ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


Ngày 13 tháng 5 năm 1990



Hôm nay là buổi thuyết giảng thứ 108 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này.

Chúng tôi xin thông báo với quí vị rằng: Ở trong ban Hoa Nghiêm này có hai vị, là ông Trị và Bà Dung- hai vợ chồng- đã được Hòa Thượng Tâm châu cắt tóc cho, để chờ đến cuối tháng sáu thì làm lễ thọ giới. Chúng tôi xin chúc hai vị được nhiều cơ duyên thuận tiện và nhiều sức tinh tấn trên đường tu học. Trước kia, ở trong ban Lăng Nghiêm, khi kết thúc ban kinh, cũng có hai vị xuất gia, ông Minh Chiếu và cụ Tịnh Quang. Tới nay, khi sắp kết thúc kinh Hoa nghiêm cũng có hai vị nảy tâm xuất gia. Chúng tôi cũng mong rằng sau này, khi chúng ta qua Đại Bát Nhã, đến khi kết thúc cũng sẽ có hai vị khác nữa nảy tâm xuất gia. Vì thực ra, sự xuất gia rất cần thiết, để vượt cửa ải dục giới mới có thể thênh thang đi trên con đường bồ tát đạo được. Trong nhà Phật, thường có ba môn học, đó là giới học, định học và huệ học. Giới học cốt vượt cửa ải dục giới, định học để vượt sắc giới, và huệ học là để vượt cõi vô sắc giới.

Lần trước chúng tôi đương giảng về vị thiện tri thức thứ 30, ngài Địa thần An Trụ. Nhưng trước khi đi vào kinh, tôi cũng xin trả lời mấy câu hỏi của một vị Phật tử ở đây, vì câu hỏi này cũng rất hay.

HỎI: Nếu trong khi tu tập mà mong cầu thần thông thì có lỗi lầm gì không? Mà chúng ta tu tập đến chừng nào thì xứng đáng được thần thông?

ĐÁP: Đạo Phật căn cứ trên trí huệ Bát Nhã, tâm đại từ bi và tâm vô sở cầu hạnh, nên một hành giả tu mà giữ tâm đúng mức thì không bao giờ mong cầu một điều gì vị kỷ mà chỉ mong cầu những cái tự tha vô ngại. Như mong cầu sang Cực Lạc để sau này có đủ sức trí huệ và đại bi để độ sanh, về vấn đề thần thông cũng vậy, thường thường một số người đọc kinh Phật mà chưa đọc kỹ, (nhất là chưa đọc kinh Đại Thừa), họ hay hiểu lầm về chuyện thần thông, nhưng phải hiểu, trong đạo Phật, khi một hành giả bắt đầu tu còn ở thấp thì khác, lên cao lại khác. Dưới thấp Đức Phật quở trách các vị đệ tử là không được phô trương thần thông, vì hành vi đó rất sai, chỉ giúp cho tâm ngã mạn dễ nổi lên. Nhưng lên cao, ngài lại nói khác, bằng cớ rằng trong kinh Hoa Nghiêm, chỉ toàn nói đến thần thông. Và Hoa Nghiêm dạy rằng, phải có thần thông mới độ sanh được, chúng tôi vẫn thường nói rằng, theo đạo Phật mọi cơ sự trong pháp giới đều vận hành theo con đường xoáy trôn ốc. Nên về thần thông, khi tâm một hành giả càng thanh tịnh bao nhiêu thì tự nhiên lại càng có nhiều thần thông bấy nhiêu, nhất là hành giả không gấp gáp, không mong cầu, tự nhiên thần thông sẽ đến. Ngược lại, nếu có tâm mong cầu thần thông để độ sanh, thì điều đó cũng là một điều tốt, nhưng đôi khi, hành giả lúc có thần thông rồi, thì cái tâm lại chuyển biến ra cách khác, lúc đó có thể sinh ngã mạn, thấy mình độ sanh được nhiều, chữa được bịnh, đuổi được quỉ, có được một chút biện tài thuyết pháp v.v… nên sanh tâm ngã mạn, hoặc sanh tà kiến, cho rằng ta là nhất và chư Phật chính là mình, hoặc cho rằng hành dục là phương tiện để đưa đến Niết Bàn v.v… Đó là hoàn toàn đi vào tà đạo. Ngược lợi, khi hành giả tu tập giữ được tấm vô ngã thì tự khắc vó thần thông, nếu tâm còn chấp ngã thì chưa nên có thần thông. Vì còn ngã thì cái ngã sẽ sai sử hành giả mong thần thông áp dụng vào những trường hợp vị kỷ, rồi càng ngày càng lệch lạc, cao thì làm Thiên Ma, thấp thì làm ma dân, (như trong kinh Lăng Nghiêm đã dạy).

Nên đừng tưởng rằng có thần thồng là một điều tốt, vì nếu không đủ phước đức trí huệ, thì thần thông đó đôi khi lại làm hại giới thần huệ mạng của mình. Thần thông như con dao hai lưỡi, nếu không sử dụng khéo cũng có thể làm hại mình như chơi.

HỎI: Trong thế gian này có nhiều đạo, mà đạo nào cũng khen đạo mình là chính đạo, gọi những đạo khác là ngoại đạo. Đạo Phật cũng thế, gọi kinh mình là nội kinh, là rốt ráo, là tột cao, còn tất cả nhưng đạo khác đều là ngoại đạo, chưa đến chỗ rốt ráo, tuyệt vời. Vậy thì, thế nào phân biệt được rằng đạo nào là đạo đưa đến chỗ rốt ráo?

ĐÁP: Ngày xưa tôi cũng thắc mắc tại sao đạo Phật lại tự nhận mình như thế, cho rằng các đạo khác đều là ngoại đạo và chưa đi đến một mức độ rốt ráo. Nhưng về sau, đọc kinh lâu, tôi thấy trong đạo Phật có những lý do rất chính đáng khiến cho chỉ riêng đạo Phật mới có thể tự nhận mình là chánh pháp, còn tất cả những đạo khác đều là ngoại pháp. Đạo Phật sỡ dĩ tự nhận mình ở đỉnh cao chót vót như đỉnh Tuyết Sơn là vì chân lý của các đạo khác chưa đạt đến mức tuyệt vời, mà chỉ riêng đạo Phật là có chân lý tuyệt vời, vậy tuyệt vời ở chỗ nào?

Thứ nhất là về giới. Nếu chúng ta giở lại những cuốn sách giới luật trong nhà Phật như luật tỳ ni, sa di ni, thì ta sẽ thấy việc giữ giới đến nơi đến chốn, trong khi ngoại đạo lại không bằng. Như có những trường hợp ngoại đạo cho uống rượu, cho nói dối, và có những trường hợp ngoại đạo cho ăn thịt, như có thể ăn cá, ăn trứng v.v… Còn đạo Phật thì không, theo đạo Phật không thể dùng thân mình làm mồ chôn chúng sanh, dù là chúng sanh nhỏ nhít đến đâu đi chăng nữa, nên giữ giới là phải rốt ráo. Như Ấn Độ giáo cho phép nói dối, trong trường hợp nguy hiểm đến tính mạng, có thể nói dối được. Đạo Phật thì không, ngay cả tính mạng cũng phải bỏ đi chứ không thể nói dối, vì đạo Phật dạy rất rõ, thân này chỉ là huyễn mộng mà thôi. Vì thế, đạo Phật rốt ráo ở chỗ đó. Thứ nhì là về những cơn tam muội. Vị giáo chủ nhập cơn tam muội càng sâu bao nhiêu thì càng có nhiều thứ “mắt” bấy nhiêu, nên mới nói giáo lý rốt ráo. Ấn Độ giáo đâu có nhiều tam muội, mà chỉ có hai thứ tam muội, một thứ tam muội có đối tượng, và một thứ tam muội không đối tượng-không đối tượng thì cao hơn, Ấn Độ giáo thường thường tu đến cơn định của cõi sắc, đến tầng trời Phạm Thiên, tầng trời Quang Âm v.v…, cao hơn nữa thì đến tầng trời cõi Vô Sắc, có thể vào được định gọi là Phi tưởng phi phi tướng xứ định, nhưng không thể lên cao hơn nữa. Kinh Đại Bát Niết Bàn nói rõ rằng, đó chỉ là những cơn tam muội nông cạn, và hay khởi tâm đảo điên. Như một vị lu sĩ Ấn Độ giáo, ngồi thiền định khi vào đến tầng trời Phạm Thiên, thấy sung sướng quá, lại nhìn thấy ngài Phạm Thiên vương oai quang rực rỡ, hào quang chói lòa, đồng thời, thấy ngài có nhiều thần thông biến hóa nên khởi tâm đảo điên, cho rằng ngài là người sanh ra vũ trụ này, thì đó đạo Phật gọi là ý tưởng đảo điên. Còn những cơn tam muội của nhà Phật thì sao? Đó là những định rất sâu, lặn vào đáy tầng tâm thức, không những đến cõi sắc và cõi vô sắc, lên trên nữa, lọt vào thức ấm, vào nhiều cơn tam muội chánh niệm vô trụ. Vì vậy đạo Phật mới nói rằng các đạo khác chưa đi đến nơi, và gọi là ngoại đạo. Mà sở dĩ đức Phật ra đời ở Ấn Độ bên Tây Trúc, chính là vì nơi đó có rất nhiều ngoại đạo, đã vào được những cơn định rồi nhưng chưa được giải thoát, và hết phước báo ấy lại phải rơi xuống luân hồi, vì vậy Phật mới ra đời ở đó để chỉ cho ngoại đạo biết rằng, các ông chưa diệt hết tất cả những vọng tưởng nên chưa thể giải thoát. (Mà tất cả những đệ tử của đức Phật đều từ ngoại đạo mà ra). Điểm thứ ba, chính các nhà ngoại đạo cũng không hiểu, là chỉ có đạo Phật mới ra khỏi ba cõi, còn những đạo khác thì vẫn triền miên trong tầng trời cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc, chưa giải thoát được. Vì vậy, trong kinh đức Phật nói rằng: ” Đạo của ta, giáo lý của ta đưa đến chỗ tốt lành và vĩnh cửu.” Còn đạo khác chỉ đưa lên được đến những từng trời thôi. Tầng trời đó có thể tồn tại khoảng mấy tỷ năm, nhưng vẫn còn trong vòng luân hồi. Đó là những điểm chính yếu khác biệt giữa đạo Phật và các tôn giáo khác. Hiểu như vậy, ta có thể vui mừng vì đã có túc duyên gặp một giáo lý rốt ráo, cao siêu, nhưng đầy khó khăn, vì vậy nên chúng ta cần rất nhiều sự gia trì của chư Phật và chư Đại Bồ Tát. Nên sự xuất gia rất cần thiết để ra khỏi dục giới, và có thể bay bổng tuyệt vời được. Ở trong vô sắc (là cõi cao nhất trong dục giới) rất vui và an lạc, nhưng thường bị hai ám chướng, đó là nghi và mạn . Nghĩ rằng mình ghê gớm quá, nghĩ rằng mình đã đến bến rồi nên không thể đi tới được nữa, nên cần có trì huệ mới hiểu được giáo lý đại thừa, biết rằng đây chưa phải là bến mà còn phải đi thêm nữa .

Trong kinh Phật thường nói, đạo lý của ta là con dường dài xa khổ nhọc, phải người có căn cơ nhiều kiếp, cúng dường na do tha Phật rồi mới chịu khó mà đi, còn phần đông người thế gian, căn cơ thấp kém, chỉ thích đi những con đường ngắn, gần gũi mà thôi. Bằng cớ là, nhìn chung quanh, những đạo nào nói thiển cận nhất thì đạo đó có nhiều người theo, như đạo hồi chẳng hạn, cùng lắm là chỉ đến được thiên đường có cây cảnh, vườn tược rất đẹp, cũng có thiên nữ đứng chờ v.v… và đó chỉ đến tầng trời dục giới, chưa phải giải thoát.

Ở đây, tôi biết rằng có nhiều người thao thức, muốn dấn thân vào rừng đạo lý, nên tôi nói như vậy để quí vị phân biệt rõ khi đi qua Ấn Độ giáo cùng các tôn giáo khác thì đỡ bị lạc. Vì giáo lý của những tôn giáo ngoại đạo nói khá giống nhau, cùng là làm lành tránh dữ, nhưng mục đích và hướng đi có khác nên một người sơ cơ không thể phân biệt nổi.

Nay, xin đi vào kinh Hoa Nghiêm…

Có một vấn đề chúng ta cần phải nói rõ thêm là Thiện Tài là người xuất gia hay tại gia? vấn đề này cũng không quan trọng lắm, nhưng nhân thể đây có hai vị sắp xuất gia vì vậy nên tôi xin nói thêm ít điểm cho rõ.

Kinh Hoa Nghiêm là một bộ kinh lớn, ở mức độ cao, nên xuất gia hay tại gia không thành vấn đề nữa, vì vậy trong kinh không nói rõ Thiện Tài là người xuất gia hay tại gia. Người đọc có thể nghĩ Thiện Tài là người xuất gia, hay tại gia cũng được. Vì sao? Như chúng tôi đã nói nhiều lần ở đây, xuất gia rất cần thiết ở mức độ phàm phu, muốn ra khỏi cõi dục thì cần phải xuất gia. Còn như những cư sĩ tại gia, dù có tinh tấn cách mấy cũng chỉ có thể đạt được ba quả thánh đầu thôi, quả thánh thứ tư là quả A La Hán thì không thể đạt nổi, mà chỉ có những vị đã xuất gia mới đạt được. Hơn nữa, hàng xuất gia dễ ra khỏi dục giới hơn. Nhưng lên trên cao, thì không cần phải xuất gia hay tại gia, song lên đến mức độ tột cao thì trong kinh lại nói đến những người xuất gia. Như trong kinh Hoa Nghiêm, khi Thiện Tài đi qua 53 vị thiện tri thức, lúc đầu đi gặp ba ngài đầu: ngài Đức Vân, ngài Hải Vân và ngài Thiện Trụ, ba vị này trong kinh nói rõ đều là Tỳ Kheo cả.

Như vậy kinh muốn nói rằng, bước đầu tu tập cần phải xuất gia. Sau đến ngài thứ tư là ngài Giải Thoát Trưởng Giả, rồi đến ngài Di Già trưởng giả v.v… toàn là cư sĩ, sau đó đến vị thứ sáu mới trở lại là tỳ kheo, rồi từ đó trở đi tỳ kheo rất ít mà chỉ toàn là tại gia, cư sĩ, trưởng giả, Ưu bà di, Ưu bà tắc v.v… và cả ngoại đạo nữa mà không thấy vị nào xuất gia, hoặc là rất ít. Tám vị chủ dạ thần cùng các vị khác đều là … thần, đâu phải là người xuất gia. Hơn nữa, những vị trên cao, thường thọ sanh trên cõi trời sắc giới, mà trên đó làm gì có chùa, làm gì có tăng, các vị đó chỉ suốt ngày có ngồi thiền, đắm mình trong những cơn định an lạc, thỉnh thoảng các ngài cũng đi nghe pháp Phật thuyết pháp. Trong 53 vị chỉ có khoảng 10 vị là xuất gia, 40 vị còn lại không phải là tỳ kheo vì lên đến tầng mức tương đối cao lại không cần, nhưng đến cuối cùng, tới ngài Di Lặc, ngài Văn Thù v.v… thì các ngài lại là những vị xuất gia. cần nói rõ rằng, trần gian này thuộc cõi dục giới của Ma Vương, chúng ta đang sống trong thế giới của Ma Vương, chung quanh đều là những duyên, có rất ít duyên tốt, gặp bạn bè chỉ toàn thấy nói chuyện tiền nong, nhà cửa, danh vọng, ăn uống v.v… mà thôi.

Khi nào chúng ta còn thai sanh thì cần phải xuất gia, hóa sanh lại không cần lắm. Tất cả vấn đề xuất gia, giữ giới v.v… là vì cái thân bất tịnh này, nó ô trọc quá, rất khó chuyển.

HỎI: Cực Lạc có phải cõi trời sắc giới không?

ĐÁP: Không, trong kinh có nói rõ, Cực Lạc là một thế giới ra khỏi ba cõi. Người được vãng sanh Cực Lạc sẽ không bị luân hồi sanh tử mà vào ngay được ngôi “bất thối chuyển.”

HỎI: Nếu vậy thì chắc chắn không phải bị đầu thai lại làm người nữa hay sao?

ĐÁP: Chắc chắn! Trừ phi do nguyện lực, muốn trở lại cõi Ta Bà để độ sanh.

HỎI: Nếu vậy thì bao nhiêu nợ nần từ kiếp trước đến kiếp này ai trả thế cho mình?

ĐÁP: Các Chư Đại Bồ Tát, do nguyện, sẽ gánh và trả cho mình. Mà thật ra, chính những tội tánh đều là không cả. Nếu chúng ta còn chấp có, còn chấp cái thân này, còn tất cả những điên đảo tưởng thì còn tất cả tội. Nhưng đến khi nào tâm trở thành vô ngã, thấy rõ thân là huyễn mộng, thành không thì tất cả tội đều tiêu dung. Nhưng không phải như thế là mình quịt nợ đâu, vì sau này chúng ta sẽ độ những người chủ nợ đó. Trong kinh nói rất nhiều lần, Đức A Di Đà nói rằng:

“Cõi của ta vi diệu hơn các tầng trời rất nhiều.”

Nói theo kinh Lăng Nghiêm, cõi trần gian thuộc về sắc ấm, cõi trời dục giới và địa ngục ở thọ ấm, cõi trời sắc giới trở lên ở tưởng ấm, cõi trời vô sắc giới ở hành ấm, còn cõi Cực Lạc ở thức ấm. Vì vậy, sang đó có được thần thông ngay… Ông hỏi như vậy vì còn nghĩ rằng tội báo là có, nhưng thực ra, nó chẳng có, chẳng không, tùy theo sự bập bềnh của tâm thức mà hóa thành có, không mà thôi. Tới khi ông quán được cái không, đắc được “không tam muội” thì tất cả tội đều rơi rụng hết, đó gọi là “Vô sanh sám hối”

… Đừng nói đâu xa, ông chỉ cần đọc kinh Lăng Nghiêm cho thật kỹ, hiểu và giảng giải cho người khác nghe, thì tội tánh cũng được tiêu diệt rất nhiều. Đức Thật nói trong kinh Lăng Nghiêm rằng:

“Này A Nan, nếu có người nào khởi tâm mang giáo pháp này giảng dạy cho người khác nghe thì dù tội người đó chất đầy hư không, tội nặng đến độ phải đọa dịa ngục, đến kiếp hoại phải chuyển qua địa ngục khác cho đến khi thế giới thành lập lại rồi phải trở lại địa ngục này, mà nếu đọc tụng, biên chép, hiểu rõ nghĩa lý rồi giảng nói cho người khác nghe thì các tội đều dược chuyển thành nhân sang Cực Lạc.”

Nay, xin trở về phẩm Nhập pháp giới…

Chúng ta đã tới vị thiện trí thức thứ 30, là vị Địa Thần tên An Trụ. Muốn gặp ngài, Thiện Tài phải đi ngược đường trở lại Bồ Đề Đạo Tràng, tức là về phương Bắc. Trở về Bồ Đề Đạo Tràng tức là trở về cái tâm của mình, rồi gặp vị địa thần, tức là trở về cái nhân địa, cái tâm địa của mình. Vì vậy, sau khi Thiện Tài đi rất nhiều nơi, ngài lại phải trở về tâm ấy.

Lúc đầu mới đi, Thiện Tài vào được Tàng thức, nó vốn là tàng thức sơ năng biến có cả chân lẫn vọng. Sau khi đi dần dần qua hai mươi chín vị thiện tri thức, thì ngài đã lọc được gần hết cái vọng, bây giờ mới đi vào cái chân để đi đến “Bạch Tịnh Thức.” Vì vậy, mới có vị địa thần tên là An Trụ ở Bồ Đề Đạo Tràng. Vị thiện tri thức thứ 30 chỉ có nghĩa như vậy thôi. Đây là lần thứ nhất ngài trở về Bồ Đề Đạo Tràng, về chân tâm..

Lần thứ hai trở về, là để gặp ngài Phổ Hiền. Trở về Bồ Đề Đạo Tràng cũng có một nghĩa nữa là trở về cái căn bản trí của mình, còn trong khi đi thì ngài dùng cái hậu đắc trí. Căn bản trí là cái tâm linh minh sáng chói trong biển diệu tâm-là diệu tâm-nhưng cái tâm đó trải qua nhiều kiếp mình quên đi, nên sống kiếp chúng sanh chìm nổi trong sáu nẻo luân hồi. Đến một lúc nào đó, mình khởi tâm muốn trở về bến cũ của mình, tức về cái diệu tâm, về căn bản trí. Lúc đó gọi là thủy giác, bắt đầu hiểu đạo và muốn trở về bổn giác đó. Vì vậy, hậu đắc trí cũng gọi là thủy giác và căn bản trí gọi là bổn giác. Nó mang nhiều tên, tùy theo trường hợp để gọi, nhưng vẫn chỉ cho cái diệu tâm ấy thôi.



30.- ÐỊA THẦN AN TRỤ


Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết pháp môn  "BẤT KHẢ HOẠI TRÍ HUỆ TẠNG" này.


 

Thiện Tài qua nước Ma Kiệt Ðề nơi Bồ Ðề Tràng, chỗ của ÐỊA THẦN AN TRỤ cùng ở với trăm vạn Ðịa Thần.

Chư Thần bảo nhau :

Ðồng tử đến kia chính là Phật tạng. Tất sẽ vì khắp tất cả chúng sanh mà làm chỗ sở y. tất đã khắp phá vỡ lốt vỏ vô minh của tất cả chúng sanh. Người này đã sanh trong dòng Pháp Vương. Sẽ dùng lụa pháp vô ngại ly cấu để vấn đầu. Sẽ mở kho trí huệ trân bửu lớn. Sẽ xô dẹp tất cả tà luận dị đạo.

Lúc đó An Trụ và trăm vạn Ðịa Thần phóng quang minh lớn chiếu khắp cõi Ðại Thiên. Làm khắp đại địa đồng thời chấn động. Nơi nơi trang nghiêm với những bửu vật chói sáng lẫn nhau. Tất cả lá cây đồng thời sanh lớn, tất cả bông đồng thời đua nở, tất cả trái đồng thời chín, tất cả dòng nước chảy rót lẫn nhau,tất cả ao đầm đều đầy nước.

Trời mưa nước thơm rửa khắp mặt đất, gió thổi rải hoa khắp nơi. Vô số âm nhạc đồng thời trỗi. Ðồ trang nghiêm đều vang tiếng diệu.

Những Ngư vương, Tượng vương, Sư tử vương v.v…đều vui mừng nhảy nhót rống gầm, như núi to chạm nhau vang tiếng lớn.

Trăm ngàn tạng báu tự nhiên hiện lên.

An Trụ Ðịa Thần bảo Thiện Tài :

Lành thay Ðồng tử ! Tại chỗ này ngươi đã từng gieo thiện căn. Ta vì ngươi mà hiện. Ngươi muốn thấy chân ?

Thiện Tài liền đảnh lễ chân Ðịa Thần, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi muốn được thấy.

Ðịa Thần lấy chân ấn đất, trăm ngàn ức vô số bửu tạng tự nhiên trồi lên. Rồi bảo rằng :

Này thiện nam tử ! Những bửu tàng này theo ngươi luôn. Ðây là quả báo do thiện căn thuở xưa của ngươi. Ðây là phước lực của ngươi nhiếp thọ. Ngươi nên tùy ý tự tại thọ dụng.

Này Thiện nam tử ! Ta được Bồ Tát giải thoát tên là " Bất khả hoại trí huệ tạng", ta thường dùng pháp này để thành tựu chúng sanh.

Này Thiện nam tử ! Ta nhớ từ Phật Nhiên Ðăng đến nay, ta thường theo Bồ Tát cung kính thủ hộ, quán sát Bồ Tát chỗ có những tâm hành, cảnh giới trí huệ, tất cả thệ nguyện, những hạnh thanh tịnh, tất cả tam muội, thần thông quảng đại, thần lực tự tại, những pháp bất hoại, qua khắp tất cả Phật độ, được khắp tất cả Như Lai thọ ky,ù chuyển pháp luân của tất cả chư Phật, diễn rộng tất cả môn tu đa la, đại pháp quang minh soi sáng khắp nơi, giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh, thị hiện thần biến của tất cả chư Phật.

Tất cả những công đức như trên của Bồ Tát ta đều có thể lãnh thọ, đều có thể ghi nhớ.

Này thiện nam tử ! Thuở xưa quá Tu Di sơn vi trần số kiếp, có một kiếp tên Trang Nghiêm, thế giới tên Nguyệt Tràng, Phật hiệu Diệu Nhãn. Chính ở chỗ đức Phật Diệu Nhãn mà ta được pháp môn này.

Này thiện nam tử ! Ta ở nơi pháp môn này, hoặc nhập, hoặc xuất, tu tập tăng trưởng thường thấy chư Phật chưa từng bỏ rời.

Từ lúc mới được nhẫn đến Hiền kiếp này, khoảng thới gian đó ta gặp bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Như Lai Ðẳng Chánh Giác. Ta đều phụng thờ cung kính cúng dường. Ta cũng thấy chư Phật ngồi tòa Bồ đề hiện đại thần lực. Cũng thấy những công đức thiện căn của chư Phật.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết pháp môn "BẤT KHẢ HOẠI TRÍ HUỆ TẠNG" này.

Như chư đại Bồ Tát thường theo chư Phật, có thể thọ trì tất cả lời dạy của chư Phật, vào trí huệ thậm thâm của chư Phật, mỗi niệm đầy khắp tất cả pháp giới, đồng thân Như Lai, sanh tâm chư Phật, đủ pháp chư Phật, làm những Phật sự.

Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.

Này thiện nam tử ! Trong thành Ca Tỳ La có Chủ Dạ Thần tên là Bà San Bà Diễn Ðể.

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Ðịa Thần hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.



