Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân
Hồng
Ngày 4 tháng 3 năm 1990
Kính thưa Thượng Tọa trụ
trì cùng chư vị đạo hữu…
Hôm nay là buổi thuyết
giảng thứ 103 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này…
Vừa rồi, chúng ta có
tụng phẩm “Thập Hồi Hướng,” đến chỗ hồi hướng thứ tám tức là Chân Như Tướng Hồi
Hướng. Nếu quí vị để ý sẽ thấy văn chương trong phẩm này rất hay, có lẽ không
có sách vở thế gian nào sánh kịp. Đồng thời, chúng tôi cũng xin nhắc rằng, tất
cả những thiện căn của mình, nếu ta mang tâm vô trước, vô ngại mà hồi hướng,
thì những thiện căn đó sẽ đi đến bình diện sâu nhất của tâm thức, tức là bình
diện Chân Như. Giống như một làn sóng, thiện căn của mình cũng đi y như vậy,
nếu nó đập vào những chỗ dưới, nó dội lại rất ít, nhưng nếu nó đi sâu vào biển
chân như, thì sự dội lại liên miên vô cùng tận. Chỗ đó là tất cả bí ẩn của đạo
Phật. Nên ở phẩm thập hồi hướng, đức Phật dạy chúng ta làm cách để có thể tăng
trưởng thiện căn của mình đến chỗ vô cùng, vô tận.
Lần trước, chúng ta đã
gặp ngài Thiện Tài, và đến chỗ ngài Văn Thù Sư Lợi sắp dạy Thiện Tài. Nhưng
trước khi trở vào kinh, chúng tôi xin nhắc quí vị mấy điểm về vấn đề thiền quán
của Thiền Tài Đồng Tử, những điểm này cần phải lưu tâm đến thì mới có thể hiểu
rõ được vị trí của ngài sau này…
Chúng ta thường đọc các
sách của những vị Tổ thiền tông để lại, nói về không, trung, giả. Nhiều khi ta
thấy những chữ đó rất xa lạ, nhưng cũng chính những chữ đó đem lại cho ta nhiều
ý tưởng lạ lùng.
Hằng ngày, tâm thức
chúng ta thường qua lại giữa cái không và cái giả mà không bao giờ biết. Tại
sao? Ví dụ như khi ta ra vườn tưới cây, ta để ý đến cây cỏ, đó là ta đang đi
vào giả, vì lúc đó ta khởi nhiều tâm niệm về pháp giới, khởi tâm yêu, ghét,
hoặc không yêu không ghét v.v… Nhưng sau đó, ta thấy mệt, dừng lại, thì lúc đó,
ta đang đi vào không (dù chỉ là một cái không nông cạn trên bình diện tưởng
ấm). Sau đó đi vào nhà, mở sách đọc mấy trang kinh, suy tư về kinh, thì đó là
ta đang đi vào diệu hữu, và nếu suy tư về tánh không thì lúc đó ta đang đi vào
không. Nói cho dễ hiểu hơn, trong chúng ta có năm lớp, gọi là năm ấm: sắc ấm,
thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, và thức ấm. Khi những vị thiền sư tu xuyên qua những
lớp sương mù đó, họ có thể vào được đến hành ấm hoặc đến thức ấm. Trong khi
chúng ta kém hơn, ta suy nghĩ thì chỉ lăng xăng ở tưởng ấm mà thôi, nhưng so
với sắc ấm thì cũng sâu hơn nhiều. Một hành động chúng ta làm, như tưới cây
chẳng hạn, thì nó ở bình diện của thân, tức là sắc ấm, nhưng ta không làm nữa,
ngưng lại để suy nghĩ, thì lúc đó chúng ta vượt sắc ấm đi vào tưởng ấm. Vì vậy,
chúng ta cũng luôn luôn làm con thoi, đi ra đi vào hàng ngày từ giả vào không
mà chúng ta không hề biết. Vì vậy nên nhớ rằng: chư Phật và Đại Bồ Tát chỉ khác
chúng ta ở một điều, khi các ngài làm con thoi từ giả vào
không các ngài đi vào không rất sâu và liễu tri rành rẽ. Còn
chúng ta cũng làm con thoi từ giả vào không nhưng chỉ lăng
xăng từ sắc ấm đến tưởng ấm là cùng, lại không liễu tri được gì mấy, mà còn
khởi đầy đủ vọng tình vọng tưởng, nên sinh ra nhiều kiến chấp và tà kiến. Vì
vậy, sự chuyển động tâm thức là một sự tự nhiên, đạo Phật chỉ dạy cho chúng ta
làm sâu sắc hơn, đến chỗ mầu nhiệm. Tâm thức của chúng ta không thể nào vượt ra
khỏi giữa cái không với cái giả được, giống như một ông lái đò chỉ lăng xăng ở
giữa dòng mà không vào đến bến. Nói một cách hệ thống hơn, muốn quán đi vào
không ta phải quán nhân duyên, lên trên là quán như huyễn.
Tôi xin lược nói sơ qua
cho quí vị dễ hiểu. Đầu tiên ta phải buộc tâm vào một chỗ, như vào chóp mũi hay
bạch hào chẳng hạn, và chỉ khởi một niệm là tâm mình trụ ở
bạch hào, còn tất cả những tâm niệm khác đều không cho xen vào, không cho khởi
lên. chú tâm lâu, lúc đó trong tâm hành giả chỉ còn một làn sóng duy nhất, có
thể gọi là định. Sau đó hành giả có thể quán chóp mũi hay hơi thở đều do vô
lượng nhân duyên họp lại mà thành, đó là quán về sắc tướng. Quán lâu, tâm thức
hành giả sẽ bén nhạy, có thể chia chẻ tiêu dung sắc ấm, rồi tiêu dung cảm
giác, tâm tưởng, có thể qua được những lớp sương mù của các ấm để vào đến thức
ấm, tức là chớm vào không hải. Vì vậy, trong đạo Phật nếu không giảng kỹ về năm
ấm này chính là thức biến thì ta cũng không nắm vững được ý
kinh cho lắm. Đại lược là như vậy. Đến khi hành giả vào đến không hải rồi (tức
là thức ấm), giống như một con thỏ, chân đã chấm vào nước, thì đây là mức độ
của ngài Thiện Tài, đứng ở bờ rồi, thò được chân xuống nước, nhưng chưa
thể lặn sâu đến đáy biển, và cần phải lặn sâu xuống đáy biển
mới lấy được châu báu. Hành trình đi tìm cầu thiện tri thức của Thiện Tài chính
là để lặn sâu vào tàng thức ấy thôi. Khi đã lặn hơi sâu rồi, không được dừng
chân. Phải khởi quán giả và Đại Bi Tâm… Nhà Thiền Đông Độ gọi là “thõng tay vào
chợ,” tức là sau khi tu trong núi vài ba chục năm, vào được không hải vững rồi,
tâm không còn bị lắt lay, lúc đó các ngài cần “thõng tay xuống núi,” đi vào
chợ, trải tâm mình trên các nhân duyên, dù là ngang, ngược, dọc, xuôi, lên cao,
xuống thấp v.v…, tất cả duyên sự đến, tâm hành giả tiếp ứng mà không được xao
động. Trong khi đi vào những nhân duyên đó, hành giả vẫn phải quán nhân duyên,
để nhớ rằng những cảnh giới đều là giả cả. Lần lữa qua các kiếp, sẽ thuần thục,
đắc ngả không pháp không, được vô sanh nhẫn. Rời bỏ nhục thân, lấy Pháp thân,
làm Pháp thân Bồ Tát. Vì trong việc độ sanh, nhục thân không làm được mấy đỗi,
nó chỉ có một cái lưỡi, hai bàn tay, hai chân v.v… dù có độ suốt đời cũng không
được mấy. Nên cần lên đến bậc “Vô sanh pháp nhẫn,” tức là Bồ Tát đệ bát địa, để
có thần thông hóa thân vô lượng để độ sanh. Đó là quán giả của các bậc Bồ Tát.
Đến khi vào trung đạo, hành giả phải làm con thoi giữa không và giả, đó là quán
như huyễn. Như huyễn tức là không thật, không hư, tức là quán trung đạo để dần
trôi vào biển Đại Giác. Nói về quán như huyễn này, theo ý tôi, cần nêu lên
những hình ảnh cho quí vị dễ nhớ, dễ làm và còn đem lại sự thích thú nữa. Nghĩa
là khi ta gặp bất cứ cảnh giới nào, bệnh hoạn, gặp khó khăn, hay tất cả những
chuyện vui buồn khác xin quí vị nghĩ rằng đó là như hoa trong gương,
trăng đáy nước, ngay cả người vợ, người chồng, con cái mình cũng chỉ
là những chập chùng huyễn hiện, còn duyên thì hiện ra, hết
duyên thì ẩn đi, chợt hiện rồi chợt tan. Nếu chịu khó suy nghĩ
kỹ ta sẽ thấy đúng như vậy, suy tư lâu dần, sẽ ra khỏi tất cả tình nhiễm.
