
Nhà ba cõi phàm ngu
Hoặc nghiệp khổ luân chuyển
Ngài đã điều phục cả
Như đèn sáng soi đường.
Bỏ rời những ác thú
Thanh tịnh những đường lành
Bực vượt hẳn thế gian
Dạy tôi môn giải thoát.
Thế gian chấp điên đảo
Thường thích tưởng ngã tịnh
Trí nhãn đều rời được
Dạy tôi môn giải thoát.
Khéo biết đường tà chánh
Biết rõ tâm không khiếp
Ðấng quyết rành tất cả
Dạy tôi đường Bồ đề.
Trụ bực Phật chánh kiến
Lớn cây Phật công đức
Rưới bông Phật diệu pháp
Dạy tôi đường Bồ đề.
Khứ, lai, hiện tại Phật
Xứ xứ đếu cùng khắp
Như mặt nhựt mọc lên
Vì tôi dạy đạo đó.
Khéo biết tất cả nghiệp
Thấu rõ hạnh các thừa
Người trí huệ quyết định
Dạy tôi pháp Ðại Thừa.
Bánh nguyện, gọng đại bi,
Tín trục, vành kiên nhẫn
Báu công đức trang nghiêm
Cho tôi ngồi xe này.
Rương tổng trì quảng đại
Lọng từ mẫn trang nghiêm
Linh biện tài reo vang.
Khiến tôi ngồi xe này.
Phạm hạnh làm nệm êm
Tam muội làm thể nữ
Trống pháp rền tiếng mầu
Cho tôi ngồi xe này.
Tứ nhiếp tạng vô tận
Báu công đức trang nghiêm
Tàm quý làm yên cương
Ban cho tôi xe này.
Thường rong xe bố thí
Hằng xoa hương tịnh giới
Bò nhẫn nhục trang nghiêm
Cho tôi ngồi xe này.
Thùng thiền định tam muội
Ách trí huệ phương tiện
Ðiều phục chẳng thối chuyển
Cho tôi ngồi xe này.
Xe đại nguyện thanh tịnh
Sức tổng trì kiên cố
Trí huệ được thành tựu
Cho tôi ngồi xe này.
Phổ hạnh làm đi khắp
Bi tâm thong thả đi
Ðến đâu đều không khiếp
Cho tôi ngồi xe này.
Kiên cố như kim cang
Thiện xảo như huyễn hóa
Tất cả không chướng ngại.
Cho tôi ngồi xe này.
Quảng đại rất thanh tịnh
Khắp ban chúng sanh vui
Ðồng hư không pháp giới
Cho tôi ngồi xe này.
Sạch những vòng nghiệp hoặc
Dứt những khổ lưu chuyển
Dẹp ma và ngoại đạo
Cho tôi ngồi xe này,
Trí huệ khắp mười phương
Trang nghiêm khắp pháp giới
Thỏa nguyện của chúng sanh
Cho tôi ngồi xe này.
Thanh tịnh như hư không
Ái, kiến đều trừ diệt
Lợi ích tất cả chúng
Cho tôi ngồi xe này.
Nguyện lực đi mau chóng
Ðịnh tâm an ổn trụ
Chở khắp các hàm thức
Cho tôi ngồi xe này.
Như đại địa chẳng động
Như nước lợi ích cả
Chở chúng sanh như vậy
Cho tôi ngồi xe này.
Vầng từ nhiếp viên mãn.
Sáng tổng trì thanh tịnh
Mặt nhật huệ như vậy
Xin dạy cho tôi thấy.
Ðã vào ngôi Pháp Vương
Ðã đội mão Trí Vương
Ðã vấn lụa diệu pháp
Xin thương chiếu cố tôi.
Comments
Post a Comment