KINH: Thiện Tài qua nước Ma Kiệt Đề nơi Bồ Đề Đạo Tràng, chỗ của địa thần An Trụ cùng với trăm vạn Địa Thần, chư thần bảo nhau: Đồng tử đến kia chính là Phật tạng … Lúc đó An Trụ và trăm vạn địa thần phóng quanh minh lớn chiếu khắp cõi đại thiên. Làm khắp đại địa đồng thời chân động…

GIẢNG: Lúc này, sau khi Thiện Tài đi qua 29 vị thiện tri thức, đã đạt đến một mức độ đạo hạnh cao rồi, nên khi Thiện Tài vừa đến thì An Trụ địa thần cùng các vì địa thần khác phóng quang tiếp đón. Thường các vị tu hành cao khi phóng quang hay cất tay, nhấc chân đi qua, hay làm chấn động đại địa, (chấn động đây là chấn dộng trong tầng lớp sâu, chứ không phải trong tầng lớp thô kệch), nên chỉ có những vị nào vào định thì mới thấy chấn động đó.

KINH: …nơi nơi trang nghiêm với những bửu vật chói sáng lẫn nhau. Tất cả lá cây đồng thời sanh lớn, tất cả bông đồng thời đua nở, tất cả trái đồng thời chín, tất cả dòng nước chảy rót lẫn nhau, tất cả ao đầm đều đầy nước.

GIẢNG: Khi nào có một vị tu hành lớn đi qua, thiên nhiên hay có những triệu chứng cát tường đón chào như vậy. Hoa lá không phải mùa vẫn cứ nở, cây cỏ, trái cây đều đua nhau lúc lỉu trên cành. Nên ta thấy rõ rằng, tất cả chuyện mùa màng gặt hái, cây cối lớn sinh hoa, trổ lá v.v… đều là do các vị địa thần làm ra. Người có thể làm được đôi chút về việc trồng trọt, có thể thêm được hoa trái nhưng cũng chẳng nhiều được bao nhiêu, vì còn tùy vào phước đức của chính mình chiêu cảm nữa. Còn nếu có sức gia trì của các vị địa thần thì không cần phải làm nhiều, tự nhiên mưa thuận gió hòa, được mùa rất thuận tốt. Nên phải hiểu, tất cả những gì ta được trên thế gian này, chỉ có khoảng hai phần mười là do nhân lực tạo ra, còn lại tám phần mười đều là do phước đức cũ của mình mà có, và ta cũng thấy hiển nhiên, tại sao có những người làm rất khổ cực mà không kiếm được bao nhiêu, vì họ không có nhiều phước báo.

KINH: Trời mưa nước thơm rửa khắp mặt đất, gió thổi trải hoa khắp nơi. Vô số âm nhạc đồng thời trổi. Đồ trang nghiêm đều vang tiếng vi diệu. Những Ngưu vương, Tượng Vương, Sư Tử vương v.v… đều vui mừng nhảy nhót rống gầm, như núi to chạm nhau vang tiếng lớn… Trăm ngàn tạng báu tự nhiên hiện lên.

GIẢNG: Khi có một vị lớn đi qua, thiên nhiên và tất cả chúng hữu tình đều hớn hở vui mừng như vậy. Phước báu của chúng ta chỉ ở mức độ bình thường thì một nhà địa chất học phải đi kiếm mãi mới tìm ra được một mỏ vàng, mỏ bạc hay mỏ dầu. Nhưng nếu phước báu cao sâu hơn thì chẳng phải tìm kiếm gì cả, tự nhiên trăm ngàn tạng báu hiện lên.

KINH: An Trụ địa thần bảo Thiện Tài: Lành thay đồng tử, tại chỗ này ngươi đã từng gieo thiện căn. Ta vì ngươi mà hiện. Ngươi muốn thấy ta chăng?

GIẢNG: “Tại chỗ này ta vì ngươi mà hiện…” có hai nghĩa, đó là tại chỗ đất này. Nghĩa thứ hai là tại đây cũng chính là cái tâm của Thiện Tài, vì trong tâm Thiện Tài đã gieo trồng nhiều thiện căn nên bây giờ hiện lên nhiều tạng báu.

KINH: Thiện Tài liền đảnh lễ chân địa thần, hữu nhiễu vô số vòng chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức thánh, tôi muốn được thấy. Địa thần lấy chân ấn đất, trăm ngàn ức vô số bửu tạng tự nhiên trồi lên. Rồi bảo rằng: này thiện nam tử, những bửu tàng này theo ngươi luôn. Đây là quả báo do thiện căn thưở xưa của ngươi. Đây là phước lực của ngươi nhiếp thọ, ngươi nên tùy ý tự tại thọ dụng… Này thiện nam tử, ta được bồ tát giải thoát tên là “Bất khả hoại trí huệ tạng’…

GIẢNG: Ngài An Trụ địa thần cũng làm như ngài Chành Thụ bồ tát, “lấy chân ấn đất,” thì cũng như lấy tâm ấn tâm thôi, và trăm nghìn vô số bửu tạng tự nhiên trồi lên, vì những bửu tạng này đều do phước thiện căn quả báo ngày xưa của Thiện Tài. Vị thiện tri thức này muốn nói rằng: Thiện Tài đã trở về tâm địa của mình, vào tàng thức (vốn là cái bóng mờ của chân tâm) rồi lặn sâu để vào được đến chân tâm. Chân tâm là tạng trí huệ bất khả hoại.



KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám


THẬP HỒI HƯỚNG

 

A-nan, thiện-nam-tử đó đầy-đủ thần-thông, thành-tựu Phật-sự rồi, toàn là một tinh-chân thuần-khiết, xa các lỗi-lầm, chính khi hóa-độ chúng-sinh mà diệt tướng năng-độ, sở-độ, xoay tâm vô-vi hướng về đường Niết-bàn; gọi là Cứu-hộ nhất-thiết chúng-sinh, Ly-chúng-sinh-tướng hồi-hướng.

Diệt-hoại tất-cả cái gì có thể diệt-hoại, viễn-ly các sự ly; gọi là Bất-hoại hồi-hướng.

Tính bản-giác đứng-lặng, giác-ngộ bằng Phật; gọi là Đẳng-nhất-thiết-Phật hồi-hướng.

Tinh-chân phát ra sáng-suốt, tâm-địa như Phật-địa, gọi là Chí-nhất-thiết-xứ hồi-hướng.

Thế-giới và Như-lai, dung-hợp vào nhau, được không ngăn-ngại; gọi là Vô-tận-công-đức-tạng hồi-hướng.

Nơi đồng với Phật-địa, trong ấy phát-sinh ra các nhân thanh-tịnh, nương nhân ấy mà phát-huy, đi đến đạo Niết-bàn; gọi là Tùy-thuận-bình-đẳng-thiện-căn hồi-hướng.

Chân-căn đã thành-tựu, thập phương chúng-sinh đều là bản-tính của mình, bản-tính viên-mãn thành-tựu, không bỏ mất chúng-sinh; gọi là Tùy-thuận-đẳng-quán-nhất-thiết chúng-sinh hồi-hướng.

Tức tất-cả pháp, ly tất-cả tướng, cả tức và ly, hai cái đều không dính; gọi là Chân-như-tướng hồi-hướng.

Thật được như-như, mười phương không ngăn-ngại; gọi là Vô-phược-giải-thoát hồi-hướng.

Tính-đức viên-mãn thành-tựu, lượng của pháp-giới diệt; gọi là Pháp-giới-vô-lượng hồi-hướng.



31.- BÀ SAN BÀ DIỄN ÐỂ CHỦ DẠ THẦN

 

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn 

"BỒ TÁT PHÁ NHỨT THIẾT CHÚNG SANH ÁM PHÁP QUANG MINH GIẢI THOÁT".

 


Bấy giờ Thiện Tài nhất tâm tư duy lời dạy của An Trụ Ðịa Thần, ghi nhớ môn Bồ Tát bất khả trở hoại trí tạng giải thoát, tu tam muội đó, học quỹ tắc đó, quán sát thần thông du hí đó, nhập vi diệu đó, được trí huệ đó đạt bình đẳng đó, biết vô biên đó lường thậm thâm đó.

Ði lần đến thành Ca Tỳ La vào cửa đông, Thiện Tài đứng chờ chẳng bao lâu kế trời tối.

Thiện Tài tâm niệm tùy thuận lời dạy của chư Bồ Tát, khác ngưỡng muốn được thấy Chủ Dạ Thần. Nơi thiện tri thức tưởng như Phật.

Thiện Tài lại nghĩ rằng : Nhờ thiện tri thức mà được phổ biến nhãn, thấy rõ cảnh giới mười phương. Nhờ thiện tri thức mà được quảng đại giải thấu rõ tất cả cảnh sở duyên. Nhờ thiện tri thức mà được tam muội nhãn quán sát tất cả pháp môn. Nhờ thiện tri thức mà đước trí huệ nhãn soi sáng mười phương sát hải.

Lúc suy nghĩ như vậy, Thiện Tài thấy trên hư không, Dạ Thần ngồi trên tòa hương liên hoa tạng sư tử trong bửu lâu các. Thân màu chơn kim, mắt và tóc xanh biếc, hình mạo đoan nghiêm, những chuỗi ngọc báu dùng trang sức. Thân mặc y phục đỏ, đầu đội mão Phạm Thiên. Tất cả tinh tú hiện rõ trên thân.

Mỗi lỗ lông trên thân của Dạ Thần đều hiện hóa độ vô lượng vô số chúng sanh ở ác đạo, cho họ thoát khỏi thân hình hiễm nạn.

Những chúng sanh này, hoặc sanh nhơn gian, hoặc sanh lên trời, hoặc xu hướng Nhị thừa Bồ đề, hoặc tu hành đạo Nhứt thiết trí.

Lại trong mỗi lỗ lông thị hiện những phương tiện giáo hóa : hoặc hiện thân, hoặc thuyết pháp, hoặc thị hiện đạo Thanh Văn thừa, Ðộc Giác thừa, Bồ Tát hạnh, Bồ Tát dũng mãnh, Bồ Tát tam muội, Bồ Tát tự tại, Bồ Tát trụ xứ, Bồ Tát quán sát, Bồ Tát sư tử tần thân, Bồ Tát giải thoát du hí.

Thị hiện những phương tiện thành thục chúng sanh như vậy.

Thiện tài thấy và nghe những sự trên đây, lòng rất vui mừng. Ðảnh lễ nơi chân Dạ Thần, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề. Lòng tôi trông mong nương thiện tri thức để được công đức pháp tạng của Như Lai. Xin dạy cho tôi đạo Nhứt thiết trí, tôi đi trong đó đến bực Thập lực.

Dạ Thần bảo Thiện Tài rằng :

Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi có thể thâm tâm kính thiện trí thức, thích nghe lời dạy và tu hành theo. Do tu hành nên quyết định sẽ được Vô thượng Bồ đề.

Này thiện nam tử ! Ta được môn giải thoát Bồ Tát pháp quang minh phá tất cả chúng sanh si ám.

Này thiện nam tử ! Ta ở nơi ác huệ chúng sanh khởi tâm đại từ, nơi chúng sanh bất thiện khởi tâm đại bi, nơi chúng sanh làm lành khởi tâm đại hỷ, nơi chúng sanh đủ hai hạnh thiện ác khởi tâm bất nhị, nơi chúng sanh tạp nhiễm ta khởi tâm làm cho họ thanh tịnh, nơi chúng sanh tà đạo ta khởi tâm làm cho họ sanh chánh hạnh, nơi chúng sanh hiểu biết kém ta khởi tâm làm cho họ được trí sáng suốt, nơi chúng sanh mến sanh tử ta khởi tâm làm cho họ bỏ luân chuyển, nơi chúng sanh an trụ Nhị thừa ta khởi tâm làm cho họ tu Nhứt thiết trí.

Này thiện nam tử ! Vì ta được môn giải thoát này nên thường tương ứng với những tâm như vậy.

Này thiện nam tử ! Ðêm tối yên lặng, lúc quỷ thần, trộm cướp, các ác chúng sanh du hành, lúc mây kính sương dầy gió to mưa lớn nhựt nguyệt tinh tú đều tối tâm, thấy có các chúng sanh hoặc vào biển, hoặc đi trong lục địa, nơi núi rừng hoang vu, những chỗ hiểm nạn, hoặc gặp trộm cướp, hoặc thiếu lương thực, hoặc lạc đường kinh hải lo buồn không thể thoát được. Ta liền dùng nhiều phương tiện để cứu giúp họ.

Vì chúng sanh bị nạn nơi biển mà hiện làm lái thuyền, làm Ngư vương, Mã vương, Quy vương, Tượng vương, A Tu La vương, Hải thần, vì họ mà ngăn mưa gió, dứt sóng mòi, dắt đường chỉ bờ cho họ thoát nạn. Nguyện đem thiện căn này ban cho tất cả chúng sanh đều được khỏi khổ.

Vì chúng sanh đi trong lục địa, đêm tối bị nạn mà hiện mặt nhựt, mặt nguyệt, tinh tú, ráng ban mai, chớp đêm tối, cho họ thấy ánh sáng, nhẫn đến hiện làm nhơn chúng nhà cửa, cho họ được khỏi nạn khủng bố. Nguyện đem thiện căn này ban cho tất cả chúng sanh thoát khỏi màn tối phiền não. Những chúng sanh tiếc thân mạng, chuộng danh tiếng, ham của báu, trọng quyền tước, đắm nam nữ, luyến thê thiếp, mà chưa toại theo sở cầu phải lo sợ, thời ta đều cứu giúp cho họ khỏi khổ.

Vì người đi trên núi hiễm mà bị nạn, thời ta làm thiện thần hiện hình thân cận, hoặc hiện làm chim đẹp kêu hót cho họ được vui, hoặc hiện làm linh dược soi sáng cho họ thấy cây trái, chỉ cho họ suối ngọt, chỉ cho họ đường sá bằng phẳng để họ thoát ách nạn.

Vì người bị nạn nơi đồng hoang rừng rậm mà hiện ra chỉ đường cho họ. Nguyện tất cả chúng sanh đốn rừng rậm kiến chấp, chặt lưới tham ái thoát đồng sanh tử, diệt tối phiền não, vào đường bằng thẳng Nhứt thiết trí, đến chỗ vô uý rốt ráo an lạc.

Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh ham tụ lạc, mến nhà cửa mà thường ở chỗ tối tăm bị khổ, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ nhàm lìa để được đầy đủ pháp lành, an trụ chánh pháp. Nguyện tất cả chúng sanh đều chẳng tham mến tụ lạc lục trần, mau được thoát khỏi cảnh giới sanh tử, rốt ráo an trụ nơi thành Nhứt thiết trí.

Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh đi đêm tối quên mất phương hướng, lạc đường lo sợ. Ta dùng phương tiện soi sáng cho họ. Nếu là người muốn ra khỏi, thời ta chỉ cửa nẻo, người muốn đi thì ta chỉ đường sá, người muốn qua sông thời ta chỉ cầu đò, người muốn đi sông biển thời ta cho thuyền bè, người thích xem phương hướng thời ta chỉ cho họ chỗ an nguy hiễm dễ, người muốn nghỉ ngơi thì ta chỉ cho họ thành ấp cội cây.

Ta nghĩ rằng : Như ở tại đây ta trừ đêm tối làm cho những thế sự đều được thứ tự hiển bài. Nguyện ta dùng ánh sáng trí huệ soi rõ khắp những chỗ tối tăm vô minh, đêm dài sanh tử.

Những chúng sanh không có trí nhãn bị che đậy bởi tâm tưởng kiến chấp điên đảo : vô thường tưởng là thường, vô lạc tưởng là lạc, vô ngã tưởng là ngã, bất tịnh tưởng là tịnh, chấp chặt những ngã, nhơn, chúng sanh, uẩn, xứ, giới, mê lầm nhơn quả, chẳng biết thiện ác, sát hại chúng sanh nhẫn đến tà kiến, chẳng hiếu với cha mẹ, chẳng kính Sa Môn, Bà la môn, chẳng biết người ác người lành, ham ác sự, trụ pháp tà, hủy báng Như Lai, phá hoại chánh pháp, sỉ nhục thương hại chư Bồ Tát, khinh đạo Ðại thừa, dứt tâm Bồ đề, hại người ơn, oán kẻ thù, khinh rẻ Hiền Thánh, gần gũi bạn ác, trộm vật của chùa tháp, làm tội ngũ ngịch, chẳng bao lâu sẽ bị đọa ba ác đạo. Nguyện tôi mau dùng ánh sáng đại trí phá màn tối vô minh của những chúng sanh đó, khiến họ mau phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Họ đã phát tâm, tôi liền chỉ hạnh Phổ Hiền, mở đường thập lực, chỉ cảnh giới Như Lai pháp vương, cũng hiển thị thành trì nhất thiết trí của chư Phật. Chư Phật thật hành, chư Phật tự tại, chư Phật thành tựu, chư Phật tổng trì, tất cả chư Phật chung đồng một thân, tất cả chư Phật bình đẳng một chỗ, đều làm cho họ được an trụ.

Này thiện nam tử ! tất cả chúng sanh hoặc bị bịnh y buộc ràng, hoặc bị già xâm lấn, hoặc khổ vì nghèo cùng, hoặc gặp hoạn nạn, hoặc phạm pháp vua bị gia hình, ta đều cứu giúp cho họ được an ổn.

Ta lại nghĩ rằng : Nguyện dùng chánh pháp nhiếp khắp chúng sanh cho họ giải thoát tất cả phiền não, sanh gìa bệnh chết, ưu bi khổ hoạn. Thường được gần thiện tri thức, thật hành pháp thí, siêng tu hạnh lành, mau được pháp thân thanh tịnh của Như Lai, an trụ nơi rốt ráo không biến đổi.

Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sanh vào rừng kiến chấp, trụ nơi đạo tà, nơi các cảnh giới khởi tà phân biệt, thân khẩu ý thường làm sự bất thiện, vọng làm những sự khổ hạnh. Nơi chẳng phải chánh giác tưởng là chánh giác. Nơi chánh giác tưởng là chẳng phải chánh giác. Bị ác tri thức nhiếp thọ. Do họ khởi ác kiến sắp đọa ác đạo, ta dùng nhiều môn phương tiện cứu hộ họ, cho họ an trụ nơi chánh kiến sanh trong Nhơn Thiên.

Lại tự nghĩ rằng : Như ta cứu những chúng sanh sắp đọa ác đạo, nguyện ta cứu tất cả chúng sanh, đều làm cho họ giải thoát tất cả khổ, an trụ nơi Ba la mật Thánh đạo xuất thế. Nguyện ta được chẳng thối chuyển nơi nhất thiết trí, đủ nguyện Phổ Hiền, gần Nhứt thiết trí, chẳng rời bỏ hạnh Bồ Tát, thường siêng giáo hóa tất cả chúng sanh.

Bấy giờ BÀ SAN BÀ DIỄN ÐỂ CHỦ DẠ THẦN muốn tuyên lại nghĩa giải thoát này, thừa thần lực của Phật, quán sát mười phương, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng :

 

Môn giải thoát của ta

Sanh tịnh pháp quang minh

Phá được tối ngu si

Chờ thời mà diễn thuyết.

Ta từ vô biên kiếp

Siêng tu đại từ tâm

Che chở khắp thế gian

Phật tử nên tu học.

Biển đại bi tịch tịnh

Xuất sanh tam thế Phật

Hay diệt khổ chúng sanh

Ngươi nên nhập môn này.

Hay sanh thế gian vui

Cũng sanh vui xuất thế

Khiến lòng ta hoan hỷ

Ngươi nên nhập môn này.

Ðã bỏ họa hữu vi

Cũng xa Thanh Văn quả

Tịnh tu chư Phật lực

Ngươi nên nhập môn này.

Mắt ta rất thanh tịnh

Thấy khắp mười phương cõi

Cũng thấy Phật trong đó

Ngồi dưới cây Bồ đề.

Thân tướng tốt trang nghiêm

Vô lượng chúng câu hội

Trong mỗi lỗ chân lông

Phóng ra nhiều tia sáng.

Thấy những loài quần sanh

Chết đây mà sanh kia

Luân hồi trong năm loài

Thường thọ vô lượng khổ.

Tai ta rất thanh tịnh

Nghe thấu đến mười phương

Tất cả biển ngữ ngôn

Ðều nghe hay ghi nhớ.

Chư Phật chuyển pháp luân

Tiến Phật diệu vô tỷ

Bao nhiêu những văn tự

Ðều có thể ghi nhớ.

Mũi ta rất thanh tịnh

Nơi pháp không chướng ngại

Tất cả đều tự tại

Ngươi nên nhập môn này.

Lưỡi ta rất rộng dài

Sạch tốt hay nói năng

Tùy nghi diễn diệu pháp

Ngươi nên nhập môn này.

Thân ta rất thanh tịnh

Tam thế đồng như như

Tùy tâm các chúng sanh

Tất cả thảy đều hiện.

Tâm ta tịnh vô ngại

Như không chứa muôn vật

Khắp nhớ tất cả Phật

Mà cũng chẳng phân biệt.

Biết rõ vô lượng cõi

Tất cả biển tâm tánh

Các căn và dục lạc

Mà cũng chẳng phân biệt.

Ta dùng đại thần thông

Chấn động vô lượng cõi

Thân mình đến khắp nơi

Phục kia chúng khó phục

Phước ta rất rộng lớn

Như hư không vô tận

Cúng dường chư Như Lai

Lợi ích tất cả chúng.

Trí ta rộng thanh tịnh

Biết rõ biển các pháp

Trừ diệt chúng sanh mê

Ngươi nên nhập môn này.

Ta biết tam thế Phật

Và biết tất cả pháp

Cũng biết phương tiện kia

Môn này khắp vô thượng.

Thấy trong mỗi vi trần

Tam thế tất cả cõi

Cũng thấy chư Phật kia

Ðây là phổ môn lực.

Trong thập phương sát trần

Ðều thấy Lô Xá Na

Ngồi dưới cây Bồ đề

Thành đạo diễn diệu pháp

 

Thiện Tài thưa rằng :

Ðức Thánh pháp tâm Vô thượng Bồ đề được bao lâu ? Ðược môn giải thoát này hồi nào mà có thề lợi ích chúng sanh như vậy ?

Chủ Dạ Thần nói :

Này thiện nam tử ! Thuở xưa quá Tu Di sơn vi trần số kiếp, có một kiếp tên là Tịch Tịnh Quang, thế giới tên Xuất Sanh Diệu Bửu, có năm ức Phật xuất hiện trong đó.

Trong thế giới Xuất Sanh Diệu Bửu có tứ thiên hạ tên Bửu Nguyệt Ðăng Quang, có thành tên Liên Hoa Quang, vua hiệu Pháp Thiện Ðộ dùng pháp trị dân, đầy đủ thất bửu. Vua có phu nhơn tên là Pháp Huệ Nguyệt giữa đêm đang ngủ.

Thành Ðông có khu rừng lớn tên là Tịch Trụ, trong rừng có cây Bồ đề lớn tên là Nhứt Thiết Quang Ma Ni Vương Trang Nghiêm Thân thường xuất sanh thần lực quang minh của tất cả Phật.

Bấy giờ có đức Phật thành Ðẳng Chánh Giác dưới cây Bồ đề này hiệu là Nhứt Thiết Pháp Lôi Âm Vương, phóng quang minh rộng lớn vô lượng màu chiếu khắp thế giới Xuất Sanh Diệu Bửu.

Trong thành Liên Hoa Quang có Chủ Dạ Thần tên Tịnh Nguyệt đến cung, động chuỗi ngọc để đánh thức phu nhơn Pháp Huệ Nguyệt mà bảo rằng :

Này phu nhơn ! Nơi rừng Tịch Trụ, đức Nhứt Thiết Pháp Lôi Âm Vương Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác.

Dạ Thần lại vì phu nhơn mà nói công đức thần lực tự tại của Phật, hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, cho phu nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề đến cúng dường Phật và chư Bồ Tát cùng chúng Thanh Văn.

Này thiện nam tử ! Phu nhơn Pháp Huệ Nguyệt thuở xưa chính là tiền thân của ta.

Từ thuở đó ta phát tâm Vô tận Bồ đề gieo căn lành, trải qua Tu Di sơn vi trần số kiếp chẳng sanh trong các ác đạo, dũng chẳng sanh nơi nhà hạ tiện. Ở trong nhân thiên ta được phước đức thù thắng, chẳng sanh ác thế, thường chẳng rời Phật và chư Bồ Tát đại thiện tri thức gieo trồng căn lành. Trải qua tám mươi Tu Di sơ vi trần số kiếp thường được an lạc, mà chưa đầy đủ chư căn của Bồ Tát. Lại trải qua vạn kiếp trước Hiền kiếp, có một kiếp tên là Vô Ưu Biến Chiếu, thế giới tên là Vô Cấu Diệu Quang. Trong thế giới đó tịnh uế xen lẫn, có năm trăm đức Phật xuất hiện trong đó.

Ðức Phật đệ nhứt hiệu là Tu Di Tràng Tịch Tịnh Diệu Nhãn.

Lúc đó ta là con gái của Trưởng giả Danh Xưng, tên là Diệu Huệ Quang Minh, dung nhan đoan chánh.

Tịnh Nguyệt Dạ Thần vì bổn nguyện mà sanh trong vương thành Diệu Trang nơi một tứ thiên hạ ở Ly Cấu thế giới, làm Chủ Dạ Thần tên là Thanh Tịnh Nhãn.

Một đêm ta nằm ngủ bên cha mẹ. Thanh Tịnh Nhãn Dạ Thần đến chấn động nhà ta, phóng quang minh hiện thân ca ngợi công đức của Phật và cho hay rằng : Diệu Nhãn Như Lai ngồi tòa Bồ đề mới thành Chánh Giác. Dạ Thần khuyên ta cùng cha mẹ và quyến thuộc mau đến gặp Phật. Rồi Dạ Thần tự làm tiền đạo dẫn đến chỗ Phật cúng dường.

Ta vừa thấy Phật liền được tam muội tên là "Xuất sanh kiến Phật điều phục chúng sanh tam thế trí quang minh luân". Do được tam muội này nên có thể nhớ Tu Di sơn vi trần số kiếp. Cũng thấy chư Phật xuất hiện trong những kiếp đó. Ta ở chỗ chư Phật nghe diệu pháp. Do nghe pháp nên được môn giải thoát pháp quang minh phá tối của tất cả chúng sanh này.

Ðược môn giải thoát này, ta liền thấy thân mình đến Phật sát vi trần số thế giới, cũng thấy tất cả chư Phật trong những thế giới đó.

Ta lại thấy thân mình ở chỗ chư Phật. Ta cũng thấy tất cả chúng sanh trong những thế giới đó, hiểu ngôn âm của họ, biết căn tánh của họ, biết họ thuở quá khứ đã từng được thiện hữu nhiếp thọ. Tùy sở thích của họ mà hiện thân cho họ hoan hỷ. Nơi môn giải thoát đã được, niệm niệm ta được tăng trưởng không ngớt.

