Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

 

Ngày 18 tháng 2 năm 1990

 

 

Trong lần trước, chúng tôi đã trình bày với quí vị trên đại cương lộ trình tiến tu của Thanh Văn thừa và lộ trình tiến tu của Bồ Tát đạo, và cũng có đi vào một đoạn kinh ngắn. Hôm nay, trước khi đi vào kinh, chúng tôi xin mạn phép lấy một chút thì giờ để nói thêm về con đường thiền quán của Bồ Tát đạo. Vì cần phải hiểu những điều này rành rẽ thì mới có thể theo dõi bước tiến tu của Thiện Tài được.

Trong lần trước chúng tôi đã nói rằng, Thanh Văn thừa thường tu giới và thiền quán đi đến chỗ tiêu diệt những phiền não và chấm dứt phân đoạn sinh tử, tức là đi đến chỗ giải thoát cá nhân. Còn Bồ Tát đạo thì tu hành cao hơn nhiều, xa gấp mấy lần đoạn đường đó, vì không những phải tiêu dung phiền não chướng và phân đoạn sanh tử, mà còn phải tiêu dung sở tri chướng cùng biến dịch sanh tử để đi tới nhập pháp giới.

Hôm nay, cần nói thêm mấy điểm về vấn đề thiền quán để quí vị thấy rõ Thiện Tài tu theo quán giả và quán trung chứ không phải ngài cần tu theo quán không.

Thanh Văn chỉ tu có giới và thiền quán thôi mà không tu tất cả các hạnh như các vị Bồ Tát. Bồ Tát thường phải tu mười hạnh, còn bên Thanh Văn cũng tu bố thí nhưng cũng rất ít, chưa đi đến chỗ bố thí ba la mật như các vị Bồ Tát. Còn trì giới thì các ngài Thanh Văn cũng trì giới một cách tiêu cực gọi là biệt giải thoát giới, trong khi các vị Bồ Tát phải trì tâm địa tịnh giới, vì ngoài cái biệt giải thoát giới để trừ điều ác, các ngài còn phải làm tất cả điều lành, gọi là thiện pháp giới, và cả nhiêu ích hữu tình giới, tức là tu những hạnh làm nhiêu ích cho tất cả chúng sanh… Bồ Tát không bao giờ nghĩ đến riêng mình cả mà lúc nào cũng nghĩ đến tất cả chúng sanh. Còn về chữ “nhẫn” là nhẫn nhục thì Bồ Tát phải tu nhẫn nhục đến mức ba la mật, bố thí cũng phải bố thí ba la mật, tinh tấn cũng là tinh tấn ba la mật, thiền định cũng thiền định ba la mật v.v… Bồ Tát không chĩ thuần tu không quán mà còn phải tu cả giả quán và trung quán nữa, và trí huệ là trí huệ “Đại bát nhã ba la mật” chứ không phải là trí huệ nhất thiết trí của Thanh Văn. Bồ Tát còn có những độ sâu hơn nữa là độ nguyện, độ phương tiện, độ lực và độ trí mà bên Thanh Văn hoàn toàn không có. Trong kinh thường có một câu mà quí vị cần nhớ, đó là câu “Nhất tâm tam quán,” tức là chỉ có một cái tâm đó thôi mà có thể quán ba cách. Đạo Phật dạy rằng tất cả các pháp đều tùy sự lắt lay của tâm thức, chúng ta sống trong đời, cứ nghĩ rằng cái này có hoặc không, nhưng đạo Phật đặc biệt dạy rằng tâm mình có thể quán được nhiều cách, nếu quán lâu bền một vật là có thì tự nhiên nó trở thành có, nếu quán không thì lần lần nó trở thành không, dù đó là vật cứng chắc ù lì đến đâu chăng nữa. Hoặc nếu quán cao hơn nữa là “chẳng có chẳng không” thì sự vật trước mắt ta đều như huyễn cả. Tất cả các kinh đều chỉ dạy có vậy thôi. Nên người tu cần quán cái tâm chẳng có chẳng không ấy, tương tự như người đi dây, hoặc như con chim bay, không nghiêng về một bên nào cả thì mới bay bổng tuyệt vời được. Ngày xưa tôi cứ thắc mắc, lấy làm lạ nghĩ rằng: “Quái! chỉ có một tí đó thôi mà nó lại là cái bí ẩn cao vời của đạo Phật.” Cái “một tí” đó chính là cái chẳng có, chẳng không, tức là giữ cái tâm bồng bềnh đập đúng theo nhịp đập của diệu tâm ấy, một nhịp đập nguyên sơ trước khi bị vô minh che đậy. Ngày xưa, ngài Trí Khải lập tông Thiên Thai về thiền quán nối được cả tông lẫn giáo. Tông là cái yếu chỉ của tâm, còn giáo là sự giải thích về cái Tâm đó, và ngài có nói về Nhất tâm tam quán. Trong kinh Lăng Nghiêm và Viên Giác cũng nói đến ba lối quán đó, tức là quán không, sau quán giả rồi sau cùng đến quán trung, trung đạo song chiếu.

Kinh Lăng Nghiêm và Viên Giác gọi quán không là Samatha, quán giả gọi là Sa-ma-bát-đề, còn trung quán song chiếu gọi là Thiền Na hoặcTam-na-đề. Như vậy, Bồ Tát đạo có ba giai đoạn tu, từ sắc vào Không, rồi khởi Giả rồi Trung đạo song chiếu, trong khi bên Thanh Văn chỉ tu quán không mà thôi. Một hành giả, muốn làm con cá tích đi ngược dòng qua năm màn sương mù là sắc, thọ, tưởng, hành để vào đến thức ấm thì gọi là thành tựu không quán. Rồi khi vào đến biển không hải ấy, các vị Thanh Văn thường dừng lại ở đó, không khởi tâm tiến tu nữa, các ngài đã tiêu trừ những mầm mống sinh tử và vào Niết Bàn, lúc còn sắc thân thì gọi là hữu dư niết bàn. Sau khi chết thì gọi là vô dư niết bàn. Nhưng các ngài vẫn còn những tập khí của biến dịch sanh tử, những vi tế của sở tri chướng chiếu soi chấp ngã, chấp thọ giả, tri giả v.v…, nên trong kinh Pháp Hoa mới nói rằng đó chỉ là Niết Bàn hóa thành mà thôi, chứ không phải Niết Bàn thực, mà Niết Bàn thực là Đại tịch diệt của Như Lai, là sự nhập pháp giới trọn vẹn đồng thời cũng là sự giải thoát tột độ nữa. Nên đại thừa không nhấn mạnh đến sự giải thoát, tức nhập Niết Bàn cho riêng mình, mà phải ôm trọn pháp giới vào thân mình mới là sự giải thoát rốt ráo, mới là nhập đại niết bàn tịch diệt, đó chính là Nhập Pháp Giới.

Nên con đường tu chứng của các vị Thanh Văn thì các ngài chỉ mới đi được một phần ba con đường thôi, có thể là một phần tư, một phần năm vì hai đoạn kia dài xa cần khổ hơn nhiều, phải qua nhiều a tăng kỳ kiếp mới thành tựu. Trong kinh nói, Thanh Văn có thể tu trong 60 kiếp, nếu kiếp nào cũng xuất gia, trì giới, thiền quán thì có thể đắc A La Hán, (tức là vào được đến thức ấm). Trong khi đi con đường quán giả và quán trung, thường các vị Bồ Tát phải qua 3 a tăng kỳ kiếp, phải thí thân hoài hoài, bố thí hoài hoài, làm tất cả những hạnh, nguyện và phương tiện để độ sanh, như thế đủ hiểu con đường Bồ Tát mênh mang dài xa, cần khổ như thế nào. Nên Thiện Tài tu trong thức ấm ấy, quán chiếu những sở tri chướng để tiêu dung những tập khí vọng tưởng về ngã, về pháp giới, về ngã giả, về thọ giả, về tri giả, về kiến giả, về chiếu soi v.v…, phải làm như thế mới có đại tự tại lực, mới biến hóa không cùng được, mới có thể độ được tất cả chúng sanh. Đó là điểm “nhất tâm tam quán” mà chúng tôi muốn nhắc quí vị, khi quí vị hiểu được sự bí ẩn lắt lay của tâm thức, mà tất cả sự lắt lay ấy đậu trên đầu một tâm niệm thì lúc đó chúng ta có thể thấy được đạo. Vì nếu khởi một niệm có thì pháp giới này trở thành có, vì sao? Vì tâm niệm ấy cứ huân tập hết kiếp này đến kiếp khác từ vô số kiếp về trước đến giờ nên nó trở thành có, hiện tướng để chúng ta có cảm giác cái này là thực có, là ù lỳ chướng ngại, chứ thực ra, nó chỉ là những tâm niệm của chúng ta mà thôi. Ngược lại, nếu ta muốn trở về, muốn làm con cá tích bơi ngược dòng trở về diệu tâm, thì cần khởi tâm niệm là không, rồi lên cao hơn nữa là chẳng có, chẳng không. Như thế, trong vô lượng vô số kiếp thì đến một lúc nào đó pháp giới này sẽ biến chuyển đúng theo tâm thức của người tu hành, lên đến bực cao nhất là Phật thì tâm các ngài là tâm bình đẳng, chẳng có, chẳng không vậy.

Điểm thứ hai chúng tôi xin nhắc ở đây là câu “Tam đế viên dung.” Đế là chân lý. Đạo pháp có thế đế (tục đế), là đế của người phàm phu chúng ta, đế thứ hai cao hơn một nấc là Chân Đế, tức là chân lý của hàng Thanh Văn, Duyên Giác, đế thứ ba là Đệ Nhất Nghĩa Đế, tức là chân lý của chư Phật và chư Đại Bồ Tát. Thế đế của phàm phu thường chấp một bên. Ví như trông thấy cái bàn thì chúng ta coi là có cái bàn, trông lên hư không chúng ta gọi là không, hoặc tốt hoặc xấu, rõ rệt một cách nhị biên như thế. Nhưng khi tu lên đến bực Thanh Văn thì các ngài quán không và vào chỗ chân đế, thì các ngài cho pháp giới này là không, cái ngã cũng không. Lên cao hơn nữa đến chư Đại Bồ Tát thì các ngài vượt luôn qua cả chân đế đó, vượt qua cái trệ không, các ngài giữ tâm chẳng có, chẳng không như một người đi dây giữa không trung vậy. Đây gọi là Đệ Nhất Nghĩa Đế.

Nhân đây, tôi xin trở lại một chút về “tứ cú” mà tôi đã giảng mấy lần ở đây rồi. Ta sẽ thấy rằng, phàm phu là đệ nhất cú, tục đế, chân đế của Thanh Văn là cú thứ hai, đệ nhất nghĩa đế của các vị Bồ Tát là cú thứ tư, còn đệ tam cú, cũng có cũng không là của ngoại đạo. Đệ nhất nghĩa đế là đệ tứ cú, chẳng có chẳng không hoặc giữ im lặng là tối thượng. Còn khoa học mà người ta thường tôn sùng là chỉ ở đệ nhất cú mà thôi (thế đế), vì họ đều chấp có vi trần, có núi non, có người, có vật v.v… Nên phải nhớ rằng giáo lý tự tâm biến hiện của Phật giáo mà chưa tin thì chưa hẳn là một Phật tử.

Trước đây, có một người Tầu được giải Nobel, khi ủy ban trao giải Nobel hỏi ông rằng, gần như năm nào anh cũng làm được một việc đáng được giải Nobel cả, vậy thì tại sao anh lại giỏi như vậy? Ông trả lời rằng, tôi chỉ đọc và hiểu đạo Phật mà thôi.

Điều thứ ba là cả Thanh Văn lẫn Bồ Tát tu hành đều dùng tâm. Bên Thanh Văn thì dùng tâm chỉ và quán, chỉ tức là định, quán tức là huệ. Bồ Tát thừa cũng dùng chỉ và quán nhưng dụng tâm sâu sắc hơn. Song Bồ Tát thừa lại có thêm một điểm quan trọng đó là nguyện lực. Bên Thanh Văn dùng nhiều định lực (chỉ), một ít huệ lực (quán), không có nguyện lực. Trái lại, Bồ Tát dùng định lực, huệ lực đều nhau và nhiều hơn hết là nguyện lực.

Tôi xin nói về Thanh Văn thừa trước…

Các vị Thanh Văn thừa là những vì rất nhàm chán thân máu mủ này, rất chán thế gian này, vì các ngài luôn quán rằng không có cái gì vui được lâu, cái vui bây giờ cũng sẽ chuyển thành cái khổ. Còn xác thân này thì luôn luôn phải chịu sanh già bệnh và chết. Nên không có gì gọi là vui cả. Nên khi đức Phật nhập diệt, có mười tám ngàn A La Hán tự đốt thân theo Phật và mưa xá lợi. Các ngài tu để giải thoát cho mình, diệt những phiền não chướng, để khỏi thọ sinh thân máu thịt, các ngài dùng định lực và huệ lực, nhưng dùng định lực nhiều hơn.

Trong con đường diệt phiền não, các ngài có hai cách tu: Trạch diệt vô vi và phi trạch diệt vô vi. Trạch là săm xoi, quán chiếu để hiểu rành rẽ nguyên do nào phiền não được cấu tạo, để tiêu dung, nên trạch diệt thuộc nhiều về quán, tức là thuộc về trí huệ. Còn phi trạch diệt thuộc về chỉ, dùng định lực để đè các phiền não không cho khởi, mà không săm xoi cỗi nguồn phiền não, giống như ta lấy một tảng đá đè lên đám cỏ dại, hoặc xây ciment lên thì cỏ dại sẽ không mọc. Còn trạch diệt là cứ để phiền não mọc lên rồi quán chiếu rành rẽ và tiêu dung những phiền não đó đi, như người để cỏ dại mọc và nhổ cho đến khi hết sạch. Phi trạch diệt dùng định lực đè phiền não thì sẽ vào được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, bốn vô sắc định. Nhưng chưa chắc đã đắc bốn quả thánh, vì phiền não chưa được diệt. Như trường hợp của Thiện Tinh Tỳ Kheo, ngài đã đắc đệ tứ thiền, nhưng chưa đắc được quả thánh nào cả, nên đến khi chết thấy thân trung ấm cùa mình vẫn còn, và vẫn thấy đầy rẫy phiền não, nên ngài mới kêu lên: “Chẳng có Niết Bàn gì cả, chư Phật chỉ nói lời hư vọng,” vì vậy ngài bị đọa địa ngục. Còn dùng trạch diệt vô vi là quán chiếu để tiêu dung nó đi. Phương pháp này dùng huệ để tiêu dung phiền não, biết rằng nó chỉ là giả huyễn, do vô lượng nhân duyên họp thành tham, sân, si, mạn, nghi v.v…, các vị chiếu soi hoài hoài sẽ tiêu dung được cội rễ của phiền não chướng, sẽ đắc bốn thứ quả thánh là Tu Đà Hoàn, Tu Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán, đồng thời có thể được bốn quả thiền, bốn vô sắc định và diệt tưởng định.

Hỏi: Có phải sau khi diệt thân này thì mới đắc bốn quả thánh haỵ đắc được quả ngay khi còn thân này?

Đáp: Ngay khi còn thân này đã có thể đắc được rồi.

Hỏi: Thiền này có đồng nghĩa với thiền đốn ngộ nói rằng: trên đầu sào trăm trượng nên bước thêm bước nữa không?

Đáp: Thiền đốn ngộ thuộc Đại Thừa nên cao hơn. Nhưng trước sau cũng là đi vào thức ấm, và khi vào đến đây, phải “bước thêm bước nữa,” có nghĩa là phải diệt thêm sở tri chướng để trờ thành Bạch Tịnh Thức.

Nếu ta làm một sự so sánh về định lực, thì một Bồ Tát đệ ngũ địa bằng định lực của một vị A La Hán, nhưng về huệ lực và nguyện lực thì vị Bồ Tát đệ ngũ địa hơn A La Hán rất nhiều, các vị Bồ Tát thường quán không, quán giả, và quán trung, còn bên Thanh Văn các ngài quán không mà thôi. Nhưng ở chặng giữa, ở chặng đường thập hồi hướng thì định lực của các vị Bồ Tát thua các vị A La Hán.

Hỏi: Vậy thì thiền vipassana (Minh sát tuệ) của Nam Tông thuộc loại gì? Trạch diệt vô vi hay phi trạch diệt vô vi?

Đáp: Đó là trạch diệt vô vi, nhưng tuệ đó chưa phả là tuệ cao lắm vì chỉ dùng trạch diệt vô vi để tiêu dung phiền não thôi. Ở đạo Phật, khổ một cái là danh từ cứ trùng trùng điệp điệp, (vì thế gian trùng điệp), quá nhiều danh từ nên nhiều Phật tử bị lạc lõng.

Đại khái, các vị Thanh Văn tu trạch diệt vô vi và phi trạch diệt vô vi, dùng định lực và huệ lực. Còn các vị Bồ Tát cũng tu cả định lẫn huệ, đồng thời thêm nguyện lực nữa. Nguyện lực nó rất ghê gớm ở chỗ nó vừa là định, cũng vừa là huệ tâm lớn hiểu rõ mình và pháp giới là gì, Phật là gì, nhân duyên, như huyễn v.v… Rồi do huệ tâm sanh ra Đại bi và Nguyện. Vì vậy, chĩ ở chỗ nguyện thôi mà những vị quĩ thần hay hộ trì cho những vị này. Như trong kinh, có những vị ngồi thiền đắc sơ thiền, nhị thiền, nhưng kinh không hề nói có chư Thiên đến cúng dường, vì các ngài chưa phát được những thệ nguyện rộng lớn, chưa làm lợi ích cho ai.

Còn điểm thứ tư là định và tam muội. Vậy định và tam muội khác nhau ra sao? Trong kinh thường nói đến cửu thứ đệ định mà thôi, từ tứ thiền, tứ không định và diệt tận định. Còn tam muội thì trong kinh Hoa Nghiêm hoặc Pháp Hoa thì nói đến vô số tam muội. Nhưng khi lên đến chỗ tột cao như thủ Lăng Nghiêm tam muội thì kinh cũng gọi là thủ Lăng Nghiêm định. Vậy là sao? Nếu ta quyết đoán định khác tam muội, thì tại sao trong kinh lại nói là Đại Định Thủ Lăng Nghiêm cũng là Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, và cũng là Như Huyễn Tam Ma Đề?

Trong giáo lý nhà Phật thường các ngài chỉ nói ẩn hiện thế thôi, một người muốn tìm hiểu phải bơi lội bì bõm trong ấy lâu mới hiểu được.

Chữ Định thường được dùng trong hành trình đi vào Không quán. Trong bước đường đi vào không quán, có những thứ bậc rõ rệt, một hành giả vào đến sơ thiền, nhị thiền rồi đến tam thiền là đã vào đến bình diện thọ ấm, qua đến tứ thiền là vào đến bình diện tưởng ấm, vào đến bốn vô sắc định là vào đến bình diện của hành ấm, đến khi vào diệt tận định là vào được bình diện thức ấm, mức độ đi vào không thì chỉ có từng đó mức độ ấy thôi (cửu thứ đệ định). Dĩ nhiên là không kể đến những thứ định lặt vặt khác, như ta quán một một điểm đen đằng xa, khi có chú tâm thì đó cũng là định, nhưng định đó còn rất thấp. Lại còn có những thứ định như biến xứ định, là khi hành giả quán tất cả nhà cửa, cây cỏ, núi sông đều mầu vàng, quán lâu hành giả sẽ thấy tất cả đều biến thành màu vàng, nhưng chỉ riêng đối với hành giả quán chiếu thấy vậy thôi. Nếu vị này đi sâu vào định hơn nữa thì vị đó sẽ chuyển cái định của mình thành định quả sắc, tức là khiến người chung quanh cũng nhìn thấy mọi vật trở thành màu vàng. Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ xin nói lược đến những định chính thôi, chứ nói nhiều quá thì quá dài mà có thể đi lạc xa với ý chính… Còn về tam muội thì trái lại, tam muội thường đi vào giả quán nhiều, nên trong kinh có vô số tam muội, vì trong pháp giới có vô số cảnh giới. Khi quán giả, hành giả có thể quán bất cứ một cảnh giới nào. Như trong phẩm Hiền Thủ (số 12) khi một hành giả quán đất, hoặc nước, lúc nhập định thì có nước, đến khi xuất định thì nước biến thành lửa. Khi quán giả, ta có thể mang thân này nhập tam muội đến khi xuất mang thân rồng, mang một thân nhập tam muội lúc xuất lại vô lượng thân .v.v… Vì vậy quán giả tức là quán một cảnh giới, lên cao hơn là quán cái biến hóa của nó, như vậy mới có thể hóa thân vô lượng bời bời để độ sanh được. Khi một hành giả quán không đi vào biển Bát Nhã của Thanh Văn rồi, sự biến hóa chưa có mấy, vì trong kinh thường nói, các vị Thanh Văn chỉ có 18 phép biến hóa thôi, còn Bồ Tát thì biến hóa vô lượng. Tam muội khác định là ở chỗ đó, tức là phải dùng đại bi nhiều để đi vào giả, vì đại bi là mầm mống của sự biến hóa. Chính vì vậy, Đại Bi Tâm rất cần thiết cho đường tu chứng của các vị Bồ Tát, không có Đại Bi Tâm mà chỉ có Bát Nhã thì hành giả rất dễ rơi vào con đường Thanh Văn. Nên sự biến hóa của tam muội vô lượng, đồng thời, trong tam muội các vị Bồ Tát lại chuyển từ tam muội này sang tam muội khác một cách rất thần kỳ, có thể trong một niệm nhập xuất hàng ngàn tam muội, đó mới thật là biến hóa, mới thật là có tự tại lực, còn bên Thanh Văn thì từ một định này chuyển qua một định khác phải mất thời gian nhiều hơn, mà chuyển biến cũng không được mau lẹ, không được chập chùng vô lượng. Thí dụ như từ sơ thiền, các ngà i qua nhị thiền, rồi qua tam thiền v.v… từng nấc một, chứ không như bên các tam muội của các vị Bồ Tát, có thể nhập một tam muội mà xuất cả ngàn tam muội được, chỗ khác nhau của định và tam muội là như vậy. Song khi lên đến Trung quán tuyệt vời, vào được như huyễn tam ma đề ở bực Bồ Tát thập địa, thì lúc đó định và tam muội là một, nên Đại ĐịnhThủ Lăng Nghiêm cũng là Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, cũng là Như Huyễn Tam Ba Đề.

Chìa khóa của đạo Phật là đi đến chỗ biến hóa không cùng, mà cái tâm có thể biến hóa nhiều nhất là cái tâm đại bi, và cũng là tâm Bát Nhã tuyệt vời, vì tột không cũng là diệu hữu vậy. Nên phải nhớ, khi hành giả còn tu ở dưới thì tách ra làm hai, nhưng lên tột bờ mé thì nhập lại làm một.

Điểm thứ năm là nói đến lịch trình không, giả và trung quán. Không quán thì ai cũng hiểu rồi, còn giả quán là sao? Tại sao lại phải giả quán? Ta nên nhớ đến câu kệ của ngài Quán Thế Âm: “Sắc bất dị không” tức là đi từ sắc vào không, là quán không. “Không bất dị sắc” là đi từ không ra sắc tức là quán giả. “Sắc tức là không, không tức là sắc” là quán trung. Chỉ một câu nói trong bài Bát Nhã Tâm Kinh mà thâu tóm tất cả đường tu, nhưng khổ nỗi là chúng ta không làm nổi mà thôi.