Một lối quán thứ hai là
quán về tia chớp nháng (flash), sát na của nhà Phật. Mọi sự
mọi vật chỉ được tạo dựng lên bằng vô lượng vô số tia chớp nháng, phụt lên từ
Tàng thức sơ năng biến, kết lại thành ảnh tượng. Khi duyên chín mùi thì nó tới,
hiện ra với mình, sau một vài chục năm, duyên hết, nghiệp dứt thì nó lại tắt
đi. Những tia chớp nháng ấy phụt lên, rồi tắt đi ngay, sau đó, tia sau lại phụt
lên, giống hệt như tia trước, kết thành những ảnh tượng tương tợ
tương tục mà ta lầm tưởng là có thực và là người thân của mình. Khi hiểu được
như vậy, thì tất cả tài, sắc, danh, lợi, thực thùy v.v… nó cũng nhẹ bớt vài
phần. Dĩ nhiên không thể nào nhẹ được hết, vì sự quán chiếu của chúng ta còn quá
thấp, và vì nghiệp chướng còn sâu dày, nhưng chắc chắn cũng làm cho chúng ta
vơi được ưu tư và sầu khổ. Nếu quán chiếu lâu, dần dần ta sẽ được một tâm bình
đẳng, người thân, kẻ sơ cũng không khác biệt gì mấy, mà lúc đó ta sẽ khởi được
tâm đại từ bi muốn độ hết tất cả chúng sanh.
Đó là những pháp mà tôi
cho là dễ quán mà lại thích thú, đồng thời lại thênh thang, vì đi đâu cũng có
thể quán chiếu được. Đến khi ta nghĩ được rằng tất cả đều là hoa trong gương,
trăng đáy nước, thì tâm ta sẽ nhẹ đi nhiều, và những thiện căn tích tập cũng
tăng trưởng rất nhiều.
Đó là sơ lược những điểm
về thiền, để quí vị thấy rõ rằng, thiền nó lồng vào trong đời
sống chúng ta, lúc nào cũng làm được, lúc nào chúng ta cũng có thể không quán
và giả quán, lúc nào cũng có thể thấy hoa trong gương, trăng đáy nước. Ngay cả
hơi thở ra vào của ta cũng vậy, nó chính là hơi thở của Bát Nhã và Đại
Bi, khi trong tâm ta có những niệm Bát Nhã và Đại Bi tức là lúc đó ta
đang thiền, một thứ thiền cao, lần lần có thể đi sâu vào pháp giới.
Điểm thứ hai tôi xin nhắc quí vị hôm nay là về điểm a-tăng-kỳ.
Trong đạo Phật, nói đến a-tăng-kỳ là chỉ cho kiếp số về thời gian, có khi một
a-tăng-kỳ rất nhanh, có khi lại rất chậm. Đó là tùy tâm hành giả. Như nhân vật
Long Nữ trong kinh Pháp Hoa đạt tới Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nhanh chỉ
trong khoảng khắc, ngược lại, có khi phải tu 3 a-tăng-tỳ mới chứng đắc. Theo
kinh, a-tăng-kỳ tu tập thứ nhất trải từ thập tín, thập trụ cho đến thập hồi
hướng, hành giả tu những thứ đó có thể trong một kiếp, hai kiếp, mười kiếp,
trăm kiếp, ngàn kiếp nhẫn đến a-tăng-kỳ kiếp. Còn a-tăng-kỳ thứ hai thì bắt đầu
từ bậc Bồ Tát sơ địa, đến địa thứ bảy, tức là Viễn Hành địa. ở a-tăng-kỳ này,
hành giả dần dần có nhiều thần thông, ở sơ địa, hành giả có thể hóa hiện 100
hóa thân, mỗi một nấc lên cao, thần thông lại càng nhiều, đến địa thứ bảy, Viễn
Hành địa các vị Bồ Tát thường hóa hiện vô lượng hóa thân. Song việc hóa hiện
vẫn còn hạn hẹp, và gọi là “tam muội nhạo ý sanh thân.” Tức là bậc Bồ Tát muốn
hiện hóa thân thì phải nhập tam muội. Vào tam muội thì “nhạo ý,” tùy theo ý
niệm của bậc Bồ Tát đó vui thích khởi tâm niệm gì để biến hóa thân mình, còn
xuất tam muội thì không hóa hiện được. Kinh có kể nhiều vị thiện tri thức hiện
hóa thân bời bời, và đó là con đường tu chứng của a-tăng-kỳ thứ hai… Đến
a-tăng- kỳ thứ ba là từ Bất Động địa, địa thứ tám lên đến gần Diệu Giác. Lúc
này, các Đại Bồ Tát đã có thần thông vô lượng gọi là “Giác Pháp Tự Tánh Tánh Ý
Sanh Thân.” ở bực này, các ngài không cần phải vào tam muội, vì lúc nào các
ngài cũng ở trong tam muội. Cho nên, chuyện vãng sanh Cực Lạc quan trọng kinh
khủng, vì nếu được sang bên kia rồi, lúc nào chúng ta cũng ở trong định, và lúc
nào cũng có thể hóa thân độ sanh. Kinh dạy rõ rằng, tuy chúng ta còn nghiệp
chướng, nhưng khi sang Cực Lạc rồi, lúc nào cũng ở trong định và có ngũ thông.
Vì vậy, cầu vãng sanh và tu theo tịnh độ là một pháp môn tối thắng. Tối thắng
vì dễ làm, dễ nhớ, chỉ có cái là nhiều người không chịu tin và không chịu hiểu
mà thôi. Còn như chúng ta tu thiền thì có khi phải qua nhiều a-tăng-kỳ mới đến
được đệ bát địa, tức Bất Động địa.
Đến đây, cần nhận xét
rằng trong phẩm nhập pháp giới, ngài Thiện Tài đi qua 53 vị, không có vị nào
dạy ngài quán sổ tức, quán bất tịnh, cũng không có vị nào dạy quán tứ đế hay
thập nhị nhân duyên, hoặc quán thoại đầu hoặc quán công án cả. Vì sao? Vì tất
cả những thứ đó đều là những chặng đường đi vào không quán, còn Thiện Tài đã
thành tựu không quán rồi nên kinh mới nói rằng “thân, ngữ, ý không lỗi
lầm, tâm thanh tịnh như hư không, hồi hướng bồ đề không chướng ngại…”
Ta nên đem ngài Thiện
Tài so sánh đôi chút với lịch sử nhà Thiền Đông Độ. Trong lịch sử nhà thiền, có
ngài Huệ Khả tức là tổ thứ nhì bên Trung Hoa. Ngài đến xin thọ giáo ngài Đạt
Ma. Hôm đó là một ngày mưa tuyết, ngài Huệ Khả quì ngoài sân thỉnh đạo nhưng
không thấy ngài Đạt Ma nói gì. Ngài Huệ Khả muốn tỏ lòng chí thành của mình,
nên chặt một cánh tay. Lúc đó, ngài Đạt Ma mới mở mắt và hỏi rằng: “Ông
đến đây có lòng cầu gì?” Huệ Khả thưa “Xin thầy an tâm cho
tôi,” “Vậy tâm ông đâu, đưa đây tôi an cho.” Ngài Huệ Khả nghĩ một lúc
thưa rằng: Con không thấy tâm đâu cả.” “Vậy thì ta đã an tâm cho ngươi
rồi đó.” Ta tạm ngừng câu chuyện thiền ở đây, để xem coi mức độ tu
chứng của ngài Huệ Khả so với ngài Thiện Tài như thế nào? (Vì cần tìm xem mức
độ thiền định của hai bên để hiểu con đường thiền như thế nào). Sau khi nghe
ngài Đạt Ma hối tâm đâu, đưa ta an cho, thì ngài Huệ Khả tìm tâm mình qua
sắc ấm, qua thọ ấm, tưởng ấm, rồi đến hành ấm cũng không thấy
được tâm, như vậy đủ hiểu rằng ngài Huệ Khả đã sắp vào thức ấm rồi. Ở đây,
ngài Huệ Khả còn kém ngài Thiện Tài một chỗ là ngoài cái thành tựu không quán,
ngài Thiện Tài còn có rất nhiều phước đức và thánh tài. Riêng về mức độ thiền
quán, cả hai đều sấp xỉ, tức là đều mới chớm vào thức ấm… Sau đó, Huệ Khả tu ít
lâu, một hôm ngài Đạt Ma hỏi rằng: “Ông đã buông được muôn duyên chưa?”
“Con đã buông được rồi.“Tức là buông tất cả giả pháp để vào đến không hải.