Ta lại thấy thân mình đến khắp trăm Phật sát vi trần số thế giới, tâm giải thoát kia cũng vẫn liên tục.

Ta lại thấy thân mình đến khắp ngàn Phật sát, trăm ngàn Phật sát, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, cũng thấy tất cả Như Lai trong những thế giới, cũng thấy chính mình nghe chư Phật thuyết pháp, ghi nhớ thọ trì, quán sát giải quyết. Cũng biết những biển bổn sự, bổn nguyện của chư Phật đó.

Chư Như Lai đó nghiêm tịnh Phật độ, ta cũng nghiêm tịnh.

Ta cũng thấy tất cả chúng sanh trong những thế giới đó, tùy cơ nghi của họ mà hiện thân giáo hóa điều phục. Trong thời gian đó, môn giải thoát này niệm niệm tăng trưởng. Như vậy nhẫn đến sung mãn pháp giới.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn "BỒ TÁT PHÁ NHỨT THIẾT CHÚNG SANH ÁM PHÁP QUANG MINH GIẢI THOÁT".

Như chư đại Bồ Tát thành tựu Phổ Hiền vô biên hạnh nguyện, vào khắp tất cả pháp giới hải, được Bồ Tát kim cang trí tràng tự tại tam muội, xuất sanh đại nguyện , trụ trì Phật chủng, ở trong mỗi niệm thành mãn biển tất cả công đức lớn, nghiêm tịnh tất cả thế giới rộng lớn, dùng trí tự tại giáo hóa thành thục tất cả chúng sanh, dùng trí huệ nhật, diệt trừ tất cả thế gian ám chướng, dùng trí dũng mãnh giác ngộ giấc ngủ của tất cả chúng sanh, dùng trí huệ nguyệt quyết rõ sự nghi hoặc của tất cả chúng sanh, dùng thanh tịnh âm dứt trừ tất cả sự hữu lậu, thị hiện tất cả thần lực tự tại trong mỗi vi trần nơi tất cả pháp giới, trí nhãn thanh tịnh thấy khắp tam thế.

Ta thế nào biết được diệu hạnh đó, nói được công đức đó, vào được cảnh giới đó, thị hiện được tự tại đó.

Này thiện nam tử ! Trong Bồ đề tràng đây có Chủ Dạ Thần tên là Phổ Ðức Tịnh Quang. Ta vốn từ Thần đó phát tâm Vô thượng Bồ đề, thường dùng diệu pháp khai ngộ cho ta.

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Thiện Tài đồng tử cung kính hướng về Dạ Thần Bà San Bà Diễn Ðể mà nói kệ rằng :

 

Thấy Ngài thân thanh tịnh

Tướng hảo hơn thế gian,

Như Văn Thù Sư Lợi

Cũng như Bửu Sơn Vương.

Pháp thân Ngài thanh tịnh

Tam thế đều bình đẳng

Vào tất cả thế giới

Thành hoại không chướng ngại,

Tôi xem tất cả loài

Ðều thấy hình tượng Ngài

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Tinh nguyệt đều phân bố

Tâm Ngài rất quảng đại

Như không khắp mười phương

Chư Phật đều vào trong

Thanh tịnh vô phân biệt.

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Ðều phóng vô số quang

Chỗ chư Phật mươi phương

Khắp rưới đồ trang nghiêm.

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Ðều hiện vô số thân

Khắp quốc độ mười phương

Phương tiện độ chúng sanh.

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Thị hiện vô lượng cõi

Tùy sở thích chúng sanh

Cho họ được thanh tịnh.

Nếu có các chúng sanh

Nghe danh và thấy thân

Ðều được công đức lợi

Thành tựu Bồ đề đạo.

Nhiều kiếp ở ác đạo

Mới được thấy nghe Ngài

Cũng nên hoan hỷ họ

Vì để diệt phiền não.

Ngàn cõi vi trần kiếp

Khen Ngài chút công đức

Kiếp số có cùng tận

Ðức Ngài không cùng tận

 

Thiện Tài nói kệ xong, đảnh lễ nơi chân Dạ Thần, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.



KINH: Này thiện nam tử, trong thành Ca Tỳ La có chủ dạ thần tên là Bà San Bà Diễn Để…

GIẢNG: Thành Ca Tỳ La là nơi đức Phật Thích Ca đản sanh. Từ đây trở đi, chúng ta sẽ gặp luôn liên tiếp 8 vị chủ dạ thần, sau đó có khoảng mấy vị nữa, hoặc Chủ dạ thần, hoặc Lâm Thần, đều thị hiện làm nữ nhân cả. Chủ Dạ Thần là vì các vị này luôn luôn độ chúng sanh bằng cách thay đổi tiềm thức chúng sanh. Như Chủ Nhật Thần là Mặt Trời, cho chúng sanh sức nóng, thay đổi trên sắc ấm, là mức độ thô kệch nhất, còn những Chủ Dạ Thần thì độ chúng sanh trên phần tiềm thức, khiến tiềm thức tăng trưởng thiện căn mà chính chúng sanh không hề hay biết. Nên trong kinh hay nói: các ông sẽ được những phước báo mà chính các ông không biết vì tiềm thức các ông thay đổi. Như một người đọc kinh nhiều, thì những chủng tử của kinh rớt vào tiềm thức tích lũy lâu dần thành những thiện căn mà chính người đó không biết, đến khi nó nở rầm rộ ra thì chỉ biết kết quả ấy thôi, chứ không biết nguyên do rốt ráo vì đâu ra cả. Vị chủ dạ thần nữ đầu tiên là Bà San Bà Diễn Để. “Bà San Bà Diễn Để” theo tiếng Phạn có nghĩa là “mùa xuân.” Ngài Thiện Tài đi vào tâm địa, vào mùa xuân, mà mùa xuân thì các bông trái nở ra, như trong tâm thức nở ra nhiều thứ diệu đức, diệu lực.

KINH: Thiện Tài đảnh lễ chân địa thần, nhất tâm tư duy về lời dậy đó…

GIẢNG: “… tư duy về lời dạy ấy…” tức là tư duy về tâm địa của mình.

KINH: Đi lần đến thành Ca Tỳ La vào cửa Đông, Thiện Tài đứng chờ chẳng bao lâu kế trời tối…

GIẢNG: “…vào của Đông…” có nghĩa là phát khởi các nguồn ánh sáng của tâm, cũng như mặt trời mọc phương Đông, “…chờ chẳng bao lâu thì trời tối…” có nghĩa là tâm ngài vẫn còn những tập khí si ám. Ở đây, ý kinh nói Thiện Tài đã vào được tàng thức, đi sâu vào trong, gột rửa nhiều phần vọng, nhưng vẫn còn những tập khí vi tế .

KINH: Thiện Tài tâm niệm tùy thuận lời dạy của chư Bồ Tát, khát ngưỡng muốn được thấy Chủ Dạ Thần. Nơi thiện trí thức tưởng như Phật…

GIẢNG: Thiện Tài vừa tư duy, vừa nghĩ đến vị chủ dạ thần này.

KINH: Thiện Tài lại nghĩ rằng, nhờ thiện tri thức mà được phổ biến nhãn, thấy rõ cảnh giới mười phương…

GIẢNG: Quán chiếu để được “phổ biến nhãn,” nhìn thấy thiện tri thức.

KINH: Nhờ thiện tri thức mà được quảng đại giải thấu rõ tất cả cảnh sở duyên. Nhờ thiện tri thức mà được tam muội nhãn quan sát tất cả pháp môn. Nhờ thiện tri thức mà được trí huệ nhãn soi sáng mười phương sát hải. Lúc suy nghĩ như vậy, Thiện Tài thấy trên hư không Dạ Thần ngồi trên tòa hương liên hoa tạng sư tử trong bửu lâu các. Thân màu chơn kim, mắt và tóc xanh biếc, hình mạo đoan nghiêm, những chuỗi ngọc báu dùng trang sức. Thân mặc y phục đỏ, đầu dội mão Phạm Thiên. Tất cả tinh tú hiện rõ trên thân…

GIẢNG: “Tất cả tinh tú hiện rõ trên thân,” là vị thần này thân rất lớn bao trùm nhiều khoảng hư không. Cũng như chúng ta ngồi đây, chỉ nhìn thấy vài cái cây ngoài kia, ngôi chùa này, và một chút hư không v.v…, nhưng chắc chắn, chúng ta đang ngồi trong thân của một vị thần linh nào đó, thân các ngài là cõi. Có thể đó là đức A Di Đà, cũng có thể là ngài Quán Âm Bồ Tát. Vì trăng, sao còn hiện trong thân các ngài mà. Khi chúng ta quán chiếu như thế đó lâu dần và thấy rằng “có thể tin được” thì lúc đó tâm thức của chúng ta đã tiến được đôi chút rồi, khi đó chúng ta sẽ cảm thây rất an lạc, dù có bị hoạn nạn gì cũng nghĩ rằng mình đang ở trong thân của các ngài. Nếu nghĩ được như thế thì cho dù có rơi xuống biển cũng không thể nào chết được, tự nhiên sẽ được thoát, hoặc cho dù có bị chết đi chăng nữa thì mất đi sắc thân thô kệch này ta cũng được một sắc thân khác tốt hơn ngàn lần. Cũng vậy, những con thi trùng ở trong thân ta mà chúng nó có biết gì đâu, cứ lổn ngổn bò trong thân ta, ăn uống, lăng xăng, lít xít. Nên cần nhớ rằng, cõi tức là thân, thân tức là cõi. Thân đức A Di Đà, thân ngài Quán Thế Âm là cõi, trong đó có vô lượng chúng sanh. Cũng vậy, thân của chúng ta là cõi đối với những con thi trùng trong người.

Thiện Tài quán một lúc lâu thì thấy hình ngài chủ Dạ Thần hiện trên hư không, thân bao trùm cả hư không, tinh tú hiện trong thân, đội mũ Phạm Thiên.

KINH: Mỗi lỗ lông trên thân của Dạ Thần đều hiện hóa độ vô lượng, vô số chúng sanh  ác dạo, cho họ thoát khỏi thân hình hiểm nạn…

GIẢNG: Trong kinh nói rõ, các ngài thường độ các chúng sanh, nhưng sở dĩ chúng ta không cảm thấy gì là vì nhiều khi mức độ tâm thức chưa tương Ưng, chưa khởi lòng tin, thân chưa thanh tịnh đủ .

KINH: …lại trong mỗi lỗ lông thị hiện những phương tiện giáo hóa, hoặc hiện thân, hoặc thuyết pháp, hoặc thị hiện đạo Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa, bồ tát hạnh, bồ tát dũng mãnh, bồ tát tam muội, bồ tát tự tại, bồ tát trụ xứ, bồ tát quán sát, bồ tát sư tử tần thân, bồ tát giải thoát du hí…

GIẢNG: Trên lịch trình tu đạo của Thiện Tài, trước hết ngài chưa có nhãn lực mấy đỗi, nhưng dần dần nhãn lực nhãn lực của ngài lên mức độ ghê gớm được gọi là “trí vi tế” mà trong thập hồi hướng có nói, trí vi tế tức là pháp nhãn. Càng ngày, trí vi tế của ngài càng cao, lúc trước trong kinh không nói ngài nhìn thấy mỗi lổ lông, tới đây thì nói ngài nhìn thấy mỗi lỗ lông có cả một thế giới, trong ấy, hiện không biết bao nhiêu hóa thân để độ sanh. Dần dần về sau, ngài lại thấy trong mỗi vi trần có tất cả cõi Phật, tức là pháp nhãn của ngài ngày càng tăng tiến, nếu ta để ý, thì thấy rất rõ có một mức đi lên dần dần, sau cùng thì ngài vào hẳn lỗ lông của ngài Phổ Hiền đi trong đó mười hai năm rồi ngài mới “nhập pháp giới.” Trở về đoạn kinh này, Thiện Tài đang đứng nhìn ngài Chủ Dạ Thần thấy những lỗ lông biến hóa một cách thần kỳ.

KINH: Bạch đức thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề. Lòng tôi trông mong nương thiện tri thức để được công đức pháp tạng của Như Lai. Xin dạy cho tôi đạo nhất thiết trí, tôi đi trong đó đến bực thập lực.

GIẢNG: Chúng ta thấy rõ lúc trước Thiện Tài hỏi rất khiêm tốn, thường thường ngài hỏi “xin dạy tôi bồ tát đạo, tu bồ tát hạnh…” Nhưng đến đây, thì Thiện Tài nói “xin dạy tôi đạo nhất thiết trí,” để đi đến bực thập lực. Như vậy tâm Thiện Tài ngày càng mở rộng, nên câu hỏi ngày càng lớn.

KINH: Dạ Thần liền bảo Thiện Tài rằng, lành thay, lành thay, này thiện nam tử, ngươi có thể thâm tâm kính thiện tri thức, thích nghe lời dạy tu hành theo. Do tu hành nên quyết định sẽ được vô thượng bồ đề.

Nầy thiện nam tử, ta được môn giải thoát bồ tát pháp quang minh phá tất cả chúng sanh si ám.

GIẢNG: Ngài Dạ Thần này được môn giải thoát chỉ chuyên tác động vào tiềm thức chúng sanh, ngài hiện thân trên hư không, phóng quang minh chiếu vào tất cả chúng sanh để gột tất cả si ám trong tàng thức của họ (chứ không phải si ám trong ý thức). Phần nhiều các vị thần linh lớn độ sanh như vậy, tức là phóng quang minh, mỗi loại quang minh gột một thứ trần trược nào đó, chẳng hạn như gột sân, hoặc si, v.v… ở đây, Thiện Tài đã vượt qua mức tham dục rồi, sân cũng không còn nữa, mà ngay cái si thô cũng đã tiêu diệt, chỉ còn những si ám rất vi lố trong tàng thức, thì vị Dạ Thần này gột hết cho Thiện Tài.

KINH: Này thiện nam tử, ta ở nơi ác huệ chúng sanh, khởi tâm đại từ, nơi chúng sanh bất thiện khởi tâm đại bi, nơi chúng sanh làm lành khởi tâm đại hỉ.

GIẢNG: Khi ở nơi chúng sanh ác ngài khởi tâm đại từ, khi ở nơi chúng sanh bất thiện ngài khởi tâm đại bi. Còn nơi chúng sanh làm lành ngài khởi tâm đại hỉ, không cần phải dạy dỗ nữa mà ngài khởi tâm đại hỉ để cùng vui mừng…

KINH: Nơi chúng sanh đủ hai hạnh thiện ác khởi tâm bất nhị…

GIẢNG: Thường chúng sanh như chúng ta luôn luôn có đủ những tâm thiện và tâm ác, thì ngài khởi tâm bất nhị để dạy cho chúng ta giáo lý bình đẳng vô nhị. Vì sao? Vì thiện ác cũng là từ do cái tâm ấy khởi lên, mà vấn đề là chúng ta phải chuyển cái ác ấy sang thiện, rồi đi tới trạng thái Như Như Bất Nhị.

KINH: Này thiện nam tử, đêm tối yên lặng, lúc quỉ thần trộm cướp, các ác chúng sanh du hành, lúc mây kín sương dầy, gió to mưa lớn nhựt nguyệt tinh tú đều tối tăm, thấy có các chúng sanh hoặc vào biển, hoặc đi trong lục địa, nơi núi rừng hoang vu, những chỗ hiểm nạn, hoặc gặp trộm cướp, hoặc thiếu lương thực, hoặc lạc đường kinh hãi lo buồn không thể thoát được. Ta liền dùng nhiều phương tiện để cứu giúp họ.

GIẢNG: Ở đây cũng có hai nghĩa. Nghĩa đen là có những chúng sanh đi đêm có nhiều sự hiểm nạn thì ngài giúp cho. Còn nghĩa bóng là trong tâm thức các chúng sanh vẫn còn nhiều si ám, vì vậy trong tâm thức đen tối ấy như đêm dài sanh tử, có những niệm ác lởn vởn trong tâm thức chúng sanh thì ngài chiếu quang minh gột sạch những thứ ấy. Ngài dạ thần này chỉ dạy có vậy thôi.

KINH: Này thiện nam tử, nếu có chúng sanh ham tụ lạc, mến nhà của, thường  chỗ tối tăm bị khổ, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ nhàm lìa để được đầy đủ pháp lành, an trụ chánh pháp. Nguyên tất cả chúng sanh đều chẳng tham mến tụ lạc lục trần, mau được thoát khỏi cảnh giới sanh tử, rốt ráo an trụ nơi thành nhất thiết trí.

GIẢNG: Trong đạo Phật, chữ “tụ lạc” quan trọng lắm. Tụ lạc cũng có hai nghĩa, nghĩa trong và nghĩa ngoài. Nghĩa ngoài chữ tụ lạc là nơi chốn đông người, đông dân cư. Nghĩa trong tụ lạc tức là các căn của mình. Như cái mắt có quang minh phóng qua, các hình ảnh của vật chiếu vào, qua lại, giao thoa tụ tập với nhau, thì gọi là tụ lạc. Trong đạo Phật cho rằng, tất cả mọi vật đều chỉ là sự kết hợp tụ tập hay ly tán thôi. Thân căn là một tụ lạc, gồm rất nhiều tế bào tụ lại, như một cái chợ trong thân mình, mà thật ra, tất cả mọi vật cũng đều thế cả, như cái bàn này, nó cũng là tụ lạc của nhiều tế bào của gỗ, bao nhiêu cực vi. chúng ta thử nghĩ xem, tuệ giác của nhà Phật thật cao siêu, vì không có một vật gì là đơn thuần cả, vật nào cũng là sự nhóm họp lại mà thôi. Nên suy sét cho kỹ, những gì chúng ta yêu nhất, như cái thân này chẳng hạn, chính nó chỉ là những tế bào nhóm họp lại, gồm lúc nhúc những thi trùng trong đó. Vì vậy, đạo Phật mới gọi là huyễn, vì khi hết duyên thì nó tan rã ra. Nên trong kinh có câu, “nguyện tất cả chúng sanh chẳng tham mến tụ lạc lục trần,” vì tụ lạc cũng chính là sáu căn của mình. Đó là nhận thức quan của đạo Phật, tức là dùng pháp nhãn, phân tách các thứ vật, vật nào cũng là những phức thể gồm vô số những hạt tử li ti, vì vậy nên nó mới là huyễn. Và đó gọi là trí huệ bát nhã.

HỎI: Thưa ông, đó là ông giảng nghĩa chữ “tụ lạc” trên bình diện sắc ấm, còn trên bình diện thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm thì sao?

ĐÁP: Cũng thế, cũng đều nhóm họp lại mà thành, có điều nó được dệt bằng những quang minh vi tế hơn, thì sự “nhóm họp” cũng vi tế hơn. Trong tưởng ấm, thọ ấm ngay cả đến hành ấm ấy, cũng có những nhóm họp li ti vi tế, nhưng với mắt thịt và vài ba cái ống nhòm của khoa học thì không thể nào thấy được, phải có thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn mới nhìn thấy. Mà những phần tử li ti vi tế đó nó vừa là hạt tử, vừa là sóng, vừa là tia chớp nháng (flash) phụt lên… Ngay đến hư không cũng vậy, đối với khoa học ngày nay, cứ tưởng rằng trong hư không không có gì cả, nhưng chính trong đó có vô lượng những hạt tử mà những vị có thiên nhãn mới thấy, lại còn có hư những loại chúng sanh sống trong ấy nữa. Nói cho rõ hơn, khoa học ngày nay, chỉ mới đến ranh giới giữa sắc và hư không thôi, chứ chưa hiểu không là cái gì?

KINH: Những chúng sanh không có trí nhãn bị che đậy bởi những kiến chấp điên đảo: vô thường tưởng là thường, vô lạc tưởng là lạc, vô ngã tưởng là ngã, bất tịnh tưởng là tịnh…

GIẢNG: Trong đạo Phật có mấy loại tưởng điên đảo, chúng ta cũng cần nhớ. Trong kinh thường nói rằng chúng sanh bị bốn cái điên đảo tưởng che lòa, chẳng hạn như những gì vô thường thì ta tưởng là thường, đó là một điên đảo tưởng, như cái thân mình, nó rất vô thường, nếu nhìn theo pháp nhãn thì nó phụt lên từng tia chớp nháng một, mà từng tia chớp nháng đó vừa phụt lên lại bị diệt đi ngay, má chúng sanh cứ tưởng là thường, nên cả ngày cứ khởi tâm ưa thích, chăm sóc nó, làm đủ các điều bất thiện cũng vì nó, không hiểu được rằng, mang một sắc thân thai sanh này rất khổ. Lão Tử nói rằng: “Chúng ta có cái khổ lớn là vì có sắc thân này”. Mà thực vậy, nếu ngồi suy nghĩ kỹ thì thấy tất cả mọi sự khổ đều do sắc thân này mà ra cả, cứ phải đi làm cũng là để nuôi thân, sau phải lấy vợ, sinh con cũng vì cái thân này, rồi chạy theo danh vọng, làm đủ các chuyện cũng vì cái thân này v.v… Có thể nói chín mươi lăm phần trăm thời gian, (trừ thời gian ngủ) thì chúng ta chỉ lo đến sắc thân thôi, rất ít khi nghĩ đến tâm thức, hoặc bồi bổ tâm thức. Thân này như một ngọn nến, nó là sự “nhóm họp” của vô lượng vô số những flash phụt lên tạo thành một tổng tướng ảnh tượng là thân này, rồi lại tắt đi ngay, sau lại phụt lên một loạt gần y hệt như vậy, tương tợ tương tục, vì vậy chúng sanh mới tưởng là thường, tưởng rằng thân này có sự tồn tại hiện hữu riêng của nó. Tóm lại, thân này rất vô thường.

Thứ hai là vô lạc tưởng là lạc, như ăn một miếng ngon thì khoái chí lắm, nhưng chính cái đó không ngon gì, vì chư thiên nhìn xuống thấy ta sống trong ăn uống, sắc dục v.v… giống như những con dòi trong thùng phân vậy.

HỎI: Theo như những tôn giáo khác nói rằng có một linh hồn trường cửu là như thế nào?

ĐÁP: Nếu nhìn theo con mắt tuệ của Phật giáo thì cái đó không đúng. Vì sao? Vì cái gọi là “linh hồn” đó, nhưng đó chỉ là “một trường lực” diễn biến, và lúc nào cũng thay đổi tùy theo tâm niệm và nghiệp lực chúng sanh. Nó chính là tàng thức sơ năng biến. Nó hằng, nhưng không bất biến, vì luôn luôn chuyển từng sát na. Nếu lấy con mắt thô mà nhìn thì ta cho rằng cái đó là “linh hồn,” nhưng chính lúc nào nó cũng biến hiện. Vì vậy, tôi đã nói ở đây nhiều lần, đạo Phật hơn đạo khác là có ngũ nhãn, nhìn rõ được pháp giới này. Trong khi ngoại đạo tưởng rằng có một linh hồn bất biến, thì đạo Phật nhìn thấy sự biến hiện rõ rệt. Vì vậy các tôn giáo khác so với đạo Phật tương tự như có một rặng núi, phần đông ngọn núi đều cao nhưng chưa tuyệt vời cao, chỉ riêng ngọn Tuyết Sơn là cao nhất, giao hợp với mây trời tuyệt vời thôi. Nên chỉ có đạo Phật mới đưa con người đến sự giải thoát rốt ráo, còn những tôn giáo khác chỉ đưa tâm thức con người lên một mức nào thôi, thường là lên các từng trời cõi dục, cõi sắc và vô sắc. Không có một tôn giáo nào dám nói có vô lượng cõi chỉ riêng đạo Phật nói có vô lượng cõi mà thôi. Tùy theo nhãn lực.

HỎI: Kinh thì khó hiểu, như trong kinh nói đến núi Tu Di chẳng hạn, mà chúng ta thì hoàn toàn không ai có thể thấy núi Tu Di. Nên khởi lòng tin rất khó, chưa kể các ngài lại nói đến nhiều cõi khác nữa. Tôi trộm nghĩ, chắc kinh chỉ để dành cho những vị phải có thiên nhãn mới lãnh hội được chăng?

ĐÁP: Núi Tu Di thuộc về thọ ấm. Ở đây tôi cũng xin nhắc với quí vị một điều, kinh là gần như nói ít đến cảnh giới của thế gian, còn toàn nói cảnh giới của thiên nhãn và pháp nhãn, như Hoa Nghiêm là cảnh giới của pháp nhãn. Vì thế mới khó tin, khó hiểu, khó vào. Nên đức Christ bên công giáo nói rằng: “Sung sướng thay cho kẻ nào không thấy mà tin.” Vì vậy cái tín tâm để đi vào đạo rất cần thiết, vì khởi được lòng tin mới có thể đi vào cảnh giới trùng trùng của pháp giới này.

Bây giờ xin trở lại kinh…

Bốn điên đảo tưởng nói trên khiến trong đạo Phật nói bốn pháp ấn là: các pháp đều là khổ, không, vô thường, vô ngã để trị bốn điên đảo tưởng của chúng sanh.

KINH: Bạch đức thánh, ngài phát tâm vô thượng bồ đề được bao lâu? Được môn giải thoát này hồi nào mà có thể lợi ích chúng sanh như vậy?

GIẢNG: Lúc nào cũng vậy, các ngài thường kể những kiếp từ thời xa xưa quá khứ của ngài cho Thiện Tài nghe, như vị chủ dạ thần này thì một kiếp làm một vị phu nhân, đang đêm đương ngủ có một vị chủ dạ thần đánh thức bà dậy, bằng cách động chuỗi ngọc, hoặc phóng quang minh, nói rằng có một bậc Như Lai đang thành chánh Đẳng Chánh Giác. Nên ngài vì cơ duyên đó mà tu hành nên được giải thoát môn này. Mà pháp môn của ngài chỉ cốt gột những si ám của chúng sanh. Giảng nghĩa thì có vậy thôi, nhưng trong kinh ngài kể nhiều chi tiết hơn. ở đây, ta nên hiểu qua về quan niệm thời gian của nhà Phật. Theo như trong kinh nói, vị nào cũng tu trong vô lượng kiếp, nhưng trong vô lượng kiếp ấy thì tùy theo tâm người tu mà thấy nó lâu hay mau. Như chúng ta là những người phàm phu, thô trọc, tâm thức chỉ đến thế thôi, thì ta sẽ thấy sự tu hành của các ngài là vô lượng kiếp, nhưng đối với các vị tu cao, thì “vô lượng kiếp” đó chỉ thu lại là một khoảng khắc mà thôi. Như chúng ta chạy tỵ nạn sang Mỹ mười mấy năm, đôi khi ngồi nghĩ lại những chuyện xảy ra trong mười mấy năm, có cảm giác như một cơn gió thoảng. Như vậy trong đạo Phật, thời gian là một sự tùy tâm biến hóa, là một vọng tưởng tùy theo tâm chúng sanh mà thành dài lê thê hay chỉ thoảng qua chóng vánh. Như một vị tu thiền vào định vài ngày, thấy thời gian qua như một khảy móng tay.