Câu “sắc bất dị không” tức ta phải quán tất cả đều là không. Và cũng cần biết rằng khi quán chiếu vào không hải có hai cách: một là quán theo lối nhân duyên, tức là theo Thanh Văn thừa, hai là quán theo lối như huyễn của Bồ Tát đạo.

Quán Nhân duyên thì ai cũng biết rằng tất cả sắc trần đều do vô lượng nhân duyên họp lại mà thành, nếu quán lâu hành giả có thể tiêu dung được những vật ù lì này để đi vào không hải kia. Rồi các vị Thanh Văn hay dừng lại đó, còn vị Bồ Tát thì vẫn “yết đế” (vượt lên), đi nốt con đường còn lại bằng cách quán giả, từ không ra sắc. Quán giả để trưởng dưỡng tâm đại bi thêm lớn và có thể biến hóa không lường được. Nên chư Phật bao giờ cũng khuyên rằng, chớ có dừng chân nơi không hải, vì đó mới chỉ một phần ba đoạn đường thôi. Phải yết đế, yết đế, vượt lên, vượt lên nữa để lặn sâu đến chỗ tột không, làm con thoi đi từ không ra giả, từ giả vào không, mà mỗi lần ra vào như vậy thì lại xuống sâu không hải một nấc, ngày càng biến hóa thêm cho đến mức viên dung gọi là “chân không mà diệu hữu.”

Trong kinh tả ngài Thiện Tài đã đến cửa bể rồi, giờ đi tìm cầu thiện tri thức, học thêm về quán giả để chỉ có một mục đích đi vào đến đáy bể đó. Còn trong kinh Viên Giác nói đến chỗ khởi giả là tam ba bát đề, là phải khởi huyễn để trừ huyễn, đó là ngài dạy cho những vị cao. Còn phàm phu chúng ta, chỉ cần biết con đường tu chứng là như thế thôi, sức của chúng ta chỉ có thể quán nông cạn, quán nhân duyên, như huyễn một chút thôi. Nhìn vật gì ta cũng quán nó như một lớp sương mù khởi dậy từ diệu tâm, chứ chúng ta chưa thể biến hóa được. Còn các vị Bồ Tát khi vào được thức ấm rồi thì các ngài biến hóa rất dễ, lúc đó các ngài sắp trở thành pháp thân Bồ Tát, vì thế các ngài không thể ngồi trong thức ấm mà an hưởng sự trầm không thú tịch mà các ngài luôn luôn phải hóa hiện thân hình, hoặc cảnh giới để độ sanh. Tức là khởi những cảnh huyễn để độ huyễn.

Ta cũng cần định nghĩa lược qua chữ tam ba bát đề. Nó có nghĩa thứ nhất là phải nhớ tưởng chư Phật mười phương, sau đó khởi những cảnh huyễn để độ huyễn, nên vì thế trong kinh thường nói đến chữ “thiện thệ,” tức là qua lại, sang giả rồi trở lại không, vào không rồi trở ra giả, cứ thế, luôn luôn làm con thoi qua lại, không trụ bờ bên này, không trụ bờ bên kia, cũng không dừng ở giữa dòng. Càng qua lại thần tốc bao nhiêu thì tự tại lực càng thần biến bấy nhiêu, trong một niệm có thể qua lại vài ngàn lần, hoặc vài vạn lần, hay vô lượng vô số lần, thần tốc càng ngày càng lớn, thì tự tại lực càng biến hóa vô lượng. Như đức Phật nói rằng: “Ta ở nơi không hải mà vẫn diễn nói lịch kiếp tu hành…,” có nghĩa là tâm ngài vẫn ở tột không tịch tĩnh, nhưng đồng thời ngài vẫn khởi Đại Bi nói tất cả pháp để độ sinh, ngài làm như vậy một cách thường trực và hết sức thần tốc, vì vậy mới gọi là thiện thệ. Thiện thệ lâu sẽ biến thành trung đạo song chiếu tuyệt vời, tức là trôi vào biển Đại Giác. Đại cương không, giả và trung là như vậy. Ngay cả tâm thức của chúng ta cũng thế, tuy chẳng quán chiếu giỏi giang gì, nhưng nó cũng đi qua đi lại mà không có mấy người biết. Có điều sự đi qua, đi lại của tâm thứ chúng ta không vào sâu được đến thức ấm mà chỉ có từ sắc ấm vào đến tưởng ấm là cùng. Sở dĩ chúng ta vẫn còn bị trôi lăn vì tất cả những hành vi của chúng ta đều vướng mắc ở những điều vọng, nên không được thần biến, tự tại như chư Đại Bồ Tát và chư Phật.

Nay nói đến điểm cuối cùng là điểm Ma chướng. Thường khi tu hành trong giai đoạn không hay gặp ma chướng. Còn trong kinh, ngài Thiện Tài đi vào giả, nên rất ít gặp ma chướng, ngài chỉ gặp một chỗ thôi nhưng lại diệt được ngay, tức là ở đoạn đi gặp Thắng Nhiệt Bà La Môn. Ông này tu theo lối trí huệ, ông để một rừng gươm rồi đốt một đống lửa lớn, sau đó trèo lên cao rồi nhảy vào rừng gươm đó. Lúc Thiện Tài đến hỏi đạo, thì Thắng Nhiệt Bà La Môn cũng bảoThiệnTài làm y như vậy, Thiện Tài ngần ngừ và nổi lên một ý nghi ngờ: “đây có phải là ma chăng mà sui ta làm như vậy?” Thiện Tài vừa nghĩ thế thôi, thì chư Thiên hiện xuống, người nào cũng bảo cho Thiện Tài biết ông Thắng Nhiệt Bà La Môn này tu theo trí huệ mà không phải cảnh giới là ma, nên cứ việc theo lời thiện trí thức này mà làm. Thiện Tài nghe lời, nhảy đến nửa chừng thì đắc được hai tam muội. Nên phải hiểu, con đường tìm cầu thiện trí thức của Thiện Tài rất ít bị ma chướng, vì chỉ trong giai đoạn tu không quán là bị ma chướng nhiều nhất mà thôi, ở đây, ta lại phải trở về với Lăng Nghiêm để dẫn chứng. Trong Lăng Nghiêm nói rằng, một khi hành giả vượt sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm đều bị ma chướng về tham dục, nhưng khi vào đến hành ấm và thức ấm thi thiên ma không chiếu cố nữa mà chỉ còn ma ý của chính hành giả mà thôi. Tỷ dụ như khi vào đến không hải, lại tưởng đó là Niết Bàn, hoặc nghi cái này, cái khác, đó gọi là ma ý. Còn đi ra giả quán thì ít bị, thiên ma không chiếu cố vì các ngài tu đã khá cao rồi, lại có rất nhiều thiện thần hộ trì, hơn nữa thiên ma chi ngự ở dục giới tức quanh quẩn từ sắc ấm đến hành ấm mà thôi. Sau đó, Thiện Tài lại hơi bị một chút chướng ngại ở chỗ gặp vị thiện trí thức Ba Tu Mật Đa. Đó là một người đàn bà rất đẹp, lại thị hiện làm kỹ nữ. Khi Thiện Tài đến nơi, nghe thấy dân chúng nói về vị này, có người khen, kẻ chê, họ nói rằng: “Đồng tử này trông tướng mạo đoan trang, mắt không nháy, tại sao đi tìm bà dâm nữ này làm gì?” Nhưng có người hiểu và biết rằng Ba Tu Mật Đa là một vị Bồ Tát thị hiện, vì ngài dạy cho Thiện Tài môn “Ly Tham Dục Tế,” tức là lìa hết tham dục. Nếu ai được trông thấy bà đều mất hết tất cả tham dục, “chỉ cần nhìn ta hoặc liếc mắt, hay cầm tay ta là mất hết tham dục…” Như vậy, trong kinh muốn nói rằng Thiện Tài đã tu vào đến thức ấm rồi, nhưng kinh vẫn nhắc đến chuyện tham dục, vì nhiều khi hành giả phải mài tâm mình, tu đi, tu lại nhiều lần, cũng như đức Phật Thích Ca ngồi Bồ Đề Đạo Tràng, đã là bậc Đẳng Giác rồi, thì tại sao ma nữ còn có thể hiện ra để quấy phá ngài được? Tại sao lại phải tranh đấu với Ma Vương làm chi? Trong kinh đại thừa nói rằng, lại còn có cả Ma Vương đem quân đến quấy nhiễu ngài nữa, tại sao thế? Đức Phật đã gần làm chủ pháp giới này rồi thì sao Ma Vương còn có thể quấy phá được? Vì rằng, trong kinh Hoa Nghiêm có dạy, chính vì lòng đại bi, có những chúng sanh thích chiến đấu, thích quân trận nên ngài thị hiện có Ma Vương đến phá, đồng thời thị hiện cả ma nữ đến phá nữa, để nhắc chúng sanh biết rằng, cửa ải tham dục là một cửa ải rất ghê gớm, khó vượt, vì có những bậc tu đã cao rồi mà vẫn còn bị ma nữ ám ảnh, nên ngài khởi từ bi tâm để nhắc nhở chúng ta thôi. Tôi vẫn nghĩ rằng, nếu chúng ta tu cao lên một chút, vượt qua được tưởng ấm mà vào đến hành ấm thì lúc đó chúng ta không còn bị ma chướng nhiều nữa. Lúc đó chỉ còn ma ý, cái nghi và cái mạn mà thôi. Đó là sáu điểm chúng ta cần phải nhớ trước khi đi vào kinh theo dõi con đường tìm cầu thiện trí thức của ngài Thiện Tài đồng tử…

Nay xin đi vào kinh…

Trên kia, chúng ta thấy đức Phật ngồi vườn cấp Cô Độc trong Trùng các đại trang nghiêm, có năm trăm vị Bồ Tát, năm trăm vị Thanh Văn. về số 500 này, thực tôi chưa hiểu rõ tại sao kinh lại lấy số năm trăm, nhưng hình như kinh hay dùng con số mười là để chỉ cái vô tận và số năm là để cho sự thành tựu hoàn mãn, cũng như Ngũ Cổ Như Lai là năm vị Phật xưa vậy…

Kinh:

Bấy giờ chư Đại Bồ Tát, Đại Đức Thanh Văn những chủ thế gian và quyến thuộc đều nghĩ rằng: cảnh giới của Như Lai, trí hạnh của Như Lai, sức gia trì của Như Lai, lực của Như Lai, vô úy của Như Lai v.v… không tin giải được, không rõ biết được, không nhẫn thọ đưực, chỉ trừ sức gia bị của chư Phật…

Giảng:

Đại khái đoạn này nói đến các vị Bồ Tát và những vị Thế Gian Chủ v.v… tự nghĩ về những cảnh giới, những trí hạnh của Như Lai là thế nào, các ngài chỉ nghĩ thế thôi, nhưng đức Phật vì có tha tâm thông nên ngài biết được các sự nghi đó, thì đây, trong kinh tả…

Kinh:

Bấy giờ đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Bồ Tát đó rồi liền dùng đại từ bi làm thân, đại bi làm đầu, dùng pháp dại bi mà làm phương tiện đầy khắp hư không, nhập sư tử tần thân tam muội…

Giảng:

Đức Phật biết tâm niệm của các vị Bồ Tát rồi, ngài không giảng bằng lời, mà chĩ giảng bằng tam muội, trong đoạn này, kinh không hề nói đến sự triển khai về Bát Nhã (Tánh Không), mà chỉ dùng Đại bi, mà đại bi là cái tâm sở đưa chúng ta đến chỗ biến hóa nhiều hơn là Bát Nhã. Và ngài đã khởi tâm đại bi, nên ngài đã nhập tam muội gọi là “Sư Tử tần thân tam muội,” Sư tử tần thân là con sư tử chuyển thân, vờn cầu mà không có gì vấp váp cả, đức Phật vào tam muội này cũng thế, ngài cũng thần kỳ chuyển tam muội, chuyển từ tam muội này sang tam muội khác…

Kinh:

Khi đức Thế Tôn nhập tam muội này rồi, tất cả thế gian đều khắp nghiêm tịnh…

Giảng:

Ngài vào tam muội thì ở khu rừng đó trở thành lâu các Đại trang nghiêm, bỗng dưng rộng rãi, không có ngằn mé. Tất cả đều nói lên sự biến hóa, khi ngài muốn nói pháp lớn thì ngài thường nhập tam muội nên đạo tràng trở thành trang nghiêm rộng lớn hơn. Cũng như tôi vẫn nói rằng, khi chúng ta lên núi Linh Thứu ở bên Ấn Độ, chỉ thấy một mảnh sân rất nhỏ, nhưng đến khi ngài ngồi nói pháp thì tự nhiên chỗ đó bỗng rộng rãi ra, dù bao nhiêu người đến dự cũng vừa. Ở đây cũng vậy, nên sau khi nhập tam muội rồi thì tất cả hào quang phóng đi mười phương các cõi, nên mười phương chư Đại Bồ Tát đều vân tập.

Kinh:

Lúc đó, lại do thần lực của Phật, rừng Thệ Đa bỗng nhiên rộng rãi đồng với bất khả thuyết Phật sát vi trần số quốc độ. Tất cả đều diệu bửu xen lẫn trang nghiêm. Bất khả thuyết bửu trải khắp mọi nơi. Vô số bửu làm tường rào. Cây đa la báu trang nghiêm bên dường…

Giảng:

Chỗ này hiện lên cảnh giới y như bên Cực Lạc, vì có những cây, những hoa báu, những giòng nước…

Kinh:

Lại có vô lượng hương hà, đầy những nước thơm sóng gợn xoay quanh. Tất cả hoa báu theo dòng chuyển về phía hữu…

Giảng:

Khi nào hiện tướng thì luôn xoay về phía hữu, khi nào xoay về phía tả tức là chìm vào không, là Bát Nhã, hiện tướng là đại bi. Tôi nghĩ rằng, tất cả những sông, hay giòng nước bát công đức bên Cực Lạc cũng đều xoay theo chiều phía hữu.

Kinh:

Vô số báu phóng đại quang minh…, vô số báu trang nghiêm mặt đất, đốt những diệu hương mùi thơm ngào ngạt…

Giảng:

Chỗ này nói khoảng mấy trang, nhưng nếu đọc hết thì dài quá, nên xin đọc lược qua chỉ cần hiểu ý chính là được rồi…

Kinh:

Bấy giờ, trong hư không trên rừng Thệ Đa, có bất tư nghì thiên cung điện vân, vô số bửu liên hoa vân, thiên y vân v.v… Tại sao vậy, vì thiện căn đức Như Lai bất khả tư nghi. Vì oai đức của đức Như Lai bất khả tư nghì. Vì đức Như Lai ở trong một lỗ lông thị hiện quá khứ tất cả chư Phật bất tư nghì. Vì đức Như Lai tuy phóng mỗi một quang minh đều có thể chiếu khắp tất cả thế giới bất khả tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông phát ra tất cả Phật sát vi trần biến hóa vân đầy khắp tất cả chư Phật, tất cả chư quốc độ bất tư nghì v.v…

Giảng:

Những chỗ này đã giảng trước nhiều lần rồi, nghĩa là cả hội trường biến hóa hẳn lên, như cảnh giới của Cực Lạc, có khi còn hơn thế nữa. Khi hội trương biến hóa thế rồi, thì mười phương đông, nam, tây, bắc, và giữa những phương ấy, đều có những vị Bồ Tát từ mười phương vân tập. Lề lối và nghi thức của một đạo tràng lớn là như vậy, tức là đức Phật ngồi đó, vào tam muội phóng quang tất cả các nơi, thay đổi tất cả đạo tràng, rồi chiếu ánh sáng đi mười phương thế giới, tất cả những vị đại Bồ Tát gặp được ánh sáng ấy, đều vân tập đến để nghe pháp, các vị đến thường là đảnh lễ Phật rồi hóa hiện những tòa sen lớn và ngồi lên đó để nghe pháp. Đại lược là như vậy, sau khi các vị Đại Bồ Tát vân tập thì nói đến các vị Thanh Văn…

Kinh:

Lúc đó chư thượng thủ Đại Thanh Văn như ngài Xá Lợi Pht, Đại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp v.v… chư Đại Thanh Văn này ở tại rừng Thệ Đa mà đều chẳng thấy thần lực của Như Lai.

Giảng:

Tất cả sự biến hiện đó, cùng chư Đại Bồ Tát vân tập đến mà các vị Thanh Văn, A La Hán là những hàng đệ tử cao của Phật không nhìn thấy gì cả.

Kinh:

Chẳng thấy sự nghiêm hảo của Như Lai. Chẳng thấy cảnh giới của Như Lai. Chẳng thấy sự du hí của Như Lai…

Giảng:

Du hí tức là thần thông du hí, tại sao lại gọi là thần thông du hí? Tức là độ sanh mà vẫn tiêu dao, không chấp chước, chữ “du hí” không có nghĩa là giỡn chơi đâu, mà nghĩa của nó là các vị Đại Bồ Tát làm Phật sự một cách dễ dàng, không chấp, không khởi một tâm thiên lệch nào cả…

Kinh:

Chẳng thấy sự tôn thắng của Như Lai, chẳng thấy diệu hạnh và oai đức của Như Lai… Chư Đại Thanh Văn chẳng thấy được thần lực của chư Phật, cũng chẳng thấy được thân những Bồ Tát. Tại sao vậy? Vì thiện căn chẳng đồng…

Giảng:

Thiện căn tức là tu phước, huệ không đồng, vì sao? Vì các vị Thanh Văn chưa có tâm Đại Bi bình đẳng, thứ nữa, các ngài không có tâm Bát Nhã sâu xa, nên nhãn lực các ngài còn rất hạn hẹp, không có thiên nhãn tuyệt vời như chư Đại Bồ Tát và Phật được…

Kinh:

Vì vốn không tu tập thiện căn thấy Phật tự tại. Vì vốn chẳng khen nói công đức thanh tịnh của tất cả Phật độ ở mười phương. Vì vốn chẳng ca ngợi thần biến của chư Phật Thế Tôn…

Giảng:

Phàm phu chúng ta tuy rằng không có định và huệ gì, nhưng chúng ta có được lòng tin và đôi lúc cũng nói sự tán thán.

Kinh:

Vì vốn chẳng ở trong sanh tử phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, vì vốn chẳng làm cho kẻ khác phát tâm Bồ Đề, vì vốn chẳng có thể làm cho chủng tánh Như Lai không đoạn tuyệt, vì vốn chẳng biết tất cả pháp như huyễn, chư Bồ Tát như mộng…, vì cớ này nên chư Đại Thanh Văn không thấy được, chẳng chứng được, chẳng niệm được, chẳng quán sát được, chẳng tính lượng được, chẳng tư duy được, chẳng phân biệt được. Thế nên dầu cũng ở trong rừng Thệ Đa mà chẳng thấy được những đại thần biến của Như Lai.

Giảng:

Vì thân các vị Bồ Tát quá vi diệu, trụ xứ của các ngài quá sâu, diệu sắc thân của các ngài dệt bằng những hào quang vi tế quá, mà các hàng Thanh Văn chưa đủ nhãn lực để nhìn thấy. Tất cả vi diệu của đạo Phật là ở chỗ đó, mở nhãn lực ra, đó là tâm nhãn, trong kinh có rất nhiều thí dụ để giảng về việc này, tôi xin đọc đại lược một số…

Kinh:

Ví như có ngươi ở giữa đại hội ngủ say, chiêm bao thấy trên đảnh núi Tu Di thiên đế ngự nơi thành thiện kiến, cung điện vườn cây các thứ nghiêm tốt, ngàn muôn ức thiên tử, thiên nữ, thiên hoa rải khắp mọi nơi. Những y thọ sanh ra y phục đẹp. Nhưng hoa thọ đơm nở hoa đẹp. Những âm nhạc thọ trỗi thiên âm nhạc. Những thiên thể nữ ca ngâm tiếng nói. Vô lượng chư thiên  trong đó vui chơi. Người nằm mộng này tự thấy mặc thiên y đi dạo khắp thiên cung… ở trong đại hội tất cả mọi người dầu đổng ở một chỗ mà chẳng thấy, chẳng biết cảnh giới thiên cung như vậy…

Giảng:

Ở đây, tôi xin nhắc lại chữ “thọ,” như là những y thọ, những hoa thọ, những âm nhạc thọ v.v… đó chính là những loại cây trên trời, mọc ra những cái áo gọi là y thọ, phát ra những thứ âm nhạc gọi là âm nhạc thọ v.v… chứ chữ thọ đây không phải để chỉ cho thọ ấm đâu. Trong khi người nằm mộng nhìn thấy tất cả những cảnh giới đó, thì những người ở chung quanh không ai nhìn thấy cả, vì thiện căn không đồng. Cũng vậy, tuy các vị Thanh Văn cũng có mặt trong rừng Thệ Đa, nhưng thiện căn của các ngài không đồng nên chẳng nhìn thấy gì cả…

Kinh:

Ví như núi tuyết có đủ các dược thảo, lương y đến đó đều có thể phân biệt hết, còn những thợ săn, những người chăn súc vật thường ở trên đó mà chẳng thấy biết được thuốc hay.

Giảng:

Cũng như ví dụ trên, đức Phật lại cho một tỷ dụ khác về dược thảo, chỉ có lương y mới nhận rõ từng loại thuốc mà thôi, còn người thường thì chẳng biết gì hết. Hoặc người không có phước, nhiều khi nhìn thấy một cây rất quí, nhưng cũng chẳng biết gì hơn.

Kinh:

Đây cũng như vậy, chư Đại Đệ Tử Thanh Văn, dầu ở trong rừng Thệ Đa, thân cận đức Thế Tôn mà chẳng thây thần lực tự tại của Như Lai, vì không có tịnh nhãn vô ngại của Đại Bồ Tát nên chẳng có thể thứ đệ ngộ nhập pháp giới…

Giảng:

Vì không có tịnh nhãn nên chẳng thể nhìn được hết thứ tự lớp lang của pháp giới này. Tùy theo tịnh nhãn của mình càng rộng bao nhiêu thì ta càng nhập pháp giới nhiều bấy nhiêu. Phàm phu chúng ta chỉ nhìn thấy được một khúc rất hạn hẹp, thấy được cây cối, nhà cửa, vợ con, của cải v.v… vì tâm chúng ta chỉ mở được đến đó mà thôi, không thể nhìn thấy sâu, rộng hơn được. Còn chư Đại Bồ Tát lại khác, các ngài nhìn thấy được tất cả từ thai sanh, noãn sanh, hóa sanh, ma quỉ, chư thiên v.v…

Kinh:

Ví như Tỳ Kheo ở giữa đại chúng nhập biến xứ định, như là địa biến xứ định, thủy biến xứ định, hỏa biến xứ định, phong biến xứ định, thanh biến xứ định, huỳnh biến xứ định, xích biến xứ định (tức là tùy theo tâm mà có thể nhìn thấy được các màu khác nhau). Người nhập định này thấy những cảnh đó nhưng người khác không thấy được chỉ trừ người trụ trong chánh định này…

Giảng:

Xin nói đến thái độ của các vị Thanh Văn không nhìn thấy gì cả, các ngài ngồi như đui, như điếc vậy thôi. Sau đó, trong pháp hội, các vị Đại Bồ Tát đứng lên, người nào cũng nói kệ, mỗi vị đại diện cho một số Đại Bồ Tát nói kệ tán thán đức Phật, rồi sau mới vào ngồi trong pháp hội. Sau cùng, ngài Phổ Hiền mới đứng lên, ngài giảng giải qua về những tam muội của đức Phật, tu pháp môn gì thì được tam muội này. Trong khi đức Phật nhập tam muội để dắt những vị thính chúng (Bồ Tát) cùng vào tam muội đó, cũng như sau này, quí vị thấy rằng Thiện Tài đi gặp một vị thiện tri thức là ngài Tỳ Mục Cù Sa cũng đưa Thiện Tài vào tam muội của ngài vậy.