Nhưng ngài Đạt Ma vội nhắc ngay: “Cẩn thận, chớ rơi vào đoạn diệt, hãy
đi vào diệu hữu…” Ý ngài muốn nói rằng: ông nên cẩn thận, đừng dừng ở
không hải, phải nhớ đến cái bi nguyện từ nhiều kiếp mà hãy trở ra giả quán…
Vì nếu cứ ngồi lỳ trong
không hải, thì rơi vào hôn trầm vô ký. Trong kinh nói rất rõ, có điều chúng ta
phải mò mẫm đối chiếu mới hiểu được rành rẽ con đường tu hành và mức độ nông
sâu của nó…
Sau cùng, khi ngài Đạt Ma sắp tịch diệt, ngài họp các môn đệ mà hỏi rằng: “Bấy lâu nay, ta dạy các ông, nay các ông trình bày chỗ chứng đắc cho ta nghe.” Đầu tiên, một vị đệ tử tên Đạo Phó bước ra nói rằng: “Theo ý con nghĩ thì không được chấp văn tự, cũng không được lìa văn tự.” “Ông được phần da của ta.”Có nghĩa là sao? Thiền Đông Độ chủ trương bất lập văn tự. Nhưng ông Đạo Phó này đã hiểu được trên cái lý bất nhị, giữa văn tự và Thật Tướng Như Như. Chấp văn tự thì quên mất Thật Tướng. Còn lìa văn tự tức là không hiểu rằng văn tự chính là sự hiện tướng của Như Như. Tuy nhiên, ông chi hiểu trên lý thôi, còn trên sự thì chưa có gì cả, vì vậy ngài Đạt Ma mới bảo rằng: Ông mới được cái phần da của ta… Đạo Phật là đạo bình đẳng vô nhị, không có một pháp nào có thể nói là có, hoặc có thể nói là không. Giống như tôi và quí vị, không thể nói là một, vì tất cả đều khác biệt, song cũng không thể nói là khác, vì những phần vi tế của chúng ta vẫn dung thông với nhau, và chúng ta đều khởi lên từ tàng thức đó… Nói rộng hơn, cõi Ta Bà không thể coi là một và cũng không thể coi là khác với cõi Cực Lạc, vì nó chỉ khác trên phần thô kệch, mà lại thông suốt nhau trong phần vi tế. Nên trong kinh vẫn thường nói, khi đức Phật dùng thần lực thì tất cả các cõi đều thông suốt. Đó là nguyên lý bất nhị, nhưng không phải là nguyên lý đồng nhất của các triết học Tây phương, vì đạo Phật không phải là biện chứng đồng nhất, mà là biện chứng Nhất như…
Trở lại câu chuyện thiền Đông Độ, đến vị đệ tử thứ nhì là một vị sư ni, tên Tổng Trì bước ra nói rằng: “Theo như con, con cảm thấy hơi giống như ngài A Nan, vì con chỉ thấy được cõi Phật A Súc một lần thôi, sau đó không nhìn thấy nữa…” “Ngươi được phần thịt của ta.” Nghĩa là sao? ở đây, ta lại phải nương theo năm ấm để giải thích, thì mới thấy rằng năm ấm trong Lăng Nghiêm rất quan trọng. Nếu quí vị đọc Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm v.v,.. mà không hiểu rõ về năm ấm thì không cách gì hiểu rõ được kinh. Trong trường hợp của vị ni cô Tổng Trì này, bà là người tu hành không quán, bà đã đi qua được sắc ấm mà không chấp ở sắc ấm nữa, qua được cảm giác biết được thọ ấm là hư minh, qua được tưởng ấm vì biết thứ đó đều là những dung thông vọng tưởng, qua được một chút cái ngã là hành ấm, nhưng bà dừng ở đó mà chưa vào được thức ấm. Nhưng có một lần, bà đột nhập được vào thức ấm, hoặc do sức gia trì của ngài Đạt Ma, hoặc do một cơ duyên nào đó, nên bà trông thấy cõi Phật A Súc ở phương Đông, tức là bà đã lọt được vào tàng thức sơ năng biến nhìn thấy được như thế. Nhưng sau đó, lại bị mất tam muội ấy, không thể trở lại được nữa, bà chưa làm chủ được tam muội ấy một cách thường trực nên chỉ lọt được vào một lần thôi. Bà đang đứng giữa ranh giới của hành ấm và thức ấm. Vì vậy nên ngài Đạt Ma mới bảo rằng bà được phần thịt của ngài. (Chúng ta cũng nên để ý giữa sự đối đáp của ngài Đạt Ma và các vị đệ tử của ngài thì thấy rõ từng bậc tu chứng đi lên, về sau Thiện Tài trong kinh Hoa Nghiêm cũng vậy).
Đến vị đệ tử thứ ba nói
rằng: “Con nghĩ rằng, bốn đại vốn không, năm ấm chẳng có nên theo ý con
thì không có một pháp nào có thể có được.” “Ông đã được cái phần xương của ta.
“Bốn đại là địa, thủy, hỏa, phong, và năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
Bốn đại là chỉ sắc ấm, nên vị này sau khi quán chiếu bốn đại, năm ấm một cách
rốt ráo thì thấy tất cả đều không có thực, vì vậy không thể có một pháp nào có
thể có.
Tu hành là gì? Là tới
chỗ hành giả giác ngộ, hiểu rõ rằng không có một pháp nào có thể có được, thành
Vô Thượng Giác, tức nhập pháp giới trọn vẹn, đồng thời cũng hiểu rằng vì không
có pháp nào có thể có được nên mọi pháp chỉ là hoa trong gương, trăng đáy nước
mà thôi… Sau cùng, ngài Huệ Khả bước ra, ngài đứng im không nói gì cả, giống
như ngài Duy Ma vậy, tức là lúc đó ngài đã buông bỏ nhân duyên, khởi giả quán
và đi vào trung quán nhiều rồi. Khi vào trung quán tức là vào đến chỗ im lặng,
như như, vô ngôn, nên ngài Đạt Ma mới bảo rằng: “Ông được cái phần tủy
của ta.”
Nên vì vậy, ta thấy rõ
được trình tự của con đường thiền quán là như thế, sở dĩ tôi phải nói một cách
hơi dài dòng, chính là để soi sáng về ngài Thiện Tài, và sau đây, khi đi vào
kinh, ta có thể hiểu ngài Thiện Tài đến được mức độ nào rồi.
Trước khi đi vào kinh,
tôi cũng xin mở một dấu ngoặc để nói đến chữ “diệu trang nghiêm.” Đó là chữ chỉ
cho cái tàng thức sơ năng biến. Cũng như trong kinh, ta hay gặp những chữ như:
trang nghiêm, phổ trang nghiêm, thanh tịnh trang nghiêm, và diệu trang nghiêm.
Diệu trang nghiêm là -chỉ đến chỗ tột cùng vào cái tàng thức.
Tỷ dụ như khi Thiện Tài
đến gặp ngài Di Lặc, ngài Di Lặc hiện ra diệu trang nghiêm lâu các, đó cũng
chính là cái pháp giới này, cũng chính là cái tàng thức của ngài vậy. Vì tàng
thức ngài đồng nhất hóa với pháp giới, nên ngài muốn hiện cảnh giới nào cũng
được. Còn ở vị thiện tri thức thứ năm, ngài này cũng đạt được môn giải thoát
gọi là “vô ngại trang nghiêm,” tức là đi vào tàng thức đó một cách vô ngại,
nhưng ở mức độ này thì nông hơn, vì chỉ có trang nghiêm mà thôi. Rồi đến vị
thiện trí thức Từ Hạnh cũng thế, ngài cho Thiện Tài coi lâu các của ngài, thì
cũng là sự biến hiện trong tàng thức và của pháp giới này. Những vị sau, dần
dần càng đi sâu vào tàng thức cho đến ngài Di Lặc thì gọi là Diệu Trang Nghiêm
Lâu Các. Nên phải hiểu rằng, hành trình tìm cầu thiện tri thức của Thiện Tài là
đi trong tàng thức của mình, cũng là đi trong tàng thức của các vị thiện tri
thức, đồng thời cũng là đi trong pháp giới, vì tất cả ba mà đồng nhất làm một.
Điểm thứ hai cần nhớ là trong 53 vị thiện tri thức, lời các
ngài nói như nước chảy mây trôi, nhiều khi người đọc lạc lung tung trong đó.
Nhưng thực ra chỉ có độ 6, 7 vị đầu tiên là chỉ những nét chính về tu hành và
chỉ con đường quán giả, sau là quán trung, còn những vị về sau, các ngài thường
mở những cảnh giới trong tàng thức của các ngài cho Thiện Tài vào. Song ta nên
nhớ rằng, mỗi vị đều tu theo một lối, có vị tu theo bố thí, có vị tu theo tâm
từ, hoặc như ngài Tự Tại Đồng Tử Bồ Tát tu theo toán số cùng công xảo ở thế
gian này v.v… Nói tóm lại, mỗi vị tu theo một cách, trăm hoa nghìn lá, nhưng
nét chính là chỉ có khoảng bảy vị đầu chỉ rõ cho Thiện Tài con đường quán giả
và quán trung, còn những vị sau chỉ như hoa, lá, cành, rất đẹp mà thôi, vì đó
cũng chính là pháp giới vậy.