32.- DẠ THẦN PHỔ ÐỨC TỊNH QUANG

 

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn giải thoát

"BỒ TÁT TỊCH TỊNH THIỀN ĐỊNH LẠC PHỔ DU BỘ" này.


 

Lúc đó Thiện Tài biết rõ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Ðể khi mới phát tâm Vô thượng Bồ đề, phát sanh Bồ Tát tạng, thệ phát Bồ Tát nguyện, thanh tịnh Bồ Tát độ, nhập Bồ Tát địa, tu Bồ Tát hạnh, hành xuất ly đạo, quang minh nhứt thiết trí, tâm cứu khắp chúng sanh, nổi mây đại bi khắp nơi, thường có thể xuất sanh hạnh nguyện Phổ Hiền tận thuở vị lai nơi tất cả Phật độ.

Thiện Tài đi lần đến chỗ DẠ THẦN PHỔ ÐỨC TỊNH QUANG, đảnh lễ nơi chân, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã pháp tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào tu Bồ Tát địa, thế nào xuất sanh Bồ Tát địa, thế nào thành tựu Bồ Tát địa ?

Dạ Thần nói !

Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề. Nay lại hỏi tu hành xuất sanh và thành tựu Bồ Tát địa.

Này thiện nam tử ! Bồ Tát thành tựu mười pháp thời có thể viên mãn Bồ Tát hạnh :

Một là được thanh tịnh tam muội thường thấy chư Phật.

Hai là được thanh tịnh nhãn thường xem tướng hảo trang nghiêm của chư Phật.

Ba là biết tất cả Như Lai vô lượng vô biên công đức đại hải.

Bốn là biết vô lượng Phật pháp quang minh hải khắp pháp giới.

Năm là biết tất cả Như Lai, mỗi mỗi lỗ lông phóng đại quang minh hải đồng số chúng sanh lợi ích tất cả chúng sanh.

Sáu là thấy tất cả Như Lai, mỗi lỗ lông phóng ra quanh minh diệm hải đủ tất cả bửu sắc.

Bảy là trong mỗi niệm xuất hiện tất cả Phật biến hóa hải đầy khắp pháp giới, rốt ráo tất cả cảnh giới chư Phật điều phục chúng sanh.

Tám là được Phật âm thanh đồng tất cả chúng sanh ngôn âm hải, chuyển pháp luân tam thế Phật.

Chín là biết tất cả Phật vô biên danh hiệu hải.

Mười là biết tất cả chư Phật bất tư nghì tự tại lực điều phục chúng sanh.

Này thiện nam tử ! Bồ Tát thành tựu mười pháp này thời có thể viên mãn công hạnh Bồ Tát.

Này thiện nam tử ! Ta được Bồ Tát giải thoát tên là "Tịch tịnh thiền định lạc phổ du bộ" thấy khắp tất cả chư Phật tam thế, cũng thấy chư Phật : quốc độ thanh tịnh đạo tràng, chúng hội thần thông, danh hiệu, thuyết pháp, thọ mạng, ngôn âm, thân tướng nhiều loại chẳng đồng, thảy đều thấy rõ mà không chấp lấy.

Tại sao vậy ?

Vì biết đức Như Lai chẳng phải đi vì đã diệt hẳn thời gian không gian.

Vì biết đức Như Lai chẳng phải đến, vì thể tánh vô sanh.

Ðức Như Lai chẳng phải sanh, vì pháp thân bình đẳng.

Ðức Như Lai chẳng phải diệt, vì không có tướng sanh.

Ðức Như Lai chẳng phải thiệt, vì an trụ pháp như huyễn.

Ðức Như Lai chẳng phải vọng, vì lợi ích chúng sanh.

Ðức Như Lai chẳng phải dời đổi, vì vượt khỏi sanh tử.

Ðức Như Lai chẳng phải hư hoại, vì tánh thường chẳng biến đổi.

Ðức Như Lai một tướng, vì đều rời ngôn ngữ.

Ðức Như Lai vô tướng, vì tánh tướng vốn không.

Này Thiện nam tử ! Lúc ta biết rõ tất cả Như Lai như vậy, nơi môn giải thoát "Bồ Tát tịch tịnh thiền định lạc phổ du bộ" tỏ thấu rõ ràng thành tựu tăng trưởng, tư duy quán sát, kiên cố trang nghiêm, chẳng khởi tất cả vọng tưởng phân biệt, đại bi cứu hộ tất cả chúng sanh.

Nhứt tâm chẳng động, tu tập Sơ thiền, dứt tất cả ý nghiệp, nhiếp tất cả chúng sanh, trí lực dũng mãnh, hỷ tâm vui vẽ.

Tu đệ Nhị thiền, tư duy tất cả chúng sanh tự tánh, nhàm lìa sanh tử.

Tu đệ Tam thiền, đều có thể dứt diệt những khổ nhiệt não của tất cả chúng sanh.

Tu đệ Tứ thiền, tăng trưởng viên mãn nguyện nhứt thiết trí, xuất sanh tất cả những biển tam muội.

Nhập những Bồ Tát giải thoát môn, du hí tất cả thần thông, thành tựu tất cả biến hóa, dùng trí thanh tịnh vào khắp pháp giới.

Này thiện nam tử ! Lúc ta tu môn giải thoát này dùng các thứ phương tiện để thành tựu chúng sanh.

Như là đối với người tại gia phóng dật, làm cho họ có cảm tưởng bất tịnh đáng nhàm lìa, mỏi nhọc, bức bách, ràng buộc, họa hại, vô thường, khổ, vô ngã, rỗng không, vô sanh, chẳng tự tại, gìa bịnh chết. Ðể cho họ ở nơi cảnh ngũ dục tự chẳng mến chấp và cũng khuyên người khác chẳng đắm nơi dục lạc, chỉ an trụ nơi pháp lạc, ra khỏi nhà hữu vi mà vào nhà vô vi.

Nếu có chúng sanh ở nơi chỗ không nhàn, thời ta vì họ mà ngăn dứt những âm thanh xấu ác. Lúc đêm vắng tịch tịnh ta vì họ mà thuyết pháp. Ban cho họ duyên tu hành thuận tiện, mở cửa xuất gia, chỉ đường chơn chánh. Vì họ mà làm ánh sáng trừ ám chướng, diệt kinh sợ, khen hạnh xuất gia, ca ngợi Phật, Pháp và Tăng cùng thiện tri thức đủ những công đức, cũng khen hạnh gần gũi thiện tri thức.

Lại này thiện nam tử ! Lúc ta tu môn giải thoát, làm cho các chúng sanh chẳng khởi lòng tham phi pháp, chẳng khởi tà kiến, chẳng phạm tội ác, nếu đã làm ác thời khiến thôi dứt. Nếu chưa sanh pháp lành, chưa tu hạnh Ba la mật, chưa cầu Nhứt thiết trí, chưa khởi đại từ bi, chưa tạo nghiệp Nhơn Thiên thời đều làm cho phát sanh, nếu đã sanh rồi thời làm cho thêm lớn.

Ta ban cho họ nhơn duyên thuận đạo như vậy, nhẫn đến khiến họ thành Nhứt thiết chủng trí.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn giải thoát "BỒ TÁT TỊCH TỊNH THIỀN ĐỊNH LẠC PHỔ DU BỘ" này.

Như chư đại Bồ Tát đầy đủ hạnh nguyện Phổ Hiền, liễu đạt tất cả vô biên pháp giới thường có thể tăng trưởng tất cả thiện căn, chiếu thấy trí lực của tất cả Như Lai, an trụ nơi cảnh giới của tất cả Như Lai, hằng ở sanh tử tâm không chướng ngại, mau đầy đủ được nguyện nhứt thiết trí, đến tất cả thế giới, đều có thể xem thấy tất cả chư Phật, có thể khắp thính thọ tất cả Phật pháp, có thể phá tất cả si ám của chúng sanh, có thể ở trong đêm đài sanh tử mà xuất sanh tất cả trí huệ quang minh.

Ta thế nào biết được nói được những công đức hạnh đó.

Này thiện nam tử ! Cách đây không xa, nơi bên phía hữu đạo tràng Bồ đề, có một Dạ Thần tên là Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sanh.

Ngươi đến đó hỏi : Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Phổ Ðức Tịnh Quang Dạ Thần, muốn tuyên lại nghĩa giải thoát này, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng :

 

Nếu có lòng tin hiểu

Thấy hết tam thế Phật

Người này mắt thanh tịnh

Vào được biển chư Phật

Người xem thân chư Phật

Tướng thanh tịnh trang nghiêm

Một niệm sức thần thông

Ðều sung mãn pháp giới.

Lô Xá Na Như Lai

Ðạo tràng thành Chánh Giác

Trong tất cả pháp giới

Chuyển pháp luân thanh tịnh

Như Lai biết pháp tánh

Tịch diệt không có hai

Tướng thanh tịnh nghiêm thân

Hiện khắp các thế gian.

Thân Phật bất tư nghì

Pháp giới đều sung mãn

Hiện khắp tất cả cõi

Tất cả đều thấy rõ

Thân Phật thường quang minh

Những màu sắc thanh tịnh

Số Phật sát vi trần

Niệm niệm khắp pháp giới.

Như Lai một lỗ lông

Phóng bất tư nghì quang

Chiếu khắp các quần sanh

Cho họ diệt phiền não.

Như Lai một lỗ lông

Xuất sanh vô tận hóa

Ðầy khắp cả pháp giới

Diệt trừ khổ chúng sanh.

Phật diễn một diệu âm

Tùy loại đều tự hiểu

Khắp mưa pháp quảng đại

Khiến phát tâm Bồ đề.

Phật xưa tu các hạnh

Ðã từng nhiếp thọ ta

Nên được thấy Như Lai

Hiện khắp tất cả cõi.

Chư Phật xuất thế gian

Lượng bằng số chúng sanh

Tất cả cảnh giải thoát

Chẳng phải ta biết được.

Tất cả đại Bồ Tát

Vào một lỗ lông Phật

Diệu giải thoát như vậy

Chẳng phải ta biết được.

Gần đây có Dạ Thần

Tên Hỉ Mục Quán Sát

Ngươi đến đó hỏi

Học tu Bồ Tát hạnh.

 

Thiện Tài đảnh lể chân Dạ Thần Phổ Ðức Tịnh Quang, hữu nhiễu vô số vòng ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.



KINH: Này thiện nam tử, trong bồ đề đạo tràng đây có một chủ dạ thần tên là Phổ Đức Tịnh Quang. Ta vốn từ thần đó phát tâm vô thượng bồ dề, thường dùng diệu pháp khai ngộ cho ta…

…Thiện Tài đến chỗ dạ thần Phổ Đức Tịnh Quang, đảnh lễ nơi chân, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng, Bạch đức thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết bồ tát thế nào tu bồ tát địa, thế nào xuất sanh bồ tát địa, thế nào thành tựu bồ tát địa.

GIẢNG: Ở đây Thiện Tài không dùng chữ “hạnh” nữa mà ngài dùng chữ “địa,” tức là tâm địa. Vậy thì cái hạnh khác với cái địa ra sao? Là khi một hành giả viên dung những hạnh đó thì bắt đầu đi vào địa. Nên từ đây trở đi, Thiện Tài bắt đầu đi vào thập địa, tức là mười bậc tu chứng của bồ tát trước khi vào đẳng giác và diệu giác.

KINH: Lành thay, lành thay thiện nam tử, đã có thể phát tâm vô thượng bồ đề. Nay lại hỏi tu hành xuất sanh và thành tựu bồ tát địa. Này thiện nam tử, bồ tát thành tựu mười pháp thời có thể viên mãn bồ tát hạnh. Một là được thanh tịnh thường thấy chư Phật, hai là được thanh tinh nhãn thường xem tướng hảo trang nghiêm của chư Phật, ba là biết tất cả Như Lai vô lượng vô biên công đức đại hải, bốn là biết vô lượng phật pháp quang minh hải khắp pháp giới, năm là biết tất cả Như Lai, mỗi mỗi lỗ lông phóng dại quang minh hải đồng số chúng sanh lợi ích tất cả chúng sanh, sáu là thấy tất cả Như Lai mỗi mỗi lỗ lông phóng ra quang minh diệm hải đủ tất cả bửu sắc, bảy là trong mỗi niệm xuất hiện tất cả Phật biến hóa hải đầy khắp pháp giới, rốt ráo tất cả cảnh giới chư Phật điều phục chúng sanh, tám là được Phật âm thanh đồng tất cả chúng sanh ngôn âm hải, chuyển pháp luân tam thế Phật, chín là biết tất cả Phật vô biên, danh hiệu hải, mười là biết tất cả Phật bất tư nghi tự tại lực điều phục chúng sanh…

GIẢNG: Đại khái vẫn là quang minh biến hóa tràn đầy thế gian, vì đạo Phật cũng quanh đi quẩn lại là như vậy, nhưng càng lên cao càng bất tư nghì, càng vi diệu biến hóa.

KINH: Này thiện nam tử, ta được bồ tát giải thoát tên là “tịch tịnh thiền định lạc phổ du bộ'” thấy khắp tất cả chư Phật tam thế…

GIẢNG: Môn giải thoát “tịch tinh thiền định lạc phổ du bộ” lạc là vui mừng, phổ là khắp tất cả, du là đi, bộ là bộ, cũng giống như “nhất thiết xứ tam muội” nhưng mỗi chỗ có sự cao thấp khác nhau, nên danh tự nó cũng có khác biệt. Ngài vào thiền định đó, ngài hóa thân đi khắp các nơi, trong khi đi hóa thân để độ sanh, thì trong tâm ngài sinh hỷ lạc.

KINH: Thấy tất cả chư Phật tam thế…

GIẢNG: Ở chữ “tam thế” tôi đã nói mấy lần rồi là nói về thời gian ba đời, quá khứ, hiện tại, và vị lai. Chúng ta thường nghĩ rằng thời gian trôi qua vun vút, nhưng trong đạo Phật nói hành giả tu đến một mức độ nào đó có thể nhìn thấy ba đời bình đẳng, tam thế hiện tiền ngay trước mắt, và tam thế đi theo đường vòng trôn ốc. Chứng cớ trong kinh Hoa Nghiêm, ngài Phổ Hiền đọc một bài kệ về thời gian thật hay, cuối phẩm thứ 37:

Vị lai trong quá khứ,
Hiện tại trong vị lai,
Tam thế lẫn thấy nhau
Biên tế bất khả đắc…

Mới đọc bài kệ này thì ai cũng ngẩn ra, nhưng suy nghĩ lâu thấy thật là đúng. Người tu hành cao sẽ thấy rõ như nhìn bàn tay mình. Cũng như, tôi vẫn thường lấy ví dụ rằng, chúng ta ngồi trong một nhà tù lớn là cái thân này, đôi mắt là một kẽ hở nhìn ra pháp giới, bỗng dưng có một cái hoa đi qua kẽ hở ấy, khi nó đi qua rồi vì vướng cái tường nên ta không còn trông thấy nó nữa, lúc đó ta cho rằng nó đã vào quá khứ rồi. Nhưng nếu một vị có thiên nhãn nhìn, họ vẫn thấy cái hoa ấy, thì như vậy cái hoa đối với họ vẫn là hiện tại, sự hiện hữu của nó như trôi lâu hơn. Ngoài ra, cái hoa đó theo ý thức phân biệt của chúng sanh cứ tương rằng nó trôi theo giòng thời gian, và giòng thời gian trôi theo một đường thẳng rồi mất hút. Nhưng chính thật không phải, vì theo chiều thời gian chảy, được tạo bằng chính tâm thức của chúng sanh, và chiều chảy của tâm thức chúng sanh chạy theo chiều nghiệp lực, mà chiều nghiệp lực thì cũng như mọi vật phải chạy theo đường vòng trôn ốc. Trở về thí dụ của cái hoa, theo mắt thịt chúng ta, thì ta thấy nó đi vào quá khứ, trên phương diện sắc ấm nó sẽ rã thành bụi tan vào thức luân, rồi trở thành một chủng tử trong tàng thức, chủng tử ấy, đến một giai đoạn nào đó sẽ hiện hành nở ra thành một cái hoa khác. Vì vậy khi “vị lai trong quả khứ” là nghĩa thế, do đó mới có nhân quả nghiệp báo. Nếu quá khứ đi thẳng tuột, thì không thể có nhân quả nghiệp báo được. Đạo Phật xây dựng trên nhân quả, nghiệp báo, nên quá khứ phải trở lại, trở lại dưới một hình thức khác, hoặc tốt hơn, hoặc xâu hơn, hoặc rất lộng lẫy, hoặc rất đen tối. Krishnamurti cũng nói rằng “thời gian là sản phẩm của tâm tưởng.” Đó là sơ lược như vậy, muốn hiểu kỹ, cần phải có sự suy tư của chính mình. Vì thật ra, người giảng chỉ có thể nói trên một mặt phiến diện, dùng một thứ ngôn từ hữu hạn để nói về một vấn đề liễu nghĩa, nên không thể nói được hết, phải thêm vào sự suy tư của người nghe thì may ra mới hiểu được đôi phần.

Trong đạo Phật khẳng định rõ rằng, người tu đến một mức độ nào sẽ nhìn thấy tam thế bình đẳng, ba đời như trước mắt, nhìn thấy tất cả Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai.

KINH: … cũng thấy Chư Phật: quốc độ thanh tịnh, đạo tràng, chúng hội, thần thông, danh hiệu, thuyết pháp, thọ mạng ngôn âm, thân tướng nhiều loại chẳng đồng, thảy đều thấy rõ mà không chấp lấy. Tại sao vậy? Vì biết Như Lai chẳng phải đi, vì đã diệt hẳn thời gian, không gian. Vì biết đức Như Lai chẳng thể đến vì thể tánh vô sanh. Đức Như Lai chẳng phải sanh, vì pháp thân bình đẳng. Đức Như Lai chẳng phải diệt vì không có tướng sanh. Đức Như Lai chẳng phải thiệt, vì an trụ pháp như huyễn. Đức Như Lai chẳng phải vọng vì lợi ích chúng sanh. Đức Như Lai chẳng phải rời đổi vì vượt khỏi sanh tử. Đức Như Lai chẳng phải hư hoại vì tánh thường chẳng biến đổi. Đức Như Lai một tướng vì đều rời ngôn ngữ. Đức Như Lai vô tướng vì tánh tướng vốn không…

GIẢNG: Ở đoạn kinh này có thể tóm lược rằng, đức Như Lai không phải đến, không phải đi vì là tâm biến hiện. Trong đoạn kinh này, cũng giống như trong bài kệ của ngài Long Thọ về bát bất.

Chẳng phải sanh, chẳng phải diệt.
Chẳng phải đoạn, chẳng phải thường
Chẳng phải khứ, chẳng phải lai,
Chẳng phải đồng, chẳng phải dị…

Trong tất cả lịch trình đi của Thiện Tài, dần dần ngài phải đi đến chỗ giáo lý bình đẳng vô nhị và giáo lý như huyễn

KINH: Phổ Đức Tịnh Quang Dạ Thần muốn tuyên lại nghĩa giải thoát này, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:

Nếu có lòng tin hiểu,
Thấy hết tam thế Phật,
Người này mắt thanh tịnh,
Vào được biển Chư Phật.

Thân Phật bất tư nghi,
Pháp giới đều sung mãn,
Hiện khắp tất cả cõi,
Tất cả đều thấy rõ…

Như Lai một lỗ lông
Phóng bất tư nghi quang,
Chiếu khắp các quần sanh
Cho họ diệt phiền não
Như Lai một lỗ lông,
Xuất sanh vô tận hóa
Đầy khắp cả pháp giới
Diệt trừ khổ chúng sanh

Gần đây có Dạ Thần,
Tên Hỷ Mục Quán Sát
Ngươi nên đến đó hỏi
Học tu bồ tát hạnh…

GIẢNG: Sau khi ngài Phổ Đức Tịnh Quang nói kệ xong, liền giới thiệu cho Thiện Tài đến một vị Dạ Thần khác, cũng ở Bồ Đề Đạo Tràng là Hỷ Mục Dạ Thần. Đó là một vị dạ thần có thân rất lớn, bao trùm khắp hư không, mà luôn dùng đôi mắt hoan hỷ để nhìn chúng sanh.



33.- DẠ THẦN HỈ MỤC QUÁN SÁT CHÚNG SANH

 

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được

MÔN GIẢI THOÁT ÐẠI THẾ LỰC PHỔ HỈ TRÀNG” này.


 

Bấy giờ Thiện Tài kính thuận lời dạy của thiện tri thức, thật hành theo lời thiện tri thức, tự nghĩ rằng : Khó thấy khó gặp thiện tri thức. Thấy thiện tri thức thời tâm chẳng tán loạn. Thấy thiện tri thức thời phá núi chướng ngại. Thấy thiện tri thức thời vào biển đại bi cứu hộ chúng sanh. Thấy thiện tri thức thời được trí huệ quang chiếu khắp pháp giới. Thấy thiện tri thức thời có thể tu hành đạo Nhứt thiết trí. Thấy thiện tri thức thời có thể thấy khắp mười phương chư Phật. Thấy thiện tri thức thời được thấy chư Phật chuyển pháp luân ghi nhớ chẳng quên.

Suy nghĩ như vậy, Thiện Tài muốn đến chỗ DẠ THẦN HỈ MỤC QUÁN SÁT CHÚNG SANH.

Lúc đó Hỉ Mục Dạ Thần gia hộ cho Thiện Tài biết thân cận thiện tri thức có thể sanh những thiện căn tăng trưởng thành thục.

Như là làm cho Thiện Tài biết thân cận thiện tri thức thời có thể tu các môn trợ đạo. Biết thân cận thiện tri thức thời có thể khởi tâm dũng mãnh. Biết thân cận thiện tri thức thời có thể tạo công hạnh không hư hoại. Biết thân cận thiện tri thức có thể được sức không bị chế phục. Biết thân cận thiện tri thức thời có thể nhập vô biên phương. Biết thân cận thiện tri thức thời có thể tu hành lâu xa. Biết thân cận thiện tri thức thời có thể làm xong vô biên công hạnh. Biết thân cận thiện tri thức thời có thể thật hành vô lượng đạo. Biết thân cận thiện tri thức thời được sức tốc tật đến khắp các cõi. Biết thân cận thiện tri thức thời có thể chẳng rời bổn xứ mà đến khắp mười phương.

Lúc đó Thiện Tài liền phát ý nghĩ rằng : do thân cận thiện tri thức mà có thể dũng mãnh siêng tu nhứt thiết trí đạo. Do thân cận thiện tri thức mà có thể mau xuất sanh những đại nguyện. Do thân cận thiện tri thức mà có thể vì chúng sanh thọ vô biên khổ tận kiếp vị lai. Do thân cận thiện tri thức mà có thể mặc áo giáp đại tinh tấn trong một vi trần thuyết pháp tiếng vang khắp pháp giới. Do thân cận thiện tri thức mà có thể mau đến tất cả phương. Do thân cận thiện tri thức mà ở trong một sợi lông tu Bồ Tát hạnh tận vị lai kiếp. Do thân cận thiện tri thức mà trong mỗi niệm thật hành Bồ Tát hạnh rốt ráo an trụ bực nhứt thiết trí. Do thân cận thiện tri thức mà có thể nhập những đạo trang nghiêm thần lực tự tại của tất cả Như Lai. Do thân cận thiện tri thức mà có thể thường vào khắp các môn pháp giới. Do thân cận thiện tri thức nên thường duyên pháp giới chưa từng động xuất mà có thể qua khắp quốc độ mười phương.

Sai khi phát ý nghĩ như vậy. Thiện Tài đến chỗ Dạ Thần Hỉ Mục.

Thấy Dạ Thần này ở trong chúng hội đạo tràng của đức Như Lai ngồi trên tòa sư tử Liên Hoa Tạng, nhập đại thế lực phổ hỉ tràng giải thoát. Ở trên thân của Dạ Thần, mỗi lỗ lông phát ra vô lượng thân biến hóa, tùy theo sở nghi dùng âm thanh vi diệu để vì họ thuyết pháp, nhiếp khắp tất cả chúng sanh đều làm cho họ hoan hỷ được lợi ích. Như là hiện ra vô lượng hóa thân sung mãn tất cả thế giới mười phương, diễn nói những Bồ Tát hạnh Ðàn Ba la mật, không luyến mến tất cả sự, đều đem ban cho tất cả chúng sanh, tâm đó bình đẳng không có khinh mạn, trong ngoài đều đem cho, có thể xả được thứ khó xả.

Hiện ra vô lượng hóa thân bằng số chúng sanh đầy khắp pháp giới ở trước chúng sanh mà diễn nói trì tịnh giới không khuyết phạm, tu những khổ hạnh đều đầy đủ cả, không y tựa các thế gian, không ái nhiễm những cảnh giới. Nói trong sanh tử luân hồi qua lại. Nói hàng Nhơn, Thiên thạnh suy khổ vui. Nói các cảnh giới đều là bất tịnh. Nói tất cả pháp đều vô thường. Nói tất cả hành pháp đều khổ vô vị. Nói như vậy để làm cho các thế gian rời bỏ điên đảo an trụ nơi cảnh giới Phật, trì giới pháp của Như Lai diễn nói những giới hạnh như vậy, giới hương xông khắp làm cho các chúng sanh đều được thành thục.

Lại hiện ra vô lượng thân bằng số chúng sanh diễn nói nhẫn thọ được tất cả sự khổ. Như là bị cắt chém, đánh đập, mắng nhiếc, sỉ nhục, mà tâm vẫn thơ thới chẳng động chẳng loạn. Với tất cả công hạnh, chẳng quan niệm thấp cao. Với tất cả chúng sanh chẳng có ý nghĩ ngã mạn. Với các pháp tánh thời an trụ nhẫn thọ.