Kinh:

Bấy giờ đức Thế Tôn vì muốn cho chư Bồ Tát an trụ trong Như Lai sư tử tần thân quảng đại tam muội…

Giảng:

Muốn cho các vị BồTát vào được tam muội đó…

Kinh:

Nên từ tướng bạch hào giữa chăng này, phóng ra quang minh lớn gọi là phổ chiếu tam thế pháp giới môn, dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh làm quyến thuộc, chiếu khắp chư Phật quốc độ trong tất cả thế giới hải ở mười phương… Lúc đó tại rừng Thệ Đa, Bồ Tát đại chúng đều thấy tất cả cõi Phật khắp pháp giới hư không giới. Trong mỗi một vi trần đều có tất cả Phật sát vi trần sấ Phật độ. Hoặc thây ở trong bất khả thuyết Phật sát chúng hội phát ra âm thanh vi diệu đầy khắp pháp giới chuyển chánh pháp luân.

Giảng:

Kinh giảng rằng tất cả chư Bồ Tát cũng nhìn thấy tất cả cảnh giới trong tam muội y như Phật vậy, trong cảnh giới đó chỉ có quang minh và âm thanh thôi, quang minh thuộc về con mắt, âm thanh thuộc về cái tai, còn mấy căn khác không kể. Vì vậy, pháp giới này được dệt bằng quang minh và diệu âm…

Kinh:

Trong hội này, đại chúng Bồ Tát thấy thậm thâm tam muội đại thần thông lực của chư Phật Như Lai như vậy.

Giảng:

Sự độ sanh của đức Phật rất ghê gớm, ngài chỉ cần ngồi đó, nhập cơn tam muội, đưa tất cả vào tam muội mà không cần phải cất chân, đặt tay cả. Trong kinh kể ba, bốn trang về những tam muội thần biến của chư Phật này…

Kinh:

Chư Bồ Tát đó thảy đều đầy đủ đại trí thần thông, minh lợi tự tại, trụ  trí địa, dùng trí quảng đại quan sát khắp tất cả từ những trí huệ chủng tánh mà sanh, nhất thiết chủng trí thường hiện ở trước. Thân của các ngài (thân của các vị Đại Bồ Tát) siêu xuất tất cả thế gian, được trí huệ vô ngại đối với tất cả pháp, (trông thấy pháp gì cũng hiểu cả), khéo hay tỏ ngộ ngằn mé tận, vô tận…

Giảng:

Trí huệ của các ngài đã đến được ngằn mé tận và vô tận. Còn chúng ta thì khác, chỉ nhìn được có một khúc thôi, không biết vô lượng là cái gì, không biết được cái tận đi vào cái vô tận, như chúng ta không nhìn thấy được con sông lúc nhập vào biển cả… Nhưng chư Đại BồTát thì khác, các ngài đã nhìn lên được chỗ ngằn mé của nó.

Kinh:

Trụ ở ngằn mé, phổ biến nhập vào ngằn mé chân thiện.

Giảng:

Phổ biến tức là tất cả pháp, tức là vô lượng. Khi thấy tất cả pháp vô lượng đều rơi vào cái không đó, thì sẽ thấy được rõ tất cả. Trong Đại Thừa Khởi Tín, ngài Mã Minh nói rằng, khi một vị Bồ Tát chỉ thấy được niệm trụ, niệm dị, niệm diệt mà chưa thấy được niệm sanh thì chưa thấy được ngằn mé của tận và vô tận. Còn phàm phu chúng ta thì chỉ thấy các niệm đã trụ và hiện tướng rồi, chứ không thể biết được những niệm lúc sanh, tức là lúc nó khởi lên từ chân không. Phải lên đến Bồ Tát đệ bát địa mới có thể biết được…

Kinh:

Lúc đó, chư Đại Bồ Tát được bất tư nghì chánh pháp quang minh…

Giảng: Sau khi chư Phật dùng tâm đại bi cho tất cả chúng Đại Bồ Tát vào được tam muội bất tư nghi này rồi, tức là trông thấy được tất cả pháp giới, lúc này ngài Văn Thù Sư Lợi mới xuất hiện, ngài xuất hiện cũng chỉ để nói một bài kệ thôi…

Kinh:

Các ngài đến rừng Thệ Đa…

Giảng: Đại khái đoạn này ngài tán thán sức thần lực của chư Phật, thì lúc đó Thiện Tài mới xuất hiện.

Kinh:

…Bấy giờ ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát sau khi nói kệ rồi từ Thiện Trụ Lâu Các đi ra cùng vô lượng Bồ Tát đồng hạnh và các thần Kim Cang thường theo thị vệ… Các túc hành thần từ lâu phát kiên thệ nguyện thường tùy tùng theo ngài…, các chủ địa thần thích nghe diệu pháp, các chủ thủy thần thương tu đại bi, các chủ hỏa thần chiếu quang minh trí sáng, (những vị này tu theo Bát Nhã), các chủ phong thần Ma Ni làm mão, các chủ dạ thần chuyên cần diệt trụ vô minh hắc ám…

Giảng:

Trong phẩm này ta nên để ý đến các chủ dạ thần, vì có nhiều vị thị hiện làm người nữ, mà chủ dạ thần tượng trưng cho Bát Nhã, thường dạy chúng ta về trí huệ.

Kinh:

Các chủ trú thần xiển minh Phật nhựt, nhất tâm không lười.

Giảng:

Chủ trú thần là những vị coi ban ngày, còn chủ dạ thần là những vị coi ban đêm.

Kinh:

Các chủ không thần trang nghiêm pháp giới tất cả hư không, các chủ sơn thần thường siêng chứa nhóm thiện căn trợ đạo cao như núi, xu hướng nhất thiết trí, các chủ thành thần thường siêng gìn giữ thành Bồ Đề Tâm của tất cả chúng sinh.

Giảng:

Đừng tưởng rằng các chủ thành thần là các ngài thường là những vị thần giữ thành trì đâu, mà là giữ cái thành Bồ Đề Tâm cho chúng sanh. Bởi vậy nên việc phát Bồ Đề Tâm rất quan trọng, người đã phát Bồ Đề Tâm rồi luôn luôn có các vị thiện thần hộ trì cho, vì Bồ Đề Tâm là Nhập Pháp Giới là nền tảng của đạo Phật.

Kinh:

Các đại long vương thường siêng gìn giữ pháp thành vô lượng nhất thiết chủng trí…

Giảng:… (bỏ một đoạn nói đến các chủ thần…)

Kinh bắt đầu tả ngài Văn Thù Sư Lợi ra đi về phía cửa Nam, tức là đi về cõi nhân gian. Ta cũng nên nhắc lại ý nghĩa về “phía Nam” trong kinh. Theo như Mạn Đà La của Mật Tông, bao giờ cũng bắt đầu từ phương Đông đi xuống phương Nam sang phương Tây rồi lên phương Bắc, sau cùng mái đi vào giữa trung tâm. Phương Bắc tượng trưng cho sự tịch diệt, tức là gần đến chỗ Niết Bàn rồi, chỗ đó tượng trưng cho chữ ÚM. Ở phương Bắc có đức Phật Thiên Cổ Như Lai, gọi là Thiên Cổ Như Lai vì vị Phật này có tiếng nói như giọng sâm ù ì của mùa đông, về mùa đông, tuy cái gì cũng rét mướt và mang một khung cảnh chết, nhưng tiếng sấm ù ì đó như quẻ “chấn” trong kinh Dịch, làm khởi lên tất cả mọi mầm sống, giống như sau một giấc ngủ dài lại khởi lên mầm sống mới. Còn phương Nam tượng trưng cho buổi trưa, vạn vật đã sung mãn, như sức nóng nhất của ánh sáng mặt trời. Còn phương Tây là tượng trưng cho sự độ trì viên mãn của đức Phật A Di Đà. Đó là theo Mạn Đà La của Mật Tông. Vì thế ngài Văn Thù Sư Lợi đi về phương Nam, về chỗ phát khởi đại bi viên mãn. Thiện Tài về sau cũng đi về phương Nam, về chỗ đại bi.

Chúng ta cũng cần lưu ý thêm về đoạn “... Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử Bồ Tát từ thiện trụ lâu các đi ra cùng vô lượng vô số Bồ Tát đồng hạnh và các thần kim cang thường theo hộ vệ...” Thiện trụ tức là giữ tâm mình chẳng có chẳng không, giữ tâm cân bằng giữa sắc và không, đó là điều chúng ta cần phải nhớ…

Kinh:

Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng những chúng Bồ Tát công đức trang nghiêm như vậy ra khỏi chỗ mình ở, đồng đến chỗ đức Phật, hữu nhiễu đức Thế Tôn vô lượng vòng. Dâng các món cúng dường lên đức Phật. Cúng dường xong từ tạ Phật rồi đi qua phương Nam đến trong nhơn gian…

Giảng:

Hữu nhiễu tức khởi tâm đại bi đồng thời cũng có nghĩa rằng: Con xin phép đức Phật xuống nhân gian để độ sanh. Và khi ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đến xin đức Phật đi về phương Nam các vị Bồ Tát khác đều trông thấy cả, riêng các vị Thanh Văn không trông thấy chỉ trừ ngài Xá Lợi Phất…

Kinh:

Lúc đó Tôn Giả Xá Lợi Phất thừa thần lực của Phật thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng chúng hội Bồ Tát trang nghiêm ra khỏi rừng Thệ Đa qua phương Nam du hành nhơn gian…

Giảng:

Ngài Xá Lợi Phất trông thấy được vì do sức Phật gia trì. Nên chúng ta cũng phải hiểu rằng, ngài Thiện Tài tự sức cũng trông thấy đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thì ngài là bậc tu chứng cao rồi. Vì nếu so sánh, ngài Xá Lợi Phất đã đắc được quả A La Hán, tức là đã chớm được vào đến không hải của thức ấm mà còn phải nhờ sức gia trì của Phật mới nhìn thấy được ngài Văn Thù. Sau khi ngài Văn Thù xuất hiện thì có một số vị tăng chạy theo, trong đó có ngài Xá Lợi Phất…

Kinh:

Ngài Xá Lợi Phất bèn nghĩ rằng: Tôi nay nên theo ngài Văn Thù Sư Lợi qua phương Nam…

Giảng: Ý ngài Xá Lợi Phất muốn theo ngài Văn Thù Sư Lợi qua phương Nam nhưng không hiểu vì sao sau này lại không thấy trong kinh nhắc đến ngài nữa…

Kinh:

Nghĩ xong Tôn Giả Xá Lợi Phất cùng sáu ngàn Tỳ Kheo đồng rời chỗ mình ở đến chỗ Đức Phật đảnh lễ chân Phật rồi bạch ý muốn Đức Phật hứa khả. Các ngài hữu nhiễu đức Phật ba vòng từ tạ đi đến chỗ ngài Văn Thù Sư Lợi.

Giảng:

Trong kinh nói ngài Văn Thù Sư Lợi hữu nhiễu đức Phật vô lượng vòng, nhưng ngài Xá Lợi Phất và sáu ngàn Tỳ Kheo chỉ hữu nhiễu ba vòng thôi. Vì sao? Vì cái tâm đại bi của các ngài còn rất mỏng.

Kinh:

Sáu ngàn Tỳ Kheo này vốn cùng ở chung với Tôn Giả Xá Lợi Phất xuất gia chưa lâu, những là Hải Giác Tỳ Kheo, Thiện Sanh Tỳ Kheo v.v… những Tỳ Kheo này đã từng cúng dường vô lượng Phật, trồng sâu căn lành, sức hiểu biết rộng lớn, tin nhãn sáng suốt, tâm lượng rộng rãi, quán Phật cảnh giới, rõ pháp bổn tánh, lợi ích chúng sanh, thường cần cầu công đức của chư Phật… Những Tỳ Kheo này đều do ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thuyết pháp giáo hóa mà được thành tựu…

Giảng: 

Sở dĩ sáu ngàn vị Tỳ Kheo này đi theo là vì có cơ duyên cũ, trong nhiều kiếp, ngài Văn Thù đã thuyết pháp giáo hóa cho các vị Tỳ Kheo này nghe rồi.

Kinh:

Ngài Xá Lợi Phát quán sát rồi bảo Giác Hải Tỳ Kheo rằng: Giác Hải nên quán sát thân thanh tịnh tướng tốt trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tất cả hàng nhơn thiên chẳng nghĩ bàn được. Giác Hải nên quan sát viên quang chói sáng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm chỗ vô lượng chúng sanh phát tâm hoan hỷ…

Giảng: 

Ngài Xá Lợi Phất khuyên các vị Tỳ Kheo nên quán sát ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, vì càng quán sát bao nhiêu càng tăng thêm thiện căn bấy nhiêu.

Kinh:

Bấy giờ Tôn Giả Xá Lợi Phất vì chư Tỳ Kheo mà tán thán khai thị diễn thuyết ngài Văn Thù Sư Lợi đồng tử có vô lượng công đức trang nghiêm như vậy, chư Tỳ Kheo nghe xong tâm ý thanh tịnh, tin hiểu vững chắc. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát quay lại như tượng vương xoay mình lại các Tỳ Kheo.

Giảng:

Kinh hay tả các chư Phật và chư Đại Bồ Tát mỗi lần xoay mình như tượng vương vậy, tức là cả đầu và mình đều xoay lại, không như phàm phu chúng ta, chỉ có ngoái cổ lại nhìn mà thôi.

Kinh:

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo Giác Hải Tỳ Kheo rằng, chư Tỳ Kheo, nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhân thành tựu mười hạnh xu hướng pháp đại thừa thời có thể mau nhập Như Lai địa, huống là Bồ Tát địa. 


Đây là mười hạnh:


1. Chứa nhóm tất cả thiện căn lòng không mỏi nhàm.

2. Thấy tất cả Phật kính thờ cúng dường lòng không mỏi nhàm.

3. Cầu tất cả Phật pháp lòng không mỏi nhàm.

4. Thật hành tất cả hạnh Ba la mật lòng không mỏi nhàm.

5. Thành tựu tất cả Bồ Tát tam muội lòng không mỏi nhàm.

6. Thứ đệ nhập tất cả tam thế lòng không mỏi nhàm.

7. Nghiêm tịnh khắp mười phương cõi Phật lòng không mỏi nhàm.

8. Giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh lòng không mỏi nhàm.

9. Ở trong tất cả cõi tất cả kiếp thành tựu hạnh Bồ Tát lòng không mỏi nhàm.

10. Vì thành tựu một chúng sanh mà tu hành tất cả Phật sát vi trần số Ba la mật, thành tựu Như Lai thập lực. Thứ đệ như vậy, vì thành thục tất cả chúng sanh giới mà thành tựu Như Lai tất cả trí lực lòng không mỏi nhàm.

Giảng:

Ý ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dạy rằng, các ông đi theo con đường Bồ Tát đạo, làm tất cả các hạnh không bao giờ được khởi tâm mỏi nhọc, nhàm chán, dù là hạnh gì. cũng vậy, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định v.v…

Kinh:

…(Bỏ một đoạn kinh…) Chư Tỳ Kheo, nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhân thành tựu lòng thâm tín Phật mười hạnh lòng không mỏi nhàm này thời có thể trưởng dưỡng tất cả thiện căn, rời bỏ tất cả những loại sanh tử, vượt thoát khỏi tất cả chủng tánh thế gian, chẳng sa vào hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật…, trụ diệt tất cả phiền não, nhập Bồ Tát địa, gần Như Lai địa…

Lúc đó chư Tỳ Kheo nghe pháp này rồi thời được tam muội tên là vô ngại nhẫn (tức đã mở được tâm nhãn) có thể ghi nhớ trước sau mười dời tất cả chúng sanh, có thể ghi nhớ những sự trong mười kiếp quá khứ, mười kiếp vị lai của các thế giới đó. Cũng có thể ghi nhớ chư Như Lai do mười lần bổn sanh sự, mười lần thành chánh giác. Chư Tỳ Kheo này liền thành tựu mười ngàn Bồ Đề Tâm…

Giảng:

Chúng ta nên nhớ con số mười có nghĩa là tượng trưng cho một số nhiều. Sau khi các Tỳ Kheo nghe pháp xong, tâm thức các ngài tăng trưởng ghê gớm, sau đó, kinh không nói đến các vị này theo ngài Văn Thù nữa, có lẽ thấy ngài Văn Thù dạy đủ rồi…

Kinh:

Lúc đó Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyên các Tỳ Kheo trụ hạnh Phổ Hiền. Trụ hạnh Phổ Hiền rồi nhập biển đại nguyện. Nhập biển đại nguyện rồi thành tựu biển đại nguyện, Vì thành tựu biển đại nguyện nên được tâm thanh tịnh. Vì tâm được thanh tịnh nên thân được thanh tỉnh. Vì thân thanh tịnh nên thân nhẹ nhàng nhặm lẹ. Vì thân thanh tịnh nhẹ nhàng nhặm lẹ nên được đại thần thông không còn thối chuyển. Vì được thần thông nên chẳng rời dưới chân của ngài Văn Thù Sư Lợi, đều hiện thân mình khắp tất cả chỗ của chư Phật mười phương. Thành tựu đầy đủ tất cả Phật pháp…

Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyên dạy sáu ngàn Tỳ Kheo phát Bồ Đề Tâm rồi, lần lượt đi về phía Nam, trải qua nhân gian đến phía Đông Phước Thành, ở trong rừng trang nghiêm tràng Ta La, chỗ đại pháp miếu mà chư Phật thủa xưa từng ngự giáo hóa chúng sanh…

Giảng:

Đến chỗ nhân gian ở làng Phước Thành, trong kinh bao giờ cũng có hai nghĩa, có một chỗ gọi là Phước Thành thực, đồng thời cũng chĩ rằng những người ở đó đều có phúc đức lớn…

Kinh:

…Rừng này thường được sự thủ hộ cúng dường của chư thiên, long, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, nhơn cùng phi nhơn. Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và các quyến thuộc đến rừng trang nghiêm tràng Ta La rồi liền ở tại đó nói khế kinh Phổ-Chiếu-Pháp-Giới cùng với trăm vạn ức na-đo-tha khế kinh.

Giảng:

Các quyến thuộc tức là các vị túc hành thần, chủ dạ thần… ở đây, ngài Văn Thù Sư Lợi nói kinh cho các vị chủ thần vương chứ chưa có người dự…

Kinh:

Khi nói kinh này, trong đại hải có vô lượng trăm ngàn ức chư long đến nghe kinh, nghe kinh xong chư long đều chán thân loài rồng…

Giảng:

Mặc dù làm loài rồng cũng có rất nhiều phước báo thần thông, nhưng sau khi nghe kinh xong, các vị này không còn thích làm thân rồng nữa mà khởi tâm muốn tu lên, phát Bồ Đề Tâm để cầu nhập pháp giới.

Kinh:

Vì chán thân loài rồng nên đều phát tâm cầu Phật đạo, đều xả thân rồng sanh vào loài người hoặc cõi trời. Một muôn chư long đều chẳng thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Giảng:

Trong kinh, tả có cả muôn vị rồng xả thân ngay để được sanh trong chư thiên hoặc cõi người, ở cõi người có một điểm hơn loài rồng là tuy không có phước báo và châu ngọc nhiều như loài rồng, cũng không có thần thông, nhưng lại có trí huệ để có thể phát Bồ Đề Tâm.

Kinh:

Lúc đó người Phước Thành hay tin ngài Văn Thù Sư Lợi ở đại tháp miếu trong rừng trang nghiêm tràng Ta La, vô lượng người ra khỏi thành đi đến rừng. Có Ưu Bà Tắc tên là Đại Trí cùng quyến thuộc năm trăm Ưu Bà Tắc như là…, (bỏ một đoạn nói về tên của các vị ưu Bà Tắc). Lại có năm trăm Đồng Tử như là Thiện Tài, Thiện Hạnh, Thiện Giới, Thiện Oai Nghi, Thiện Dũng Mãnh, Thiện Ty, v.v… lại có năm trăm Đồng Nữ như là Thiện Hiền, Đại Trí Cư Sĩ Nữ v.v… và Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di…

Giảng:

Trong kinh nhiều chỗ không nói rõ là người xuất gia hay tại gia, vì tùy theo tâm người đọc, chứ kinh không bao giờ nói một cách khẳng định cả.

Hỏi: Xin ông cho biết trong sáu nẻo luân hồi, rồng thuộc về loại nào?

Đáp: Tuy là có thần thông và nhiều phước báo, nhưng rồng vẫn bị xếp hạng vào loại súc sanh, nhưng là bàng sanh, đặc biệt ờ bàng sanh thì nhiều phước báo, vẫn còn nhiều dâm dục và thích ngủ, trí huệ lại kém. Vì có nhiều phước báo nên được một ít thần thông, một ít sanh đắc thông và có nhiều châu ngọc. Rồng có thể thọ bát quan trai giới được, nhưng chỉ có thể đắc thiện căn thôi, chứ không thể đắc giới được.

Hỏi: Từ xưa đến giờ, chưa có một người nào được thấy một con rồng bằng xương bằng thịt, nếu ông xếp nó thuộc vào loại súc sanh, thì nó cũng giống như những con vật khác, nghĩa là cũng phải mang một cái thân máu thịt đáng lý mọi người phải thấy chứ, sao không nghe có ai thấy cả?

Đáp: Súc sanh cũng có nhiều thứ, có những loại tuy gọi là súc sanh nhưng không mang thân máu mủ. Dụ như loài A Tu La cũng có nhiều lớp, có loại trên trời, có loại dưới bể, có loại ở nhân thế, và có loại ờ trong ngạ quỉ nữa, mà con mắt thịt của loài người chỉ nhìn thấy được những loài súc sanh có thân máu thịt thôi, ngoài ra còn những thứ súc sanh khác chúng ta không thấy được.

Hỏi: Có thực là loài rồng cũng có thể đi thọ bát quan trai giới được không?

Đáp: Thì trong kinh có nói, một hôm có một vị sư mách với đức Phật rằng, có một con rồng đi thọ bát quan trai giới, (chẳng nói đâu xa, cụ Tuyên Hóa ở Cali này, cụ cũng nói rằng cụ có một số đệ tử là rồng). Thì đức Phật bảo rằng, rồng có thể thọ được bát quan trai giới, nhưng chỉ tăng được thiện căn thôi mà không thể đắc giới được, muốn đắc giới cần phải có trí huệ, phải hiểu các giới.