Vì vậy, phẩm nhập pháp
giới rất khó và chập chùng ở chỗ nó vừa là cảnh giới trong tàng thức, mà đồng
thời cũng chính là cảnh giới của pháp giới này, vì sao? Vì trong tàng thức của
các ngài đẹp đẽ như thế, và tàng thức ánh ra pháp giới, và nếu tâm của hành giả
tương ưng, hoặc được sự gia trì của các ngài thì hành giả sẽ thấy những thứ ấy.
Đây, xin đi vào kinh…
Trong kinh, ngài Văn Thù
minh định rõ ràng vị trí của Thiện Tài, trong bốn câu kệ đầu tiên:
Kinh:
Lành thay tạng công đức
Có thể đến gặp ta Phát khởi tâm đại bi Siêng cầu Vô Thượng Giác.
Giảng:
Ở đây, kinh tả rằng
thiện căn và công đức của Thiện Tài rất nhiều, đã vào được đến không hải, bây
giờ chỉ muốn khởi tâm đại bi để siêng cầu Vô Thượng Giác, khởi tâm đại bi tức
là khởi diệu dụng của Không Hải Bát Nhã để đi vào pháp giới, và độ chúng sanh.
Kinh:
Ngài Văn Thù Sư Lợi Đồng
Tử lại biết Thiện Tài đã từng cúng dường quá khứ chư Phật, gieo sâu căn lành,
tin hiểu rộng lớn, thường thích gần gũi các thiện tri thức, thân, ngữ, ý đều
không lỗi lầm, tu Bồ Tát đạo, cầu nhứt thiết trí thành Phật pháp khí, tâm Đồng
Tử này thanh tịnh như hư không, hồi hướng bồ đề không chướng ngại. Ngài Văn Thù
Sư Lợi quán sát như vậy rồi liền an ủy chỉ dạy tất cả Phật pháp. Những là nói
pháp tích tập của tất cả Phật, pháp tương tục của tất cả Phật, pháp pháp luân
hóa đạo của tất cả Phật, pháp sắc thân tướng hảo của tất cả Phật, pháp pháp
thân thành tựu của tất cả Phật, pháp ngôn từ biện tài của tất cả Phật…
Giảng:
Ta nên trở lại từng chữ
một trong kinh…
“NHỮNG LÀ NÓI PHÁP TÍCH
TẬP CỦA TẤT CẢ PHẬT…” Tích tập là chứa nhóm, pháp tích tập là tất cả các pháp
mà từ xưa các đức Phật tu ra sao, để nói cho Thiện Tài nghe. “PHÁP TƯƠNG TỤC
CỦA TẤT CẲ PHẬT…,” tức là tất cả các hành pháp của chư Phật khởi lên, lúc nào
cũng tương tục, từ kiếp này qua kiếp khác. “PHÁP THỨ ĐỆ CỦA TẤT CẢ PHẬT…,” tuy
các ngài tu tương tục như thế, nhưng đến khi các ngài xuất hiện nơi đời, các
ngài luôn luôn xuất hiện theo thứ đệ mà dạy các chúng sanh. “PHÁP LUÂN HÓA ĐẠO
CỦA TẤT CẢ PHẬT..” tức là các ngài chuyển pháp luân để nói pháp, “PHÁP SẮC THÂN
TƯỚNG HẢO CỦA TẤT CẢ PHẬT,” tức là chư Phật phải tu ba mươi hai tướng tốt và
tám mươi vẻ đẹp để khi xuất hiện ở thế gian, chúng sanh chỉ cần nhìn những
tướng hảo tốt đẹp như vậy đã tăng trưởng nhiều thiện căn rồi. Đại khái trong
đoạn này, kinh nói rằng lúc nào cũng kết thúc bằng quang minh chiếu diệu đó,
chiếu diệu các pháp bình đẳng, vô nhị, đồng thời gần tới chỗ thấy không còn một
pháp nào nữa. Vì vậy, ngài Huệ Năng dạy rằng: “Đức Phật chỉ dạy cái pháp vô
nhị,” vì sao? Vì khi ta còn chấp có pháp này, tức là tâm ta còn trụ vào pháp
đó, nhưng đến khi tâm không chấp trước vào bất cứ pháp nào cả, tức là gần đến
chỗ như như vô nhị rồi…
Kinh:
Ngài Văn Thù Sư Lợi Đồng
Tử vì Thiện Tài Đồng Tử và đại chúng mà nói những pháp như vậy rồi, lại ân cần
khuyên dạy cho họ tăng trưởng đạo lực, cho họ hoan hỷ phát tâm Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, lại làm cho họ tự ghi nhớ thiện căn thuở quá khứ. Ngài là vì
tất cả đại chúng mà tùy nghi thuyết pháp. Sau đó ngài rời rừng mà đi.
Ngài Thiện Tài được nghe
pháp nơi ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, được nghe những công đức của chư Phật như
vậy, liền nhứt tâm cần cầu Vô Thượng Bồ Đề, đi theo ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
mà nói kệ rằng:
Giảng:
Lúc trước ngài tu tam
hiền, Trụ Hạnh và Hồi Hướng, thì Thiện Tài có lẽ chưa hiểu rõ pháp Phật ra sao,
tuy rằng tu rất nhiều kiếp, ngài chưa hiểu rõ chính diệu tâm hiện ra chư Phật
mười phương, công đức của chư Phật vô lượng, và chính các chư Phật và pháp giới
là một, cũng là sự biến hóa không cùng tràn đầy thế gian. Bây giờ, Thiện Tài
mới thấy rõ lẽ đó. Nên lúc này, Thiện Tài mới nhất tâm cầu Vô Thượng Giác. Tôi
xin đọc mấy câu kệ ngài Thiện Tài nói với ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Kinh:
Thế gian chấp điên đảo
Thường thích tưởng ngã tịnh
Giảng:
Ý muốn nói rằng, chúng
sanh thường hay có điên đảo tưởng, những pháp vô ngã lại nghĩ là có ngã, những
pháp bất tịnh, lại cho là thanh tịnh.
Kinh:
Trí nhãn đều rời được
Dạy tôi môn giải thoát
Khéo biết đường tà, chánh
Biết rõ tâm không khiếp
Đấng quyết rành tất cả
Dạy tôi được Bồ Đề.
Giảng:
Lúc đầu Thiện Tài xin
với ngài Văn Thù “dạy tôi môn giải thoát” thôi, sau ngài lại lên dần đến chỗ
“dạy tôi được Bồ Đề,” tức là đến chỗ Vô Thượng Giác để có thể nhập pháp giới
trọn vẹn. Phẩm này rất dài, vì vậy tôi lược bớt mà chỉ đọc lên những lời kinh
chính.
Kinh:
… Lúc đó ngài Văn Thù Sư
Lợi Bồ Tát như tượng vương, xoay nhìn Thiện Tài Đồng Tử mà bảo rằng: Lành thay,
lành thay, này thiện nam tử, ngươi đã phát tâm Vô Thượng Bồ Đề lại muốn thân
cận các bực thiện tri thức để hỏi Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo. Này thiện nam tử,
thân cận cúng dường các bực thiện tri thức là nhơn duyên trước nhứt để được đầy
đủ nhứt thiết trí.
Giảng:
Ngài Văn Thù muốn nói
rằng từ đây trở lên, con đường đi vào tàng thức mịt mùng không phải người nào
cũng có thể đi một mình được, và muốn đi sâu vào biển không hải đó, muốn lặn
đến đáy tầng tâm thức ấy thì phải có thầy dạy.
Kinh:
Vì thế nên công việc này
ngươi chớ có mỏi nhàm.
Thiện Tài Đồng Tử bạch
rằng: Cúi xin đức thánh vì tôi mà dạy Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh thế nào, phải
nhập Bồ Tát hạnh thế nào, phải tịnh Bổ Tát hạnh thế nào, phải thành tựu Bồ Tát
hạnh thế nào, phải tùy thuận Bồ Tát hạnh thế nào, phải ghi nhớ Bồ Tát hạnh thế
nào, phải thêm rộng Bồ Tát hạnh thế nào, phải viên mãn Bồ Tát hạnh thế nào,…
Giảng:
Quý vị cũng nên để ý
theo dõi lời bạch của Thiện Tài với ngài Văn Thù Sư Lợi, vì lời bạch này cũng
chĩ rõ nấc thang đi lên… Lúc đầu, ngài hỏi về Bồ Tát hạnh, sau đó hỏi về tịnh,
rồi tùy thuận, rồi thêm rộng và cuối cùng là làm thế nào để được viên mãn. Đây
là Thiện Tài hỏi cả một hành trình đi vào đến đáy biển không hải đó. Ngài Văn
Thù Sư Lợi nói một bài kệ dài, xin đọc bốn câu đầu cho quí vị nghe:
Kinh:
Lành thay tạng công đức
Có thể đến gặp ta
Phát khởi tâm đại bi
Siêng cầu Vô Thượng Giác
Nếu có các Bồ Tát
Chẳng nhàm khổ sanh tử
Thời tu đạo Phổ Hiền
Tât cả không hoại được.