Diễn nói tâm Bồ đề không cùng tận, vì tâm vô tận nên trí cũng vô tận, dứt phiền não của khắp tất cả chúng sanh.

Diễn nói thân của chúng sanh chẳng hoàn cụ ty tiện xấu xí cho họ nhàm lìa, khen ngợi thần diệu sắc thanh tịnh vô thượng của Như Lai cho họ ham mến.

Dùng những phương tiện như vậy để thành thục chúng sanh.

Lại hiện ra vô lượng thân đồng với số chúng sanh, tùy theo tâm sở thích của chúng sanh mà nói dũng mãnh tinh tấn tu tập pháp trợ đạo nhất thiết trí. Dũng mãnh tinh tấn hàng phục quân ma. Dũng mãnh tinh tấn phát Bồ đề tâm chẳng động chẳng thối. Dũng mãnh tinh tấn độ tất cả chúng sanh ra khỏi biển sanh tử. Dũng mãnh tinh tấn trừ diệt tất cả nạn ác đạo. Dũng mãnh tinh tần phá vở núi vô trí. Dũng mãnh tinh tấn cúng dường tất cả chư Phật Như Lai không nhàm mỏi. Dũng mãnh tinh tấn thọ trì tất cả pháp luân của chư Phật. Dũng mãnh tinh tấn làm tan tất cả chướng ngại. Dũng mãnh tinh tấn giáo hóa thành thục tất cả chúng sanh. Dũng mãnh tinh tấn nghiêm tịnh tất cả Phật độ.

Dùng những phương tiện như vậy để thành thục chúng sanh.

Lại hiện ra vô lượng thân, dùng nhiều phương tiện làm cho các chúng sanh có lòng hoan hỷ bỏ ác niệm, nhàm dục lạc. Diễn nói sự hổ thẹn, cho chúng sanh che giấu các căn. Diễn nói phạm hạnh thanh tịnh vô thượng. Diễn nói Dục giới là cảnh của ma, cho họ kinh sợ. Vì họ mà hiện chẳng thích dục lạc của thế gian để an trụ nơi pháp lạc, theo thứ đệ nhập các thiền định, các tam muội. Khiến họ tự duy quán sát diệt trừ tất cả phiền não. Lại diễn nói những môn tam muội thần lực biến hiện tự tại du hí của Bồ Tát, cho các chúng sanh hoan hỉ thích thú, rời sự lo sợ, tâm được thanh tịnh, căn tánh mãnh lợi, mến trọng chánh pháp tu tập tăng trưởng.

Lại hiện ra vô lượng thân diễn nói qua đến mười phương quốc độ cúng dường chư Phật, Sư trưởng, chơn thiện tri thức, thọ trì pháp luân của chư Phật, siêng năng chẳng lười. Lại diễn nói ca ngợi tất cả chư Phật Như Lai, quát sát tất cả pháp môn, hiển thị tánh tướng của tất cả pháp, khai xiển tất cả môn tam muội. Mở cảnh giới trí huệ cạn biển nghi của tất cả chúng sanh. Chỉ kim cang trí huệ phá vỡ núi kiến chấp của tất cả chúng sanh. Mọc mặt nhự t trí huệ phá si tối của tất cả chúng sanh, cho họ hoan hỷ thành nhứt thiết trí.

Lại hiện ra vô lượng thân đến trước tất cả chúng sanh, tùy theo sở nghi dùng nhiều ngôn từ để thuyết pháp. Hoặc nói thần thông phước lực thế gian. Hoặc nói tam giới đều đáng sợ, cho họ chẳng gây tạo nghiệp hạnh thế gian để rời tam giới, khỏi rừng kiến chấp. Hoặc ca ngợi đạo nhứt thiết trí cho họ siêu việt bực Nhị thừa. Hoặc diễn nói chẳng trụ sanh tử chẳng trụ Niết bàn cho họ chẳng chấp hữu vi và vô vi. Hoặc diễn nói ở Ðâu Suất Thiên cung nhẫn đến đạo tràng, cho họ vui thích phát tâm Bồ đề.

Dùng những phương tiện giáo hóa chúng sanh, cho họ rốt ráo được Nhứt thiết trí.

Lại hiện ra vô lượng thân đến trước tất cả chúng sanh, trong mỗi niệm chỉ bày tất cả hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát. Trong mỗi niệm chỉ bày đại nguyện thanh tịnh sung mãn pháp giới. Trong mỗi niệm chỉ bày nghiêm tịnh tất cả thế giới. Trong mỗi niệm chỉ bày cúng dường tất cả Như Lai. Trong mỗi niệm chỉ bày nhập tất cả pháp môn. Trong mỗi niệm chỉ bày nhập tất cả Phật sát vi trần số thế giới. Trong mỗi niệm chỉ bày thanh tịnh tu hành đạo Nhứt thiết trí nơi tất cả cõi tận kiếp vị lại. Trong mỗi niệm chỉ bày nhập Như Lai lực. Trong mỗi niệm chỉ bày phương tiện nhập tất cả tam thế. Trong mỗi niệm chỉ bày hiện những thần thông biến hóa qua tất cả cõi. Trong mỗi niệm chỉ bày tất cả hạnh nguyện Bồ Tát cho tất cả chúng sanh an trụ nhất thiết trí. Những việc làm như vậy luôn không thôi nghỉ.

Lại hiện ra vô lượng thân đến trước tất cả chúng sanh nói vô biên tế lực của chư Bồ Tát chứa nhóm pháp trợ đạo Nhứt thiết trí. Nói bất hoại lực, vô tận lực cầu Nhứt thiết trí. Nói bất thối lực, vô gián lực tu hạnh vô thượng. Nói vô nhiễm lực đối với pháp sanh tử. Nói sức có thể phá tất cả ma chúng. Nói sức có thể xa rời tất cả phiền não. Nói sức có thể phá tất cả núi nghiệp chướng. Nói sức không mỏi trụ tất cả kiếp tu hành đại bi. Sức chấn động tất cả quốc độ làm cho tất cả chúng sanh, sanh lòng hoan hỷ. Sức có thể phá tất cả ngoại đạo. Sức chuyển pháp luân trong các thế gian.

Dùng những phương tiện thành thục như vậy làm cho các chúng sanh đến Nhứt thiết trí.

Lại hiện ra vô lượng thân biến hóa đến khắp vô lượng thế giới, tùy theo tâm của chúng sanh mà diễn nói trí hạnh của tất cả Bồ Tát. Như là nói trí nhập tất cả chúng sanh giới, trí nhập tất cả chúng sanh tâm, trí nhập tất cả chúng sanh căn, trí nhập tất cả chúng sanh hạnh, trí độ tất cả chúng sanh chưa từng lỗi thời, trí phát ra tất cả pháp giới âm thanh, trí mỗi niệm khắp tất cả pháp giới, trí mỗi niệm biết tất cả thế giới hoại, trí mỗi niệm biết tất cả thế giới thành tựu trang nghiêm sai khác nhau, trí mỗi niệm tự tại thân cận cúng dường tất cả Như Lai thính thọ pháp luân.

Thị hiện trí Ba la mật như vậy, làm cho các chúng sanh đều rất hoan hỉ thơ thới thích thú, lòng họ thanh tịnh, sanh trí hiểu quyết định cầu nhứt thiết trí không thối chuyển.

Như nói các môn Ba la mật của Bồ Tát thành thục chúng sanh, tuyên nói những hành pháp của tất cả Bồ Tát làm lợi ích cho chúng sanh cũng như vậy.

Lại ở trong mỗi lỗ lông xuất hiện vô lượng thân chúng sanh.

Như là xuất hiện thân giống như các trời Sắc Cứu Cánh,Thiện Hiện, Thiện Kiến, Vô Nhiệt, Vô Phiền.

Xuất hiện thân giống như các trời Quảng Quả, Phước Ái, Phước Sanh, Vô Vân.

Xuất hiện thân giống như các trời Biến Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Thiểu Tịnh.

Xuất hiện thân giống như các trời Quang Âm, Vô Lượng Quang, Thiểu Quang.

Xuất hiện thân giống như các trời Ðại Phạm, Phạm Chúng, Phạm Phụ.

Xuất hiện thân giống như các trời Tự Tại Tha Hóa, Hóa Lạc, Ðâu Suất, Dạ Ma, Ðao Lợi và các Thiên Tử, Thiên Nữ.

Xuất hiện thân giống như Càn Thát Bà Vương, Càn Thát Bà Tử, Càn Thát Bà Nữ.

Xuất hiện thân giống như Cưu Bàn Trà Vương, Cưu Bàn Trà Tử, Cưu Bàn Trà Nữ.

Xuất hiện thân giống như Long Vương, Long Tử, Long Nữ.

Xuất hiện thân giống như Dạ Xoa Vương, Dạ Xoa Tử, Dạ Xoa Nữ.

Xuất hiện thân giống như Khẩn Na La Vương, Ma Hầu La Già Vương, Ca Lâu La Vương, A Tu La Vương, Diêm La Vương cùng chư Tử, chư Nữ.

Xuất hiện thân giống như nhơn vương cùng chư Tử, chư Nữ.

Xuất hiện thân giống như chúng của Thanh Văn, Ðộc Giác, chư Phật.

Xuất hiện thân giống như Ðịa Thần, Thủy Thần, Hỏa Thần, Phong Thần, Hà Thần, Hải Thần, Sơn Thần, Thọ Thần, Trú Thần, Dạ Thần, Chủ Phương Thần.

Xuất hiện vô lượng thân như vậy sung mãn pháp giới.

Ở trước tất cả chúng sanh xuất hiện những âm thanh.

Như là : tiếng phong luân, tiếng thủy luân, tiếng hỏa diệm, tiếng hải triều, tiếng địa chấn, tiếng núi lớn chạm nhau, tiếng thiên thành chấn động, tiếng ma ni khua, tiếng Thiên Vương, tiếng Long Vương , tiếng Dạ Xoa Vương, tiếng Càn Thát Bà Vương, tiếng A Tu La Vương, tiếng Ca Lâu La Vương, tiếng Khẩn Na La Vương, tiếng Ma Hầu La Già Vương, tiếng Nhơn Vương, tiếng Phạm Vương, tiếng ca ngâm của Thiên Nữ, tiếng âm nhạc của chư Thiên, tiếng ma ni bửu vương.

Dùng những âm thanh như vậy để diễn nói Hỉ Mục Dạ Thần từ lúc sơ phát tâm gieo trồng công đức, như là kính thờ các bực thiện tri thức, thân cận chư Phật, tu tập thiện pháp. Thật hành Bố Thí Ba la mật khó xả mà xả được. Thật hành Giới Ba la mật vất bỏ ngôi vua, cung điện, quyến thuộc để xuất gia học đạo. Thật hành Nhẫn Nhục Ba la mật có thể nhẫn chịu tất cả sự khổ thế gian, cho đến những khổ hạnh của Bồ Tát tu tập, thọ trì chánh pháp, thảy đều kiên cố lòng chẳng lay động, cũng nhẫn thọ được những ác tác ác thuyết của tất cả chúng sanh gia vào thân tâm mình, nhẫn thọ tất cả công nghiệp không để hư mất, nhẫn thọ tất cả pháp sanh trí hiểu quyết định, nhẫn thọ pháp tánh có thể suy gẫm chín chắn. Thật hành Tinh Tấn Ba la mật khởi hạnh Nhứt thiết trí, thành tựu tất cả Phật pháp. Thật hành Thiền Ba la mật, những tư cụ của Thiền Ba la mật cho đến những sự tu tập, những sự thành tựu, những sự thanh tịnh, những tam muội thần thông, những sự nhập tam muội môn của Thiền Ba la mật đều hiển thị cả. Thật hành Bát Nhã Ba la mật, Bát Nhã Ba la mật đây có những tư cụ, những trí huệ nhựt thanh tịnh quảng đại, trí huệ vân quảng đại, trí huệ tạng quảng đại, trí huệ môn quảng đại, thảy đều hiển thị cả. Thật hành Phương Tiện Ba la mật, Ba la mật này có những tư cụ, sự tu hành, thể tánh, lý thú, thanh tịnh, tương ưng, đều hiển thị cả. Thật hành Nguyện Ba la mật, Ba la mật này có thể tánh, thành tựu, tu tập, tương ưng, điều hiển thị cả. Thật hành Lực Ba la mật, Ba la mật này có những tư cụ, nhơn duyên, lý thú, diễn thuyết, tương ưng, đều hiển thị cả. Thật hành Trí Ba la mật, Ba la mật này có những tư cụ, thể tánh, thành tựu, thanh tịnh, xứ sở, tăng trưởng, thâm nhập, quang minh, hiển thị, lý thú, sự tương ưng, giảng trạch, hành tướng, pháp tương ưng, pháp sở nhiếp, pháp sở tri, nghiệp sở tri, cõi sở tri, kiếp sở tri, thế sở tri, Phật xuất hiện đã biết, Phật đã biết, Bồ Tát đã biết, Bồ Tát tâm, Bồ Tát vị, Bồ Tát tư cụ, Bồ Tát phát thu, Bồ Tát hồi hướng, Bồ Tát đại nguyện, Bồ Tát pháp luân, Bồ Tát giản trạch pháp, Bồ Tát pháp hải, Bồ Tát pháp môn hải, Bồ Tát pháp triền lưu, Bồ Tát pháp lý thú, tất cả cảnh giới tương ưng với Trí Ba la mật như vậy đều hiển thị để thành thục chúng sanh.

Lại diễn thuyết Hỉ Mục Dạ Thần từ lúc sơ phát tâm chứa nhóm công đức tiếp nối thứ đệ, chứa nhóm thiện căn tiếp nối thứ đệ, tu tập vô lượng môn Ba la mật tiếp nối thứ đệ, chết đây sanh kia và danh hiệu tiếp nối thứ đệ, thân cận thiện hữu, kính thờ chư Phật, thọ trì chánh pháp, tu Bồ Tát hạnh, nhập, môn tam muội, dùng sức tam muội thấy khắp chư Phật, thấy khắp các cõi, thấy khắp các kiếp, thâm nhập pháp giới, quán sát chúng sanh, nhập pháp giới hải biết các chúng sanh chết đây sanh kia, được tịnh Thiên nhĩ nghe tất cả tiếng, được tịnh Thiên nhãn thấy tất cả sắc, được Tha tâm trí biết tâm chúng sanh, được Túc trụ trí biết sự đời trước, được Thần túc trí thông vô y vô tác du hành khắp mười phương cõi, tất cả những tiếp nối thứ đệ của tất cả công đức thần thông ấy. Ðược Bồ Tát giải thoát, nhập Bồ Tát giải thoát hải, được Bồ Tát tự tại, được Bồ Tát dũng mãnh, được Bồ Tát du bộ, trụ Bồ Tát tưởng, nhập Bồ Tát đạo, tất cả những công đức nối tiếp thứ đệ như vậy đều diễn nói phân biệt hiển thị để thành thục chúng sanh.

Lúc diễn nói nhự vậy, trong mỗi niệm, mỗi phương trong mười phương đều nghiêm tịnh bất khả thuyết bất khả thuyết Phật độ, độ thoát vô lượng ác thú chúng sanh, làm cho vô lượng chúng sanh trong hàng Nhơn, Thiên giàu sang tự tại. Làm cho vô lượng chúng sanh thoát biển sanh tử. Làm cho vô lượng chúng sanh an trụ bực Thanh Văn, Bích Chi Phật. Làm cho vô lượng chúng sanh an trụ Như Lai địa.

Thiện Tài đồng tử thấy nghe tất cả những sự hi hữu đã hiển hiện đó, liền quán sát tư duy hiểu rõ và thâm nhập an trụ trong đó. Nương oai lực của Phật và sức giải thoát nên được Bồ Tát tư nghì đại thế lực, phổ hỉ tràng tự tại lực giải thoát.

Tại sao vậy ?

Vì Thiện Tài cùng Hỉ Mục Dạ Thần, từ thuở xưa đã từng cùng nhau tu hành, vì thần lực của Phật gia hộ, vì bất tư nghì thiện căn hộ trợ, vì được Bồ Tát căn, vì sanh trong dòng Như Lai, vì được sức thiện hữu nhiếp thọ, vì được chư Phật hộ niệm, vì đã từng được sự giáo hóa của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, vì phần thiện căn đó đã thành thục, vì kham tu tập hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.

Ðược môn giải thoát này rồi, Thiện Tài rất hoan hỉ, chắp tay cung kính hướng về phía Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sanh Dạ Thần mà nói kệ khen ngợi rằng :

 

Vô lượng vô số kiếp

Học Phật pháp thậm thâm.

Tùy chỗ nên hóa độ

Hiển hiện diệu sắc thân.

Biết rõ các chúng sanh

Trầm mê mắc vọng tưởng

Ðều hiện nhiều thân hình

Tùy nghi điều phục họ.

Pháp thân hằng tịch tịnh

Thanh tịnh không hai tướng

Vì giáo hóa chúng sanh

Thị hiện những thân hình.

Nơi các uẩn xứ giới

Chưa từng có chỗ chấp

Công hạnh và sắc thân

Hiện ra điều phục chúng.

Chẳng chấp pháp nội ngoại

Ðã vượt biển sanh tử

Mà hiện những thân hình

Ở nơi cõi hữu lậu.

Lìa xa những phân biệt

Hý luận không làm động

Vì người chấp vọng tưởng

Hoằng tuyên pháp thập lực.

Nhứt tâm trụ tam muội

Vô lượng kiếp chẳng động

Lỗ lông hiện biến hóa

Cúng dường thập phương Phật.

Ðược Phật phương tiện lực

Niệm niệm vô biên tế

Thị hiện nhiều thân hình

Khắp nhiếp các quần sanh

Biết rõ biển hữu lậu

Nhiều công hạnh trang nghiêm

Vì nói pháp vô ngại

Khiến họ đều thanh tịnh.

Sắc thân diệu vô tỷ

Thanh tịnh như Phổ Hiền

Tùy tâm các chúng sanh

Thị hiện tướng thế gian.

 

Thiện Tài nói kệ xong, bạch rằng :

Ðức Thánh phát tâm Vô thượng Bồ đề hồi nào ? Ðược môn giải thoát này được bao lâu ?

Hỉ Mục Dạ Thần nói kệ đáp rằng :

 

Ta nhớ đời quá khứ

Qua khỏi sát trần kiếp

Cõi hiệu Ma Ni Quang

Kiếp tên Tịch Tịnh Âm.

Trăm vạn na do tha

Câu chi tứ thiên hạ

Nhơn vương số cũng vậy

Mỗi vua trị mỗi châu.

Có một Vương đô thành

Hiệu là Hương Tràng Bửu

Trang nghiêm rất đẹp lạ

Ai thấy cũng hoan hỷ.

Thành có Chuyển Luân Vương

Thân vua rất xinh đẹp

Ðủ ba hai tướng tốt

Tùy hảo trang nghiêm thân.

Từ hoa sen hóa sanh

Thân sáng chói màu vàng

Bay cao chiếu xa gần

Khắp đến châu Diêm Phù.

Vua có ngàn Vương Tử

Thân đoan chánh dũng mãnh,

Các quan đủ một ức

Có trí huệ phương tiện,

Cung tần mười ức người

Dung nhan như Thiên Nữ,

Lòng điều nhu lợi ích

Thương mến hầu hạ vua.

Nhà vua dùng pháp trị

Khắp đến tứ thiên hạ

Trong khắp cõi đại địa

Tất cả đều giàu mạnh,

Thuở ấy ta Bửu Nữ

Có ngôn âm thanh tịnh

Thân chiếu sáng kim sắc

Chiếu đến ngàn do tuần.

Một đêm nọ trời tối,

Âm nhạc đã ngừng bặt,

Ðại Vương và quan hầu

Tất cả đều ngủ yên.

Lúc đó Phật Ðức Hải

Xuất hiện trên thế gian

Hiển thị thần thông lực

Sung mãn mười phương cõi.

Phật phóng đại quang minh

Chiếu khắp tất cả cõi,

Hiện những thân tự tại

Ðầy khắp cả mười phương.

Ðịa chấn vang tiếng diệu

Phổ cáo Phật xuất thế

Chúng Thiên, Nhơn, Long, Thần,

Tất cả đều hoan hỷ.

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Hiện ra hóa thân Phật

Mười phương đều đầy khắp

Tùy nghi nói diệu pháp.

Lúc đó ta chiêm bao

Thấy thần biến của Phật

Cũng nghe pháp thâm diệu

Lòng ta rất vui mừng

Một vạn Chủ Dạ Thần

Cũng dừng tại hư không

Tán thán Phật xuất thế

Ðồng thời đánh thức ta :

Bửu Nữ ! Nàng mau dậy

Phật đã hiện nước người

Nhiều kiếp khó gặp gỡ

Người thấy được thanh tịnh,

Liền đó ta thức dậy

Thấy quang minh thanh tịnh

Xem coi từ đâu chiếu

Thấy Phật ngự Bồ đề

Thân tướng tốt trang nghiêm

Dường như Bửu Sơn Vương

Trong tất cả lỗ lông

Phóng vô lượng quang minh.

Thấy rồi rất vui mừng

Lòng ta tự nghĩ rằng :

Nguyện ta được như Phật

Sức thần thông quảng đại

Lúc đó ta đánh thức

Ðại Vương và quyến thuộc

Cho thấy Phật quang minh

Tất cả đều mừng rỡ.

Ta cùng với Ðại Vương

Người theo ngàn muôn ức

Chúng sanh cũng vô lượng

Ðều đi đến chỗ Phật.

Trọn trong hai muôn năm

Ta cúng dường đức Phật

Thất bửu tứ thiên hạ

Tất cả đều dâng cúng.

Phật Ðức Hải diễn nói

Kinh Công Ðức Phổ Vân

Ứng khắp tâm quần sanh

Trang nghiêm tất cả nguyện.

Dạ Thần giác ngộ ta

Cho ta được lợi ích,

Ta nguyện làm Dạ Thần

Giác ngộ người phóng dật.

Từ đó ta bắt đầu

Phát nguyện đại Bồ đề

Qua lại trong các cõi

Tâm nguyện không quên mất

Sau đó ta cúng dường

Mười ức na do Phật,

Hằng hưởng vui nhơn thiên

Lợi ích các quần sanh.

Kế Phật Công Ðức Hải

Là Phật Công Ðức Ðăng

Thứ ba Diệu Bửu Tràng.

Thứ tư Hư Không Trí,

Thứ năm Liên Hoa Tạng,

Thứ sáu Vô Ngại Huệ,

Thứ bảy Pháp Nguyệt Vương,

Thứ tám Trí Ðăng Luân,

Ðức Phật thứ chín hiệu :

Bửu Diệm Sơn Ðăng Vương,

Ðức Phật thứ mười hiệu :

Tam thế Hoa Quang Âm

Tất cả Phật như vậy

Ta đều cúng dường đủ

Nhưng chưa được huệ nhãn

Nhập nơi biển giải thoát.

Sao đó lần lượt có

Cõi Nhất Thiết Bửu Quang,

Kiếp đó tên Thiên Thắng

Năm trăm Phật ra đời :

Trước nhứt Nguyệt Quang Luân,

Thứ hai Phật Nhựt Ðăng,

Thứ ba Phật Quang Tràng.

Thứ tư Bửu Tu Di,

Thứ năm Phật Hoa Diệm,

Thứ sáu Phật Ðăng Hải,

Thứ bảy Phật Xí Nhiên,

Thứ tám Phật Thiên Tạng,

Chín : Quang Minh Vương Tràng,

Mười : Phổ Trí Quang Vương.

Tất cả chư Phật ấy

Ta đều cúng dường đủ

Vẫn còn trong các pháp

Không mà cho là có.

Sau đó lại có kiếp

Tên là Phạm Quang Minh,

Cõi tên Liên Hoa Ðăng

Trang nghiêm rất đẹp lạ.

Có vô lượng đức Phật

Mỗi Phật vô lượng chúng,

Ta đều từng cúng dường

Tôn trọng nghe thuyết pháp.

Một là Bửu Tu Di,

Hai, Phật Công Ðức Hải,

Ba, Phật pháp Giới Âm,

Bốn, Phật pháp Chấn Lôi,

Năm là Phật pháp Tràng,

Thứ sáu Phật Ðịa Quang,

Bảy, Phật pháp Lực Quang,

Thứ tám Hư Không Giác,

Thứ chín Tu Di Quang,

Thứ mười Công Ðức Vân

Chư Như Lai như vậy

Ta đều từng cúng dường

Còn chưa hiểu rõ pháp

Ðể nhập biển chư Phật.

Kế đó lại có kiếp

Tên là Công Ðức Nguyệt,

Có thế giới trang nghiêm

Tên là Công Ðức Tràng,

Trong đó có chư Phật

Tám mươi na do tha,

Ta đều sắm đồ cúng

Thâm tâm dưng lên Phật.

Một, Phật Thát Bà Vương,

Hai, Phật Ðại Thọ Vương,

Ba, Công Ðức Tu Di,

Thứ tư Phật Bửu Nhãn,

Thứ năm Lô Xá Na,

Thứ sáu Quang Trang Nghiêm,

Thứ bảy Phật pháp Hải,

Thứ tám Phật Quang Thắng,

Thứ chín Phật Hiền Thắng,

Thứ mười Phật pháp Vương.

Chư Phật Như Lai đó

Ta đều từng cúng dường

Nhưng chưa được thâm trí

Nhập vào biển Phật pháp.

Sau đó lại có kiếp

Tên là Tịch Tịnh Huệ

Kiếp hiệu Kim Cang Bửu

Rất trang nghiêm đẹp lạ.

Trong đó có ngàn Phật

Thứ đệ hiện thế gian.

Chúng sanh phiền não nhẹ,

Chúng hội đều thanh tịnh

Một, Phật Kim Cang Tê,

Hai, Phật Vô Ngại Lực

Ba, Phật Pháp Giới Ảnh,

Bốn, Phật Thập Phương Ðăng,

Thứ năm Phật Bi Quang,

Thứ năm Phật Bi Quang,

Thứ sáu Phật Giới Hải,

Thứ bảy Nhẫn Ðăng Luân,

Thứ tám Pháp Luân Quang,

Thứ chín Quang Trang Nghiêm,

Mười, Phật Tịch Tịnh Quang.

Chư Phật Như Lai đó

Ta đều từng cúng dường

Còn chưa được thâm ngộ

Pháp thanh tịnh như không

Du hành tất cả cõi

Hằng tu những công hạnh.