Hỏi: Như vậy chắc con rồng không có hình tướng nên mọi người tưởng tượng ra một hình dáng nhất định nào đó gọi là rồng, chứ nếu không có thân máu mủ như ông vừa nói thì làm gì có hình tướng, còn nếu có hình tướng thì phải có thân máu mủ chứ, vậy thì ông giải thích ra sao về những hình vẽ của rồng ngày nay? Tưởng tượng hay có thân máu mủ?

Đáp: Bây giờ xin hỏi ông, chư thiên có thân máu mủ không?

Hỏi: Ở đây, tôi đang hỏi về rồng chứ có nói đến chư thiên đâu, vì ông vừa bảo nó là loài súc sanh kia mà, mà nếu làm thân súc sanh thì dứt khoát nó phải có thân máu mủ, như vậỵ nó mới có hình tướng thì người ta mới vẽ lại được chứ?

Đáp: Ông nên nhớ một điều là chúng sanh không nhất thiết phải có một thân máu mủ. Dụ như loài địa ngục, ngạ quỉ đâu có thân máu mủ. Vì rồng có phước báo rất nhiều nên nó không còn thân máu mủ nữa, nó có một cái thân hào quang nhưng thấp thôi.

Hỏi: Vậy người ta căn cứ vào đâu để tạc hình con rồng bây giờ?

Đáp: Là vì chúng ta, cả ông lẫn tôi đều chỉ có hai con mắt thịt, nên không trông thấy, và không tin có một loài gọi là loài rồng, nhưng ngày xưa nhiều vị có thiên nhãn họ nhìn thấy và vẽ lại cho chúng ta xem. Vì vậy, phải hiểu rằng, trong pháp giới này không có cái gì là không có được. Lối lập luận của ông cũng đúng đấy, nhưng đó là lối nhìn của thế nhân, lấy nhục nhãn để nhìn sự vật. Nhưng không phải tất cả những vật chúng ta không nhìn thấy có nghĩa là không có, và cũng không nên trụ vào nhục nhãn nhiều, vì như thế sẽ cản trở con đường tu của mình, vì sao? Vì có tin vào những nhãn trên mới phải tu, vì tin vào sự biến hiện của diệu tâm mới phải tu, vì tin vào huyễn hóa mới phải tu.

Kinh:

Ngài Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử biết người Phước Thành đều đã đến đông đủ, tùy tâm sở thích của họ mà hiện thân tự tại ánh sáng rực rỡ chói lấp đại chúng.

Giảng:

Ngài ngồi đó, dân chúng không trông thấy ngài mà chỉ thấy một vùng hào quang sáng chói. Cũng như ngài Long Thọ nhập “Nguyệt Luân Tam Muội,” dân chúng không thấy được thân ngài mà chỉ thấy hiện lên một vừng trăng tròn lấp lánh. Thì ở đây, ngài Văn Thù Sư Lợi cũng thế, nhưng trong kinh không nói rõ đó là nguyệt luân tam muội.

Kinh:

Lại dùng đại từ tự tại làm cho họ thanh lương, dùng đại bi tự tại khởi tâm thuyết pháp, dùng trí huệ tự tại biết tâm sở thích của họ, dung biệt tài quảng đại sắp vì họ mà thuyết pháp.

Giảng:

“Dùng đại từ tự tại làm cho họ thanh lương…” tức dùng tâm đại từ để cho những người chung quanh cảm thấy mát mẻ. Trong khi ngài Văn Thù hiện hào quang lấp lánh thì ngài nhìn ngắm Thiện Tài…

Kinh:

Lúc đó ngài lại quán sát Thiện Tài Đồng Tử do cớ gì mà có tên như vậy…

Giảng:

Tài có nghĩa bóng là bảy thánh tài, tức là giới tâm, tín tâm, định tâm, huệ tâm, tàm tâm, quý tâm, v.v…

Vì Thiện Tài tu tập công đức sâu dày nên có bảy thứ báu đó.

Kinh:

Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát biết Đồng Tử này lúc mới nhập thai, trong nhà tự nhiên hiện ra lâu các thất bửu. Dưới lâu các đó có bảy phục tạng. Trên phục tạng đất tự nứt ra mọc lên nanh thất bửu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, trân châu, xà cừ, mã não…

Giảng:

Phước đức của Thiện Tài lớn đến mức độ lúc sanh, đất nứt ra và có nanh thất bửu trồi lên, không phải hoang đường đâu, đúng thật là như vậy. Cũng như chúng ta đây, có người sinh ra trong nhung lụa, có kẻ sinh ra trong nhà hạ tiện, bần hàn v.v… đều tùy theo phước báo của mình cả. Vì suy luận như vậy, nên tất cả những gì trong kinh nói đều có thể xảy ra được, nhưng vì thời này là thời mạt pháp nên ít ai có đủ phước để có những chuyện như thế xảy ra, do vậy mà đôi khi chúng ta khởi lòng nghi mà không chịu tin.

Kinh:

Ngài Văn Thù Sư Lợi lại biết Thiện Tài đã từng cúng dường quá khứ chư Phật, gieo sâu căn lành, tin hiểu rộng lớn, thường thích gần gũi các thiện tri thức. Thân ngữ ý đều không lỗi lầm, tu Bồ Tát đạo, cầu nhất thiết trí, thành Phật pháp khí. Tâm Đồng Tử này thanh tịnh như hư không, hồi hướng Bồ Đề không chướng ngại…

Giảng:

Vì tâm Thiện Tài thanh tịnh như hư không, hồi hướng Bồ Đề không chướng ngại, nên ta phải hiểu rằng, Thiện Tài đã đi gần hết bậc thập hồi hướng rồi, mà tâm thanh tịnh như hư không tức là đã gần vào được đến không hải. Trong kinh thường tả ở không hải cũng có nhiều mức độ thanh tịnh, tu càng sâu thì càng vào đến mức độ thanh tịnh tột bực, tức là vào đến tột không cũng là ngằn mé của diệu hữu.

Kinh:

Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát quán sát Thiện Tài như vậy rồi, liền an ủy chỉ dạy tất cả Phật pháp. Những là nói pháp tích tập của tất cả Phật, pháp tương tục của tất cả Phật. Pháp thứ đệ của tất cả Phật. Pháp chúng hội thanh tịnh của tất cả Phật. Pháp pháp luân hóa đạo của tất cả Phật…

Giảng:

Bây giờ đã hết giờ rồi, ta nên tạm ngưng ở đây, sẽ tiếp theo kỳ sau…

 



ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH

 


Bấy giờ chư đại Bồ Tát, đại đức Thanh Văn, những chủ thế gian và quyến thuộc đều nghĩ rằng : cảnh giới của Như Lai, trí hạnh của Như Lai, gia trì của Như Lai, lực của Như Lai, vô úy của Như Lai, tam muội của Như Lai, sở trụ của Như Lai, tự tại của Như Lai, thân của Như Lai, trí của Như Lai, tất cả thế gian chư Thiên cùng người đời không thông đạt được, không xu nhập được, không tín giải được, không rõ biết được, không nhẫn thọ được, không quán sát được, không giảng trạch được, không khai thị được, không tuyên minh được. Không ai có thể làm cho chúng sanh hiểu rõ. Chỉ trừ sức gia bị của Chư Phật, sức thần thông của Phật, sức oai đức của Phật, sức bổn nguyện của Phật, và sức thiện căn đời trước của họ, sức nhiếp thọ của thiện tri thức, sức tinh tín sâu, sức minh giải lớn, sức tâm thanh tịnh xu hướng Bồ đề, sức nguyện rộng lớn cầu nhứt thiết trí. Cúi xin đức Thế Tôn tùy thuận chúng tôi và những dục giải của các chúng sanh, những trín những ngôn ngữ, những tự tại, những trụ đại, những căn thanh thịnh, những ý phương tiện, những tâm cảnh giới, những y chỉ công đức của Như Lai, những pháp đã được nghe thọ của chúng tôi và các chúng sanh mà hiển thị đức Như Lai : thuở xưa xu cầu tâm Nhứt thiết trí, thuở xưa phát khởi đại nguyện Bồ Tát, thuở xưa tu tịnh, những môn Ba La Mật, thuở xưa đã nhập những bực Bồ Tát, thuở xưa viên mãn những hạnh Bồ Tát, thuở xưa thành tựu phương tiện, thuở xưa tu hành những đạo, thuở xưa chứng được pháp xuất ly, thuở xưa đã làm những sự thần thông, thuở xưa đã có bổn sự nhơn duyên, đến thành Ðẳng Chánh Giác, chuyển diệu pháp luân, tịnh Phật quốc độ, điều phục chúng sanh, mở thành pháp Nhứt thiết trí, chỉ đường tất cả chúng sanh, thọ sự cúng dường của tất cả chúng sanh, vì tất cả chúng sanh mà nói công đức bố thí, vì tất cả chúng sanh mà hiện ảnh tượng của Chư Phật. Những pháp như vậy, xin đức Phật vì chúng tôi mà giải thuyết.

Bấy giờ đức Thế Tôn biết tâm niệm của chư Bồ Tát, liền dùng đại bi làm thân, đại bi làm môn, đại bi làm đầu, dùng pháp đại bi mà làm phương tiện, đầy khắp hư không, nhập sư tử tần thân tam muội.

Khi đức Thế Tôn nhập tam muội này rồi, tất cả thế gian đều khắp nghiêm tịnh.

Liền đó, lâu các đại trang nghiêm bỗng nhiên rộng rải không có ngằn mé, kim cang làm đất, bửu vương che phía trên, vô lượng bửu hoa và những châu ma ni rải đầy khắp trong lầu, lưu ly làm cột, các thứ báu hiệp thành, trang nghiêm với đại quang ma ni, vàng diêm phù đàn, như ý bửu vương trùm khắp phía trên nghiêm sức. Lầu cao thành dãy, đường gác kèm bên. Kèo máy thừa nhau, cửa nghạch chói nhau. Thềm, bực, hiên, bao lơn đều đầu đủ. Tất cả đều trang nghiêm với diệu bửu. Những bửu ấy đều là hình tượng nhơn thiên, kiên cố đẹp lạ đệ nhứt thế gian. Lưới báu ma ni che khắp phía trên. Bên cửa đều dựng tràng phan, đều phóng quang minh cùng khắp giới. Ngoài đạo tràn, thềm cấp lan can nhiều vô lượng không thể kể nói, đều bằng ngọc ma ni.

Lúc đó lại do thần lực của Phật, rừng Thệ Ða bỗng nhiên rộng rãi đồng với bất khả thuyết Phật sát vi trần số quốc độ. Tất cả diệu bửu xen lẫn trang nghiêm. Bất khả thuyết bửu trải khắp mọi nơi. Vô số bửu làm tường rào. Cây đa la báu trang nghiêm bên đường.

Trong rừng lại có vô lượng hương hà, đầy những nước thơm sóng gợn xoay quanh. Tất cả hoa báu theo dòng chuyển về phía hửu, tự nhiên diễn ra âm thanh Phật pháp. Bất tư nghì bạch liên hoa báu búp nở thơm tho giăng bày trên mặt nước. Những cây bông báu trồng hàng bên bờ sông. Bất tư nghì những đài, nhà mát xếp hàng trên bờ sông, lưới báu ma ni che trùm. Vô số báu phóng đại quang minh. Ðốt những diệu hương mùi thơm ngào ngạt.

Lại dựng vô lượng bửu tràng. Những là : bửu hương tràng, bửu y tràng, bửu phan tràng, bửu thắng tràng, bửu hoa tràng, bửu anh lạc tràng, bửu man tràng, bửu linh tràng, ma ni bửu cái tràng, đại ma ni bửu tràng, quang minh biến chiếu ma ni bửu tràng, xuất nhứt thiết Như Lai danh hiệu âm thanh ma ni vương tràng, sư tử ma ni vương tràng, thuyết nhứt thiết Như Lai bổn sự hải ma ni vương tràng, hiện nhứt thiết pháp giới ảnh tượng ma ni vương tràng. Những bửu tràng này bày hàng trang nghiêm cùng khắp mười phương.

Bấy giờ trong hư không trên rừng Thệ Ða có bất tư nghì thiên cung điện vân, Vô số hương thọ vân, bất khả thuyết Tu Di sơn vân, bất khả thuyết kỹ nhạc vân phát ra tiếng hay diệu ca ngợi đức Như Lai, bất khả thuết bửu liên hoa vân, bất khả thuyết bửu tòa vân trải thiên y Bồ Tát ngồi trên đó ca ngợi công đức của Phật, bất khả thuyết thiên vương hình tượng ma ni bửu vân, bất khả thuyết bạch chơn châu vân, bất khả thuyết xích châu lâu các trang nghiêm cụ vân, bất khả thuyết vũ kim cang kiên cố châu vân. Những bửu vân này đều dừng ở hư không bao vòng cùng khắp để trang nghiêm.

Tại sao vậy ?

Vì thiên căn của đức Như Lai bất tư nghì. Vì bạch pháp của đức Như Lai bất tư nghì. Vì oai lực của đức Như Lai bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể dùng một thân tự tại biến hóa khắp tất cả thế giới bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể dùng thần lực làm cho tất cả Phật và Phật quốc trang nghiêm đều nhập vào thân mình bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một vi trần hiện khắp ảnh tượng tất cả pháp giới bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông thì hiện quá khứ tất cả chư Phật bất tư nghì. Vì đức Như Lai tùy phóng mỗi một quang minh đều có thể chiếu khắp tất cả thế giới bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông phát ra tất cả Phật sát vi trần số biến hóa vân đầy khắp tất cả chư Phật quốc độ bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông hiện khắp tất cả thế giới mười phương : thành trụ hoại kiếp bất tư nghì.

Như ở tại rừng Thệ Ða vườn cấp Cô Ðộ thấy Phật quốc thanh tịnh trang nghiêm, mười phương tất cả pháp giới hư không giới, tất cả thế giới cũng đều thấy như vậy.

Những là thấy thân đức Như Lai ở rừng Thệ Ða, chúng hội Bồ Tát thảy đều cùng khắp. Thấy khắp nơi mưa những mây trang nghiêm. Thấy khắp nơi mưa những mây bửu quang minh chiếu sáng. Thấy khắp nơi mưa những mây ma ni bửu. Thấy khắp nơi mưa những mây lọng trang nghiêm che trùm cõi Phật. Thấy khắp nơi mưa những mây thiên thân. Thấy khắp nơi mưa những mây hoa thọ. Thấy khắp nơi mưa những mây y thọ. Thấy khắp nơi mưa những mây bửu man anh lạc nối tiếp chẳng dứt cùng khắp tất cả đại địa. Thấy khắp nơi mưa những mây đồ trang nghiêm. Thấy khắp nơi mưa những mây thơm hình chúng sanh. Thấy khắp nơi mưa những mây lưới hoa báu vi diệu tiếp nỗi chẳng ngớt. Thấy khắp nơi mưa những mây chư Thiên nữ cầm tràng phan báu đi qua lại ở trong hư không. Thấy khắp nơi mưa những mây bữu liên hoa, ở trong cánh hoa tự nhiên phát ra những tiếng nhạc. Thấy khắp nơi mưa những mây tòa sư tử lưới báu anh lạc dùng trang nghiêm.

Lúc đó phương Ðông qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Kim Ðăng Vân Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Tỳ Lô Giá Na Thắng Ðức Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Tỳ Lô Giá Na Nguyện Quang Minh, cùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát câu hội đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện những lùm mây : mây thiên hoa, mây thiên hương, mây thiên mạt hương, mây thiên man, mây thiên bửu, mây thiên trang nghiêm cụ, mây thiên bửu cái, mây thiên vi diệu y, mây thiên bửu tràng phan, mây những diệu bửu trang nghiêm đầy dẫy hư không.

Ðến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật. Liền ở nơi phương Ðông hóa làm lâu các bửu trang nghiêm và tòa sư tử bửu liên hoa tạng chiếu khắp mười phương. Lưới như ý bửu choàng trên thân. Rồi cùng quyến thuộc ngồi kiết già trên đó.

Phương Nam qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Kim Cang Tạng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Quang Minh Vô Thắng Tạng Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó, có Bồ Tát hiệu là Bất Khả Hoại Tinh Tấn Vương, cùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát câu hội đến chỗ đức Phật, đồng cầm những lưới bửu hương, những bửu anh lạc, những bữu hoa đới, những bửu man đới, những kim cang anh lạc, những lưới bửu ma ni, những bửu y đới, những bửu anh lạc đới, những thắng quang minh ma ni đới, những sư tử ma ni bửu anh lạc. Ðều dùng thần lực làm cho những bửu vật trên đầy khắp tất cả thế giới hải.

Ðến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật. Liền ở nơi phương Nam hóa làm lâu các biến chiếu thế gian ma ni bửu trang nghiêm, và tòa sư tử phổ chiếu thập phương bửu liên hoa tạng. Dùng những lưới bửu hoa choàng trên thân, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên đó.

Phương Tây qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Ma Ni Bửu Ðăng Tu Di Sơn Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Pháp Giới Trí Ðăng.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Phổ Thắng Vô Lượng Oai Ðức Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ Ðức Phật. Ðều dùng thần lực hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số những hương thoa, hương thắp, mây Tu Di sơn, những mây Tu Di sơn hương thủy nhiều màu, những mây Tu Di sơn quang minh ma ni bửu vương, những mây Tu Di sơn quang diệm luân trang nghiêm tràng, những mây Tu Di sơn kim cang tạng ma ni vương trang nghiêm nhiều màu, những mây Tu Di sơn diêm phù đàn ma ni bửu tràng chiếu khắp tất cả thế giới, những mây Tu Di sơn ma ni bửu hiện tất cả pháp giới, những mây Tu Di sơn ma ni bửu vương hiện tất cả chư Phật tướng hảo, những mây Tu Di sơn ma ni bửu vương hiện bổn sự nhơn duyên của chư Phật nói tất cả công hạnh tu hành của chư Bồ Tát, những mây Tu Di sơn ma ni bửu vương hiện tất cả Phật ngồi Bồ đề đề tràng. Những mây này đầy khắp pháp giới.

Ðến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Tây hóa lâu các nhứt thiết hương vương, lưới báu chơn châu giăng trùm trên đó, và hóa toà sư tử bửu liên hoa tạng tràng bóng Thiên Ðế, dùng lưới ma ni diệu sắc choàng nơi thân, trên đầu trang nghiêm với mão tâm vương bửu, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên trên tòa đó.

Phương Bắc qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Bửu Y Quang Minh Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Chiếu Hư Không Pháp Giới Ðại Quang Minh. Trong chúng hội của Ðức Phật đó, có Bồ Tát hiệu là Vô Ngại Thắng Tạng Vương cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật đều dùng thần lực hiện những mây bửu y. Những là mây bửu y quang minh màu vàng, những mây bửu y ướp hương, mây bửu y nhựt tràng ma ni vương, mây bửu y kim sắc xí nhiên ma ni, những mây bửu y quang diệm, những mây bửu y ma ni thượng diệu tượng tinh tú, những mây bửu y ma ni bạch ngọc quang, những mây bửu y ma ni thù thắng quang minh biến chiếu, những mây bửu y ma ni oai thế quang minh biến chiếu, những mây bửu y ma ni trang nghiêm hải. Những mây bửu y này đầy khắp hư không.

Khi đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật, liền ở phương Bắc hóa làm lâu các ma ni bửu hải trang nghiêm, và toà sư tử liên hoa tạng tỳ lưu ly bửu. Dùng lưới ma vi vương sư tử oai đức choàng trên thân. Dùng bửu vương thanh tịnh minh châu trang nghiêm trên đầu. Cùng chư quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

Phương Ðông Bắc qua khởi bất khả thyuết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Nhất Thiết Hoan Hỉ Thanh Tịnh Quang Minh Võng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Vô Ngại Nhãn.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Hoá Hiện Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện mây lâu các báu, mây lâu các hương, mây lâu các hương đốt, mây lâu các hoa, mây lâu các chiên đàn, mây lâu các kim cang, mây lâu các ma ni, mây lâu các huỳnh kim, mây lâu các bửu y, mây lâu các liên hoa, che khắp thế giới mười phương.

Khi đã đến chỗ Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Ðông Bắc hóa làm lâu các đại ma ni pháp giới môn, và tòa sư tử liên hoa tạng vô đẳng hương vương, dùng lưới ma ni hoa choàng trên thân, đội mão diệu bửu tạng ma ni vương, cùng chư quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

Phương Ðông Nam qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới hiệu là Hương Vân Trang Nghiêm Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Long Tự Tại Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là pháp Huệ Quang Diệm Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện mây kim sắc viên mãn quang minh, mây vô lượng bửu sắc viên mãn quang minh, mây Như Lai hào tướng viên mãn quang minh, mây những bửu sắc viên mãn quang minh, mây liên hoa tạng viên mãn quang minh, mây bửu thọ chi viên mãn viên quang minh, mây Như Lai đảnh kế viên mãn quang minh, mây diêm phù đàn kim sắc viên mãn quang minh, mây nhựt sắc viên mãn quang minh, mây tinh nguyệt sắc viên mãn quang minh, đầy khắp hư không.

Ðến chỗ đức Phật rồi Chư Bồ Tát đảnh lể chân đức Phật, liền ở Phương Ðông Nam hóa làm Lâu các tỳ lô giá na tối thượng bửu quang minh, và tòa sư tử kim cang ma ni liên hoa tạng lưới bửu quang diệm ma ni vương choàng trên thân, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

Phương Tây Nam qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Nhựt Quang Ma Ni Tạng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Chiếu Chư Pháp Trí Nguyệt Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Tồi Phá Nhứt Thiết Ma Quân Trí Tràng Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội, đồng đến chỗ đức Phật. Ở trong tất cả lỗ lông hiện ra mây hoa diệm khắp hư không giới, mây hương diệm, mây bửu diệm, mây kim cang diệm, mây thiêu hương diệm, mây điển quang diệm, mây tỳ lô giá na ma ni bửu diệm, mây nhứt thiết kim quang diệm, mây thắng tạng ma ni vương quang diệm, mây đồng tam thế Như Lai hải quang diệm, mỗi mỗi đều từ những lỗ lông hiện ra khắp hư không giới.

Khi đã đến chỗ đức Phật chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Tây Nam hóa làm lưới phổ hiện thập phương pháp giới quang minh lâu các đại ma ni bửu, và tòa sư tử hương đăng diệm bửu liên hoa tạng, dùng lưới ly cấu tạng ma ni choàng trên thân, đội mảo xuất nhứt thiết chúng sanh phát thu âm ma ni vương nghiêm sức, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

Phương Tây Bắc qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Tỳ Lô Giá Na Nguyện Ma Ni Vương Tạng.

Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Quang Minh Tối Thắng Tu Di Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Nguyện Trí Quang Minh Tràng, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật. Trong khoảng mỗi niệm, nơi tất cả tướng hảo, tất cả lỗ lông, tất cả thân phần đều hiện ra mây hình tượng tất cả tam thế Như Lai, mây hình tượng tất cả Bồ Tát, mây hình tượng chúng hội của tất cả Như Lai, mây hình tượng thân biến hoá của tất cả Như Lai, mây hình tượng thân bổn sanh của tất cả Như Lai, mây hình tượng tất cả Thanh văn, Bích Chi Phật, mây hình tượng Bồ đề tràng của tất cả Như Lai, mây hình tượng thần biến của tất cả Như Lai, mây hình tượng tất cả thế gian chủ, mây hình tượng tất cả quốc độ thanh tịnh, đầy khắp hư không.

Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật, liền ở phương Tây Bắc hóa làm lâu các ma ni bửu trang nghiêm phổ chiếu thập phương và toà sư tử bửu liên hoa tạng phổ chiếu thế giang. Dùng lưới chơn châu vô năng thắng quang minh choàng trên thân, đội mão phổ quang minh ma ni bửu, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

Hạ phương qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Nhứt Thiết Như Lai Viên Mãn Quang Phổ Chiếu. Ðức Phật nơi đó hiệu là Hư Không Vô Ngại Tướng Trí Tràng Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Phá Nhứt Thiết Chướng Dũng Mãnh Trí Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật. Trong tất cả lỗ lông hiện ra mây âm thanh nói ngữ ngôn hải của tất cả chúng sanh mây âm thanh nói tu hành phương tiện hải của tất cả tam thế Bồ Tát, mây âm thanh nói phát nguyện phương tiện hải của tất cả Bồ Tát, mây âm thanh nói tất cả Bồ Tát thành mãn thanh tịnh Ba la mật phương tiện hải, mây âm thanh nói tất cả Bồ Tát viên mãn hạnh khắp tất cả cõi, mây âm thanh nói tất cả Bồ Tát thành tựu tự tại dụng, mây âm thanh nói tự tại dụng của tất cả Như Lai qua ngồi đạo tràng phá chúng ma quân thành Ðẳng Chánh Giác, mây âm thanh nói tất cả Như Lai chuyển pháp luân khế kinh : môn danh hiệu hải, mây âm thanh nói tất cả pháp phương tiện hải tùy cơ giáo hóa đều phục chúng sanh, mây âm thanh nói tất cả phương tiện hải tùy thời tùy thiện căn tùy nguyện lực khiến khắp chúng sanh chứng được trí huệ.

Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chư Phật, liền ở Hạ phương hóa làm lâu các chúng bửu trang nghiêm hiện hình tượng cung điện của tất cả Như Lai, và toà sư tử bửu liên hoa tạng, đội mão phổ hiện đạo tràng ảnh ma ni bửu, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên toà đó.

Thượng phương qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Thuyết Phật Chủng Tánh Vô Hữu Tận. Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Trí Luân Quang Minh Âm.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Pháp Giới Sai Biệt Nguyện, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nơi tất cả tướng hảo, tất cả lỗ lông, tất cả thân phần, tất cả chi tiết, tất cả đồ trang nghiêm, tất cả y phục hiện ra tất cả chư Phật quá khứ như đức Tỳ Lô Giá Na v.v… tất cả chư Phật vị lai hoặc đã được thọ ký hay chưa được thọ ký, hiện tại mười phương tất cả quốc độ tất cả chư Phật và chúng hội. Cũng hiện ra những bổn sự hải thật hành Ðàn Ba la mật và tất cả người thọ bố thí thuở quá khứ. Cũng hiện ra những bổn sự hải thật hành Thi Ba la mật thuở quá khứ. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ thật hành nhẫn nhục Ba La mật cắt dứt chi thể tâm không động loạn. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ thật hành Tinh tấn Ba la mật dũng mãnh bất thối. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ cầu Như Lai Thiền Ba la mật hải mà được thành tựu. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ cầu chư Phật chuyển pháp luân mà được thành tựu pháp phát tâm dũng mãnh tất cả đều xả bỏ. Cũng hiện những bổn sự hải thuở qúa khứ thích thấy chư Phật, thích hành Bồ Tát đạo, thích giáo hoá chúng sanh. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ những Bồ Tát đại nguyện thanh tịnh trang nghiêm. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ chư Bồ Tát thanh lực Ba la mật dũng mãnh thanh tịnh. Cũng hiện những bổ sự hải thuở quá khứ tất cả Bồ Tát tu viên mãn trí Ba la mật. Tất cả những bổ sự hải như vậy thảy đều đầy khắp quảng đại pháp giới.

Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở Thượng phương hóa làm lâu các kim cang tạng trang nghiêm, và toà sư tử liên hoa tạng đế thanh kim cang vương, dùng lưới bửu quang minh ma ni vương choàng trên thân dùng ma ni bửu vương diễn thuyết tam thế Như Lai danh hiệu làm minh châu trên mão, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

Mười phương tất cả Bồ Tát và quyến thuộc đều từ trong hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát mà sanh, dùng trí nhãn thanh tịnh thấy tam thế Phật, khắp nghe tu đa la hải của chư Phật chuyển pháp luân, đã được đến nơi tất cả Bồ Tát tự tại bĩ ngạn. Trong mỗi niệm hiện đại thần biến. Gần gũi tất cả chư Phật Như Lai. Một thân đầy khắp tất chúng hội đạo tràng của tất cả Như Lai trong tất cả thế giới. Trong mỗi vi trần, hiện khắp tất cả cảnh giới thế gian. Giáo hóa thành tựu tất cả chúng sanh chưa từng lỗi thời. Trong một lỗ lông phát ra âm thanh thuyết pháp của tất cả Như Lai. Biết tất cả chúng sanh thảy đều như huyễn. Biết tất cả đức Phật thảy đều như ảnh. Biết tất cả loài thọ sanh thảy đều như mộng. Biết tất cả nghiệp báo thảy đều như tượng trong gương. Biết tất cả những gì có sanh khởi thảy đều như ánh nắng gắt. Biết tất cả thế giới đều như biến hóa. Thành tựu Thập lực vô uý của đức Như Lai. Dũng mãnh tự tại hay sư tử hống. Vào sâu trong biển cả vô tận biện tài. Ðược ngôn từ hải của tất cả chúng sanh. Những pháp trí nơi hư không pháp giới, việc làm vô ngại. Biết tất cả pháp không chướng ngại. Tất cả Bồ Tát thần thông cảnh giới đều đã thanh tịnh. Dũng mãnh tinh tấn xô dẹp ma quân. Hằng dùng trí huệ thấu rõ tam thế. Biết tất cả pháp dường như hư không, chẳng có nghịch trái cũng không chấp lấy. Dầu siêng tinh tấn mà biết nhứt thiết trí trọn không chỗ đến. Dầu quán cảnh giới mà biết tất cả những gì có đều là bất khả đắc. Dùng trí phương tiện nhập tất cả pháp giới. Dùng trí bình đẳng nhập tất cả quốc độ. Dùng sức tự tại khiến tất cả thế giới xoay vần nhập nhau. Xứ xứ thọ sanh trong tất cả thế giới. Thấy những loại hình tướng của tất cả thế giới. Nơi cảnh vi tế hiện cõi quảng đại. Nơi cảnh quảng đại hiện cõi vi tế. Nơi một chỗ đức Phật, trong khoảng một niệm được tất cả đức Phật oai thần gia hộ. Thấy khắp mười phương không bị mê lầm. Trong khoảng sát na đều có thể qua đến.

Tất cả Bồ Tát có công đức trí huệ vô biên như vậy ngồi đầy trong rừng Thệ Ða. Ðây là nương thần lực của đức Như Lai.

Lúc đó chư thượng thủ đại Thanh Văn các Trưởng lão : Xá Lợi Phất, Ðại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ly Bà Ða, Tu Bồ Ðề, A Nâu Lâu Ðà, Na Ðà, Kiếp Tân Na, Ca Chiên Diên, Phú Lâu Na v.v… Chư đại Thanh Văn này ở tại rừng Thệ Ða mà đều chẳng thấy thần lực của Như Lai. Chẳng thấy sự nghiêm hảo của Như Lai. Chẳng thấy cảnh giới của Như Lai. Chẳng thấy sự du hí của Như Lai. Chẳng thấy sự thần biến của Như Lai. Chẳng thấy sự tôn thắng của Như Lai. Chẳng thấy sự diệu hạnh và oai đức của Như Lai. Chẳng thấy sự trụ trì của Như Lai. Chẳng thấy cõi thanh tịnh của Như Lai. Lại cũng chẳng thấy cảnh giới Bồ Tát bất tư nghì, Bồ Tát đại hội, Bồ Tát phổ nhập, Bồ Tát phổ chí, Bồ Tát phổ nghệ, Bồ Tát thần biến, Bồ Tát du hí, Bồ Tát quyến thuộc, Bồ Tát phương sở, Bồ Tát trang nghiêm sư tử tòa, Bồ Tát cung điện, Bồ Tát trụ xứ, Bồ Tát nhập tam muội tự tại, Bồ Tát quán sát, Bồ Tát tần thân, Bồ Tát dũng mãnh, Bồ Tát cúng dường, Bồ Tát thọ ký, Bồ Tát thành thục, Bồ Tát dũng kiện, Bồ Tát pháp thân thanh tịnh, Bồ Tát trí thân viên mãn, Bồ Tát nguyện thân thị hiện, Bồ Tát sắc thân thành tựu, Bồ Tát tướng hảo cụ túc thanh tịnh, Bồ Tát quang minh thường nhiều màu trang nghiêm, Bồ Tát phóng lưới đại quang minh, Bồ Tát khởi mây biến hóa, Bồ Tát thân khắp mười phương, Bồ Tát các hạnh viên mãn. Những sự như vậy, tất cả Thanh Văn đại A La Hán thảy đều không thấy.

Tại sao vậy ?

Vì thiện căn chẳng đồng. Vì vốn không tu tập thiện căn thấy Phật tự tại. Vì vốn chẳng khen nói công đức thanh tịnh của tất cả Phật độ ở mười phương. Vì vốn chẳng ca ngợi những thần biến của chư Phật Thế Tôn. Vì vốn chẳng ở trong sanh tử phát tâm Vô thượng Bồ đề. Vì vốn chẳng làm cho kẻ khác phát tâm Bồ đề. Vì vốn chẳng có thể làm cho chủng tánh Như Lai không đoạn tuyệt. Vì vốn chẳng nhiếp thọ chúng sanh. Vì vốn chẳng khuyên kẻ khác tu hạnh Ba La mật của Bồ Tát. Vì lúc ở trong sanh tử lưu chuyển, vốn chẳng khuyên bảo chúng sanh cầu đại trí nhãn tối thắng. Vì vốn chẳng tu tập thiện căn phát sanh Nhứt thiết trí. Vì vốn chẳng thành tựu thiện căn xuất thế của Như Lai. Vì vốn chẳng được trí thần thông nghiêm tịnh Phật độ. Vì vốn chẳng được cảnh sở tri của Bồ Tát nhãn. Vì vốn chẳng cầu những thiện căn siêu xuất thế gian bất cộng Bồ đề. Vì vốn chẳng phát Bồ Tát đại nguyện. Vì sanh ra vốn chẳng từ sự gia bị của đức Như Lai. Vì vốn chẳng biết tất cả pháp như huyễn, chư Bồ Tát như mộng. Vì vốn chẳng được sự hoan hỷ quảng đại của chư đại Bồ Tát. Những điều trên đây đều là cảnh giới trí nhãn Phổ Hiền Bồ Tát chẳng cùng chung với tất cả hàng Nhị thừa. Do cớ này, nên chư đại Thanh văn không thấy được, chẳng biết được, chẳng nghe được, chẳng nhập được, chẳng chứng được, chẳng niệm được, chẳng quán sát được, chẳng tính lường được, chẳng tư duy được, chẳng phân biệt được. Thế nên dầu cũng ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy được những đại thần biến của Như Lai.

Lại vì chư đại Thanh Văn không có thiện căn như vậy, không có trí nhãn như vậy, không có tam muội như vậy, không có giải thoát như vậy, không có thần thông như vậy, không có oai đức như vậy, không có thế lực như vậy, không có tự tại như vậy, không có trụ xứ như vậy, không có cảnh giới như vậy, vì thế nên ở nơi đây không biết được không thấy được, không nhập được, không chứng được, không trụ được không hiểu được, không quán sát được, không nhẫn thọ được, không xu hướng được, không noi theo được.

Lại cũng vì chẳng có thể vì người khác mà khai diễn giải thoát, tán thán thị hiện dắt dìu khuyến tấn, cho họ xu hướng, cho họ tu tập, cho họ an trụ, cho họ chứng nhập.

Tại sao vậy ? Vì chư đại đệ tử y theo Thanh Văn thừa mà xuất ly, thành tựu Thanh Văn đạo, đầy đủ Thanh Văn hạnh, an trụ Thanh Văn qủa. Nơi chơn đế vô hữu được quyết định trí, trụ luôn nơi thiệt tế rốt ráo tịch tịnh, lìa xa đại bi, bỏ các chúng sanh an trụ nơi việc của mình. Nơi trí huệ kia chẳng chứa nhóm được, chẳng tu hành được, chẳng an trụ được, chẳng nguyện cầu được, chẳng thành tựu được, chẳng thanh tịnh được, chẳng xu nhập được, chẳng thông đạt được, chẳng thấy biết được, chẳng chứng đắc được. Vì thế nên dầu ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy được thần biến quảng đại của đức Như Lai.

Chư Phật tử ! Như ở bờ sông Hằng, có trăm ngàn ức vô lượng ngạ quỷ lõa lồ đói khát, khắp mình lửa cháy. Những quạ, kên kên, chó sói đua nhau rượt bắt. Các ngạ quỷ này vì quá khát muốn tìm nước uống, nhưng dầu ở bên sông mà chẳng thấy nước. Cũng có kẻ thấy sông nhưng lại thấy khô cạn.

Tại sao vậy ? Vì các ngạ quỷ này bị nghiệp chướng sâu nặng che mờ.

Cũng vậy, chư đại Thanh Văn dầu đến ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy thần lực quảng đại của đức Như Lai. Vì bỏ Nhứt thiết chủng trí, bị màn vô minh che loà đôi mắt. Vì chẳng từng gieo trồng những thiện căn Nhứt thiết chủng trí.

Ví như có người ở giữa đại hội ngủ say chiêm bao thấy trên đảnh núi Tu Di, Thiên Ðế ngự nơi thành Thiện Kiến, cung điện vườn cây các thứ nghiêm tốt. Ngàn muôn ức Thiên Tử Thiên nữ. Thiên hoa rải khắp mọi nơi. Những y thọ sanh ra y phục đẹp. Những hoa thọ đơm nở hoa đẹp. Những âm nhạc thọ trổi thiên âm nhạc. Những thiên thể nữ ca ngâm tiếng tốt. Vô lượng chư thiên ở trong đó vui chơi. Người nằm mộng này tự thấy mặc thiên y đi dạo khắp Thiên cung.

Ở trong đại hội tất cả mọi người dầu đồng ở một chỗ mà chẳng thấy chẳng biết cảnh giới Thiên cung như vậy.

Cũng vậy, tất cả Bồ Tát vì từ lâu chứa nhóm thiện căn, vì phát nguyện quảng đại cầu Nhứt thiết chủng trí, vì học tập tất cả Phật công đức, vì tu hành đạo trang nhgiêm của Bồ Tát, vì viên mãn pháp Nhứt thiết chủng trí, vì đầy đủ những hạnh nguyện Phổ Hiền, vì xu nhập trí địa của tất cả Bồ Tát, vì du hí những tam muội sở trụ của tất cả Bồ Tát, vì đã có thể quán sát Cảnh giới trí huệ của tất cả Bồ Tát không chướng ngại. Do đây nên đều thấy thần biến tự tại bất tư nghì của Như Lai Thế Tôn.

Tất cả Thanh Văn đều chẳng thấy được, đều chẳng biết được, vì không có thanh tịnh nhãn của Bồ Tát.

Ví như núi Tuyết đủ những dược thảo. Lương y đến đó đều có thể phân biệt biết. Còn những thợ săn, những người chăn súc vật thường ở trên đó mà chẳng thấy biết được thuốc.

Ðây cũng như vậy, bởi chư Bồ Tát nhập trí cảnh giới đủ sức tự tại, có thể thấy thần biến quảng đại của đức Như Lai.

Chư Thanh Văn đại đệ tử chỉ cầu tự lợi chẳng muốn lợi tha, chỉ cầu tự an chẳng muốn an tha, nên dầu ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy chẳng biết.

Ví như trong đất có mỏ thất bảo. Nhà bác học trí huệ sáng suốt, có thể khéo phân biệt biết thấy những mõ báu đó. Người này có đại phước đức nên tùy ý lấy dùng tự tại : Phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp kẻ nghèo bịnh cơ hàn cô độc.

Những người không trí huệ không phước đức dầu cũng đến chỗ mõ báo mà chẳng biết chẳng thấy chẳng được lợi ích.

Cũng vậy, chư đại Bồ Tát có trí nhãn thanh tịnh có thể nhập cảnh giới thậm thâm bất tư nghì, thấy được thần lực của Phật, nhập được các pháp môn, du hành được tam muội hải, hay cúng dường chư Phật, hay dùng chánh pháp khai ngộ chúng sanh, hay dùng Tứ nhiếp pháp nhiếp thọ chúng sanh.

Chư đại Thanh Văn chẳng thấy được thần lực của Chư Phật, cùng chẳng thấy được chúng Bồ Tát.

Ví như người mù đến chỗ châu bảo, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm vẫn chẳng thấy được châu bảo. Vì không thấy nên không lấy được, chẳng dùng được.

Ðây cũng như vậy, chư đại đệ tử Thanh Văn dầu ở rừng Thệ Ða thân cận đức Thế Tôn mà chẳng thấy thần lực tự tại của đức Thế Tôn, cũng chẳng thấy được đại hội Bồ Tát, vì không có tịnh nhãn vô ngại của đại Bồ Tát, nên chẳng có thể thứ đệ ngộ nhập pháp giới thấy thần lực tự tại của đức Như Lai.

Ví như có người được thanh tịnh nhãn gọi là ly cấu quang minh, tất cả màu tối không làm chướng được. Bấy giờ ở trong đêm tối có vô lượng ức người, hoăc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hình tướng oai nghi. Người này ở trong đại chúng đó đều thấy biết rõ ràng. Còn đại chúng đó lại không thấy biết oai nghi tấn thối của người minh nhãn này.

Cũng vậy, đức Phật thành tựu trí nhãn thanh tịnh vô ngại thấy rõ tất cả thế gian.

Ðức Phật thị hiện thần thông biến hóa, chúng đại Bồ Tát câu hội. Hàng đại đệ tử Thanh Văn đều chẳng thấy được.

Ví như Tỳ Kheo ở giữa đại chúng nhập biến xứ định. Những là địa biến xứ định, thủy biến xứ định, hỏa biến xứ định, phong biến xứ định, thanh biến xứ định, huỳnh biến xứ định, xích biến xứ định, bạch biến xứ định, thiên biến xứ định, chúng sanh thân biến xứ định, ngữ ngôn âm thanh biến xứ định, cảnh duyên biến xứ định. Người nhập định này thấy những cảnh đó. Những người khác không thấy được. Chỉ trừ người trụ trong chánh định này.

Cũng vậy, đức Như Lai hiện Phật cảnh giới bất tư nghì, Bồ Tát thấy cả, Thanh Văn chẳng thấy.

Ví có người dùng thuốc ẩn thân tự thoa lên mắt, ở trong chúng hội tới lui ngồi đứng, không ai thấy được. Người này thời thấy tất cả những sự trong đại chúng.

Cũng vậy, đức Như Lai siêu quá thế gian, thấy khắp thế gian. Chẳng phải hàng Thanh Văn thấy được. Chỉ trừ chư đại Bồ Tát xu hướng cảnh giới Nhứt thiết trí.

Như người khi đã sanh ra thời có hai Thiên thần hằng theo kề. Một Thiên thần hiệu Ðồng Sanh. Một Thiên thần hiệu Ðồng Danh. Thiên thần thường thấy người. Người thời chẳng thấy được Thiên thần.

Cũng vậy đức Như Lai ở trong đại hội Bồ Tát hiện đại thần thông. Chư đại Thanh Văn đều chẳng thấy được.

Ví như Tỳ Kheo được tâm tự tại nhập diệt tận định, sáu căn chẳng hiện hành, chẳng hay chẳng biết tất cả ngữ ngôn. Vì định lực chấp trì nên chẳng nhập diệt.

Cũng vậy, tất cả đại Thanh Văn dầu ở tại rừng Thệ Ða, đủ cả sáu căn mà đối với những sự tự tại của Như Lai cùng chúng hội Bồ Tát, chẳng biết chẳng thấy, chẳng hay chẳng nhập.

Tại sao vậy ? Vì cảnh giới của đức Như Lai thậm thâm quảng đại, khó thấy, khó biết, khó suy, khó lường. Siêu xuất thế gian chẳng thể nghĩ bàn, chẳng gì làm hoại được. Chẳng phải cảnh giới của hàng Nhị thừa. Vì thế nên Như Lai tự tại thần lực và chúng hội Bồ Tát cùng rừng Thệ Ða, cùng khắp tất cả thanh tịnh thế giới. Những sự như vậy, chư đại Thanh Văn đều chẳng thấy biết, vì họ chẳng phải căn khí này.

Lúc đó, Tỳ Lô Giá Na Nguyện Quang Minh Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Các ngài nên quán sát

Phật đạo bất tư nghì

Nơi rừng Thệ Ða này

Thị hiện thần thông lực.

Oai thần lực của Phật

Biến hiện vô ương số

Tất cả các thế gian

Mê lầm chẳng rõ được.

Pháp vương pháp thâm diệu

Vô lượng khó nghĩ bàn

Hiện ra những thần thông

Thế gian chẳng lường được.

Vì biết pháp vô tướng

Thế nên gọi là Phật

Mà đủ tướng trang nghiêm

Xưng dương chẳng kể hết.

Nay ở trong rừng này

Thị hiện đại thần lực

Rất sâu vô biên lượng

Ngôn từ không biện được.

Ngài xem đại oai đức

Vô lượng chúng Bồ Tát

Mười Phương những quốc độ.

Mà đến thấy Thế Tôn.

Chỗ nguyên đều đầy đủ

Chỗ làm không chướng ngại

Tất cả các thế gian

Không ai suy lường được.

Tất cả chư Duyên Giác

Và đại Thanh Văn kia.

Thảy đều chẳng biết được

Bồ Tát hạnh cảnh giới.

Bồ Tát đại trí huệ

Các địa đều rốt ráo

Dựng cao tràng dũng mãnh

Khó xô khó động được.

Những bực Ðại Danh xưng

Vô lượng tam muội lực

Hiện ra những thần biến

Pháp giới đều sung mãn.

Bấy giờ, Bất Khả Hoại Tinh Tấn Vương Bồ Tát thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Ngài xem các Phật tử

Trí tuệ tạng công đức

Rốt ráo hạnh Bồ đề

An ổn các thế gian.

Tâm Ngài vốn minh đạt

Khéo nhập những tam muội

Trí huệ vô biên tế

Cảnh giới không lường được.

Nay rừng Thệ Ða này

Mọi sự đều nghiêm sức

Chúng Bồ Tát vân tập

Thân cận bên Như Lai

Ngài xem vô lượng chúng

Những bực vô sở trước

Mười phương đến chỗ này

Ngồi toà bửu liên hoa.