Giảng:
Bốn câu đầu quan trọng
nhất là ngài minh định rõ vị trí của Thiện Tài là đường tu bây giờ của Thiện
Tài là khởi đại bi tâm, sau đó ngài Văn Thù nhắc lại là phải đi cầu thiện tri
thức…
Kinh:
Thấy thiện tri thức chớ
có mỏi nhàm, thiện tri thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy thuận, nơi thiện
xảo phương tiện của thiện trí thức chớ tìm cầu lỗi lầm…
Giảng:
Đại khái có nhiều vị tùy
theo phương tiện để thị hiện, trông đôi khi kỳ quái, nhưng vẫn cần tùy thuận.
Vả lại, ở trong kinh, Thiện Tài được lợi điểm là luôn luôn được các vị thiện
tri thức giới thiệu đến một vị khác, thì dĩ nhiên những vị đó không thể là những
vị “ngụy thiện tri thức” được.
Kinh:
Phương Nam này có một
nước tên là Thắng Lạc. Trong nước Thắng Lạc có tòa núi tên Diệu Phong.
Giảng:
Trong kinh bao giờ cũng
có hai nghĩa, nghĩa trong và nghĩa ngoài, ngoài đời có một nước tên Thắng Lạc
thật, và cũng có một vị Tỳ Kheo tên Đức Vân thật. Nhưng cũng có một nghĩa bên
trong tượng trưng. Vì nếu ta chỉ chấp một nghĩa trong hay chấp nghĩa ngoài một
bên đều sai cả. Như ngài Quán Thế Âm, có nhiều người nói rằng ngài là tượng
trưng cho luồng lực đại bi. Nhưng nói như vậy chỉ đúng được một nửa, và đó là
về phương diện phi thần hóa. Còn về mặt thần hóa thì vẫn có một vị Đại Bồ Tát
Quán Thế Âm thật, hiện thân để cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Đó gọi là phương
tiện đại bi thần hóa. Hai ý nghĩa đó luôn luôn đi liền nhau như hai mặt đồng
tiền, vì thế pháp giới này luôn phải nhìn theo hai phía, một phía là thần hóa,
một phía là phi thần hóa. Cũng như về chuyện động đất, nhiều người dùng con mắt
phàm thì đó là do những yếu tố thiên nhiên địa thủy hỏa phong. Song những yếu
tố thiên nhiên bao giờ cũng có một vị quỉ thần vương cai quản. Nên vì thế,
chúng ta tụng chú, đọc kinh có thể giảm thiểu những chuyện đó. Vì vậy, chúng ta
cần nhớ rằng, trong kinh luôn luôn có nghĩa trong và nghĩa ngoài, nghĩa bóng và
nghĩa đen, thần hóa và phi thần hóa tương tự như hai mặt của pháp giới.
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
Lúc đó ngài Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát, như tượng vương, xoay nhìn Thiện Tài đồng tử mà bảo rằng :
Lành thay ! Lành thay ! Này
thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, lại muốn thân cận các bực
thiện tri thức để hỏi Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.
Này thiện nam tử ! thân cận
cúng dường các bực thiện tri thức là nhơn duyên trứơc nhứt để được đầy đủ Nhứt
thiết trí.
Vì thế nên công việc này
ngươi chớ có mỏi nhàm.
Thiện Tài đồng tử bạch rằng
:
Cúi xin đức Thánh vì tôi mà
dạy Bồ Tàt phải học Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải
đến Bồ Tát hạnh thế nào ? Phật thật hành Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tịnh Bồ Tát
hạnh thế nào? Phải nhập Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải thành tựu Bồ Tát hạnh thế
nào ? Phải tùy thuận Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải ghi nhớ Bồ Tát hạnh thế nào ?
Phải thêm rộng Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải làm thế nào cho Phổ Hiền hạnh mau
được viên mãn.
Lúc đó ngài Văn Thù Sư Lợ
Bồ Tát vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng :
Lành thay tạng công đức
Có thể đến gặp ta
Pháp khởi tâm đại bi
Siêng cầu Vô Thượng Giác.
Ðã pháp nguyện rộng lớn
Diệt trừ khổ chúng sanh
Vì khắp các chúng sanh
Tu hành Bồ Tát hạnh.
Nếu có các Bồ Tát
Chẳng nhàm khổ sanh tử
Thời đủ đạo Phổ Hiền
Tất cả không hoại được.
Phước quang, phước oai lực
Phước xứ, phước tịnh hải
Ngươi vì khắp chúng sanh
Nguyện tu Phổ Hiền hạnh.
Ngươi thấy vô biên tế
Mười phương tất cả Phật
Khắp nghe Phật thuyết pháp
Thọ trì chẳng quên mất.
Ngươi ở mười phương cõi
Thấy khắp vô lượng Phật
Thành tựu những nguyện hải
Ðầy đủ Bồ Tát hạnh.
Nếu nhập phương tiện hải
An trụ Phật Bồ đề
Hay theo Ðạo Sư học
Sẽ thành Nhứt thiết trí.
Khắp tất cả quốc độ
Số kiếp như vi trần
Ngươi tu hạnh Phổ Hiền
Thành tựu Bồ đề đạo.
Ở vô lượng cõi nước
Trong vô biên kiếp hải
Ngươi tu hạnh Phổ Hiền
Thành mãn những đại nguyện.
Vô lượng chúng sanh đây
Nghe ngươi nguyện đều mừng
Ðều phát tâm Bồ đề
Nguyện học hạnh Phổ Hiền
Nói kệ xong, ngài Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát bảo Thiện Tài đồng tử rằng :
Lành thay ! Lành thay ! này
thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, cầu hạnh Bồ Tát.
Này thiện nam tử ! nếu có
chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, đây là việc rất khó. Ðã có thể phát Bồ đề
tâm rồi lại cầu Bồ Tát hạnh, việc này càng khó gấp bội.
Này thiện nam tử ! Nếu muốn
thành tựu Nhứt thiết chủng trí thời phải quyết định cầu chân thiện tri thức.
Này thiện nam tử ! Cầu
thiện tri thức chớ có mỏi lười. Thấy thiện tri thức chớ có nhàm đủ. Thiện tri
thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy thuận. Nơi thiện xảo phương tiện của
thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm.
Phương nam này có một nước
tên là Thắng Lạc. Trong nước Thắng Lạc có tòa núi tên là Diệu Phong. Trên núi
đó có một Tý kheo tên là Ðức Vân. Ngươi nên đến hỏi Tỳ Kheo Ðức Vân : Bồ Tát
phải học Bố Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải như
thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ? Tỳ Kheo Ðức Vân sẽ chỉ bảo cho
ngươi.
1.- TỲ KHEO ÐỨC VÂN
Kinh:
Thiện Tài Đồng Tử nghe
xong hớn hở vui mừng, đảnh lễ ngài Văn Thù hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm
ngưỡng, rồi lễ từ tạ mà đi qua phương Nam. Đến nước Thắng Lạc, lên núi Diệu
Phong, ở trên núi đó xem ngó tìm kiếm khắp bốn phương, lòng khao khát muốn gặp Tỳ
Kheo Đức Vân qua bảy ngày sau mới được thấy Tì Kheo Đức Vân ở trên ngọn núi
khác đi kinh hành chậm rãi…
Giảng:
Có một nước tên là Thắng
Lạc, đồng thời hiểu theo nghĩa bóng thì đó là tượng trưng cho thức ấm của mình,
hay cái tàng thức sơ năng biến, nên theo nghĩa bóng tức là ngài Văn Thù Sư Lợi
bảo Thiện Tài rằng: Ông bây giờ đã được không quán rồi, thì đến nước Thắng Lạc.
Tại sao lại Thắng Lạc? Thắng Lạc nghĩa là cực kỳ vui sướng. Ta nên nhớ rằng,
những vị tu thiền, từ sơ thiền đến đệ tứ thiền, sơ thiền gọi là ly sanh hỷ lạc
địa, nhị thiền là định sanh hỷ lạc địa, tam thiền là ly hỷ diệu lạc địa, ba bậc
thang đó là vào trong một sự thọ lạc rất vui, nhất là đệ tam thiền. Thế nhưng
thọ lạc ở ba bực thang thiền này không ăn thua gì với cái lạc của thức ấm. Đi
vào “Thắng Lạc” của tàng thức này, hành giả cảm thấy sung sướng không tả nổi,
lâng lâng không vướng chút bụi trần, chính vì vậy mà các vị Thanh Văn thường
dừng chân ở đây, không muốn tu lên nữa, nên kinh nói là rơi vào trầm không thú
tịch.