Thứ đệ lại có kiếp

Tên là Thiện Xuất Hiện,

Cõi hiệu Hương Ðăng Vân

Tịnh uế chung nhau thành,

Trong đó có ức Phật

Trang nghiêm cõi và kiếp,

Chư Phật đó thuyết pháp,

Ta đều thọ trì được,

Thứ nhất Phật Quảng Xưng,

Kế đến Phật pháp Hải,

Thứ ba Tự Tại Vương,

Thứ tư Công Ðức Vân,

Thứ năm Phật pháp Thắng,

Thứ sáu Phật Thiên Quan,

Thứ bảy Phật Trí Diệm,

Thư tám Hư Không Âm,

Ðức Thế Tôn thứ chín

Hiệu Phổ Sanh Thù Thắng,

Vô Thượng Sĩ thứ mười

Mi Gian Thắng Quang Minh.

Tất cả Phật như vậy

Ta đều từng cúng dường.

Nhưng còn chưa sạch được

Ðạo rời lìa chướng ngại.

Kế đó lại có kiếp

Tên Tập Kiên Cố Vương,

Cõi hiệu Bửu Tràng Chủ

Tất cả khéo nghiêm bày.

Có năm trăm đức Phật

Xuất hiện trong cõi đó,

Ta cung kính cúng dường

Cầu vô ngại giải thoát.

Thứ nhứt Phật Công Ðức,

Thứ hai Tịch Tịnh Âm,

Thứ ba Công Ðức Hải,

Thứ tư Nhựt Quang Vương

Thư năm Công Ðức Vương,

Thứ sáu Tu Di Tướng,

Thứ bảy Pháp Tự tại,

Thứ tám Công Ðức Vương,

Thứ chín Phước Tu Di,

Mười, Phật Quang Minh Vương.

Chư Phật Như Lai đó

Ta đều từng cúng dường,

Bao nhiêu đạo thanh tịnh

Ta đều nhập không sót,

Nhưng nơi môn đã nhập

Chưa thành tựu được nhẫn.

Kế đó lại có kiếp

Tên là Diệu Thắng Chủ,

Cõi hiệu Tịch Tịnh Âm,

Chúng sanh phiền não nhẹ.

Cõi ấy có Phật hiện

Tám mươi na do tha,

Ta đều từng cúng dường

Ta hành đạo tối thắng,

Thứ nhất Phật Hoa Tụ,

Thứ hai Phật Hải Tạng,

Thứ ba Công Ðức Sanh,

Thứ tư Thiên Vương Kế,

Thư năm Ma Ni Tạng,

Thứ sáu Chơn Kim Sơn,

Thứ bảy Bửu Tụ Tôn,

Thứ tám Pháp Tràng Phật,

Thứ chín Phật Thắng Tài,

Thứ mười Phật Trí Huệ.

Tất cả chư Phật này

Ta đều cúng dường đủ.

Kế đó lại có kiếp

Hiệu là Thiên Công Ðức,

Kiếp đó có thế giới

Hiệu Thiện Hóa Tràng Ðăng,

Sáu mươi ức do tha

Như Lai hiện thế gian

Một là Tịch Tịnh Tràng,

Hai, Phật Xa Ma Tha

Ba, Phật Bá Ðăng Vương,

Bốn, Phật Tịch Tịnh Quang,

Thứ năm Vân Mật Âm,

Thứ sáu Nhựt Ðại Minh,

Thứ bảy Pháp Ðăng Quang,

Thứ tám Thù Thắng Diệm,

Thứ chín Thiên Thắng Tạng,

Thứ mười Ðại Hống Âm.

Chư Phật Như Lai đó

Ta đều thường cúng dường

Chưa được thanh tịnh nhẫn

Thâm nhập biển Phật pháp,

Kế đó lại có kiếp

Tên Vô Trước Trang Nghiêm,

Lúc đó có thế giới

Tên là Vô Biên Quang,

Trong đó có ba sáu

Na do tha Phật hiện :

Một, Công Ðức Tu Di,

Hai, Phật Hư Không Tâm,

Thứ ba Cụ Trang Nghiêm,

Thứ tư Pháp Lôi Âm,

Thứ năm Pháp Giới Thanh,

Thứ sáu Diệu Âm Vân,

Thứ bảy Chiếu Thập Phương,

Thứ tám Pháp Hải Âm,

Thứ chín Công Ðức Hải,

Thứ mười Công Ðức Tràng.

Chư Phật Như Lai đó

Ta đều từng cúng dường.

Kế đó Phật xuất thế

Hiệu là Công Ðức Tràng

Ta làm Nguyệt Diện Thiên

Cúng dường đức Thế Tôn,

Như Lai vì ta nói

Vô y diệu pháp môn.

Ta nghe chuyên nhớ nghĩ

Phát sanh biển đại nguyện.

Ta được thanh tịnh nhãn

Tịch diệt định tổng trì

Có thể trong mỗi niệm

Ðều thấy tất cả Phật.

Ta được đại bi tạng

Phương tiện nhãn khắp sáng

Thêm lớn tâm Bồ đề

Thành tựu Như Lai lực.

Thấy chúng sanh điên đảo

Chấp thường, lạc, ngã, tịnh,

Tối ngu si che lấp,

Vọng tưởng khởi phiền não,

Ði đứng rừng kiến chấp,

Qua lại biển tham dục,

Nhóm ở các ác đạo

Tạo vô lượng ác nghiệp,

Trong tất cả các loài

Theo nghiệp mà thọ thân,

Các họa sanh già chết

Vô lượng khổ bức bách.

Vì những chúng sanh đó

Ta phát tâm vô thượng

Nguyện được như mười phương

Tất cả đấng Thập Lực.

Duyên Phật và chúng sanh

Phát khởi những đại nguyện

Từ đó tu công đức

Xu nhập phương tiện đạo,

Ðại nguyện đều che chở

Vào khắp tất cả đạo,

Ðầy đủ Ba la mật

Ðầy khắp nơi pháp giới

Mau nhập nơi các địa

Biển phương tiện tam thế,

Một niệm tu chư Phật

Tất cả hạnh vô ngại.

Lúc đó ta được nhập

Ðạo Phổ Hiền Bồ Tát,

Biết rõ mười pháp giới

Tất cả môn sai biệt.

 

Nói kệ xong, Dạ Thần bảo Thiện Tài rằng :

Này thiện nam tử ! Ý ngươi nghĩ sao ? Thuở xưa, Chuyển Luân Thánh Vương hiệu Thập Phương Chủ có thể nối thạnh dòng Phật là ai ? Chính là Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử đấy.

Còn Dạ Thần giác ngộ ta, chính là hóa thân của đức Phổ Hiền Bồ Tát.

Thuở ấy ta làm Bửu Nữ Nhờ Dạ Thần giác ngộ cho ta thấy Phật để phát tâm Vô thượng Bồ đề. Từ đó về sau trải qua Phật sát vi trần số kiếp chẳng đọa ác đạo, thường sanh Nhơn, Thiên, thường thấy chư Phật. Nhẫn đến ở chỗ đức Phật Diệu Ðăng Công Ðức Tràng được môn Bồ Tát giải thoát "Ðại thế lực phổ hỉ tràng" này. Ta dùng môn giải thoát này làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được “MÔN GIẢI THOÁT ÐẠI THẾ LỰC PHỔ HỈ TRÀNG” này.

Như chư đại Bồ Tát trong mỗi niệm đến khắp trước tất cả chư Phật Như Lai, mau xu nhập được biển nhứt thiết trí, trong mỗi niệm dùng môn phát thu vào tất cả biển đại nguyện. Trong mỗi niệm dùng môn đại nguyện tận kiếp vị lai, mỗi niệm xuất sanh tất cả công hạnh. Trong mỗi hạnh xuất sanh tất cả Phật sát vi trần số thân, mỗi mỗi thân vào khắp tất cả cả pháp giới môn. Mỗi pháp giới môn, trong tất cả cõi Phật, tùy tâm chúng sanh mà nói những diệu hạnh. Trong mỗi vi trần của tất cả cõi đều thấy vô biên chư Phật. Ở chỗ mỗi Như Lai đều thấy khắp pháp giới chư Phật thần thông. Ở chỗ mỗi Như Lai đều thấy đời trước tu Bồ Tát hạnh. Ở chỗ mỗi Như Lai thọ trì thủ hộ những pháp luân. Ở chỗ mỗi Như Lai đều thấy những thần biến của tam thế tất cả Như Lai.

Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.

Này thiện nam tử ! Trong chúng hội đây có một Dạ Thần tên là Phổ Cứu Chúng Sanh Diệu Ðức. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào nhập Bồ Tát hạnh, tịnh Bồ Tát đạo ?

Bấy giờ Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sanh Chủ Dạ Thần, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.



KINH: Lúc đó Thiện Tài liền phát ý nghĩ rằng, do thân cận thiện tri thức mà có thể dũng mãnh siêng tu nhất thiết trí đạo. Do thân cận thiện tri thức mà có thể mau xuất sanh những đại nguyện. Do thân cận thiện tri thức mà có thể vì chúng sanh thọ vô biên khổ tận kiếp vị lai…

GIẢNG: Trong kinh thỉnh thoảng lại nhắc đi, nhắc lại vai trò rất cần thiết của thiện tri thức…

KINH: Sau khi phát ý nghĩ như vậy, Thiện Tài đến chỗ Dạ Thần Hỷ Mục. Thấy Dạ Thần này ở trong chúng hội đạo tràng của Đức Như Lai, ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng, nhập đại thế lực phổ hỷ tràng giải thoát…

GIẢNG: Ở đây kinh tả về trạng thái tâm thức hỷ, lạc của các vị cao vào địa, ngài nhập vào tam muội hoan hỷ có lực phổ biến khắp nơi để độ sanh.

KINH: Ở trên thân của dạ thần, mỗi lỗ lông phát ra vô lượng thân biến hóa,… nhiếp khắp tất cả chúng sanh đều làm cho họ hoan hỷ được lợi ích. Như là hiện ra vô lượng hóa thân sung mãn tất cả thế giới mười phương…, hiện ra vô lượng hóa thân bằng số chúng sanh đầy khắp pháp giới…, lại hiện ra vô lượng thân bằng số chúng sanh diễn nói nhẫn thọ được tất cả sự khổ… Lại hiện ra vô lượng thân, dùng nhiều phương tiện làm cho các chúng sanh có lòng hoan hỷ bỏ ác niệm, nhàm dục lạc…

GIẢNG: Ngài hóa hiện thân vô lượng vì chúng sanh tùy nghi thuyết pháp, khi thì diễn nói đàn ba la mật, tức là nói bố thí, rồi trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn v.v… Rồi ngài lại hiện thân phương tiện để khiến chúng sanh sanh lòng hoan hỷ mà bỏ những ác niệm, và khi được những hỷ lạc thanh cao, chúng sanh sẽ chán những dục lạc thô ở dưới…

KINH: … diễn nói sự hổ thẹn cho chúng sanh che dấu các căn…

GIẢNG: Ngài giảng rằng chúng ta có thân thô kệch, xấu xí, có chín khiếu chảy hôi, thì nên che dấu đi. Trong kinh Hiền Ngu có kể một người tối cởi trần đi ngủ, đến đêm có đám cháy, sắp chết cháy nhưng ông ta cũng cố kiếm lấy quần áo để mặc che thân, chỉ riêng cái cử chỉ tàm quý hổ thẹn đó mà sau khi chết được sinh thiên. Vì những căn bất tịnh này là những sanh tử huyền môn, đưa chúng ta trôi lăn vào sanh tử, ta phải khởi tâm hổ thẹn mới được. Chỉ có súc sanh mới phô trương các căn bất tịnh ấy thôi, còn các thần linh, chư thiên không bao giờ phô trương ra cả, cũng không bao giờ nói đến những thứ ấy, còn loài người chúng ta, đứng ở chặng giữa, nên đôi khi có tư tưởng thần linh, nhưng nhiều khi hay có tâm niệm súc sanh.

KINH: Diễn nói phạm hạnh thanh tịnh vô thượng, diễn nói dục giới là cảnh của Ma cho họ kinh sợ…

GIẢNG: Chúng ta sống trong dục giới này cứ nghĩ rằng mình ghê gớm lắm, chứ đâu ngờ rằng tất cả cảnh giới này đều là của Ma Vương, và hầu hết các tâm niệm chúng ta khởi lên đều là tâm niệm ma, vì tâm niệm nào cũng là tham, sân, si, đấu tranh, tật đố, chấp ngã v.v… mà rất ít khi có tâm niệm hào hiệp, vị tha, quảng đại, từ bi… Vì chúng ta luôn có tâm niệm của ma nên cũng là quyến thuộc của ma, chung quanh toàn tụi ma đến cả. Khi tâm niệm tham, sân, si của chúng ta lớn lên đến một mức độ nào đó, tương Ưng với bên ngoài thì lúc đó sẽ chiêu dụ những ngoại ma đến. Như một hành giả khi khởi tâm ngã mạn cao, nghĩ rằng mình là đạo sư giỏi, hay khi khởi tâm niệm tham dục cuồng điên thì ngoại ma dễ dàng nhập vào người ấy. Như trong Khổng Giáo nói, trong nhà có người quân tử thì ngoài cửa có người quân tử đến, nhưng nếu trong nhà có kẻ tiểu nhân thì ngoài cửa kẻ tiểu nhân cũng đến ngay. Cũng vậy, trong chúng ta có tham, sân, si, dục khởi lên mạnh mẽ, thì chiêu cảm ngay bên ngoài, một là sẽ gặp người tương ưng cùng tham dục với mình để hành lạc, hoặc sẽ bị thiên ma nhập vào mình. Đó là lẽ chiêu cảm tương ưng chứ không có gì khác hết.

Nhiều khi chúng ta cứ nghĩ rằng ta là người chứ đâu phải ma, nhưng tâm niệm của chúng ta thường là tâm niệm của ma, hoặc súc sanh, ít có tâm niệm thần linh. Vì vậy, nên khi ta chịu khó suy tư về kinh nhiều, ta sẽ bớt tâm niệm yêu quái, súc sanh, và có những tâm niệm của thần linh.

HỎI: Trong kinh thánh bên Thiên chúa giáo, thuở khai thiên lập địa, lúc mới có Adam và Eva, thì đồng thời có hai cây là cây sống Đời và cây Tri Thức. Sau đó, con rắn súi bà Eva ăn trái Tri Thức, rồi hai người mới hoát nhiên thấy mình lõa thể. Vậy thì trước, đó họ không biết sao? Như vậy trạng thái tâm thức trước đó của họ thế nào, mà họ không biết?

ĐÁP: Trạng thái tâm thức trước đó là sự trong trắng ngây thơ, vượt lên trên thiện ác. Thiên đường của họ là tầng trời sắc giới, thân của họ được dệt bằng thân hào quang của tưởng ấm, nên chưa có ý niệm về nam, nữ, cũng chưa có ý niệm về cái gọi là “tổ tông truyền,” về vấn đề tham dục, nên chưa thấy hổ thẹn. Đến khi họ ăn cây tri thức thì lúc đó mới bắt đầu có ý niệm phân biệt nam, nữ, và trong người nữ có sự nuối tiếc người nam, ngược lại, trong người nam cũng có sự nuối tiếc người nữ nên bấy giờ mới có tội tổ tông truyền. Cũng như đạo Phật kể rằng lúc trái đất mới nguội, chưa có người ở, vào chu kỳ đó, loài người chưa phải thai sanh mà là hóa sanh… Nên lúc đó, có những vị trời Quang Âm, vì phước báo hết nên bị tụt xuống, hóa sanh, làm loài người ở nhân gian. Lúc các ngài mới xuống, tuy gọi là phước báo kém, nhưng vẫn còn thần thông, thân thể còn hào quang sáng chói, bay đi bay lại tự tại, không cần phải cầy cấy gì mà chỉ ăn “địa bì,” tức là cái vỏ ngoài của trái đất, tuy gọi là địa bì nhưng chắc ngon ngọt còn hơn phô mát của mình nữa. Song ăn địa bì ấy lâu ngày, thân thể nặng dần, khó bay lên hơn và lúc bấy giờ mới khởi lòng dục, phân dần thành nam nữ. Vì vậy cần hiểu rằng, đạo Phật đi theo chu kỳ tuần hoàn, từ khởi nguyên có thời kỳ chưa phân nam, nữ. Sau dần kém đi phân thành nam nữ,( như thời kỳ này), rồi dần dần lên cao lại không phân nam nữ, như ở cõi Sắc và bên Cực Lạc. Diễn tiến của mọi loài là như vậy, khởi nguyên thì không phân nam nữ, rồi xuống thấp có sự phân biệt và đủ những vọng tình vọng tưởng thì phân nam nữ, sau lại tiến lên cao hơn, có định huệ thì… lại không phân nam nữ nữa. Vì vậy, đạo phật có thể giải thích được các hiện tượng thác loạn như việc “đồng tình luyến ái.” Vì trước kia là một thực thể không phân biệt nam nữ, (androgyne), sau vì cộng nghiệp tham dục nên phân ra thành nam, nữ, nhưng trong lúc phân cũng có những trường hợp “biến dạng” phần ra hai nam, hoặc hai nữ, và qua nhiều kiếp vẫn có những sự nuối tiếc thực thể uyên nguyên, nên mới có chuyện đồng tình luyến ái. Còn có những trường hợp vẫn phân ra, nhưng nó lại mang hai tính chất, vừa thích nữ, cũng vừa thích nam, thì sẽ sinh ra hiện tượng “bisexsual.”

HỎI: Nhưng trường hợp ấy tại sao bây giờ mới phát hiện, trước kia tại sao không thấy?

ĐÁP: Trước kia cũng có nhưng nó không công khai, vì thời Hy Lạp, những danh nhân Hy Lạp nổi tiếng đều là “lại cái” cả, dân Đức cũng bị lại cái nhiều, nhưng cũng lạ, phần nhiều đều là người tài giỏi. Nên vấn đề sex rất phức tạp, nó là một loại theo như danh từ duy thức học gọi là “dị sanh tánh,” mà thật ra, trong pháp giới này cái gì cũng phức tạp, tùy tâm niệm chúng sanh khởi lên thế nào thì nó kết lại như thế. Vì vậy nên pháp giới mới trùng trùng, chúng sanh mới vô lượng, mới có thể sinh ra nhiều loài chúng sanh dị tánh…

Nay xin trở về kinh…

KINH: Thiện Tài đồng tử thấy nghe tất cả sự hy hữu đã hiển hiện đó, liền quan sát tư duy hiểu rõ và thâm nhập an trụ trong đó, nương các oai lực của Phật và sức giải thoát nên được bồ tát bất tư nghi đại thế lực, phổ hỷ tràng tự tại lực giải thoát.

GIẢNG: Thiện Tài gặp vị Dạ Thần này thì đắc ngay được “Phổ hỷ tràng giải thoát môn.” Liền sau đó, Thiện Tài hoan hỷ nói bài kệ tán thán:

KINH:

Vô lượng vô số kiếp
Học Phật pháp thậm thâm
Tùy chỗ nên hóa độ
Hiển hiện diệu sắc thân…

GIẢNG: Thiện Tài nói một bài kệ khá dài, đại khái tán thán công đức bất tư nghi của ngài Dạ Thần này và hỏi rằng ngài đã phát tâm vô thượng bồ đề được bao lâu, thì ngài chủ Dạ Thần này cũng kể nhiều kiếp đã từng cúng dường bao nhiêu đức Phật, và nói kệ rằng:

KINH:

Tất cả Chư Phật ấy,
Ta đều cúng dường đủ
Vẫn còn trong các pháp
Không mà cho là có (nghĩa là còn kém)

Chư Phật Như Lai đó
Ta đều thường cúng dường
Chưa được thanh tịnh nhãn
Thâm nhập biển phật pháp

Ta nguyện như mười phương
Tất cả đấng thập lực
Duyên Phật và chúng sanh
Phát khởi những đại nguyện
Từ đó tu công đức
Xu nhập phương tiện đạo

Lúc đó ta được nhập
Đạo Phổ Hiền bồ tát
Biết rõ mười pháp giới
Tất cả môn sai biệt…

GIẢNG: Trong kệ, ngài nói qua rất nhiều kiếp tu hành và cúng dường chư Phật, cuối cùng ngài nhập vào đạo Phổ Hiền bồ tát, các ngài nói rất hay, mà công đức tán thán rất ghê gớm. Ở đây tôi chỉ xin đọc lược, quí vị nào có thì giờ về xem kỹ sẽ thấy rất thích thú.



34.- DẠ THẦN PHỔ CỨU CHÚNG SANH DIỆU ÐỨC

 

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thóat

"BỒ TÁT PHỔ HIỆN NHẤT THIẾT THẾ GIAN ĐIỀU PHỤC CHÚNG SANH".


 

Thiện Tài được nghe phổ hỉ Tràng giải thoát môn, thời tin hiểu xu nhập biết rõ tùy thuận tư duy tu tập. Nhớ lời dạy của thiện tri thức không tạm bỏ, chẳng tán động, nhứt tâm nguyện được gặp thiện tri thức, siêng tìm cầu khắp mười phương chẳng lười trễ. Nguyện thường được thân cận thiện tri thức để phát sanh những công đức. Cùng thiện tri thức đồng một thiện căn được công hạnh thiện xảo phương tiện của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa.

Phát nguyện như vậy rồi, Thiện Tài đến chỗ DẠ THẦN PHỔ CỨU CHÚNG SANH DIỆU ÐỨC.

Dạ Thần này vì Thiện Tài mà thị hiện Bồ Tát điều phục chúng sanh giải thoát thần lực, dùng những tướng hảo trang nghiêm thân mình. Giửa chặng mày phóng đại quanh minh tên là Trí đăng phổ chiếu thanh tịnh tràng, có vô lượng quang minh làm quyến thuộc. Quang minh này chiếu khắp tất cả thế gian, rồi xoay lại chiếu vào đảnh đầu Thiện Tài sung mãn cả thân.

Liền đó Thiện Tài được cứu cánh thanh tịnh luân tam muội.

Ðược tam muội này rồi, Thiện Tài thấy khoảng giữa chỗ hai Dạ Thần có tất cả địa trần, thủy trần, hỏa trần, vi trần của những châu báu kim cang ma ni, những vi trần của tất cả hoa hương anh lạc đồ trang sức. Trong mỗi vi trần đều thấy Phật sát vi trần số thế giới thành hoại. Và thấy những khối lớn của địa, thủy, hỏa, phong. Cũng thấy tất cả thế giới tiếp liên đều dùng địa luân nhiệm trì mà an trụ. Cũng thấy tất cả những núi, biển, sông, ao, cây, rừng, cung điện của chư Thiên, Long, Bát Bộ, Nhơn, phi nhơn, cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nhẫn đến các loài luân chuyển sanh tử qua lại theo nghiệp thọ báo, mọi thứ sai khác đều thấy cả.

Lại thấy tất cả thế giới sai biệt : những thế giới tạp uế, những thế giới thanh tịnh, những thế giới hướng về tạp uế, những thế giới hướng về thanh tịnh, những thế giới tạp uế thanh tịnh, những thế giới thanh tịnh tạp uế, những thế giới thuần thanh tịnh, những thế giới hoặc hình trạng bằng thẳng, hoặc úp xuống, hoặc ngược lên.

Trong tất cả thế giới, tất cả xứ, tất cả loài như vậy, đều thấy Dạ Thần Phổ Cứu. Chúng sanh này trong tất cả thời gian khắp mọi nơi, tùy theo hình mạo ngôn từ hạnh giải sai khác của chúng sanh, mà dùng sức phương tiện hiện ở trước họ mà tùy nghi hóa độ. Làm cho chúng sanh địa ngục khỏi khổ đau. Làm cho súc sanh chẳng ăn nuốt nhau. Làm cho ngạ quỷ hết đói khát. Làm cho loài rồng rời sợ sệt. Làm cho chúng sanh cõi Dục thoát khổ Dục giới, làm cho loài người rời sự sợ đêm tối, sự sợ mắng nhiếc, sự sợ tiếng xấu, sự sợ đại chúng, sự sợ chẳng đủ sống, sự sợ chết, sự sợ đọa ác đạo, sự sợ mất thiện căn, sự sợ thối Bồ đề tâm, sự sợ gặp ác tri thức, sự sợ lìa thiện tri thức, sự sợ sa vào Nhị thừa, sự sợ các thứ sanh tử, sự sợ cùng ở với chúng sanh dị loại, sự sợ thọ sanh thời kỳ ác, sự sợ thọ sanh trong dòng họ ác, sự sợ gây tạo nghiệp ác, sự sợ nghiệp chướng phiền não chướng, sự sợ vọng tưởng chấp trước ràng buộc.

Tất cả những sự kinh sợ như vậy đều làm cho loài người đều được bỏ rời.

Lại thấy Dạ Thần này hiện khắp trong tất cả chúng sanh : noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng, để thường siêng cứu hộ.

Vì thành tựu sức đại nguyện của Bồ Tát. Vì thâm nhập sức tam muội của Bồ Tát. Vì kiên cố sức thần thông của Bồ Tát. Vì xuất sanh sức hạnh nguyện của Phổ Hiền. Vì tăng trưởng biển đại bi của Bồ Tát. Vì thành tựu đại từ vô ngại khắp che chở chúng sanh. Vì thành tựu vô lượng hỷ lạc ban cho chúng sanh. Vì thành tựu trí huệ phương tiện nhiếp khắp tất cả chúng sanh. Vì thành tựu thần thông tự tại giải thoát quảng đại của Bồ Tát. Vì nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Vì giác liễu tất cả pháp. Vì cúng dường tất cả Phật. Vì thọ trì tất cả Phật giáo. Vì chứa nhóm tất cả thiện căn, tu tất cả diệu hạnh. Vì nhập vào tâm hải của tất cả chúng sanh mà không chướng ngại. Vì biết căn tánh tất cả chúng sanh để giáo hóa thành thục. Vì thanh tịnh tín giải của tất cả chúng sanh để trừ ác chướng cho họ. Vì phá màn tối vô tri của tất cả chúng sanh. Vì làm cho chúng sanh được quang minh thanh tịnh Nhứt thiết trí.

Thiện Tài thấy Dạ Thần này có thần lực quảng đại như vậy, hiện bày cảnh giới, thậm thâm bất tư nghì, hiện thị Bồ Tát điều phục chúng sinh giải thoát thần lực, thời hoan hỷ vô lượng, đảnh lễ nơi chân, nhất tâm chiêm ngưỡng.

Lúc đó Dạ thần liền xả tướng Bồ Tát trang nghiêm hoàn lại thân cũ, mà chẳng bỏ thần lực tự tại.