Không đến cũng không ở

Không dựa không hí luận

Tâm ly cấu vô ngại

Rốt ráo nơi pháp giới

Kiến lập tràng trí huệ

Kiên cố chẳng động lay

Biết pháp không biến hoá

Mà hiện sự biến hoá

Mười phương vô lượng cõi

Tất cả chỗ chư Phật

Ðồng thời đều qua đến

Mà cũng chẳng phân thân

Ngài xem Thích Sư Tử

Sức thần thông tự tại

Hay khiến chúng Bồ Tát

Tất cả đều đến họp

Tất cả những Phật pháp

Pháp giới đều bình đẳng

Ngôn thuyết nên chẳng đồng

Chúng này đều thông đạt.

Chư Phật thường an trụ

Pháp giới bình đẳng tế

Diễn nói pháp sai biệt

Ngôn từ vô cùng tận.

Bấy giờ, Phổ Thắng vô Thượng Oai Ðức Vương Bồ Tát thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Ngài xem vô thượng Sĩ

Trí quảng đại viên mãn

Khéo đạt thời phi thời

Vì chúng diễn thuyết pháp.

Xô dẹp chúng ngoại đạo

Tất cả những dị luận

Khắp tùy tâm chúng sanh

Vì hiện thần thông lực

Chánh Giác chẳng hữu lượng

Cũng lại chẳng vô lượng

Hoặc lượng, hoặc vô lượng

Mâu Ni đều siêu việt.

Như mặt nhựt trên không

Soi đến tất cả xứ

Phật trí cũng như vậy

Rõ thấu tam thế pháp.

Ví như chính đêm rằm

Vầng trăng không thiếu khuyết

Như Lai cũng như vậy

Bạch pháp đều viên mãn.

Như mặt nhựt trên không

Vận hành không tạm ngừng

Như Lai cũng như vậy

Thần biến thường tương tục.

Như mười phương quốc độ

Hư không chẳng chướng ngại

Thế đăng hiện biến hóa

Nơi thế cũng như vậy

Ví như đất thế gian

Chỗ nương của muôn loại

Chiếu thế đăng pháp luân

Làm chỗ nương cũng vậy

Ví như gió lốc mạnh

Thổi đi không chướng ngại

Phật pháp cũng như vậy

Mau khắp ở thế gian.

Ví như đại thủy luân

Thế giới nương trên đó

Trí huệ luân cũng vậy

Chỗ nương của chư Phật.

Bấy giờ, Vô Ngại Thắng Tạng Vương Bồ Tát thừa thần lực của Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Ví như đại bửu sơn

Lợi ích các hàm thức

Phật sơn cũng như vậy

Lợi ích khắp thế gian.

Ví như, đại hải thủy

Ðứng sạch không nhơ bợn

Thấy Phật cũng như vậy

Trừ được những khát ái

Ví như, Tu Di sơn

Ở ngay giữa đại hải

Thế Gian Ðăng cũng vậy

Có từ nơi pháp hải.

Như biển đủ châu báu

Người cầu đều đầy đủ

Vô sư trí cũng vậy

Người thấy đều khai ngộ.

Như Lai trí thậm thâm

Vô lượng cũng vô số

Thế nên thần thông lực

Thị hiện khó nghĩ bàn

Ví như, nhà huyễn giỏi

Thị hiện những sự vật

Phật trí cũng như vậy

Hiện những tự tại lực.

Ví như, như ý bửu

Hay thỏa mãn ý muốn

Ðấng tối thắng cũng vậy

Làm mãn nguyện thanh tịnh

Ví như, minh tịnh bửu

Chiếu khắp tất cả vật

Phật trí cũng như vậy

Chiếu khắp tâm quần sanh.

Ví như, bát diện bửu

Soi khắp cả các phương

Vô Ngại Ðăng cũng vậy

Chiếu khắp cả pháp giới

Ví như, thủy thanh châu

Hay làm trong nước đục

Thấy Phật cũng như vậy

Sáu căn đều thanh tịnh.

Bấy giờ, Hóa Hiện Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương Bồ Tát thừa Phật thần lực quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Ví như đế thanh bửu

Hay làm xanh các màu

Người thấy Phật cũng vậy

Ðều phát hạnh Bồ đề.

Trong mỗi mỗi vi trần

Phật hiện thần thông lực

Khiến vô lượng vô biên

Bồ Tát đều thanh tịnh

Sức thậm thâm vi diệu

Vô biên chẳng thể biết

Cảnh giới của Bồ Tát

Thế gian chẳng lường được.

Ðức Như Lai hiện thân

Tướng thanh tịnh trang nghiêm

Vào khắp những pháp giới

Thành tựu các Bồ Tát

Nan tư Phật quốc độ

Trong đó thành Chánh giác

Tất cả chư Bồ Tát

Thế chủ đều đầy dẫy.

Ðấng Thích Ca vô thượng

Nơi pháp đều tự tại

Thị hiện thần thông lực

Vô biên chẳng lường được.

Bồ Tát những công hạnh

Vô lượng cùng vô tận.

Như Lai tự tại lực

Vì Bồ Tát mà hiện

Phật tử khéo tu học

Những pháp giới thậm thâm

Thành tựu trí vô ngại

Biết rõ tất cả pháp.

Thiện thệ oai thần lực

Vì chúng chuyển pháp luân

Thần biến khắp sung mãn

Khiến thế gian thanh tịnh.

Như Lai trí viên mãn

Cảnh giới cũng thanh tịnh

Ví như đại Long Vương

Giúp khắp các quần sanh.

Bấy giờ, Pháp Huệ Quang Diệm Vương Bồ Tát, thừa thần lực của Ðức Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Tam thế chư Như Lai

Thanh Văn đại đệ tử

Ðều chẳng biết được Phật

Sự cất chân hạ chân.

Quá khứ, hiện, vị lai

Tất cả hàng Duyên Giác

Cũng chẵng biết Như Lai

Sự cất chân hạ chân

Huống là các phàm phu

Kiết sử luôn buộc ràng

Vô minh che tâm thức

Mà biết được Ðạo Sư

Chánh Giác trí vô ngại

Siêu quá đường ngữ ngôn

Lượng kia chẳng lường được

Có ai thấy biết được.

Ví như minh nguyệt sáng

Không lường biên tế được

Phật thần thông cũng vậy

Chẳng thấy chung tận được,

Mỗi mỗi những phương tiện

Niệm niệm chỗ biến hoá

Ðều trong vô lượng kiếp

Tư duy chẳng biết được

Suy gẫm nhứt thiết trí

Pháp chẳng thể nghĩ bàn

Mỗi mỗi môn phương tiện

Chẳng biết được biên tế.

Nếu ai ở pháp này

Mà phát nguyện rộng lớn

Ở nơi cảnh giới này

Thấy biết chẳng khó lắm.

Dũng mãnh siêng tu tập

Biển pháp lớn khó nghĩ

Tâm đó không chướng ngại

Vào môn phương tiện này.

Tâm ý đã đều phục

Chí nguyện cũng rộng rãi

Sẽ được đại Bồ đề

Cảnh giới rất tối thắng.

Bấy giờ, phá Nhứt Thiết Ma Quân Trí Tràng Vương Bồ Tát thừa thần lực của đức Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Trí thân chẳng phải thân

Vô ngại khó nghĩ bàn,

Dầu có ai nghĩ bàn

Tất cả không đến được.

Từ bất tư nghì nghiệp

Khởi thân thanh tịnh này

Thù đặc diệu trang nghiêm

Chẳng chấp nơi ba cõi

Quang Minh chiếu tất cả

Pháp giới đều thanh tịnh

Nghe Phật Bồ đề môn

Xuất sanh những trí huệ.

Như mặt nhựt thế gian

Phóng ánh sáng trí huệ

Xa rời những trần cấu

Diệt trừ tất cả chướng.

Thanh tịnh khắp ba cõi

Tuyệt hẳn dòng sanh tử

Thành tựu đạo Bồ đề

Xuất sanh Vô Thượng Giác.

Thị hiện vô biên sắc

Sắc này không sở y

Sở hiện dầu vô lượng

Tất cả bất tư nghì.

Bồ đề khoảng một niệm

Hay giác ngộ các pháp

Sao lại muốn nghĩ lường

Như Lai trí biên tế.

Một niệm đều thấu rõ

Tất cả pháp tam thế

Nên nói Phật trí huệ

Vô tận cũng vô hoại.

Người trí phải như vậy

Chuyên gẫm Phật Bồ đề

Gẫm này khó nghĩ bàn

Suy đó chẳng thể được

Bồ đề không thể nói

Siêu quá đường ngữ ngôn

Chư Phật từ đây sanh

Pháp này khó nghĩ bàn.

Bấy giờ Nguyện Trí Quang Minh Tràng Vương Bồ Tát, thừa thần của đức Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Nếu khéo quán sát được

Bồ đề vô tận hải

Thời lìa được niệm si

Quyết định thọ trì pháp.

Nếu được tâm quyết định

Thời hay tu diệu hạnh

Thiền tịch tự tư lự

Dứt hẳn những nghi hoặc.

Tâm đó chẳng mỏi mệt

Lại cũng chẳng biến lười

Lần lượt tăng tấn tu

Rốt ráo những Phật pháp

Tín trí đã thành tựu

Niệm niệm khiến tăng trưởng

Thường thích thường quán sát

Pháp vô đắc vô y.

Vô lượng ức ngàn kiếp

Tu những công đức hạnh

Tất cả đều hồi hướng

Ðạo vô thượng của Phật.

Dầu ở nơi sanh tử

Mà tâm không nhiễm trước

An trụ trong Phật pháp

Thường thích Như Lai hạnh.

Những sự có thế gian

Những pháp uẩn, xứ giới

Tất cả đều bỏ lìa

Chuyên cầu Phật công đức.

Phàm phu bị mê lầm

Thường lưu chuyển thế gian

Bồ Tát tâm vô ngại

Cứu họ được giải thoát.

Bồ Tát hạnh khó nói

Thế gian chẳng suy được

Trừ khắp tất cả khổ

Khắp ban quần sanh vui.

Ðã được Bồ đề trí

Lại thương các chúng sanh

Quang Minh chiếu thế gian

Ðộ thoát tất cả chúng.

Bấy giờ, Phá Nhứt Thiết Chướng Dũng Mãnh Trí Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Vô lượng ức ngàn kiếp

Phật danh khó được nghe

Huống lại được thân cận

Dứt hẳn những nghi lầm

Như Lai thế Gian Ðăng

Thông đạt tất cả pháp

Khắp sanh phước tam thế

Khiến chúng đều thanh tịnh.

Như Lai diệu sắc thân

Tất cả chúng kính khen

Ức kiếp thường chiêm ngưỡng

Tâm họ không nhàm đủ.

Nếu có càc Phật tử

Quán Phật diệu sắc thân

Tất bỏ luyến thế gian

Hướng về Bồ đề đạo.

Như Lai diệu sắc thân

Hằng diễn quảng đại âm

Biện tài không chướng ngại

Khai Phật Bồ đề môn.

Hiểu ngộ các chúng sanh

Vô lượng chẳng nghĩ bàn

Khiến vào môn trí huệ

Ðược thọ ký Bồ đề.

Như Lai xuất thế gian

Làm phước điền thế gian

Dắt dẫn các hàm thức

Khiến họ tu phước hạnh.

Nếu có cúng dường Phật

Trừ hẳn sợ ác đạo

Diệt trừ tất cả khổ

Thành tựu thân trí huệ.

Nếu thấy Lưỡng Túc Tôn

Hay phát tâm quảng đại

Người này hằng gặp Phật

Tăng trưởng sức trí huệ.

Nếu thấy Nhơn Trung Tôn

Quyết ý hướng Bồ đề

Người này tự biết được

Tất sẽ thành Chánh Giác.

Bấy giờ, Pháp giới Sai Biệt Nguyện Trí Thần Thông Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Thích Ca Vô Thượng Tôn

Ðủ tất cả công đức

Người thấy tâm thanh tịnh

Hồi hướng đại trí huệ

Như Lai đại từ bi

Xuất hiện ở thế gian

Khắp vì các quần sanh

Chuyển pháp luân vô thượng.

Như Lai vô số kiếp

Cần khổ vì chúng sanh

Thế nào các thế gian

Báo được ơn đức Phật

Thà trong vô lượng kiếp

Thọ những khổ ác đạo

Trọn chẳng bỏ Như Lai

Mà cầu nơi xuất ly.

Thà thay các chúng sanh

Chịu đủ tất cả khổ

Trọn chẳng bỏ Như Lai

Mà cầu được an lạc.

Thà tại các ác thú

Hằng được nghe Phật danh

Chẳng muốn sanh thiện đạo

Tạm thời chẳng nghe Phật.

Thà sanh các địa ngục

Mỗi mỗi vô số kiếp

Trọn chẳng xa rời Phật

Mà cầu thoát ác thú

Cớ sao nguyện ở lâu

Tất cả các ác đạo ?

Vì được thấy Như Lai

Trí huệ được trăng trưởng.

Nếu được thấy đức Phật

Diệt trừ tất cả khổ

Vào được cảnh đại trí

Của chư Phật Thế Tôn.

Nếu thấy được đức Phật

Bỏ rời tất cả chướng

Trưởng dưỡng phước vô tận

Thành tựu đạo Bồ đề.

Như Lai dứt hẳn được

Tất cả chúng sanh nghi

Tùy tâm họ sở thích

Ðiều khiến khắp đầy đủ.

 

Bấy giờ đức Phổ Hiền Bồ Tát quán sát khắp tất cả chúng hội Bồ Tát, dùng phương tiện đồng pháp giới, phương tiện đồng hư không giới, phương tiện đồng chúng sanh giới, đồng tam thế, đồng tất cả kiếp, đồng tất cả chúng sanh nghiệp, đồng tất cả chúng sanh dục, đồng tất cả chúng sanh giải, đồng tất cả chúng sanh căn, đồng lúc tất cả chúng sanh thành thục, phương tiện đồng tất cả pháp quang ảnh, vì chư Bồ Tát, dùng mười thứ pháp cú, khai phát hiển thị, chiếu rõ diễn thuyết sư tử tần thân tâm muội này.

Ðây là mười :

Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong pháp giới tất cả Phật sát vi trần, chư Phật thứ đệ xuất thế, các cõi thứ đệ thành hoại.

Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật, tận vị lai kiếp âm thanh tán thán công đức của Như Lai.

Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật, Như Lai xuất thế vô lượng vô biên thành Chánh Giác môn.

Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật, đức Như Lai ngồi đạo tràng giữa chúng hội Bồ Tát.

Diễn thuyết pháp cú nơi tất cả lỗ lông niệm niệm xuất hiện đồng tam thế thân biện hóa của tất cả Chư Phật đầy khắp pháp giới.

Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho một thân đầy khắp mười phương sát hải bình đẳng hiển hiện.

Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho trong tất cả những cảnh giới hiện kháp tam thế Chư Phật thần biến.

Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho trong tất cả Phật sát vi trần hiện khắp tam thế tất cả Phật sát vi trần số Phật, những thần trải qua vô lượng kiếp.

Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho tất cả lỗ lông xuất sanh âm tahnh đại nguyện hải của tất cả tam thế Chư Phật, tận vị lai kiếp, khai phát hóa đạo tất cả Bồ Tát.

Diễn thuyết pháp cú có thẩ làm cho tòa sư tử củ Phật lượng đồng pháp giới, chúng hội Bồ Tát, đạo tràng trang nghiêm, tận vị lai kiếp chuyển những pháp luân vi diệu.

Chư Phật tử ! Mười Pháp cú này làm đầu, có bất khả thuyết Phật sát vi trần số pháp cú đều là cảnh giới trí huệ của đức Như Lai.

Lúc đó đức Phổ Hiền muốn tuyên lại nghĩa này, thừa Phật thần lực, quán sát đức Như Lai, quan sát chúng hội, quán sát cảnh giới khó nghĩ bàn của Phật, quán sát vô biên tam muội của Chư Phật, quán sát những thế giới hải bất tư nghì, quán sát pháp trí như huyễn bất tư nghì, quán sát tam thế Chư Phật bất tư nghì thảy đều bình đẳng, quán sát vô lượng vô biên tất cả những pháp ngôn từ, rồi nói kệ rằng :

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Vi trần số sát hải

Ðều có đức Phật ngồi

Ðều đủ chúng Bồ Tát.

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Vô lượng những sát hải

Phật ngự tòa Bồ đề

Khắp pháp giới như vậy.

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Tất cả sát trần Phật

Chúng Bồ Tát vây quanh

Phật nói hạnh Phổ Hiền.

Phật ngồi một cõi nước

Ðầy khắp mười phương cõi

Vô lượng chúng Bồ Tát

Ðều vân tập chỗ Phật.

Ức cõi vi trần số

Bồ Tát công đức hải

Ðều từ trong hội khởi

Ðầy khắp mười phương cõi.

Ðều trụ hạnh Phổ Hiền

Ðều đi biển pháp giới

Hiện khắp tất cả cõi

Ðồng nhập hội chư Phật.

Ngồi an tất cả cõi

Lắng nghe tất cả pháp

Trong mỗi mỗi quốc độ

Ức kiếp tu các hạnh.

Bồ Tát chỗ tu hành

Khắp rõ pháp đại hải hạnh

Vào nơi đại nguyện hải

Trụ cảnh giới của Phật.

Thấu rõ hạnh Phổ Hiền

Xuất sanh các Phật pháp

Ðủ Phật công hải

Rộng hiện sự thần thông.

Thân vân khắp trần số

Ðầy khắp tất cả cõi

Khắp mưa pháp cam lộ

Cho chúng trụ Phật đạo.

Bấy giờ đức Thế tôn, vì muốn cho chư Bồ Tát an trụ trong Như Lai sư tử tần thân quảng đại tam muội, nên từ tướng bạch hào giữa chặng mày, phóng ra quang minh lớn gọi là phổ chiếu tam thế pháp giới môn, dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh mà làm quyến thuộc, chiếu khắp chư Phật quốc độ trong tất cả thế giới hải ở mười phương.

Lúc đó tại rừng Thệ Ða, Bồ Tát đại chúng đều thấy tất cả cõi Phật khắp pháp giới hư không giới. Trong mỗi mỗi vi trần đều tất cả Phật sát vi trần số Phật độ những danh, những sắc, những thanh tịnh, những trụ xứ, nhưng hình tướng.

Trong tất cả Phật độ như vậy đều có đại Bồ Tát ngồi đạo tràng trên tòa sư tử thành Ðẳng Chánh Giác. Ðại chúng Bồ Tát trước sau vây quanh. Các Thế Gian Chủ thời cúng dường.

Hoặc thấy ở trong bất khả thuyết Phật sát chúng hôi phát ra âm thanh vi diệu đầy khắp pháp giới chuyển chánh pháp luân.

Hoặc thấy tại Thiên cung điện, Long cung điện, dạ xoa cung điện, trong những cung điện của Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn Phi Nhơn v.v…

Hoặc thấy tại nhơn gian : Thôn ấp, tụ lạc, vương đô, đại xứ mà hiện những họ, những tên, những thân, những tướng, những quang minh. Trụ những oai nghi, nhập những tam muội, hiện những biến. Hoặc có lúc tự dùng những ngôn âm, hoặc làm cho những Bồ Tát ở trong những đại hội, dùng những ngôn từ thuyết những chánh pháp.

Trong hội này, đại chúng Bồ Tát thấy thậm thâm tam muội đại thần thôn lực, của chư Phật Như Lai như vậy.

Khắp pháp giới hư không giới, trong tất cả mười phương, nương nơi tâm tưởng của chúng sanh mà an trụ. Bắt đầu từ tiền tế nhẫn đến hiện tại nay, tất cả quốc độ thân, tất cả chúng sanh thân, tất cả hư không đạo, trong đó, nơi chỗ bằng đầu lông, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi, do những nghiệp mà có ra, thứ đệ an trụ. Cũng đều có đạo tràng. Bồ Tát chúng hội như vậy mà thấy thần lực của Phật, chẳng hoại tam thế, chẳng hoại thế gian, ở trong tâm của tất cả chúng sanh mà hiện hình tượng. Tùy theo tâm sở thích của tất cả chúng sanh mà phát ra ngôn âm vi diệu vào khắp trong tất cả chúng hội, hiện khắp trước tất cả chúng sanh. Sắc tướng có khác mà trí huệ không khác. Tùy sở nghi mà khai thị Phật pháp, giáo hoá điều phục tất cả chúng sanh chưa lúc nào nghĩ.

Những ai thấy được thần lực này, thời đều do sự nhiếp thọ của thiện căn thuở quá khứ của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Hoặc thuở xưa từng dùng pháp Tứ Nhiếp để nhiếp. Hoặc là thấy nghe, nhớ nghĩ, thân cận mà được thành thục. Hoặc là ngày trước dạy cho phát tâm Vô thượng Bồ đề. Hoặc thuở xưa ở chỗ chư Phật đồng gieo căn lành. Hoặc là quá khứ dùng Nhứt Thiết trí thiện xảo phương tiện giáo hoá thành thục. Thế nên đều nhập nơi bất tư nghì thậm thân tam muội đại thần lực khắp pháp giới hư không của Như Lai. Hoặc nhập pháp thân hoặc sắc thân, hoặc nhập hạnh đã thành tựu thuở xưa. Hoặc nhập viên mãn các môn Ba la mật, hoặc nhập hạnh luân trang nghiêm thanh tịnh, hoặc nhập các bực Bồ Tát, hoặc nhập sức thành Chánh giác. Hoặc nhập tam muội vô sai biệt đại thần biến của Ðức Phật an trụ. Hoặc nhập trí lực, trí vô úy của Như Lai. Hoặc nhập biển vô ngại biện tài của Chư Phật.

Chư Bồ Tát đó dùng những giải, những đạo, những môn, những nhập, những lý thú, những tùy thuận, những trí huệ, những trợ đạo, những phương tiện, những tam muội mà nhập mười bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật thần biến hải phương tiện môn như vậy.

Thế nào là những tam muội ?