Nhưng trong xứ Thắng Lạc
lại có ngọn núi Diệu Phong, theo nghĩa đen thì có ngọn núi đó thật, rất kỳ
diệu, còn nghĩa bóng thì ta phải nhớ đến câu nhà thiền vẫn thường dùng: “Trên
đầu sào trăm trượng, phải co chân nhảy một bước nữa.” Tức là đi vào đến thức ấm
rồi vẫn chưa xong, phải chuyển tàng thức đó, (vì vẫn còn nhiều biến dịch sanh
tử), trở thành bạch tịnh thức, hay vô câu thức. Phải gột những sở tri chướng đó
đi, lặn sâu tới đáy tàng thức. Nói cách khác, đến xứ Thắng Lạcđừng tưởng là
xong, mà còn phải leo ngọn núi Diệu Phong. Thiện Tài đi đến đó, tìm ngó khắp
nơi không thấy (vì tâm thức của Thiện Tài chưa vào sâu mấy), phải quán chiếu
bảy ngày, khao khát tìm kiếm mới thấy. Phải quán niệm ngài Đức Vân thì ngài mới
tới. Cũng như chúng ta muốn gặp đức A Di Đà phải quán thật lâu, thân tâm thanh
tịnh, ngài A Di Đà mới đến, mới hiện lên trong hào quang tàng thức của mình, vì
ngài cũng ở trong tâm mình. Quán chiếu đến mức thuần thục thì đức A Di Đà bên
Cực Lạc hiện tướng và nhập một với đức A Di Đà trong tâm mình. Thiện Tài bèn
quán chiếu trong bảy ngày liền thấy ngài Đức Vân. Nhưng ngài Đức Vân lại không
hiện trên đỉnh núi của Thiện Tài mà ở một đỉnh núi khác. Tại sao? Vì lúc đó,
tâm thức của Thiện Tài chưa thuần thục lắm, trong lòng vẫn âm thầm chấp ngã,
nghĩ mình là kẻ đi cầu đạo, vẫn còn ranh giới giữa tự và tha, chưa thể nhập một
vì thế ngài Đức Vân vẫn là đối tượng đối với Thiện Tài mà
Thiện Tài vẫn là chủ thể, vẫn còn chấp có một vị thầy dạy và
một người trò thụ giáo mà chưa đến chỗ nhập một được.
Kinh:
Thấy xong, Thiện Tài
Đồng Tử liền đến đảnh lễ chân Tỳ Kheo Đức Vân, hữu nhiễu ba vòng cung kính đứng
trước Đức Vân mà bạch rằng: Bạch đức Thánh, tôi đã phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, mà
chưa biết Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh thế nào? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào,
nhẫn đến phải thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền???
Giảng:
Ngài Đức Vân chỉ nói có
mấy câu, và lúc này, Thiện Tài cũng chưa vào được tam muội. Ngài chỉ dạy rằng:
Thiện Tài phải cầu môn Sanh Tử Niết Bàn của Bồ Tát, cầu môn Bồ Tát quán sát hữu
vi vô vi tâm không chấp trước. Vậy thì, thế nào là môn “Sanh Tử Niết Bàn của Bồ
Tát?” Tức là Thiện Tài không được trụ vào sanh tử, cũng không trụ vào Niết Bàn,
mà chỉ “thiện thệ” qua lại để độ sinh thôi, Bồ Tát là như vậy, không nhập Niết
Bàn mà cũng không bị chìm nổi trong sanh tử. Cũng thế, Bồ Tát quán pháp hữu vi,
vô vi cũng như vậy, hữu vi là giả, mà vô vi là không, bao giờ các ngài cũng dạy
ta chuyển động tâm thức thiện thệ qua lại mà không bao giờ ngưng ở một bên nào
cả.
Kinh:
Này thiện nam tử, ta
được sức thắng giải tự tại quyết định, tín nhãn thanh tịnh, trí quang chói
sáng, thấy khắp các cảnh giới khỏi tất cả chướng ngại, quan sát khéo léo,
phổ nhãn sáng suốt, đủ hạnh thanh tịnh. Qua đến tất cả cõi nước mười
phương, cung kính cúng dường tất cả chư Phật, thường nhớ tất cả chư Phật
Như Lai…
Giảng:
Đại khái đoạn này nói
rằng, ta chỉ tu được một pháp môn là “ức niệm nhát thiết chư
Phật mười phương” nghĩa là lúc nào cũng nhớ đến chư Phật mười phương. Nói rõ
hơn, ngài Đức Vân đã đắc được môn Niệm Phật tam muội, ngài vào được rất sâu
trong tam muội đó, ngài thấy tất cả chư Phật 10 phương. Càng đi sâu vào tam
muội càng thấy nhiều phương chư Phật. Nên ngài nói rằng có thể thấy bất khả
thuyết, bất khả thuyết chư Phật đông như vi trần, rồi ngài lại bảo rằng có thể
có nhiều lối niệm Phật. Nên ngài được môn tam muội Ức niệm nhứt thiết chư Phật,
và chỉ dạy Thiện Tài pháp môn ấy.
Tóm lại, ngài Văn Thù đã
chỉ vị thiện trí thức đầu tiên, và vị này dạy Thiện Tài môn Niệm Phật tam muội
—Môn tam muội này có thể mở cửa tất cả các tam muội. Như vậy, chúng ta phải
biết rằng môn niệm Phật tam muội là một môn tối thắng của chư Phật, đó là do
lòng đại bi và phương tiện huệ của các ngài. Không biết quí vị nghĩ thế nào chứ
riêng tôi, nếu tôi tu độ 10 kiếp thì tôi cũng chưa chắc đi đến đâu cả, may
lắm chỉ đến nhị thiền là cùng, vì tâm chúng sinh thường rất buông lung và cái
chấp về thân căn lại rất nặng nề, nên muốn xóa những chấp đó rất khó, dù rằng
tu từ lúc trẻ. Tu hành càng lên cao càng khó, càng cần đến sức gia trì của chư
Phật, bằng cách niệm Phật để có thể vào được Niệm Phật tam muội. Vả lại, ngài
Thiện Tài đã được không quán rồi, bây giờ phải tu giả quán, mà giả quán không
gì hơn là quán chiếu cái hiện thân tuyệt vời của diệu tâm tức là đức Phật. Hành
giả cũng có thể quán núi, cây, sông, nước, v.v…. cũng là quán giả nhưng quán
những điều đó không có lợi nhiều, chỉ có lợi làm cho định tâm được mạnh, mà
không có sức gia trì nào cả. Thì ở đây, trong kinh không nói rằng ngài Thiện
Tài được vào tam muội, không thấy nói rằng ngài nhìn thấy cảnh giới nào cả, chỉ
nghe được ngài Đức Vân nói rằng ta nhìn thấy tất cả các cõi mà thôi.
1.- TỲ KHEO ÐỨC VÂN
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được pháp môn
"ỨC NIỆM NHỨT THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH GIỚI TRÍ HUỆ QUANG MINH
PHỔ KIẾN" này thôi.
Thiện Tài đồng tử nghe xong
hớn hở vui mừng, đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần
chiêm ngưỡng, rơi lệ từ tạ mà đi qua hướng Nam, đến nước Thắng Lạc, lên núi
Diệu Phong. Ở trên núi đó xem ngó tìm kiếp khắp bốn phía, lòng khao khát muốn
được gặp TỲ KHEO ÐỨC VÂN. Bảy ngày sau mới được thấy Tỳ Kheo Ðức Vân ở
trên ngọn núi khác đi kinh hành chậm rãi.
Thấy xong, Thiện Tài đồng
tử liền đến đảnh lễ chân Tỳ Kheo Ðức Vân, hữu nhiễu ba vòng cung kính đứng
trước Ðức Vân mà bạch rằng :
Bạch Ðức Thánh ! Tôi đã
phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh thế nào ?
Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải thế nào để được mau viên mãn hạnh
Phổ Hiền ? Tôi nghe đức Thánh khéo có thể dạy bảo, mong đức Thánh thương xót
dạy cho tôi thế nào Bồ Tát được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Ðức Vân Tỳ Kheo bảo Thiện
Tài đồng tử rằng :
Lành thay ! Lành thay ! Này
thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, lại có thể hỏi hạnh của Bồ
Tát. Việc như vậy là sự khó trong những sự khó. Những là cầu Bồ Tát hạnh, cầu
Bồ Tất cảnh giới, cầu đạo xuất ly của Bồ Tát, cầu đạo thanh tịnh của Bồ Tát,
cầu tâm thanh tịnh quảng đại của Bồ Tát, cầu Bồ Tát thành tựu thần thông, cầu
Bồ Tát thị hiện môn giải thoát, cầu Bồ Tát thị hiện việc làm tại thế gian, cầu
Bồ Tát tùy thuận tâm của chúng sanh, cầu môn sanh tử Niết bàn của Bồ Tát, cầu
Bồ Tát quán sát hữu vi vô vi tâm không chấp trước.