Thiện Tài chắp tay cung kính nói kệ tán thán :

Tôi Thiện Tài được thấy

Ðại thần lực như vậy

Lòng hoan hỉ vô lượng

Nói kệ để tán thán.

Tôi thấy thân của Ngài

Tướng hảo trang nghiêm đẹp,

Như sao sáng hư không

Tất cả đều nghiêm tịnh.

Phóng quanh minh thù thắng

Vô lượng sát trần số

Nhiều màu sắc vi diệu

Chiếu khắp cả mười phương.

Mỗi lỗ lông phóng ra

Chúng sanh tâm số quang

Mỗi mỗi đầu quang minh

Ðều hiện bửu liên hoa.

Trong hoa hiện Hóa Phật

Diệt được khổ chúng sanh,

Quang minh phát diệu hương

Xông khắp các chúng sanh.

Lại mưa các thứ hoa

Cúng dường tất cả Phật.

Chặng mày phóng diệu quang

Lượng đồng núi Tu Di

Chiếu khắp các hàm thức

Khiến dứt tối ngu si.

Miệng phóng thanh tịnh quang

Như vô lượng mặt nhựt

Chiếu khắp cảnh quảng đại

Của Tỳ Lô Giá Na.

Mắt phóng thanh tịnh quang

Như vô lượng mặt nguyệt

Chiếu khắp mười phương cõi

Dứt si lòa thế gian.

Hóa hiện nhiều loại thân

Tướng trạng đồng chúng sanh

Sung mãn mười phương cõi

Ðộ thoát biển tam hữu.

Diệu thân khắp mười phương

Hiện khắp trước chúng sanh

Diệt trừ thủy, hỏa giặc,

Nạn, vua, những lo sợ.

Tôi vâng theo Hỉ Mục

Nay được đến chỗ Ngài

Thấy tướng chặng mày Ngài

Phóng quang minh thanh tịnh

Chiếu khắp mười phương cõi

Diệt trừ tất cả tối.

Hiển hiện thần thông lực

Mà đến nhập thân tôi

Tôi gặp được quang minh

Lòng hoan hỷ vô lượng

Ðược tổng trì tam muội

Thấy khắp thập phương Phật.

Từ chỗ tôi đi qua

Tôi đều thấy vi trần

Trong mỗi mỗi vi trần

Ðều thấy trần số cõi.

Hoặc có vô lượng cõi

Tất cả đều trược uế

Chúng sanh thọ các khổ

Thường buồn than kêu khóc.

Hoặc có cõi nhiễm tịnh

Vui ít, nhiều đau khổ

Thị hiện thân tam thừa

Qua đó mà cứu độ

Hoặc có cõi tịnh nhiễm

Chúng sanh đều thích thấy

Bồ Tát thường sung mãn

Trụ trì những chánh pháp,

Trong mỗi mỗi vi trần

Vô lượng cõi thanh tịnh

Do Tỳ Lô Giá Na

Kiếp xưa đã nghiêm tịnh.

Phật ở tất cả cõi

Ðều ngồi cội Bồ đề

Thành đạo chuyển pháp luân

Ðộ thoát các quần sanh.

Tôi thấy Phổ Cứu Thần

Ở chỗ tất cả Phật

Trong vô lượng cõi kia

Ðều khắp đến cúng dường.

Thiện Tài đồng tử nói kệ xong, thưa Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sanh Diệu Ðức rằng :

Bạch đại Thánh ! Môn giải thoát thậm thâm hi hữu này tên là gì ? Ngài được môn giải thoát này đã bao lâu ? Tu hạnh gì mà được thanh tịnh ?

Dạ Thần nói :

Này thiện nam tử ! Sự này khó biết. Tất cả Nhơn, Thiên và Nhị thừa không lường được.

Tại sao vậy ? vì đây là cảnh giới của bậc an trụ Phổ Hiền hạnh. Là cảnh giới của bậc an trụ đại bi tạng. Là cảnh giới của bậc cứu hộ tất cả chúng sanh. Là cảnh giới của bậc có thể tịnh tất cả tam ác bát nạn. Là cảnh giới của bậc ở trong tất cả Phật độ nối thạnh Phật chủng chẳng dứt. Là cảnh giới của bậc có thể trụ trì được tất cả Phật pháp.

Là cảnh giới của bậc có thể ở tất cả kiếp tu Bồ Tát hạnh thành mãn biển đại nguyện. Là cảnh giới của bậc có thể ở tất cả pháp giới dùng trí quang thanh tịnh diệt vô minh ám chướng. Là cảnh giới của bậc có thể dùng trí quang minh trong khoảng một niệm chiếu khắp tất cả phương tiện tam thế.

Nay ta thừa oai lực của Phật vì ngươi mà nói.

Này thiện nam tử ! Thuở xưa, quá Phật sát vi trần số kiếp, có một kiếp tên là Viên Mãn Thanh Tịnh. Thế giới tên là Tỳ Lô Giá Na Ðại Oai đức. Có Tu Di Sơn vi trần số Như Lai xuất thế trong thế giới đó.

Thế giới đó bằng chất nhất thiết hương vương ma ni bửu, châu báu trang nghiêm, trụ trên biển vô cấu quang minh ma ni vương. Thế giới này hình chánh viên, tịnh uế hiệp thành, mây bửu trướng và tất cả trang nghiêm cụ giăng phía trên. Luân sơn ma ni trang nghiêm bao quanh ngàn vòng. Có mười ức na do tha tứ thiên hạ đều diệu trang nghiêm. Hoặc có tứ thiên hạ chúng sanh ác nghiệp ở trong đó. Hoặc có tứ thiên hạ chúng sanh tạp nghiệp ở trong đó. Hoặc có tứ thiên hạ chúng sanh thiện căn ở trong đó. Hoặc có tứ thiên hạ chư Bồ Tát thuần thanh tịnh ở trong đó.

Cạnh Luân Vi Sơn tột phía Ðông của thế giới này, có tứ thiên hạ tên là Bửu Ðăng Hoa Tràng, cõi nước thanh tịnh, ăn mặc sung túc. Chẳng cần canh tác mà lúa bắp tự mọc tốt. Cung điện lâu các thảy đều kỳ diệu. Những cây như ý thành hàng khắp nơi. Những hương thọ hằng thoảng hơi thơm. Những man thọ hằng xuất sanh mây tràng hoa. Những hoa thọ thường tuôn hoa đẹp. Những bửu thọ xuất sanh báu lạ. Quang minh vô lượng màu chiếu sáng bao vòng. Những âm nhạc thọ xuất sanh những âm nhạc theo gió thổi động phát âm thanh vi diệu. Ánh sáng mặt nhựt, mặt nguyệt và ma ni bửu vương chiếu khắp mọi nơi. Ðêm ngày thường có toàn những cảnh vui vẻ.

Trong tứ thiên hạ này có trăm vạn ức na do tha vương quốc. Mỗi nước có ngàn sông lớn chảy quanh. Mặt sông đều có hoa đẹp đua nở, lay động theo dòng nước chảy phát tiếng âm nhạc cõi trời. Nhiều bửu thọ mọc lên bên bờ sông. Nhiều thứ trân kỳ dùng để nghiêm sức. Ghe thuyền qua lại vui chơi thỏa tình.

Khoảng giữa mỗi sông, có trăm vạn ức thành. Mỗi thành có trăm vạn ức na do tha tụ lạc. Tất cả thành ấp tụ lạc đều có trăm ngàn ức na do tha cung điện.

Trong tứ thiên hạ này, ở Diêm Phù Ðề có một nước tên là Bửu Hoa Ðăng an ổn phong phú, nhân dân đông đúc đều thật hành thập thiện. Trong nước có Chuyển Luân Vương xuất hiện hiệu là Tỳ Lô Giá Na Diệu Bửu Liên Hoa Kế, sanh từ trong hoa sen, đủ ba mươi hai tướng hảo, đủ thất bửu, cai trị tứ thiên hạ, hằng dùng chánh pháp giáo hóa chúng sanh. Nhà vua có ngàn Vương Tử đoan chánh dũng kiện hành phục được oán địch.

Trăm vạn ức na do tha cung nữ đều cùng nhà vua đồng gieo thiện căn, đồng tu công hạnh, đồng thời đản sanh, xinh đẹp như Thiên nữ, thân màu chơn kim thường phóng quang minh. Trong lỗ lông hằng phát ra hơi thơm.

Quan hiền, tướng mạnh đủ mười ức.

Chánh phi của nhà vua tên là Viên Mãn Diện, là bửu nữ đoan chánh đẹp lạ, da màu chơn kim, mắt tóc đều xanh biếc, tiếng nói như phạm âm, thân có mùi thơm cõi trời, thường phóng ánh sáng chiếu ngàn do tuần. Có một vương nữ tên là Phổ Trí Diệm Diệu Ðức Nhãn. Thân hình đoan nghiêm, sắc tướng xinh đẹp, mọi người đều thích thấy không chán.

Thuở đó, loài người sống lâu vô lượng. Hoặc có kẻ bất định chết yểu giữa chừng. Nhiều hình sắc, nhiều âm thanh, nhiều danh tự, nhiều tộc tánh, ngu trí mạnh yếu, nghèo giàu khổ vui, vô lượng phẩm loại thảy đều chẳng đồng.

Có kẻ nói thân tôi đẹp thân người xấu.

Rồi sỉ nhục, gây ác nghiệp. Do đây nên thọ mạng sắc lực tất cả phước vui đều bị tổn giảm.

Thành Bắc có cây Bồ đề tên là Phổ quang pháp vân âm tràng. Gốc cây bằng ma ni vương kiên cố niệm niệm xuất sanh tất cả Như Lai đạo tràng trang nghiêm. Tất cả châu ma ni làm thân cây. Lá bằng tạp bửu. Nhánh lá đều có thứ tự xứng nhau, trên dưới bốn phía đều viên mãn trang nghiêm, phóng bửu quang minh, phát diệu âm thanh nói cảnh giới thậm thâm của Như Lai.

Trước đây Bồ đề có một ao nước thơm tên là bửu hoa quang minh diễn pháp lôi âm, bờ ao bằng diệu bửu. Xung quanh ao có trăm vạn ức na do tha bửu thọ. Hình dáng những cây này giống như cây Bồ đề. Những chuỗi ngọc rủ thòng bốn phía. Vô lượng lâu các đều bằng chất báu nghiêm sức khắp đạo tràng.

Trong ao nước thơm xuất sanh hoa sen lớn tên là Phổ hiện tam thế nhất thiết Như Lai trang nghiêm cảnh giới vân. Có Tu Di Sơn vi trần số Phật xuất hiện trong đó.

Ðức Phật thứ nhứt hiệu là Phổ Trí Bửu Diệm Diệu Ðức Tràng, thành Vô thượng Ðẳng Chánh Giác trước nhất nơi trên hoa sen lớn này. Ðức Phật diễn thuyết chánh pháp thành thục chúng sanh vô lượng ngàn năm.

Lúc đức Như Lai Phổ Trí chưa thành Phật, trước đây mười ngàn năm, hoa sen lớn này phóng tịnh quang minh tên là Hiện chư thần thông thành thục chúng sanh. Nếu có chúng sanh nào được quanh minh này chiếu đến thời tâm họ tự khai ngộ không gì chẳng biết rõ, biết mười ngàn năm sau có Phật xuất thế.

Chín ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quanh minh tên là Nhứt thiết chúng sanh ly cấu đăng. Nếu có chúng sanh gặp quang minh này thời được thanh tịnh nhãn thấy tất cả màu sắc, biết chín ngàn năm sau, sẽ có Phật xuất thế.

Tám ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quang minh tên là Nhứt thiết chúng sanh nghiệp quả âm. Nếu có chúng sanh gặp quanh minh này thời đều tự biết những nghiệp quả báo. Biết tám ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Bảy ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quanh minh tên là Sanh Nhứt thiết thiện căn âm. Nếu có chúng sanh nào gặp quang minh này thời tất cả các căn thảy đều viên mãn. Biết bảy ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Sáu ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quanh minh tên là Phật bất tư nghì cảnh giới âm. Nếu có chúng sanh gặp quanh minh này thời tâm họ quảng đại được tự tại khắp cả. Biết sáu ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Năm ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quang minh tên là Nghiêm tịnh nhứt thiết Phật sát âm. Nếu có chúng sanh gặp quang minh này thời thấy tất cả Phật độ thanh tịnh. Biết năm ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Bốn ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quang minh tên là Nhứt thiết Như Lai cảnh giới vô sai biệt đăng. Nếu có chúng sanh nào gặp quanh minh này thời đều có thể đến ra mắt tất cả chư Phật. Biết bốn ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Ba ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quang minh tên là Tam thế minh đăng. Nếu có chúng sanh gặp quanh minh này thời đều có thể hiện thấy những bổn sự của tất cả Như Lai. Biết ba ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Hai ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quanh minh tên là Như Lai ly ế trí huệ đăng. Nếu có chúng sanh gặp quanh minh này thời được phổ nhãn thấy thần biến của tất cả Như Lai, thấy tất cả Phật độ, thấy tất cả thế giới chúng sanh. Biết hai ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Một ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng đại quang minh tên là Linh nhất thiết chúng sanh kiến Phật tập chư thiện căn. Nếu có chúng sanh gặp quanh minh này thời được thành tựu kiến Phật tam muội. Biết một ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Bảy ngày trước, hoa sen này phóng đại quanh minh tên là Nhứt thiết chúng sanh hoan hỷ âm. Nếu có chúng sanh gặp quang minh này thời được thấy khắp chư Phật sanh lòng rất hoan hỷ. Biết sau bảy ngày sẽ có Phật xuất thế.

Ðủ bảy ngày sau, tất cả thế giới thảy đều chấn động, thuần tịnh vô nhiễm, mỗi niệm hiện khắp mười phương tất cả cõi Phật thanh tịnh, cũng hiện những sự trang nghiêm của những cõi đó.

Nếu có chúng sanh nào căn tánh thuần thục đáng được thấy Phật thời đều đến đạo tràng.

Bấy giờ trong thế giới Tỳ Lô Giá Na Ðại Oai Ðức đó, tất cả Luân Vi Sơn, Tu Di Sơn, tất cả núi biển, lục địa, thành quách, tường rào, cung điện, âm nhạc, ngữ ngôn đều vang ra âm thanh, khen nói cảnh giới thần lực của tất cả Như Lai.

Lại phát ra tất cả mây thơm : Hương xông, hương bột. Phát ra tất cả mây hương hình tượng ngọc ma ni, mây bửu diệm, mây diệm tạng, mây y phục ma ni, mây anh lạc, mây diệu hoa, mây Như Lai quanh minh, mây Như Lai viên quang, mây âm nhạc, mây Như Lai nguyện thanh, mây Như Lai ngôn âm, mây Như Lai tướng hảo, hiển thị tướng bất tư nghì của đức Như Lai xuất hiện thế gian.

Này thiện nam tử ! Ðại bửu liên hoa này có mười Phật sát vi trần số liên hoa bao quanh. Trong những hoa sen này đều có tòa sư tử ma ni bửu tạng. Trên mỗi tòa đều có Bồ Tát ngồi kiết già.

Này thiện nam tử ! Lúc đức Phổ Trí Bửu Diệm Diệu Ðức Tràng Như Lai thành vô thượng Ðẳng Chánh Giác tại trên đại bửu liên hoa này, đồng thời cũng hiện thành Phật trong thập phương tất cả thế giới.

Tùy theo tâm của chúng sanh mà hiện ở trước họ để chuyển pháp luân. làm cho vô lượng chúng sanh khỏi khổ ác đạo. Làm cho vô lượng chúng sanh được sanh lên trời. Làm cho vô lượng chúng sanh ở bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật. Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề xuất ly. Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề dũng mãnh tràng. Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề pháp quanh minh. Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề thanh tịnh căn. Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề bình đẳng lực. Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề nhập pháp thành. Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề nhập phổ môn phương tiện đạo. Làm cho vô lượng chúng sanh an trụ hạnh Bồ đề tam muội môn. Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề duyên tất cả cảnh giới sanh phát tâm Bồ đề. Làm cho vô lượng chúng sanh an trụ đạo Ba la mật thanh tịnh. Làm cho vô lượng chúng sanh trụ Bồ Tát Sơ địa. Làm cho vô lượng chúng sanh trụ Bồ Tát Nhị địa nhẫn đến Thập địa. Làm cho vô lượng chúng sanh nhập hạnh nguyện thù thắng của Bồ Tát. Làm cho vô lượng chúng sanh an trụ hạnh nguyện thanh tịnh của Phổ Hiền.

Này thiện nam tử ! Ðức Phổ Trí Bửu Diệm Diệu Ðức Tràng Như Lai hiện thần lực tự tại bất tư nghì như vậy, lúc đức Phật chuyển pháp luân, ở trong mỗi thế giới đó, tùy theo sở nghi, mỗi niệm điều phục vô lượng chúng sanh.

Lúc đó Phổ Hiền Bồ Tát biết trong thành của Bửu Hoa Ðăng Vương, chúng sanh tự ỷ thị nhan sắc và cảnh giới mà khinh mạn lăng miệt người khác, nên Bồ Tát hóa hiện thân hình đoan chánh đẹp lạ đến trong thành ấy phóng đại quang minh chiếu khắp tất cả, làm cho ánh sáng của Thánh Vương, của dân chúng, của nhựt nguyệt tinh tú đều lu mờ. Dường như lúc mặt nhựt mọc lên cao chói sáng khắp nơi. Cũng như vàng diêm phù đàn để cạnh đống mực đen.

Chúng sanh trong thành đều bảo nhau rằng đây là ai ? Là Thiên Thần hay Phạm Vương mà phóng ánh sáng chói mờ quanh sắc của chúng ta ?

Phổ Hiền Bồ Tát đứng trên hư không ngay cung điện của Thánh Vương mà bảo rằng :

Này Ðại Vương ! Hiện nay trong nước của nhà vua có Phật xuất thế ngự tại cây Bồ đề Phổ Quang Minh Pháp Vân Âm Tràng.

Vương nữ Phổ Trí Diệu Nhãn thấy sắc thân và quanh minh tự tại của Phổ Hiền Bồ Tát, và nghe những vật trang nghiêm trên thân Bồ Tát phát âm thanh vi diệu, lòng rất vui mừng, tự nghĩ rằng nguyện tất cả căn lành của tôi có đều hồi hướng để được thân như vậy, được tướng tốt oai nghi tự tại như vậy. Nay đức Thánh này có thể ở trong chỗ sanh tử tối tăm của chúng sanh mà phóng đại quanh minh và báo tin đức Như Lai xuất thế. Nguyện tôi cũng được như vậy, vì các chúng sanh mà làm trí quang minh để phá sự vô tri đen tối của họ. Nguyện tôi thọ sanh chốn nào cũng đều chẳng xa rời vị thiện tri thức này.

Lúc đó, Thánh Vương cùng Bửu nữ và ngàn Vương Tử, quyến thuộc, các đại thần, bốn binh chủng, nhân dân trong thành, do thần lực của Thánh Vương đồng bay lên hư không cao một do tuần phóng đại quanh minh chiếu tứ thiên hạ, khiến khắp mọi người đều được chiêm ngưỡng. Vì muốn chúng sanh đều đến gặp Phật nên Thánh Vương nói kệ tán thán Phật.

Như Lai xuất thế gian

Cứu khắp các quần sanh

Các người phải mau dậy

Ði đến chỗ Ðạo Sư

Vô lượng vô số kiếp

Mới có Phật xuất thế

Diễn nói pháp thâm diệu

Lợi ích tất cả chúng.

Phật xem các thế gian

Ðiên đảo thường mê lầm

Luân hồi khổ sanh tử

Mà khởi lòng đại bi.

Vô số ức ngàn kiếp

Tu tập hạnh Bồ đề

Vì muốn độ chúng sanh

Ðây do sức đại bi

Ðầu, mắt, tay, chân thảy

Ðều xả được tất cả

Vì cầu đạo Bồ đề

Vô lượng kiếp bố thí

Vô lượng ức ngàn kiếp

Khó gặp được Như Lai

Thấy, nghe, hoặc thờ phụng

Ðều được lợi ích lớn.

Nay sẽ cùng đại chúng

Ðến gặp đấng Ðiều Ngự

Ngồi bửu tòa Như Lai

Hàng ma thành Chánh giác

Chiêm ngưỡng thân Như Lai

Phóng ra vô lượng quang

Nhiều thứ sắc vi diệu

Diệt trừ tất cả tối

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Phóng quang bất tư nghì

Chiếu khắp các quần sanh

Ðều khiến rất vui mừng.

Ðại chúng đều nên phát

Tâm tinh tấn quảng đại

Ðến chỗ đức Như Lai

Cung kính cúng dường Phật.

Chuyển Luân Thánh Vương nói kệ khen Phật khai ngộ tất cả chúng sanh rồi, do thiện căn của Luân Vương xuất hiện mười ngàn thứ mây đại cúng dường, thẳng đến phía đạo tràng của Như Lai.

Như là mây tất cả bửu cái, mây tất cả hoa trướng, mây tất cả bửu y, mây tất cả bửu linh võng, mây tất cả diệu hương, mây tất cả bửu tòa, mây tất cả bửu tràng, mây tất cả cung điện, mây tất cả diệu hoa , mây tất cả đồ trang nghiêm giăng đẹp khắp hư không. Thánh Vương đảnh lễ nơi chân đức Phổ Trí Bửu Diệm Diệu Ðức Tràng Như Lai, hữu nhiễu vô lượng vòng, rồi ngồi trên tòa phổ chiếu thập phương bửu liên hoa phía trước đức Phật.

Vương nữ Phổ Trí Diệm Diệu Ðức Nhãn cởi đồ trang sức trên thân cầm rải lên cúng dường Phật. Những đồ trang sức đó liền ở trên hư không biến thành lưới bửu cái thòng rủ xuống. Long Vương cầm giử bửu cái này. Những cung điện xen bày trong đó. Mười thứ bửu cái bao vòng hình như lâu các trong ngoài thanh tịnh, trang nghiêm với những chuỗi ngọc, bửu thọ, hương hải, ma ni. Trong bửu cái đó có cây Bồ đề nhánh lá sum suê che trùm cả pháp giới, mỗi niệm hiện ra vô lượng trang nghiêm.

Ðức Tỳ Lô Giá Na Như Lai ngự dưới cội Bồ đề này. Có bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát vây quanh. Chư Bồ Tát này đều xuất sanh từ nơi hạnh nguyện của Phổ Hiền, an trụ nơi vô sai biệt trụ của Bồ Tát.

Cũng thấy có tất cả Thế Gian Chủ. Cũng thấy thần lực tự tại của Như Lai. Cũng thấy những kiếp thứ đệ có thế giới thành hoại. Lại cũng thấy tất cả thế giới đó, mỗi mỗi thế giới đều có Phổ Hiền Bồ Tát cúng dường chư Phật điều phục chúng sanh. Lại cũng thấy tất cả Bồ Tát đó đều ở trong thân Phổ Hiền. Cũng thấy thân mình ở trong thân đó. Cũng thấy thân mình ở trước chỗ tất cả Như Lai, tất cả Phổ Hiền, tất cả Bồ Tát, tất cả chúng sanh. Lại cũng thấy tất cả thế giới đó mỗi mỗi đều có Phật sát vi trần số thế giới, những ranh giới, những nhiệm trì, những hình trạng, những thể tánh, những sắp đặt, những trang nghiêm, những thanh tịnh, những mây trang nghiêm mà che trên đó, những tên kiếp, chư Phật xuất thế, những tam thế, những phương xứ, những trụ pháp giới, những nhập pháp giới, những trụ hư không, những Như Lai Bồ đề tràng, những Như Lai thần thông lực, những Như Lai sư tử tòa, những Như Lai đại chúng, những Như Lai chúng sai biệt. Những Như Lai xảo phương tiện, những Như Lai chuyển pháp luân, những Như Lai diệu âm thanh, những Như Lai ngôn thuyết, những Như Lai khế kinh.

Thấy như vậy rồi, Vương nữ rất hoan hỷ lòng thanh tịnh.

Phổ Trí Bửu Diệm Diệu Ðức Trang Như Lai vì Vương nữ mà nói tu đa la tên là Nhất thiết Như Lai Chuyển pháp luân, có mười Phật sát vi trần số tu đa la làm quyến thuộc.

Vương nữ nghe kinh xong, thời được thành tựu mười ngàn môn tam muội, tâm nhu nhuyến không cứng thô, như mới thọ thai, như mới đản sanh, như cây Ta La mới mọc mộng, tâm tam muội đó cũng như vậy.

Như là hiện kiến nhất thiết chư Phật tam muội phổ chiếu nhất thiết sát tam muội, nhập nhất thiết tam thế môn tam muội, thuyết nhất thiết Phật pháp luân tam muội, tri nhất thiết Phật nguyện hải tam muội, khai ngộ nhất thiết chúng sanh linh xuất sanh tử khổ tam muội, thường nguyện phá nhất thiết chúng sanh ám tam muội, thường nguyện diệt nhất thiết chúng sanh khổ tam muội, thường nguyện sanh nhất thiết chúng sanh lạc tam muội, giáo hóa nhất thiết chúng sanh bất sanh bì yểm tam muội, nhất thiết Bồ Tát vô chướng ngại tràng tam muội phổ nghệ nhất thiết thanh tịnh Phật sát tam muội … Vương nữ được mười ngàn tam muội như vậy.

Vương nữ lại được tâm diệu định, tâm bất động, tâm hoan hỷ, tâm an ủi, tâm quảng đại, tâm thuận thiện tri thức, tâm duyên thậm thâm nhất thiết trí, tâm, trụ quảng đại phương tiện hải, tâm xả ly tất cả chấp trước, tâm chẳng trụ thế gian cảnh giới, tâm nhập Như Lai cảnh giới, tâm phổ chiếu tất cả sắc hải, tâm không não hại, tâm không cao cứ, tâm không bì quyện, tâm không thối chuyển, tâm không giải đãi, tâm tư duy tự tánh của các pháp. Tâm an trụ tất cả pháp môn, tâm quán sát tất cả pháp môn, tâm biết rõ tất cả chúng sanh, tâm cứu hộ tất cả chúng sanh, tâm chiếu khắp tất cả thế giới, tâm khắp sanh tất cả Phật nguyện, tâm đều phá tất cả núi chướng, tâm chứa nhóm phước đức trợ đạo, tâm hiện thấy chư Phật thập lực, tâm chiếu khắp cảnh giới Bồ Tát, tâm tăng trưởng Bồ Tát trợ đạo, tâm duyên khắp tất cả phương, tâm tư duy Phổ Hiền đại nguyện.