Những là : Phổ trang nghiêm pháp giới tam muội, phổ chiếu nhứt thiết tam thế vô ngại cảnh giới tam muội, pháp giới vô sai biệt trí quang minh tam muội, nhập Như Lai cảnh giới bất động chuyển tam muội, phổ chiếu vô biên hư không tam muội, nhập Như Lai lực tam muội, Phật vô úy dũng mãnh phấn tấn trang nghiêm tam muội, nhứt thiết pháp giới triền chuyển tạng tam muội, như nguyệt phổ hiện nhứt thiết pháp giới dĩ vô ngại âm đại khai diễn tam muội, phổ thanh tịnh pháp quang minh tam muội, vô ngại tắng Pháp Vương tràng tam muội, nhứt nhứt cảnh giới trung tất kiến nhứt thiết Chư Phật hải tam muội, ư nhứt thiết thế gian tất hiện thân tam muội, nhập Như Lai vô sai biệt thân cảnh giới tam muội, tùy nhứt thiết thế gian chuyển đại bi tạng tam muội, tri nhứt thiết pháp vô hữu tích tam muội, tri nhứt thiết pháp cứu cánh tịch diệt tam muội, tuy vô sở đắc nhi năng biến hóa phổ hiện thế gian tam muội, phổ nhập nhứt thiết sát tam muội trang nghiêm nhứt thiết Phật sát thành chánh giác tam muội, quán nhứt thiết thế gian chủ sắc tướng sai biệt tam muội, quán nhứt thiết chúng sanh cảnh giới vô chướng ngại tam muội, năng xuất sanh nhứt thiết Như Lai mẫu tam muội, năng tu hành nhập nhứt thiết Phật hải công đức đạo tam muội, nhứt nhứt cảnh giới trung xuất hiện thần biến tận vị lai tế tam muội, nhập nhứt thiết Như Lai bổn sự hải tam muội, tận vị lai tế hộ trì nhứt thiết Như Lai chủng tánh tam muội, dĩ quyết định giải lực linh hiện tại thập phương nhứt thiết Phật sát hải giai thanh tịnh tam muội, nhứt niệm trung phổ chiếu nhứt thiết Phật sở trụ tam muội, nhập nhứt thiết cảnh giới vô ngại tế tam muội, linh nhứt thiết thế giới vi nhứt Phật sát tam muội, xuất nhứt thiết Phật biến hóa thân tam muội, dĩ Kim Cang vương trí tri nhứt thiết chư căn hải tam muội, tri nhứt thiết Như Lai đồng nhứt thân tam muội, tri nhứt thiết pháp giới sở an lập tất trụ tâm niệm tế tam muội, ư nhứt thiết pháp giới quảng đại quốc độ trung thị hiện Niết bàn tam muội, linh trụ tối thượng xứ tam muội, ư nhứt thiết Phật sát hiên chủng chủng chúng sanh sai biệt thân tam muội, phổ nhập nhứt thiết Phật trí huệ tam muội, tri nhứt thiết pháp tánh tướng tam muội, nhứt niệm phổ tri tam thế pháp tam muội, niệm niệm trung phổ hiện pháp giới thân tam muội, dĩ sư tử dũng mãnh trí tri nhứt thiết Như Lai xuất hưng thứ đệ tam muội, ư nhứt thiết pháp giới cảnh giới huệ nhản viên mãn tam muội, dũng mãnh xu hướng thập lực tam muội, phóng nhứt thiết công đức viên mãn quang minh phổ chiếu thế gian tam muội, bất động tạng tam muội, thuyết nhứt pháp phổ nhập nhất thiết pháp tam muội, ư nhứt pháp dĩ nhứt thiết ngôn âm sai biệt huấn thích tam muội, diễn thuyết nhứt thiết Phật vô nhị pháp tam muội, tri tam thế vô ngại tế tam muội, tri nhứt thiết kiếp vô sai biệt tam muội, nhập thập lực vi tế phương tiện tam muội, ư nhứt thiết kiếp thành tựu nhứt thiết Bồ Tát hạnh bất đoạn tuyệt tam muội, thập phương phổ hiện thân tam muội, ư pháp giới tự tại thành chánh giác tam muội, sanh nhứt thiết an ổn thọ tam muội, xuất nhứt thiết trang nghiêm cụ trang nghiêm hư không giới tam muội, niệm niệm trung xuất đẳng chúng sanh số biến hóa thân vân tam muội, Như Lai tịnh không nguyệt quang minh tam muội, thường kiến nhứt thiết Như Lai trụ hư không tam muội, khai thị nhứt thiết Phật trang nghiêm tam muội, chiếu minh nhứt thiết pháp nghĩa đăng tam muội, chiếu thập lực cảnh giới tam muội, tam thế nhứt thiết Phật tràng tướng tam muộ, nhứt thiết Phật nhứt mật tạng tam muội, niệm niệm trung sở tác giai cứu cánh tam muội, vô tận phước đức tạng tam muội, kiến vô biên Phật cảnh giới tam muội, kiên trụ nhứt thiết pháp tam muội, hiện nhứt thiết Như Lai biến hóa tất linh tri kiến tam muội, niệm niệm trung Phật nhựt thường xuất hiện tam muội, nhứt nhựt trung tất tri tam thế sở hữu pháp tam muội, phổ âm diễn thuyết nhứt thiết pháp tánh tịch diệt tam muội, kiến nhứt thiết Phật tự tại lực tam muội, pháp giới khai phu liên hoa tam muội, quán chư pháp như hư không vô trụ xứ tam muội, thập phương hải phổ nhập nhứt phương tam muội, nhập nhứt thiết pháp giới vô nguyên để tam muội, dĩ tịch tịnh thân phóng nhứt thiết quang minh tam muội, nhứt niệm trung hiện nhất thiết thần thông đại nguyện tam muội, nhất thiết thời nhất thiết xứ thành chánh giác tam muội, dĩ nhất trang nghiêm nhập nhất thiết pháp giới tam muội, phổ hiện nhất thiết chư Phật thân tam muội, tri nhất thiết chúng sanh quảng đại thù thắng thần thông trí tam muội, nhứt niệm trung kỳ thân biến pháp giới tam muội, hiện nhất thừa tịnh pháp giới tam muội, nhập phổ môn pháp giới thị hiện đại trang nghiêm tam muội, trụ trì nhứt thiết Phật pháp luân tam muội, dĩ nhứt thiết pháp môn trang nghiêm nhứt pháp môn tam muội, dĩ nhơn đà la võng nguyện hạnh nhiếp nhất thiết chúng sanh giới tam muội, phân biệt nhất thiết thế giới môn tam muội, thừa liên hoa tự tại du bộ tam muội, tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng sai biệt thần thông trí tam muội, linh kỳ thân hằng hiện nhất thiết chúng sanh tiền tam muội, tri nhất thiết chúng sanh sai biệt âm thanh ngôn từ hải tam muội, tri nhất thiết chúng sanh sai biệt trí thần thông tam muội, đại bi bình đẳng tạng tam muội, nhứt thiết Phật nhập Như Lai tế tam muội, quán sát nhất thiết Như Lai giải thoát xứ sư tử tần thân tam muội.

Bồ tát dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số tam muội như vậy mà nhập Tỳ Lô Giá Na Như Lai niệm niệm sung mãn nhất thiết pháp giới tam muội thần biến hải.

Chư Bồ Tát đó thảy đều đầy đủ đại trí thần thông minh lợi tự tại, trụ ở trí địa, dù những trí quảng đại quán sát khắp tất cả từ những trí huệ chủng tánh mà sanh, nhứt thiết chủng trí thường hiện ở trứơc, được trí nhãn thanh tịnh rời si lòa, vì các chúng sanh làm Ðiều Ngự Sư, trụ Phật bình đẳng, nơi tất cả pháp không có phân biệt, thấu rõ cảnh giới, biết các thế gian tánh đều tịch diệt không có chỗ y tựa. Ðến khắp cõi nước của tất cả chư Phật mà không chấp trước. Ðều có thể quan sát tất cả các pháp mà chẳng trụ. Vào khắp tất cả diệu pháp cung điện mà không chỗ đến. Giáo hóa điều tất cả thế gian khắp vì tất cả chúng sanh mà hiện nơi an ổn. Trí huệ giải thoát là chỗ đi của các Ngài. Hằng dùng trí thân ở nơi ly tham, siêu việt biển hữu lậu mà hiển bày chơn thiệt tế. Trí quang viên mãn thấy khắp các pháp. Trụ nơi tam muội kiên cố bất động. Với các chúng sanh hằng khởi đại bi. Biết các pháp môn thảy đều như huyễn, tất cả chúng sanh thảy như mộng, tất cả Như Lai thảy đều như bóng, tất cả ngôn âm thảy đều như vang, tất cả pháp thảy đều như hóa, có thể khéo chứa nhóm hạnh nguyện thù thắng. Trí huệ viên mãn thanh tịnh thiện xảo tâm rất tịch tịnh. Khéo nhập tất cả cảnh giới tổng trì. Ðủ sức tam muội dũng mãnh không kiếp. Ðược trí nhãn sáng suốt trụ pháp giới tế. Ðến chỗ vô sở đắc của tất cả pháp. Tu tập trí huệ đải hải không bờ. Ðến Trí Ba la mật rốt ráo bỉ ngạn. Ðược Bát Nhã Ba la mật nhiếp trì. Dùng Thần thông Ba la mật vào khắp thế gian. Nuơng Tam muội Ba la mật được tâm tự tại. Dùng trí chẳng điên đảo biết tất cả nghĩa. Dùng trí xảo phân biệt khai thị pháp tạng. Dùng trí hiển hiện biết rõ để giải thích văn từ. Dùng nguyện lực lớn thuyết pháp vô tận. Dùng vô sở uý để đại sư tử hống. Thường thích quán sát pháp không chỗ nương. Dùng tịnh pháp nhãn quán sát khắp tất cả. Dùng tịnh trí nguyệt chiếu thế gian thành hoại. Dùng trí huệ quang chiếu chơn thiệt đế. Phước đức trí huệ như núi kim cang, tất cả ví dụ không thể đến được. Khéo quán sát các pháp huệ căn tăng trưởng. Dũng mạnh tinh tấn xô dẹp chúng ma. Vô lượng trí huệ oai quang xí thạnh. Thân của các ngài siêu xuất tất cả thế gian. Ðược trí huệ vô ngại đối tất cả pháp. Khéo hay tỏ ngộ ngằn mé tận vô tận. Trụ ở ngằn mé phổ biến nhập vào ngằn mé chơn thiệt. Quán trí vô tướng thường hiện ra trước. Thiện xảo thành tựu các hạnh Bồ Tát. Dùng trí vô nhị biết các cảnh giới. Thấy khắp tất cả những loài ở thế gian. Trụ khắp tất cả quốc độ của chư Phật. Trí đăng viên mãn, với tất cả pháp không chướng ngại. Phóng tịnh pháp quang chiếu mười phương cõi. là phước điền chơn thiệt của thế gian. Hoặc thấy hoặc nghe sở nguyện đều viên mãn. Phước đức cao lớn vượt hơn các thế gian. Dũng mãnh vô uý dẹp các ngoại đạo. Diễn thuyết pháp âm khắp tất cả cõi. Thấy khắp chư khắp chư Phật không có lòng nhàm đủ. Nơi pháp thân của Phật đã được tự tại. Tùy cơ nghi hóa độ mà vì họ hiện thân. Một thân đầy khắp tất cả cõi Phật. Ðã được thần thông thanh tịnh tư tại. Ngồi thuyền đại trí đến lui vô ngại. Trí huệ viên mãn khắp cùng pháp giới, như mặt nhựt mọc lên chiếu khắp thế gian. Tùy tâm của chúng sanh mà hiện sắc tượng. Biết rõ căn tánh dục lạc của tất cả chúng sanh. Nhập vào cảnh giới vô tránh của tất cả pháp. Biết pháp tánh không sanh không khởi. Có thể làm pháp lớn pháp nhỏ nhập vào nhau tự tại. Quyết rõ lý thú thậm thâm của Phật địa. Dùng vô tận cú nói nghĩa thậm thâm. Ở trong một câu diễn thuyết tất cả biển tu đa la. Ðược thân trí huệ đà la ni. Phàm những pháp đã thọ trì thời vĩnh viễn không quên mất. Một niệm có thể nhớ những sự việc trong vô lượng kiếp. Trong một niệm biết rõ trí của tất cả tam thế chúng sanh. Hằng dùng tất cả môn đà la ni diễn thuyết vô biên pháp hải của chư Phật. Thường chuyển pháp luân thanh tịnh bất thối, làm cho các chúng sanh đều sanh trí huệ. Ðược Phật cảnh giới trí huệ quang minh. Nhập vào nơi thiện kiến thậm thâm tam muội. Nhập vào ngằn mé vô chướng của tất cả pháp. Với tất cả pháp được thắng trí tự tại. Tất cả cảnh giới đều thanh tịnh trang nghiêm. Vào khắp tất cả pháp giới mười phương. Tùy xứ sở kia đều đến tất cả. Trong mỗi mỗi vi trần hiện thành Chánh Giác. Nơi tánh vô sắc hiện tất cả sắc. Ðem tất cả phương vào khắp một phương.

Chư Bồ Tát này đủ vô biên tạng phước đức trí huệ như vậy. Thường được chư Phật khen ngợi. Bao nhiêu ngôn từ nói công đức của các Ngài cũng không hết được. Tất cả chư Bồ Tát này đều ở trong Thệ Ða. Sâu vào biển công đức lớn của Như Lai. Ðều thấy quang minh chiếu sáng của đức Phật.

Lúc đó chư Bồ Tát được bất tư nghì chánh pháp quang minh, lòng trất hoan hỷ.

Ðều ở trên thân mình, cùng lâu các và những đồ trang nghiêm với toà sư tử đương ngồi, trong tất cả vật khắp rừng Thệ Ða, hóa hiện các thứ mây đại trang nghiêm, đầy khắp tất cả thập phương pháp giới.

Ở trong mỗi niệm phóng ra mây đại quang minh đầy khắp mười phương, đều có thể khai ngộ tất cả chúng sanh. Hiện ra mây ma ni bửu linh đầy khắp mười phương, phát âm thanh vi diệu ca tụng khen ngợi tất cả công đức của tam thế chư Phật. Hiện ra tất cả mây âm nhạc đầy khắp mười phương. Trong âm nhạc diễn nói những nghiệp quả báo của tất cả chúng sanh. Hiện ra mây những nguyện hạnh sắc tướng của tất cả Bồ Tát đầy khắp mười phương, diễn nói đại nguyện của chư Bồ Tát. Hiện ra mây tự tại biến hoá của tất cả Như Lai, đầy khắp mười phương, diễn nói ngôn ngữ âm thanh của tất cả chư Phật Như Lai. Hiện ra mây thân tướng hảo trang nghiêm của tất cả Bồ Tát, đầy khắp mười phương, nói chư Như Lai thứ đệ xuất thế nơi tất cả quốc độ. Hiện ra mây đạo tràng của tam thế Như Lai đầy khắp mười phương, hiển bày công đức trang nghiêm của tất cả Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác. Hiện ra mây tất cả Long Vương đầy khắp mười phương, mưa tất cả thứ hương thơm. Hiện ra mây thân của tất cả Thế Chủ đầy khắp mười phương, diễn thuyết hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát. Hiện ra mây Phật độ thanh tịnh tất cả bửu trang nghiêm đầy khắp mười phương, hiển bày tất cả Như Lai chuyển chánh pháp luân.

Chư Bồ Tát này vì được bất tư nghì pháp quang minh, nên theo pháp phải hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số mây đại thần biến trang nghiêm như vậy.

Lúc đó, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thừa thần lực của đức Phật, muốn tuyên lại những sự thần biến trong rừng Thệ Ða, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Các Ngài nên xem rừng Thệ Ða

Phật oai thần nên rộng vô biên

Tất cả trang nghiêm đều hiện bày

Thập phương thế giới đều đầy khắp.

Tất cả cõi nước ở mười phương

Vô biên phẩm loại đại trang nghiêm

Ở trong những bửu tòa các cảnh

Hiển hiện rõ ràng những sắc tượng.

Lỗ lông của Phật tử hiện ra.

Những mây trang nghiêm báu đẹp sáng

Và phát tiếng vi diệu Như Lai

Khắp cùng mười phương tất cả cõi.

Trong cây bông báu hiện diệu thân

Thân ấy sắc tướng đồng Phạm Vương

Từ thiền định dậy mà bước đi

Oai nghi đến lui hằng tịch tịnh.

Trong mỗi lỗ lông của Như Lai

Thường hiện nan tư thân biến hóa

Ðều như Phổ Hiền đại Bồ Tát

Những tướng đại nhơn để nghiêm hảo

Cõi không gian trên rừng Thệ Ða

Những đồ trang nghiêm phát tiếng diệu

Nói khắp tam thế chư Bồ Tát

Thành tựu tất cả biển công đức.

Những cây báu trong rừng Thệ Ða

Cũng phát vô lượng âm thanh diệu

Diễn nói tất cả các quần sanh

Những loại nghiệp hải đều sai khác.

Bao nhiêu cảnh giới ở trong rừng

Ðều hiện tam thế Phật Như Lai

Mỗi Phật đều hiện đại thần thông

Mười phương sát hải vi trần số.

Bao nhiêu những quốc độ mười phương

Tất cả sát hải vi trần số

Ðều nhập trong lỗ lông Như Lai

Thứ đệ trang nghiêm đều hiện thấy.

Bao nhiêu trang nghiêm đều hiện Phật.

Bằng số chúng sanh khắp thế gian

Mỗi mỗi đều phóng đại quang minh

Thảy đều tùy nghi độ muôn loại.

Những hoa thơm sáng và tạng báu

Tất cả những mây đẹp trang nghiêm

Ðều rộng lớn lượng đồng hư không

Ðầy khắp mười phương các quốc độ,

Mười phương tam thế tất cả Phật

Bao nhiêu trang nghiêm diệu đạo tràng

Ở trong cảnh giới viên lâm này

Mỗi mỗi sắc tượng đều hiện rõ.

Tất cả Phổ Hiền các Phật tử

Trăm ngàn kiếp hải cõi trang nghiêm

Số vô lượng bằng số chúng sanh

Tất cả hiện đủ trong rừng này.

Bấy giờ, chư Bồ Tát này được tam muội quang minh của Phật chiếu đến nên liền được nhập tam muội ấy. Mỗi Bồ Tát đều được bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn đại bi, lợi ích an lạc tất cả chúng sanh. Ở trên thân của chư Bồ Tát, mỗi lỗ lông đều phóng ra bất khả thuyết vi trần số quang minh.

Trong mỗi quang minh đều hóa hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát, thân tướng như các Thế Chủ, hiện khắp trước tất cả chúng sanh, bao vòng khắp cùng mười phương pháp giới, dùng những phương tiện để giáo hóa điều phục.

Hoặc hiện ra môn vô thường của bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Thiên cung điện.

Hoặc hiện ra môn thọ sanh của bất khả thuyết Phật sát vi trần số tất cả chúng sanh.

Hoặc hiện ra môn tu hành của bất khả thuyết Phật sát vi trần số tất cả Bồ Tát.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn mộng cảnh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn đại nguyện của Bồ Tát.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn chấn động thế giới.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn phân biệt thế giới.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn hiện sanh thế giới.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Ðàn Ba la mật.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Thi Ba la mật của tất cả Như Lai tu những công đức, những khổ hạnh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Sằn Ðề Ba la mật cắt đứt chi thể.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số Tỳ Lê Gia Ba la mật siêng tu.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn thiền định giải thoát của tất cả Bồ Tát tu những tam muội.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn trí quang minh viên mãn Phật đạo.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn xả bỏ vô số thân mạng để cầu một văn một câu Phật pháp.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn gần gũi tất cả Phật, han hỏi tất cả pháp không có lòng nhàm mỏi.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn tùy theo thời tiết dục lạc của tất cả chúng sanh, đến chỗ của họ để phương tiện thành thục làm cho họ trụ nơi nhứt thiết trí hải quang minh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn hàng phục chúng ma, chế ngự các ngoại đạo, hiển bày sức phước trí của Bồ Tát.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tất cả công xảo.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tất cả chúng sanh sai biệt.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tất cả pháp sai biệt.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tâm sở thích sai biệt của tất cả chúng sanh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết căn hành phiền não tập khí của tất cả chúng sanh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết những nghiệp của tất cả chúng sanh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn khai ngộ tất cả chúng sanh.

Dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn phương tiện như vậy, đến chỗ ở của tất cả chúng sanh mà thành thục họ.

Như là : hoặc đến Thiên cung, hoặc đến Long cung, hoặc đến cung của Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già. Hoặc đến cung của Phạm Vương. Hoặc đến cung của Nhơn Vương. Hoặc đến cung của Diêm La Vương. Hoặc đến chỗ ở của súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Dùng đại bi bình đẳng, đại nguyện bình đẳng, trí huệ bình đẳng, phương tiện bình đẳng để nhiếp thọ các chúng sanh.

Hoặc có người thấy xong mà điều phục. Hoặc có người nghe xong mà điều phục. Hoặc có người ghi nhớ mà điều phục. Hoặc có người nghe âm thanh mà điều phục. Hoặc có người nghe danh hiệu mà điều phục. Hoặc thấy viên quang mà điều phục. Hoặc thấy quang võng mà điều phục.

Tùy tâm sở thích của các chúng sanh đều đến chỗ ở của họ mà làm cho họ được lợi ích.

Chư Phật tử ! Nơi rừng Thệ Ða, chư Bồ Tát vì muốn thành thục các chúng sanh nên hoặc có lúc hiện ở trong những cung điện nghiêm sức.

Hoặc có lúc thị hiện ở lâu các bửu tòa sư tử của mình, chúng hội đạo tràng cùng khắp mười phương đều làm cho được thấy. Nhưng vẫn chẳng rời khỏi rừng Thệ Ða, chỗ của đức Như Lai đây.

Chư Phật tử ! những Bồ Tát này, hoặc có lúc thị hiện vô lượng hóa thân.

Hoặc hiện thân mình riêng một không bạn. Như là hiện thân Sa Môn. Hoặc hiện thân Bà La Môn. Hoặc hiện thân khổ hạnh. Hoặc hiện thâ mập mạnh. Hoặc hiện thân y vương. Hoặc hiện thân thương chủ. Hoặc hiện thân tịnh mạng. Hoặc hiện thân kỹ nhạc. Hoặc hiện thân phụng sự chư Thiên. Hoặc hiện thân công xảo kỹ thuật.

Qua đến tất cả xóm làng, thành ấp, đô thị chỗ của chúng sanh ở, Bồ Tát này tùy sở nghi dùng mọi thứ thân, mọi oai nghi, mọi âm thanh, mọi ngôn luận, những chỗ ở, mà thật hành hạnh Bồ Tát trong tất cả thế gian dường như màng lưới của Thiên Ðế.

Hoặc nói công xảo sự nghiệp thế gian. Hoặc nói tất cả trí huệ chiếu thế gian như đèn sáng. Hoặc nói tất cả chúng sanh do nghiệp lực trang nghiêm. Hoặc nói cõi nước mười phương kiến lập những thừa vị. Hoặc nói đèn trí huệ chiếu cảnh giới của tất cả pháp, giáo hóa thành thục tất cả chúng sanh. Nhưng vẫn cũng chẳng rời khỏi rừng Thệ Ða của đức Như Lai đây.

Bấy giờ ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, từ Thiện Trụ lâu các đi ra cùng vô lượng Bồ Tát đồng hạnh và các Thần Kim Cang thường theo thị vệ, các Thân Chúng Thần khắp vì chúng sanh mà cúng dường chư Phật, các Túc Hành Thần từ lâu phát kiên thệ nguyện thường tùy tùng, các Chủ Ðịa Thần thích nghe diệu pháp, Các Thủ Thủy Thần thường tu đại bi, các Chủ Hỏa Thần trí quang chiếu sáng. Các Chủ Phong Thần ma ni làm mão, các Chủ Phương Thần minh luyện tất cả nghi thức mười phương, các Chủ Dạ Thần chuyên cần diệt trừ vô minh hắc ám, các Chủ Trú Thần xiển minh Phật nhựt nhứt tâm không lười, các Chủ Không Thần trang nghiêm pháp giới tất cả hư không, các Chủ Hải Thần độ khắp chúng sanh vượt khỏi biển hữu lậu, các Chủ Sơn Thần thường siêng chứa nhóm thiện căn trợ đạo cao như núi xu hướng Nhứt thiết trí, các Chủ Thành Thần thường siêng gìn giữ thành Bồ đề tâm của tất cả chúng sanh, các Ðại Long Vương thường siêng gìn giữ pháp thành vô thượng Nhứt thiết chủng trí, các Dạ Xoa Vương thường siêng hộ trì tất cả chúng sanh, các Càn Thát Bà Vương thường làm cho chúng sanh thêm hoan hỉ, các Cưu Bàn Trà Vương thường siêng trừ diệt những loài ngạ quỷ, các Ca Lâu La Vương hằng thuận cứu tế tất cả chúng sanh ra khỏi biển hữu lậu, các A Tu La Vương nguyện được thành tựu những thân Như Lai cao hơn thế gian, các Ma Hầu La Già Vương thấy Phật hoan hỷ cúi mình cung kính, cá đại Thiên Vương hằng nhàm sanh tử thường thích thấy Phật, các đại Phạm Vương tôn trọng chư Phật tán thán cúng dường.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng những chúng Bồ Tát công đức trang nghiêm như vậy ra khỏi chỗ mình ở, đồng đến chỗ đức Phật, hữu nhiễu đức Thế Tôn đến vô lượng vòng. Dâng các món cúng dường lên đức Phật. Cúng dường xong, từ tạ Phật rồi đi qua phương Nam đến trong nhơn gian.