Này thiện nam tử ! Ta được
sức thắng giải tự tại quyết định, tín nhãn thanh tịnh, trí quang chói sáng,
thấy khắp các cảnh giới khỏi tất cả chướng ngại, quán sát khéo léo, phổ nhãn
sáng suốt, đủ hạnh thanh tịnh. Qua đến tất cả cõi nước mười phương cung kính
cúng dường tất cả chư Phật. Thường nhớ tất cả chư Phật Như Lai. Tổng trì tất cả
chánh pháp của chư Phật. Thường thấy tất cả chư Phật mười phương.
Những là thấy phương đông
một đức Phật, hai đức Phật, mười đức Phật, trăm đức Phật, ngàn đức Phật, ức đức
Phật, trăm ức đức Phật, ngàn ức đức Phật, trăm ngàn ức đức Phật, na do tha ức
đức Phật, trăm na do tha ức đức Phật, ngàn na do tha ức đức Phật, trăm ngàn na
do tha ức đức Phật, nhẫn đến thấy vô số, vô lượng, vô biên vô đẳng, bất khả sổ,
bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả
thuyết đức Phật. Nhẫn đến thấy chư Phật bằng số vi trần trong Diêm Phù Ðề, bằng
số vi trần trong bốn châu thiên hạ, bằng số vi trần trong Tiểu thiên thế giới,
bằng số vi trần trong nhị thiên thế giới bằng số vi trần trong Ðại Thiên thế
giới, bằng số Phật sát vi trần nhẫn đến thấy chư Phật bằng số bất khả thuyết
bất khả thuyết Phật sát vi trần.
Như phương đông, chín
phương kia cũng đều thấy như vậy.
Chư Phật trong mỗi phương,
những sắc tướng, những hình mạo, những thần thông, những du hí, những chúng hội
trang nghiêm đạo tràng, những quang minh chiếu sáng vô biên, những quốc độ,
những thọ mạng. Tùy những tâm sở nghi của chúng sanh mà chư Phật thị hiện những
môn thành Ðẳng Chánh Giác, làm sư tử hống trong đại chúng.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ
được pháp môn "ỨC NIỆM NHỨT THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH GIỚI TRÍ HUỆ QUANG
MINH PHỔ KIẾN" này thôi. Ðâu biết hết được vô biên trí huệ thanh tịnh
hạnh môn của đại Bồ Tát. Những là : Trí quang phổ chiếu niệm Phật môn, vì
thường thấy tất cả chư Phật quốc độ những cung điện đều trang nghiêm thanh
tịnh. Môn làm cho tất cả chúng sanh niệm Phật, vì tùy sở nghi của tâm chúng
sanh đều làm cho họ được thấy Phật, tâm họ được thanh tịnh. Môn làm cho an trụ
nơi lực niệm Phật, vì làm cho họ nhập vào thập lực của Như Lai. Môn làm cho an
trụ nơi pháp niệm Phật, vì thấy vô lượng Phật được nghe pháp. Môn niệm Phật
chói sáng các phương, vì đều thấy trong tất cả thế giới chư Phật bình đẳng
không sai biệt. Môn niệm Phật vào chỗ bất khả kiến, vì đều thấy trong tất cả
cảnh vi tế những sự thần thông tự tại của chư Phật. Môn niệm Phật an trụ trong
các kiếp, vì trong tất cả kiếp thường thấy những việc làm không tạm bỏ của chư
Phật. Môn niệm Phật an trụ trong tất cả thời gian, vì trong tất cả thời gian
thường thấy đức Như Lai gần gủi đồng ở chẳng rời bỏ. Môn niệm Phật an trụ tất
cả cõi, vì tất cả quốc độ đều thấy thân Phật vượt hơn tất cả không gì sánh
bằng. Môn niệm Phật an trụ tất cả đời, vì tùy tâm sở thìch thấy khắp tam thế
chư Phật. Môn niệm Phật an trụ tất cả cảnh, vì ở khắp trong tất cả cảnh giới
thấy chư Như Lai thứ đệ xuất hiện. Môn niệm Phật an trụ tịch diệt, vì trong một
niệm thấy tất cả cõi, tất cả chư Phật thị hiện Niết bàn. Môn niệm Phật an trụ
viễn ly, vì trong một niệm thấy tất cả Phật từ nơi chỗ ở mà ra đi. Môn niệm
Phật an trụ quảng đại, vì tâm thường quán sát mỗi thân Phật đầy khắp tất cả
pháp giới. Môn niệm Phật an trụ vi tế, vì trong một chân lông có bất khả thuyết
Như Lai xuất hiện, đều đến chỗ Phật mà kính thờ. Môn niệm Phật an trụ trang
nghiêm, vì trong một niệm thấy tất cả cõi đều có chư Phật thành Ðẳng Chánh Giác
hiện thần biến. Môn niệm Phật an trụ năng sự, vì thấy tất cả Phật xuất hiện thế
gian, phóng trí huệ quang chuyển diệu pháp luân. Môn niệm Phật trụ tâm tự tại,
vì biết tùy theo sở thích của tự tâm, tất cả chư Phật hiện hình tượng. Môn niệm
Phật an trụ nơi tự nghiệp, vì biết tùy nghiệp tích tập của chúng sanh mà hiện
hình tượng làm cho họ được giác ngộ. Môn niệm Phật an trụ thần biến, vì thấy liên
hoa quảng đại của Phật ngự nở xòe khắp pháp giới. Môn niệm Phật an trụ hư không
vì quán sát những thân Như Lai trang nghiêm pháp giới hư không giới. Như vậy ta
làm sao biết được nói được những công đức hạnh của đại Bồ Tát.
Này thiện nam tử ! Phương
Nam có một nước tên là Hải Môn, nơi đó có Tỳ Kheo tên là Hải Vân. Ngươi đến hỏi
Hải Vân rằng Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ? Hải Vân Tỳ Kheo có
thể phân biệt nói nhơn duyên phát khởi thiện căn quảng đại.
Này thiện nam tử ! Hải Vân
Tỳ Kheo sẽ làm cho ngươi nhập ngôi trợ đạo quảng đại, sẽ làm cho ngươi sanh sức
thiện căn quảng đại, sẽ vì ngươi mà nói nhơn duyên phát tâm Bồ đề, sẽ làm cho
ngươi sanh quang minh đại thừa quảng đại, sẽ làm cho ngươi tu ba la mật quảng
đại, sẽ làm cho ngươi nhập những hạnh hải quảng đại, sẽ làm cho ngươi viên mãn
thệ nguyện quảng đại, sẽ làm cho ngươi tịnh môn trang nghiêm quảng đại, sẽ làm
cho ngươi sanh sức từ bi quảng đại.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử
đảnh lễ chân Ðức Vân Tỳ Kheo, hữu nhiễu quán sát, từ tạ mà đi.
PHỤ CHÚ.-
Tỷ-khưu Đức-Vân dạy
Thiện-tài Đồng-tử về môn “ỨC-NIỆM NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI TRÍ-HUỆ
QUANG-MINH PHỔ-KIẾN”, như thế nào mà gặp được chư Phật ở mười phương
tịnh độ?
Lúc đầu, thì Bồ-tát Văn-Thù Sư-lợi dạy cho Thiện-Tài
Đồng-Tử “PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM”, tức là chỉ dạy cho Thiện-Tài về phần “TÍN-GIẢI”, mà
không dạy về phần “HÀNH-CHỨNG”, KHÔNG DẠY làm thế nào để “NHẬP
PHÁP GIỚI.”
Rồi THIỆN TÀI được Bồ-tát Văn-thù giới thiệu theo học với “TỶ-KHƯU ĐỨC VÂN”,
rồi Tỷ-khưu Đức-vân giới thiệu tới một vị “Thiện Tri Thức” khác… cho đến sau
cùng gặp ”PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT” dạy THIỆN TÀI “PHÁT NGUYỆN VÃNG
SANH” VỀ CÕI CỰC LẠC CỦA ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ, thì mới mau “NHẬP PHÁP
GIỚI” một cách viên mãn.
Tôi nay hồi hướng các căn lành
Ðể được Phổ Hiền hạnh thù thắng.
Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung
Trừ hết tất cả các chướng ngại
Tận mặt gặp Phật A Di Ðà
Liền được vãng sanh cõi Cực Lạc,
Tôi đã vãng sanh cõi kia rồi
Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này
Cả thảy tròn đủ không thừa thiếu
Lợi lạc tất cả các chúng sanh.
Chúng hội Di Ðà đều thanh tịnh
Tôi từ hoa sen nở sinh ra
Thân thấy đức Phật Vô Lượng Quang
Liền thọ ký tôi đạo Bồ Ðề.