Vương nữ lại phát mười Phật sát vi trần số nguyện hải của Như Lai :

Nguyện nghiêm tịnh tất cả cõi Phật, nguyện điều phục tất cả chúng sanh, nguyện biết khắp tất cả thế giới, nguyện vào khắp tất cả pháp giới, nguyện trong tất cả Phật độ tu Bồ Tát hạnh cùng tận thuở kiếp vị lai, nguyện tận thuở vị lai kiếp không bỏ hạnh Bồ Tát, nguyện được gần gũi tất cả Như Lai, nguyện được thừa sự tất cả thiện hữu, nguyện được cúng dường tất cả chư Phật, nguyện ở trong mỗi niệm tu Bồ Tát hạnh, tăng nhứt thiết trí không gián đoạn, phát mười Phật sát vi trần số nguyện hải như vậy, thành tựu đại nguyện Phổ Hiền.

Ðức Phổ Trí Như Lai lại vì Vương nữ mà nói những thiện căn đã chứa nhóm từ khi phát tâm tới nay, cùng những diệu hạnh đã tu, đại quả đã được. Làm cho Vương nữ khai ngộ thành tựu nguyện hải của Như Lai, nhất tâm hồi hướng bậc Nhất thiết trí.

Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sanh Diệu Ðức nói tiếp :

Này thiện nam tử ! Lại quá đây mười đại kiếp về trước, có thế giới tên là Nhựt Luân Quang Ma Ni, Phật hiệu là Nhơn Ðà La Tràng Diệu Tướng.

Vương nữ Diệu Nhãn ở trong di pháp của đức Như Lai đó, Phổ Hiền Bồ Tát khuyên nàng tu bổ tượng Phật cũ hư trên tòa liên hoa. Nàng đã tu bổ xong lại sơn vẽ. Sơn vẽ xong lại trang nghiêm các châu báu, rồi phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Này thiện nam tử ! Ta nhớ thuở quá khứ do Phổ Hiền Bồ Tát thiện tri thức mà Vương nữ gieo được thiện căn này, từ đó trở đi chẳng đọa ác thú thường thọ sanh trong dòng Thiên Vương, Nhân Vương, xinh đẹp khả ái, đủ những tướng tốt, khiến mọi người thích thấy, thường gặp Phật, thường được gần gũi Phổ Hiền Bồ Tát, được Bồ Tát chỉ dạy khai ngộ thành thục mãi đến ngày nay.

Này thiện nam tử ! Chuyển Luân Thánh Vương Tỳ Lô Giá Na Tạng Diệu Bửu Liên Hoa Kế nay là Di Lặc Bồ Tát.

Vương phi Viên Mãn Diện nay là Dạ Thần Tịch Tịnh Âm Hải đang ở gần đây.

Vương nữ Diệu Ðức Nhãn chính là ta.

Thuở xưa ấy, ta làm đồng nữ, Phổ Hiền Bồ Tát khuyên ta tu bổ tượng Phật, dùng đó làm nhân duyên phát tâm Vô thượng Bồ. Ðó là lúc ta bắt đầu phát tâm.

Sau đó Phổ Hiền Bồ Tát dẫn dắt ta thấy đức Diệu Ðức Tràng Phật, ta cởi chuỗi ngọc rải lên cúng dường,,thấy thần lực của Phật, nghe Phật thuyết pháp, liền được môn giải thoát " Bồ Tát hiện khắp tất cả thế gian điều phục chúng sanh". Trong mỗi niệm thấy Tu Di Sơn vi trần số Phật. Cũng thấy đạo tràng chúng hội và quốc độ thanh tịnh của chư Phật. Ta đều tôn trọng cung kính cúng dường nghe diễn chánh pháp, y giáo tu hành.

Này thiện nam tử ! Qua khỏi thế giới Tỳ Lô Giá Na Ðại Oai Ðức, kiếp viên mãn thanh tịnh, có thế giới tên là Bửu Luân Diệu Trang Nghiêm, kiếp tên là Ðại Quang, có năm trăm đức Phật xuất hiện trong đó. Ta đều kính thờ cúng dường. Ðức Phật tối sơ hiệu là Ðại Bi Tràng, lúc mới xuất gia, ta làm Dạ Thần cung kính cúng dường.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Kim Cang Na La Diên Tràng. Ta làm Chuyển Luân Thánh Vương cung kính cúng dường Phật. Ðức Phật đó vì ta mà nói kinh tên là Nhất Thiết Phật Xuất Hiện, mười Phật sát vi trần số tu đa la làm quyến thuộc.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Kim Cang Vô Ngại Ðức. Ta làm Chuyển Luân Vương cung kính cúng dường Phật. Ðức Phật đó vì ta mà nói kinh tên là Phổ Chiếu Nhất Thiết Chúng Sanh Căn, Tu Di Sơn vi trần số tu đa la làm quyến thuộc, ta đều thọ trì.

Kế đó có Phật xuất thế tên là Hỏa Diệm Sơn Diệu Trang Nghiêm. Ta thuở đó làm Trưởng giả nữ. Ðức Phật đó vì ta mà nói kinh tên là Phổ Chiếu Tam Thế Tạng, Diêm Phù Ðề vi trần số tu đa la làm quyến thuộc. Ta đều nghe hiểu y giáo thọ trì.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Nhất Thiết Pháp Hải Cao Thắng Vương. Thuở đó ta làm A Tu La Vương cung kính cúng dường Phật. Ðược Phật nói kinh tên là Phân Biệt Nhất Thiết Pháp Giới, năm trăm tu đa la làm quyến thuộc. Ta đều nghe hiểu như pháp thọ trì.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Hải Nhạc Pháp Quang Minh. Thuở đó ta làm Long Vương nữ mưa mây như ý ma ni bửu cúng dường Phật. Ðức Phật đó vì ta mà nói kinh tên là Tăng Trưởng Hoan Hỉ Hải, có trăm vạn ức tu đa la làm quyến thuộc. Ta đều nghe hiểu như pháp thọ trì.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Bửu Diệm Sơn Ðăng. Thuở đó ta làm Hải Thần mưa mây bửu liên hoa cung kính cúng dường Phật. Ðức Phật đó vì ta mà nói kinh tên là Pháp Giới Phương Tiện Hải Quảng Minh.

Có Phật sát vi trần số tu đa la làm quyến thuộc. Ta đều nghe hiểu như pháp thọ trì.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Công Ðức Hải Quang Minh Luân. Thuở đó ta làm Ngũ Thông Tiên hiện đại thần thông có sáu vạn Tiên Nhơn vây quanh, mưa mây hương hoa cúng dường Phật. Ðức Phật đó vì ta mà nói kinh tên là Vô Trước Pháp Ðăng, có sáu vạn tu đa la làm quyến thuộc. Ta đều nghe hiểu như pháp thọ trì.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Tỳ Lô Giá Na Công Ðức Tạng. Thuở đó ta làm Chủ Ðịa Thần tên là Xuất Sanh Bình Ðẳng Nghĩa, cùng vô lượng Ðịa Thần đồng mưa tất cả bửu thọ, tất cả ma ni tạng, tất cả mây bửu anh lạc để cúng dường Phật. Ðức Phật đó vì ta mà nói kinh tên là Xuất Sanh Nhất Thiết Như Lai Trí Tạng, vô lượng khế kinh làm quyến thuộc. Ta đều nghe hiểu thọ trì chẳng quên.

Này thiện nam tử ! Thứ đệ như vậy, đức Phật tối hậu hiệu là Sung Mãn Hư Không Pháp Giới Diệu Ðức Ðăng. Thuở đó ta là kỹ nữ tên là Mỹ Nhan. Ta thấy Phật vào thành liền ca vũ cúng dường. Ta thừa thần lực của Phật vọt mình lên hư không nói ngàn bài kệ tán thán Phật. Ðức Phật vì ta mà phóng ánh sáng chặng mày tên là Trang Nghiêm Pháp Giới Ðại Quang Minh chiếu khắp thân ta. Khi được quanh minh của Phật chiếu đến thân, ta được môn giải thoát tên là pháp giới phương tiện bất thối tạng.

Này thiện nam tử ! Trong thế giới này có Phật sát vi trần số kiếp như vậy, tất cả Như Lai xuất hiện trong đó. Ta đều kính thờ cúng dường cả.

Chư Phật đó có bao nhiêu chánh pháp ta đều ghi nhớ chẳng quên một câu một chữ. Ở chỗ chư Phật đó ta tán dương tất cả Phật pháp, rộng làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh.

Ở chỗ mỗi đức Như Lai ta được nhất thiết trí quang minh, hiện tam thế pháp giới hải, nhập tất cả Phổ Hiền hạnh.

Này thiện nam tử ! Vì ta y cứ nhất thiết trí quang minh nên ở trong mỗi niệm thấy vô lượng Phật. Ðã thấy Phật rồi, trước chưa được chưa thấy Phổ Hiền hạnh, nay đều thành tựu viên mãn.

Tại sao vậy ? Vì đã được nhất thiết trí quang minh vậy.

Phổ Cứu Chúng Sanh Dạ Thần muốn tuyên lại nghĩa giải thoát này, thừa Phật thần lực, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng :

Thiện Tài nghe ta nói

Pháp thậm thâm khó thấy

Chiếu khắp cả tam thế

Tất cả môn sai biệt.

Như ta sơ phát tâm

Chuyên cầu Phật công đức

Các giải thoát đã được

Ngươi nay phải lóng nghe

Ta nhớ thuở quá khứ

Quá sát trần số kiếp

Trước đó có một kiếp

Tên Viên Mãn Thanh Tịnh

Thuở đó có thế giới

Tên là Biến Chiếu Ðăng

Tu Di trần số Phật

Xuất thế ở trong đó

Sơ Phật diệu Trí Diệm

Phật kế hiệu Pháp Tràng

Thứ ba Pháp tu Di,

Thứ tư Ðức Sư Tử,

Thứ năm Tịch Tịnh Vương,

Thứ sáu Diệt Chư Kiến,

Thứ bảy Cao Danh Xưng,

Thứ tám Ðại Công Ðức,

Thứ chín Phật Thắng Nhựt,

Thứ mười Phật Nguyệt Diện,

Ta nơi mười Phật này

Tối sơ ngộ pháp môn

Thứ đệ kế sau đó

Lại có mười Như Lai

Một là Hư Không Xử,

Thứ hai Phật Phổ Quang,

Thứ ba Trụ Chư Phương,

Thứ tư Chánh Niệm Hải,

Thứ năm Cao Thắng Quang,

Thứ sáu Tu Di Vân,

Thứ bảy Pháp Diệm Phật,

Thứ tám Sơn Thắng Phật,

Thứ chín Ðại Bi Hoa,

Thứ mười Pháp Giới Hoa.

Lúc mười Phật xuất thế

Ta giác ngộ thứ hai.

Thứ đệ kế sau đó

Lại có mười đức Phật :

Một là Phật Quang Tràng,

Thứ hai Trí Huệ Phật,

Thứ ba Tâm Nghĩa Phật,

Thứ tư Ðức Chủ Phật,

Thứ năm Thiên Huệ Phật,

Thứ sáu Huệ Vương Phật,

Thứ bảy Thắng Trí Phật,

Thứ tám Quang Vương Phật,

Thứ chín Dũng Mãnh Phật,

Thứ mười Liên Hoa Phật.

Tại chỗ mười Phật này

Ta thứ ba ngộ pháp.

Thứ đệ kế sau đó

Có mười Phật xuất thế :

Thứ nhất Bửu Diệm Sơn,

Thứ hai Công Ðức Hải,

Thứ ba Pháp Quang Minh,

Thứ tư Liên Hoa Tạng,

Thứ năm Chúng Sanh Nhãn,

Thứ sáu Hương Quang Bửu,

Bảy, Tu Di Công Ðức,

Tám, Càn Thát Bà Vương

Thứ chín Ma Ni Tạng,

Mười, Phật Tịch Tịnh Sắc.

Thứ đệ kế sau đó

Có mười Phật xuất thế :

Thứ nhất Quảng Ðại Trí,

Kế Phật Bửu Quang Minh,

Thứ ba Hư Không Vân,

Thứ tư Thù Thắng Tướng,

Thứ năm Viên Mãn Giới,

Thứ sáu Na La Diên,

Thứ bảy Tu Di Ðức,

Thứ tám Công Ðức Luân,

Thứ chín Vô Thắng Tràng

Thứ mười Ðại Thọ Sơn.

Thứ đệ kế sau đó

Có mười Phật xuất thế :

Thứ nhất Bà La Tạng,

Thứ hai Thế Chủ Thần,

Thứ ba Cao Hiển Quang,

Thư tư Kim Cang Chiếu,

Thứ năm Ðịa Oai Lực,

Thứ sáu Thậm Thâm Pháp,

Thứ bảy Pháp Huệ âm,

Thứ tám Tu Di Tràng,

Thứ chín Thắng Quang Minh,

Thứ mười Diệu Bửu Quang.

Thứ đệ kế sau đó

Có mười Phật xuất thế :

Thứ nhất Phạm Quang Minh,

Thứ hai Hư Không Âm,

Thứ ba Pháp Giới Thân,

Thứ tư Quang Minh Luân,

Thứ năm Trí Huệ Tràng,

Thứ sáu Hư Không Ðăng,

Thứ bảy Vi Diệu Ðức,

Thứ tám Biến Chiếu Quang,

Thứ chín Thắng Phước Quang

Thứ mười Ðại Bi Vân.

Thứ đệ kế sau đó

Có mười Phật xuất thế :

Thứ nhất Lực Quang Huệ,

Thứ hai Phổ Hiện Tiền,

Thứ ba Cao Hiển Quang,

Thứ tư Quang Minh Thân,

Thứ năm Phật Pháp Khởi,

Thứ sáu Phật Bửu Tướng,

Thứ bảy Tốc Tật Phong,

Thứ tám Dũng Mãnh Tràng,

Thứ chín Diện Bửu Cái,

Thứ mười Chiếu Tam Thế.

Thứ đệ kế sau đó

Có mười Phật xuất thế :

Ðệ nhất Nguyện Hải Quang,

Ðệ nhị Kim Cang Thân,

Thứ ba Tu Di Ðức,

Thứ tư Niệm Tràng Vương,

Thứ năm Công Ðức Huệ,

Thứ sáu Trí Huệ Ðăng,

Thứ bảy Quang Minh Tràng,

Thứ tám Quảng Minh Tràng,

Thứ tám Quảng Ðại Trí,

Thứ chín Pháp Giới Trí,

Thứ mười pháp Hải Trí.

Thứ đệ kế sau đó

Có mười Phật xuất thế :

Thứ nhất Bố Thí Pháp,

Thứ hai Công Ðức Luân,

Thư ba Thắng Diệu Vân,

Thứ tư Nhẫn Trí Ðăng,

Thứ năm Tịch Tịnh Âm,

Thứ sáu Tịch Tịnh Tràng,

Thứ bảy Thế Gian Ðăng,

Thứ tám Thâm Ðại Nguyện,

Thứ chín Vô Thắng Tràng,

Thứ mười Trí Diệm Hải.

Thứ đệ kế sau đó

Có mười Phật xuất thế :

Thứ nhất Pháp Tự Tại,

Thứ hai Vô Ngại Huệ,

Thứ ba Ý Hải Huệ,

Thứ tư Chúng Diệu Âm,

Thứ năm Tự Tại Thí,

Thứ sáu Phổ Hiện Tiền,

Thứ bảy Tùy Lạc Thân,

Thứ tám Trụ Thắng Ðức,

Thứ chín Bổn Tánh Phật,

Thứ mười Phật Hiền Ðức.

Tu Di trần số kiếp

Bao nhiêu Phật trong đó

Khắp làm đèn thế gian

Ta đều từng cúng dường.

Phật sát vi trần kiếp

Bao nhiêu Phật xuất thế

Tôi đều từng cúng dường

Vào môn giải thoát này.

Ta trong vô lượng kiếp

Ta tu được đạo này,

Nếu người tu hành được

Chẳng lâu cũng sẽ được.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thóat "BỒ TÁT PHỔ HIỆN NHẤT THIẾT THẾ GIAN ĐIỀU PHỤC CHÚNG SANH".

Như chư đại Bồ Tát tích tập vô biên hạnh, sanh những hiểu biết, hiện những thân mình, đủ những căn tướng, mãn những nguyện vọng, vào những tam muội, khởi những thần biến, hay quán sát pháp, nhập những trí huệ môn, được những pháp quang minh.

Ta thế nào biết được, nói được công đức hạnh đó.

Này thiện nam tử ! Cách đây không xa, có Chủ Dạ Thần tên là Tịch Tịnh Âm Hải, ngồi trên tòa liên hoa ma ni quang tràng trang nghiêm. Có trăm vạn a tăng kỳ Chủ Dạ Thần vây quanh.

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Dạ Thần, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ ta mà đi.



KINH: Này thiện nam tử, trong chúng hội đây có một Dạ Thần tên là Phổ Cứu Chúng Sanh Diệu Đức…

Thiện Tài được nghe Phổ Hỷ Tràng Giải Thoát Môn, thời tin hiểu xu nhập, biết rõ tùy thuận tư duy tu tập…

Phát nguyện như vậy rồi, Thiện Tài đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sanh Diệu Đức. Dạ thần này vì Thiện Tài mà thị hiện bồ tát điều phục chúng sanh giải thoát thần lực, dùng những tướng hảo trang nghiêm thân mình. Giữa chăng mày phóng đại quang minh tên là Trí Đăng Phổ Chiếu Thanh Tịnh Tràng, có vô lượng quang minh làm quyến thuộc. Quang minh này chiếu khắp tất cả thế gian, rồi xoay về chiếu vào đảnh đầu Thiện Tài sung mãn cả thân. Liền dó Thiện Tài được cứu cánh thanh tịnh luân tam muội.

GIẢNG: Từ trước tôi đã nói rằng pháp nhãn của Thiện Tài dần dần mở lớn, trước chỉ trông thấy các hình tướng thần lực thôi, thấy những hóa thân v.v… Bây giờ ngài nhìn thấy từng lỗ lông một, trong lỗ lông có rất nhiều hóa thân. Và đến vị chủ dạ thần này, thì trí nhãn của Thiện Tài lại mở hơn nữa.

KINH: Được tam muội này rồi, Thiện Tài thấy khoảng giữa chỗ hai Dạ Thần có tất cả những địa trần, thủy trần, hỏa trần, vi trần của những châu báu kim cang Ma Ni, những vi trần của tất cả hoa hương anh lạc đồ trang sức. Trong mỗi vi trần đều thấy phật sát vi trần sế thế giới thành hoại, và thấy những khối lớn của địa, thủy, hỏa, phong. Cũng thấy tất cả thế giới tiếp liên đều dùng địa luân nhiệm trì mà an trụ. Cũng thấy tất cả những núi, biển, sông, ao, cây rừng, cung điện của chư thiên, Long, Bát bộ, nhơn, phi nhơn, cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nhẫn đến các loài luân chuyển sanh tử qua lại theo nghiệp thọ báo, mọi thứ sai khác đều thấy cả…

GIẢNG: Kinh tả, khi Thiện Tài có được tam muội ấy rồi thì nhìn được những sự vi tế hơn, từ khoảng cách từ dạ thần này đến dạ thần khác có bao nhiêu vi trần đất thì trong mỗi vi trần đều thấy phật sát vi trần số thế giới thành hoại, trong vi trần đều thây tất cả các tinh hà, thấy các chư Phật thành hoại, và còn thấy những khối lớn của địa, thủy, hỏa, phong v.v… đến đây Thiện Tài có được pháp nhãn khá rộng lớn rồi, nhưng vẫn còn giới hạn trong khoảng từ dạ thần này đến dạ thần nọ mà thôi, chứ chưa nhìn được khắp tất cả pháp giới.

KINH: Lại thấy tất cả thế giới sai biệt: những thế giới tạp uế, những thế giới thanh tịnh, những thế giới hướng về tạp uế, những thế giới hướng về thanh tịnh, những thế giới tạp uế thanh tịnh, những thế giới thanh tịnh tạp uế, những thế giới thuần thanh tịnh, những thế giới hoặc hình trạng bằng phẳng, hoặc úp xuống, hoặc ngược lên… Trong tất cả thế giới, tất cả xứ, tất cả loài như vậy, đều thấy Dạ Thần Phổ Cứu…

GIẢNG: Ở đoạn kinh này, pháp nhãn của Thiện Tài cũng rất lớn, phần vì ngài Dạ Thần Phổ Cứu gia trì, phần do công phu tu tập của Thiện Tài, nên Thiện Tài thấy rất nhiều thế giới, từ tạp uế đến thanh tịnh, và trong tất cả thế giới ấy, đều thấy Dạ Thần Phổ Cứu tùy phương tiện để độ sanh. Tới đây, Thiện Tài mới hỏi Dạ Thần Phổ Cứu là ngài phát bồ đề tâm như thế nào và sự chứng đắc ra sao? Xin đọc đoạn này để ta có thể so sánh với thế giới Cực Lạc, vì nhiều khi cũng cần so sánh với những thế giới khác. Các ngài thường hay nói như thế để cho chúng ta hiểu rằng có rất nhiều thế giới khác nhau, mà có nhiều giai đoạn của đời tu, tu phước thế nào, huệ ra sao, nên thọ mạng và y báo cũng có sai khác. Những tôn giáo khác thường chỉ có thể nói về thái dương hệ này, và độ vài ngàn năm thôi, còn đạo Phật thì pháp nhãn quá sâu, có thể nói đến vô lượng kiếp, nên mỗi giai đoạn, chúng sinh và các cõi đều khác hẳn. Thì đây, ngài Chủ Dạ Thần nói:

KINH: Nay ta thừa oai lực của Phật vì ngươi mà nói. Nầy thiện nam tử, thuở xưa, quá phật sát vi trần số kiếp, có một kiếp tên là Viên Mãn Thanh Tịnh, thế giới tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Oai Đức, có tu di sơn vi trần sấ Như Lai xuất thế trong thế giới đó…

GIẢNG: Ngày xưa có “tu di sơn vi trần số Như Lai xuất thế” chứ không phải chỉ có một Đức Thích Ca Mâu Ni như bây giờ đâu, vì phước huệ chúng sanh thời đó rất lớn, và thế giới đó gọi là “Viên mãn thanh tịnh” .

KINH: Thế giới đó bằng chất nhất thiết hương vương ma ni bửu, châu báu trang nghiêm, trụ trên biển vô cấu quang minh ma ni vương. Thế giới này hình chánh viên, tịnh uế hiệp thành, mây bửu trướng và tất cả trang nghiêm cụ giăng phía trên, luân sơn ma ni trang nghiêm bao quanh ngàn vòng, có mười ức na do tha tứ thiên hạ đều diệu trang nghiêm.

GIẢNG: Dần dần thế giới xuống thấp dần, có tịnh có uế, nhưng trong kinh tả thế giới đó cũng vẫn còn rất đẹp. Có “Mười ức na do tha tứ thiên hạ…” có nghĩa rằng trong thái dương hệ chúng ta có bốn châu thiên hạ, tức là có những châu chính và những châu quyến thuộc bao quanh, nhưng đây lại có rất nhiều, như vậy nói nôm na dễ hiểu, thì thái dương hệ này phải lớn gấp triệu triệu lần thái dương hệ của chúng ta đang sống.

KINH: Hoặc có tứ thiên hạ chúng sanh ác nghiệp ở trong đó, hoặc có tứ thiên hạ chúng sanh tạp nghiệp ở trong đó, hoặc có tứ thiên hạ thiện căn ở trong đó, hoặc có tứ thiên hạ chư Bồ Tát thuần thanh tịnh ở trong đó..

GIẢNG: Vậy thì thế giới này, nếu ta đem so sánh bên cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà là hơn hay kém? Lúc đầu thì có lẽ cõi này thanh tịnh hơn, nhưng sau, dần dần biến hóa theo các nghiệp của chúng sanh, nên trở thành tạp nhiễm, có chỗ thì rất thanh tịnh của chư Bồ Tát, nhưng cũng có chỗ chỉ toàn ác nghiệp, và tạp nhiễm, nên lại không bằng cõi Cực Lạc thanh tịnh của ngài A Di Đà, vì cõi Cực Lạc không có nam nữ, cũng không có chúng sanh ác nghiệp. Trong cõi này có một ao nước, trong ao mọc lên một bông sen phóng quang minh, người có thiên nhãn nhìn quang minh ấy liền biết rằng mười ngàn năm sau sẽ có Đức Phật ra đời, sau đó thì đến chín ngàn năm sau, rồi tám, rồi dần dần đến vài ngày, tôi xin đọc lược đoạn kinh kế…

KINH: Bảy ngày trước, hoa sen này phóng đại quang minh tên là nhất thiết chúng sanh hoan hỷ âm. Nếu có chúng sanh gặp quang minh này thời được thấy khắp Chư Phật sanh lòng rất hoan hỷ. Biết sau bảy ngày sẽ có Phật xuất thế. Đủ bảy ngày sau, tất cả thế giới thảy đều chấn động, thuần tịnh vô nhiễm, mỗi niệm hiện khắp mười phương tất cả cõi Phật thanh tịnh, cũng hiện những sự trang nghiêm của những cõi đó. Nếu có chúng sanh nào cản tánh thuần thục, đáng được thấy Phật thời đều đến đạo tràng…

GIẢNG: Đến đây, bà hoàng hậu tên là Viên Mãn Diệm, mặt tròn như trăng rằm cũng tới, và vị vương nữ Diệu Nhãn cũng tới, thì ngài Dạ Thần Phổ Cứu này chính là hậu thân của vương nữ Diệu Nhãn, đại khái ngài kể những bổn sanh bổn sự của ngài ở nhiều đời quá khứ về trước là như vậy.

Đó là hết vị thiện tri thức thứ 34. Phần nhiều các ngày dạy hơi giống nhau, chỉ có khác biệt đôi chút, nhất là về sau, các ngài kể bổn sanh, bổn sự, đều là những vị nữ nhân, đôi khi kể những cuộc tình duyên cùng đi vào đạo thời quá khứ của các ngài, rất hay, nhưng bây giờ đã hết giờ rồi, xin tạm ngừng đây, để tiếp theo kỳ sau.

Xin cảm ơn quí vị…

Comments

Popular posts from this blog