Lúc đó Tôn giả Xá Lợi Phất thừa thần lực của Phật, thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng chúng hội Bồ Tát trang nghiêm ra khỏi rừng Thệ Ða qua phương Nam du hành nhơn gian, liền nghĩ rằng :

Tôi nay nên theo ngài Văn Thù Sư Lợi qua phương Nam.

Nghĩ xong, Tôn giả Xá Lợi Phất cùng sáu ngàn Tỳ Kheo đồng rời chỗ mình ở đến chỗ đức Phật đảnh lễ chân Phật rồi bạch ý muốn, đức Phật hứa khả. Các Ngài hữu nhiễu đức Phật ba vòng từ tạ đi dến chỗ ngài Văn Thù Sư Lợi.

Sáu ngàn Tỳ Kheo này vốn cùng ở chung với Tôn giả Xá Lợi Phất, xuất gia chưa lâu, những là Hải Giác Tỳ Kheo, Thiện Sanh Tỳ Kheo, Phước Quang Tỳ Kheo, Ðại Ðồng Tử Tỳ Kheo, Ðiển Sanh Tỳ Kheo, Tịnh Hạnh Tỳ Kheo, Thiên Ðức Tỳ Kheo, Quân Huệ Tỳ Kheo, Phạm Thắng Tỳ Kheo, Tịch Huệ Tỳ Kheo, sáu ngàn Tỳ Kheo như vậy.

Những Tỳ Kheo này đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, trồng sâu căn lành, sức hiểu biết rộng lớn, tín nhãn sáng suốt, tâm lượng rộng rãi, quán Phật cảnh giới, rõ pháp bổn tánh, lợi ích chúng sanh, thường cần cầu công đức của chư Phật.

Những Tỳ Kheo này đều do ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thuyết pháp giáo hóa mà được thành tựu.

Trong lúc đang đi nơi đường, Tôn giả Xá Lợi Phất quan sát chư Tỳ Kheo rồi bảo Giác Hải rằng :

Giác Hải nên quán sát thân thanh tịnh tướng tốt trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tất cả hàng Nhơn Thiên chẳng nghĩ bàn được.

Giác Hải nên quán sát viên quang chói sáng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm cho vô lượng chúng sanh phát tâm hoan hỷ.

Giác Hải nên quán sát quang võng trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát diệt trừ vô lượng khổ não cho chúng sanh.

Giác Hải nên quán sát chúng hội đông đầy của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đại chúng đó đều là bực Bồ Tát do thiện căn thuở xưa nhiếp thọ.

Giác Hải nên quán sát con đường của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đang đi, hai bên cách tám bộ đều bằng thẳng trang nghiêm.

Giác Hải nên quán sát chỗ đứng của Văn Thù Sư Lợi Bố Tát khắp vòng mười phương thường có đạo tràng luôn xoay theo.

Giác Hải nên quán sát con đường của Văn Thù Sư Lợi đang đi đủ cả vô lượng phước đức trang nghiêm, hai bên đường có những kho trân bửu ngầm dưới đất tự nhiên trồi lên.

Giác Hải nên quán sát Văn Thù Sư Lợi từng cúng dường chư Phật, do thiện căn đó làm cho trong tất cả hàng cây đều hiện ra tạng báu trang nghiêm.

Giác Hải nên quán sát các Thế Gian Chủ rưới mây cúng cụ, đảnh lễ cung kính dâng cúng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Giác Hải nên quán sát tất cả chư Phật Như Lai mười phương, lúc sắp thuyết pháp, đều phóng ánh sáng lông trắng giữa chặng mày chiếu đến thân Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, nhập vào nơi đảnh của Ngài.

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất vì chư Tỳ Kheo mà tán thán khai thị diễn thuyết ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử có vô lượng công đức trang nghiêm như vậy.

Chư Tỳ Kheo nghe xong, tâm ý thanh tịnh, tin hiểu vững chắc, vui mừng khôn xiết, toàn thân rúng nhảy không tự kềm được. Thân thể nhu nhuyến, sáu căn vui đẹp, tất cả lo khổ đều trừ, cấu chướng đều hết. Thường được thấy chư Phật thâm cầu chánh pháp đủ căn tánh Bồ Tát, được oai lực Bồ Tát, đại bi đại nguyện đều tự xuất sanh, nhập vào cảnh giới thậm thâm của các môn Ba la mật. Thập phương chư Phật thường hiện ở trước. Rất mến thích Nhứt thiết trí. Chư Tỳ Kheo bạch Tôn giả Xá Lợi Phất rằng :

Mong Ðại Sư dẫn chúng tôi đến chỗ của ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Xá Lợi Phất liền cùng chư Tỳ Kheo đồng đến chỗ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát mà bạch rằng :

Thưa Ngài, chư Tỳ Kheo này xin được kính ra mắt Ngài.

Lúc đó Văn Thù Sư Lợi Ðồng tử có vô lượng tự tại Bồ Tát và đại chúng vây quanh, như tượng vương xoay mình lại nhìn Tỳ Kheo.

Chư Tỳ Kheo liền đảnh lễ chân Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rồi chắp tay cung kính mà bạch rằng :

Nay chúng tôi kính ra mắt, cung kính lễ bái và những thiện căn của chúng tối có, ngưỡng mong ngài Văn Thù Sư Lợi, Hòa Thượng Xá Lợi Phất, Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, đều chứng biết cho.

Như ngài Văn Thù Sư Lợi có sắc thân thế này, âm thanh thế này, tướng hảo thế này, tự tại thế này, nguyện cho tôi cũng dều có đủ như vậy.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo các Tỳ Kheo rằng :

Chư Tỳ Kheo ! Nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thành tựu mười hạnh xu hướng pháp Ðại thừa thời có thể mau nhập Như Lai Ðịa, huống là Bồ Tát Ðịa.

Ðây là mười hạnh :

Chứa nhóm tất cả thiện căn lòng không mỏi nhàm.

Thấy tất cả Phật kính thờ cúng dường lòng không mỏi nhàm.

Cầu tất cả Phật pháp lòng không mỏi nhàm.

Thật hành tất cả hạnh Ba la mật lòng không mỏi nhàm.

Thành tựu tất cả Bồ Tát tam muội lòng không mỏi nhàm.

Thứ đệ nhập tất cả tam thế lòng không mỏi nhàm.

Nghiêm tịnh khắp mười phương cõi Phật lòng không mỏi nhàm.

Giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh lòng không mỏi nhàm.

Ở trong tất cả cõi tất cả kiếp thành tựu hạnh Bồ Tát lòng không mỏi nhàm.

Vì thành tựu một chúng sanh mà tu hành tất cả Phật sát vi trần số Ba la mật, thành tựu Như Lai thập lực. Thứ đệ như vậy, vì thành thục tất cả chúng sanh giới mà thành tựu Như Lai tất cả trí lực lòng không mỏi nhàm.

Chư Tỳ Kheo ! Nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thành tựu lòng thâm tính phát mười hạnh lòng không mỏi nhàm này thời có thể trưởng dưỡng tất cả thiện căn, rời bỏ tất cả những loài sanh tử vượt khỏi tất cả chủng tánh thế gian, chẳng sa vào hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật. Sanh vào nhà chư Phật Như Lai. Ðủ tất cả Bồ Tát nguyện. Học tập tất cả Như Lai công đức. Tu hành tất cả hạnh Bồ Tát. Ðược Như Lai trí lực xô dẹp chúng ma và các ngoại đạo, cũng có thể trừ diệt tất cả phiền não, nhập Bồ Tát địa, gần Như Lai địa.

Lúc đó, chư Tỳ Kheo nghe pháp này rồi thời được tam muội tên là vô ngại nhãn, thấy tất cả cảnh giới Phật. Do được tam muội này nên đều thấy chư Phật Như Lai trong vô lượng vô biên tất cả thế giới ở mười phương và những đạo tràng chúng hội. Cũng đều thấy tất cả loài chúng sanh trong thế giới mười phương. Cũng đều thấy những sai biệt của tất cả thế giới mười phương. Cũng đều thấy những vi trần của tất cả thế giới đó. Cũng đều thấy những cung điện của chúng sanh ở trong tất cả thế giới đó, dùng các báu mà làm trang nghiêm. Và cũng nghe những ngôn âm của chư Phật. Như Lai diễn thuyết các pháp, văn từ giải thích của chư Phật, nghe rồi thời đều hiểu rõ. Cũng có thể quán sát trong thế giới đó, những căn dục của tất cả chúng sanh. Cũng có thể ghi nhớ trong những thế giới đó, trước sau mười đời của tất cả chúng sanh. Cũng có thể ghi nhớ những sự trong mười kiếp quá khứ, mười kiếp vị lai của các thế giới đó. Cũng có thể ghi nhớ chư Như Lai đó mười lần bổn sanh sự, mười lần thành Chánh Giác, mười lần chuyển pháp luân, mười thứ thần thông, mười thứ thuyết pháp, mười thứ giáo giới, mười thứ biện tài.

Chư Tỳ Kheo này lại liền thành tựu mười ngàn Bồ đề tâm, mười ngàn Tam muội, mười ngàn Ba la mật, tất cả đều thanh tịnh.

Lại được đại trí huệ viên mãn quang minh. Ðược Bồ Tát mười thần thông nhu nhuyến vi diệu. Trụ Bồ Tát tâm kiên cố bất động.

Lúc đó Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyên các Tỳ Kheo trụ hạnh Phổ Hiền. Trụ hạnh Phổ Hiền rồi nhập biển đại nguyện. Nhập biển đại nguyện, rồi thành tựu biển đại nguyện. Vì thành tựu biển đại nguyện nên tâm được thanh tịnh. Vì tâm thanh tịnh nên thân được thanh tịnh. Vì thân thanh tịnh nên thân nhẹ nhàng nhậm lẹ. Vì thân thanh tịnh nhẹ nhàng nhậm lẹ nên được đại thần thông không còn thối chuyển. Vì được thần thông này nên chẳng rời dưới chân của ngài Văn Thù Sư Lợi, đều hiện thân mình khắp tất cả chỗ của chư Phật mười phương.Thành tựu đầy đủ tất cả Phật pháp.

 

(1) Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyến dạy sáu ngàn Tỳ kheo pháp Bồ đề tâm rồi, lần lượt đi về phía Nam, trải qua nhơn gian đến phía đông Phước Thành, ở trong rừng Trang Nghiêm Tràng Ta La, chỗ đại tháp miếu mà chư Phật thuở xưa từng ngự giáo hóa chúng sanh, nơi đây cũng là chỗ mà ngày xưa đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn lúc tu Bồ Tát hạnh hay xả vô lượng sự khó xả. Do đây nên rừng này có tiếng đến vô lượng cõi Phật. Rừng này thường được sự thủ hộ cúng dường của chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn cùng Phi nhơn.

Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và các quyến thuộc đến rừng Trang Nghiêm Tràng Ta La rồi, liền ở tại đó nói khế kinh Phổ Chiếu Pháp Giới cùng với trăm vạn ức na do tha khế kinh.

Khi nói kinh, trong đại hải có vô lượng trăm ngàn ức chư Long đến nghe kinh. Nghe xong chư Long đều chán thân loài rồng nên đều phát tâm cầu Phật đạo. Ðều xả thân rồng sanh trong loài người hoặc cõi trời. Một muôn chư Long được chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lại có vô lượng vô số chúng sanh ở trong Tam thừa đều được điều phục.

Lúc đó người Phước Thành hay tin ngàiVăn Thù Sư Lợi Ðồng Tử ở đại tháp miếu trong rừng Trang Nghiêm Tràng Ta La, vô lượng người ra khỏi thành đi đến rừng.

Có Ưu bà tắc tên là Ðại Trí cùng quyến thuộc năm trăm Ưu bà tắc, như là : Tu Ðạt Ða, Bà Tu Ðạt Ða, Phước Ðức Quang, Hữu Danh Xưng, Thí Danh Xưng, Nguyệt Ðức, Thiện Huệ, Ðại Huệ, Hiền Hộ, Hiền Thắng.v.v… đồng đến đảnh lể chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, hữu nhiễu ba vòng, rồi lui ra ngồi qua một phía.

Lại có năm trăm Ưu bà di, như là : Ðại Huệ, Thiện Quang, Diệu Thân, Khả LaÏc Thân, Hiền Hạnh, Hiền Ðức, Hiền Quang, Tràng Quang, Ðức Quang, Thiện Mục, v.v.. đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, hữu nhiễu ba vòng rồi lui ra ngồi qua một phía.

Lại có năm trăm Ðồng tử, như là : Thiện Tài, Thiện Hạnh, Thiện Giới, Thiện Oai Nghi, Thiện Dũng Mãnh, Thiện Tư, Thiện Huệ, Thiện Giác, Thiện Nhãn, Thiện Tý, Thiện Quang, v.v.. đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, hữu nhiễu ba vòng rồi lui ra ngồi qua một phía.

Lại có năm Ðồng nữ, như là : Thiện Hiền, Ðại Trí Cư Sĩ Nữ, Hiền Xưng Mỹ Nhan, Kiên Huệ, Hiền Ðức, Hữu Ðức, Phạm Thọ, Ðức Quang, Thiện Quang, v.v.. đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tư,û hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía.

Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử biết người Phước Thành đều đã đến đông đủ, tùy tâm sở thích của họ mà hiện thân tự tại ánh sáng rực rỡ chói lấp đại chúng. Ngài dùng đại từ tự tại làm cho họ thanh lương. Dùng đại bi tự tại khởi tâm thuyết pháp. Dùng trí huệ tự tại biết tâm sở thích của họ. Dùng biện tài quảng đại sắp vì họ mà thuyết pháp.

Lúc đó, Ngài lại quán sát Thiện Tài đồng tử do cớ gì mà có tên như vậy. Ngài biết đồng tử này lúc mới nhập thai, trong nhà đó tự nhiên hiện ra lầu các thất bửu. Dưới lâu các đó có bảy phục tạng. Trên phục tạng, đất tự nứt ra mọc lên nanh thất bửu : vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chơn chân, xa cừ, mã não.

Sau mười tháng, Thiện Tài đản sanh thân hình tay chân đoan chánh đầy đủ. Lúc đó bảy phục tạng từ đất trồi lên ánh sáng chói rực. Mỗi tạng báu ngang dọc cao thấp đều vuông vức bảy thước tay.

Trong nhà đó lại tự nhiên có năm trăm món đồ bằng thất bửu, mọi vật đều đựng đầy trong đó. Những là : trong chậu kim cang đựng tất cả thứ hương thơm. Trong chậu hương đựng các thứ y phục. Trong bát mỹ ngọc đựng các thứ thực phẩm thượng diệu. Trong bát ma ni đựng đầy những thứ trân bửu đẹp lạ. Bình vàng đựng bạc. Bình bạc đựng vàng. Trong bình vàng bạc đựng đầy ngọc lưu ly và ma ni. Trong bình pha lê đựng đầy xa cừ. Trong bình xa cừ đựng đầy pha lê. Trong bình mã não đựng đầy chơn châu. Trong bình chơn châu đựng đầy mã não. Bình hỏa ma ni đựng đầy thủy ma ni. Bình thủy ma ni đựng đầy hỏa ma ni. Năm trăm đồ đựng châu bửu như vậy tự nhiên xuất hiện.

Nơi đó lại mưa các châu bửu và những tài vật làm cho tất cả kho đụn trong nhà đó đều đầy ngập.

Do cớ trên đây nên cha mẹ thân thuộc và tướng sư đều kêu đứa trẻ ấy là Thiện Tài.

Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử lại biết Thiện Tài đã từng cúng dường quá khứ chư Phật, gieo sâu căn lành, tin hiểu rộng lớn, thường thích gần gũi các thiện tri thức. Thân ngữ ý đều không lỗi lầm, tu Bồ Tát đạo cấu Nhứt thiết trí thành Phật pháp khí. Tâm đồng tử này thanh tịnh như hư không, hồi hướng Bồ đề không chướng ngại.

Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát quán sát Thiện Tài như vậy rồi, liền an ủi chỉ dạy tất cả Phật pháp.

Những là nói pháp tích tập của tất cả Phật, pháp tương tục của tất cả Phật, pháp thứ đệ của tất cả Phật, pháp chúng hội thanh tịnh của tất cả Phật, pháp pháp luân hóa đạo của tất cả Phật, pháp sắc thân tướng hảo của tất cả Phật, pháp pháp thân thành tựu của tất cả Phật, pháp ngôn từ biện tài của tất cả Phật, pháp quang minh chiếu diệu của tất cả Phật, pháp bình đẳng vô nhị của tất cả Phật.

Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử vì Thiện Tài đồng tử và đại chúng mà nói những pháp như vậy rồi, lại ân cần khuyên dạy cho họ tăng trưởng đạo lực, cho họ hoan hỷ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại làm cho họ tự ghi nhớ thiện căn thuở quá khứ.

Ngài lại vì tất cả đại chúng mà tùy nghi thuyết pháp. Sau đó Ngài rời rừng mà đi.

Thiện Tài đồng tử được nghe pháp nơi ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, được nghe những công đức của chư Phật như vậy, liền nhứt tâm cần cầu Vô thượng Bồ đề, đi theo ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát mà nói kệ rằng :

Ba cõi làm thành quách

Kiêu mạn làm tường vách

Các loài làm cửa nẻo

Nước ái làm hào ao

Tối ngu si đậy che

Lửa tham sân cháy rực

Ma Vương làm quân chủ

Trẻ khờ ở trong đó.

Tham ái làm dây trói

Dua dối làm cương yên

Nghi hoặc che đôi mắt

Thẳng vào những đường tà.

Vì đầy tham ganh kiêu

Vào nơi ba đường ác

Hoặc đọa trong các loài

Khổ sanh già bịnh chết.

Mặt nhựt trí thanh tịnh

Vầng tròn đầy đại bi

Hay cạn biển phiền não

Xin ban diệu quán sát.

Mặt nguyệt trí thanh tịnh

Vầng trong sạch đại từ

Ban an vui tất cả

Xin thương soi xét tôi.

Vua tất cả pháp giới

Pháp bửu làm tiên đạo

Du không chẳng chướng ngại

Xin thương dạy bảo tôi.

Ðại Thương Chủ phước trí.

Dũng mãnh cầu Bồ đề

Lợi khắp các quần sanh

Xin thương thủ hộ tôi.

Thân mặc giáp nhẫn nhục

Tay cầm gươm trí huệ

Tự tại hàng quân ma

Xin thương cứu vớt tôi.

Ở đảnh pháp Tu Di

Ðịnh nữ thường hầu hạ

Diệt hoặc A tu la

Ðế thích xin xem tôi.

Nhà ba cõi phàm ngu

Hoặc nghiệp khổ luân chuyển

Ngài đã điều phục cả

Như đèn sáng soi đường.

Bỏ rời những ác thú

Thanh tịnh những đường lành

Bực vượt hẳn thế gian

Dạy tôi môn giải thoát.

Thế gian chấp điên đảo

Thường thích tưởng ngã tịnh

Trí nhãn đều rời được

Dạy tôi môn giải thoát.

Khéo biết đường tà chánh

Biết rõ tâm không khiếp

Ðấng quyết rành tất cả

Dạy tôi đường Bồ đề.

Trụ bực Phật chánh kiến

Lớn cây Phật công đức

Rưới bông Phật diệu pháp

Dạy tôi đường Bồ đề.

Khứ, lai, hiện tại Phật

Xứ xứ đếu cùng khắp

Như mặt nhựt mọc lên

Vì tôi dạy đạo đó.

Khéo biết tất cả nghiệp

Thấu rõ hạnh các thừa

Người trí huệ quyết định

Dạy tôi pháp Ðại Thừa.

Bánh nguyện, gọng đại bi,

Tín trục, vành kiên nhẫn

Báu công đức trang nghiêm

Cho tôi ngồi xe này.

Rương tổng trì quảng đại

Lọng từ mẫn trang nghiêm

Linh biện tài reo vang.

Khiến tôi ngồi xe này.

Phạm hạnh làm nệm êm

Tam muội làm thể nữ

Trống pháp rền tiếng mầu

Cho tôi ngồi xe này.

Tứ nhiếp tạng vô tận

Báu công đức trang nghiêm

Tàm quý làm yên cương

Ban cho tôi xe này.

Thường rong xe bố thí

Hằng xoa hương tịnh giới

Bò nhẫn nhục trang nghiêm

Cho tôi ngồi xe này.

Thùng thiền định tam muội

Ách trí huệ phương tiện

Ðiều phục chẳng thối chuyển

Cho tôi ngồi xe này.

Xe đại nguyện thanh tịnh

Sức tổng trì kiên cố

Trí huệ được thành tựu

Cho tôi ngồi xe này.

Phổ hạnh làm đi khắp

Bi tâm thong thả đi

Ðến đâu đều không khiếp

Cho tôi ngồi xe này.

Kiên cố như kim cang

Thiện xảo như huyễn hóa

Tất cả không chướng ngại.

Cho tôi ngồi xe này.

Quảng đại rất thanh tịnh

Khắp ban chúng sanh vui

Ðồng hư không pháp giới

Cho tôi ngồi xe này.

Sạch những vòng nghiệp hoặc

Dứt những khổ lưu chuyển

Dẹp ma và ngoại đạo

Cho tôi ngồi xe này,

Trí huệ khắp mười phương

Trang nghiêm khắp pháp giới

Thỏa nguyện của chúng sanh

Cho tôi ngồi xe này.

Thanh tịnh như hư không

Ái, kiến đều trừ diệt

Lợi ích tất cả chúng

Cho tôi ngồi xe này.

Nguyện lực đi mau chóng

Ðịnh tâm an ổn trụ

Chở khắp các hàm thức

Cho tôi ngồi xe này.

Như đại địa chẳng động

Như nước lợi ích cả

Chở chúng sanh như vậy

Cho tôi ngồi xe này.

Vầng từ nhiếp viên mãn.

Sáng tổng trì thanh tịnh

Mặt nhật huệ như vậy

Xin dạy cho tôi thấy.

Ðã vào ngôi Pháp Vương

Ðã đội mão Trí Vương

Ðã vấn lụa diệu pháp

Xin thương chiếu cố tôi.

Comments

Popular posts from this blog