Nhờ đức Phật kia thọ ký rồi
Tôi hóa vô số vạn ức thân
Trí huệ rộng lớn khắp mười phương
Khắp lợi tất cả chúng sanh giới.
Nhẫn đến hư không thế giới tận
Chúng sanh, nghiệp và phiền não tận
Nhưng bốn pháp ấy không cùng tận
Nguyện tôi rốt ráo hằng vô tận
Tại sao “Bồ-tát Văn-thù” không dạy, mà giới thiệu tới “Tỷ-khưu Đức-vân” học
Đạo ? Vì bấy giờ, Thiện-tài không thấy rằng gặp Bồ-tát Văn-thù là
một chuyện hy-hữu, trong trăm ngàn muôn ức kiếp khó gặp được một lần, nên dù
Bồ-tát Văn-thù có dạy, thì Thiện-tài cũng không chứng nhập được.
Cho nên, trước khi lên đường tìm cầu “THIỆN TRI THỨC”, Bồ-tát Văn-thù dặn dò
THIỆN-TÀI rằng:
“Thiện tri thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy thuận. Nơi thiện
xảo phương tiện của thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm. (Y theo PHÁP không Y theo NGƯỜI)
Lời dạy của “BỒ-TÁT VĂN-THÙ” cũng giống như Phẩm “TỨ-Y” trong
“Kinh Đại-Bát Niết-Bàn”:
1) Y theo PHÁP không Y theo NGƯỜI
2) Y theo NGHĨA không Y theo LỜI
3) Y theo TRÍ không Y theo THỨC
4) Y theo KINH LIỄU-NGHĨA không Y theo KINH CHẲNG LIỄU NGHĨA
Phương nam này có một nước tên là Thắng Lạc. Trong nước Thắng
Lạc có tòa núi tên là Diệu Phong. Trên núi đó có một Tỳ kheo tên là Ðức Vân.
Ngươi nên đến hỏi Tỳ Kheo Ðức Vân : Bồ Tát phải học Bồ Tát
hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải như
thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ? Tỳ Kheo Ðức Vân
sẽ chỉ bảo cho ngươi.”
Thiện Tài đồng tử nghe xong hớn hở vui mừng, đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rơi lệ từ tạ mà đi qua hướng
Nam, đến nước Thắng Lạc, lên núi Diệu Phong. Ở trên núi đó xem ngó tìm kiếm
khắp bốn phía, lòng khao khát muốn được gặp Tỳ-Kheo Ðức-Vân. Bảy
ngày sau mới được thấy Tỳ Kheo Ðức Vân ở trên ngọn núi khác đi
kinh hành chậm rãi.
BÀI HỌC THỨ 1
DẠY “NHỚ NIỆM THIỆN TRI THỨC” trong 7 ngày.
Tỷ-khưu Đức-vân dạy Thiện-tài về môn
“NHỚ NIỆM THIỆN TRI THỨC”, cũng giống như pháp “TRÌ DANH HIỆU PHẬT”, trong KINH
A-DI-ĐÀ , làm cho Thiện-tài có “TÂM” mong cầu muốn gặp được
Thiện-Tri-Thức, nên trong 7 ngày nhớ niệm, khát ngưỡng mong gặp Tỷ-khưu
Đức-vân, nên được nhất Tâm, như chỉ được sự nhất tâm mà thôi,
vì còn thấy mình ở núi bên nầy, Tỷ-khưu Đức-vân ở núi bên kia (còn năng niệm sở
niệm)
Thấy xong, Thiện Tài đồng tử liền đến đảnh lễ chân Tỳ Kheo Ðức Vân, hữu nhiễu ba vòng cung kính đứng trước Ðức Vân mà bạch rằng :
Bạch Ðức Thánh ! Tôi
đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát phải học Bồ
Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải
thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ? Tôi nghe đức
Thánh khéo có thể dạy bảo, mong đức Thánh thương xót dạy cho tôi thế nào Bồ
Tát được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Ðức Vân Tỳ Kheo bảo Thiện Tài đồng tử rằng :
Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, lại có thể hỏi hạnh của Bồ Tát. Việc như vậy là sự khó trong những sự khó. Những là cầu Bồ Tát hạnh, cầu Bồ Tát cảnh giới, cầu đạo xuất ly của Bồ Tát, cầu đạo thanh tịnh của Bồ Tát, cầu tâm thanh tịnh quảng đại của Bồ Tát, cầu Bồ Tát thành tựu thần thông, cầu Bồ Tát thị hiện môn giải thoát, cầu Bồ Tát thị hiện việc làm tại thế gian, cầu Bồ Tát tùy thuận tâm của chúng sanh, cầu môn sanh tử Niết bàn của Bồ Tát, cầu Bồ Tát quán sát hữu vi vô vi tâm không chấp trước.
Này thiện nam tử ! Ta
được sức thắng giải tự tại quyết định, tín nhãn thanh tịnh, trí
quang chói sáng, thấy khắp các cảnh giới khỏi tất cả chướng ngại, quán sát khéo
léo, phổ nhãn sáng suốt, đủ hạnh thanh tịnh. Qua đến tất cả cõi nước
mười phương cung kính cúng dường tất cả chư Phật. Thường nhớ
tất cả chư Phật Như Lai. Tổng trì tất cả chánh pháp của chư
Phật. Thường thấy tất cả chư Phật mười phương.
Những là thấy phương
đông một đức Phật, hai đức Phật, mười đức Phật, trăm đức Phật, ngàn
đức Phật, ức đức Phật, trăm ức đức Phật, ngàn ức đức Phật, trăm ngàn ức đức
Phật, na do tha ức đức Phật, trăm na do tha ức đức Phật, ngàn na do tha ức đức
Phật, trăm ngàn na do tha ức đức Phật, nhẫn đến thấy vô số, vô lượng, vô biên
vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết,
bất khả thuyết bất khả thuyết đức Phật.
Nhẫn đến thấy chư Phật
bằng số vi trần trong Diêm Phù Ðề, bằng số vi trần trong bốn châu thiên hạ,
bằng số vi trần trong Tiểu thiên thế giới, bằng số vi trần trong nhị thiên thế
giới bằng số vi trần trong Ðại Thiên thế giới, bằng số Phật sát vi trần nhẫn
đến thấy chư Phật bằng số bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần.
Như phương đông, chín phương kia cũng đều thấy như
vậy.
Chư Phật trong mỗi
phương, những sắc tướng, những hình mạo, những thần thông, những du hí, những
chúng hội trang nghiêm đạo tràng, những quang minh chiếu sáng vô biên, những
quốc độ, những thọ mạng. Tùy những tâm sở nghi của chúng sanh mà chư Phật thị
hiện những môn thành Ðẳng Chánh Giác, làm sư tử hống trong đại chúng.
Này thiện nam tử ! Ta
chỉ được pháp môn "ức niệm Nhứt thiết chư Phật cảnh giới trí huệ
quang minh phổ kiến" này thôi.
BÀI HỌC THỨ 2
DẠY “ỨC-NIỆM NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI TRÍ-HUỆ QUANG-MINH PHỔ-KIẾN”
Khi niệm một vị
Phật nào đó tới “không còn năng niệm sở niệm”, thì thấy được TẤT
CẢ CHƯ PHẬT HIỆN Ở TRONG “PHỔ-QUANG MINH TRÍ” SÁT-NA TẾ TAM MUỘI ,
rồi “Qúy-vị” có khả năng hóa hiện vô-lượng thân, ở trước vô-lượng
chư Phật ở 10 phương đồng thời niệm Phật. Vì Thường niệm tất
cả chư Phật Như Lai, nên Thường thấy tất cả chư Phật ở mười phương Tịnh-độ.
Đây gọi là “ỨC-NIỆM NHỨT-THIẾT
CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI TRÍ-HUỆ QUANG-MINH PHỔ-KIẾN”. Còn gọi là: “PHỔ-QUANG MINH
TRÍ” SÁT-NA TẾ TAM MUỘI.”
Cảnh giới nầy, cũng giống như LỄ
PHẬT “không còn năng lễ sở lễ”.
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
2.- HẢI VÂN TỲ KHEO
Kinh:
Này thiện nam tử, phương
Nam có một nước tên Hải Môn, nơi đó có Tỳ Kheo tên Hải Vân, ngươi đến đó hỏi
Hải Vân rằng, Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.
Giảng:
Trên kia, lúc đầu ngài
Thiện Tài đến nước Thắng Lạc, núi Diệu Phong, còn đây thì chỉ đến nơi Hải Môn,
đó là tên của một cửa bể. Nghĩa bóng của nó chính là cái biển của tâm, và tên
Hải Vân là mây ở trên bể. Mây ở trên bể tức là những thiện căn quảng đại, và vị
Hải Vân sẽ dạy Thiện Tài cách đắc các thứ thiện căn quảng đại… Ngài Thiện Tài
bèn lễ ngài Đức Vân, để từ tạ mà đi. Trong khi đi, ngài quán sát cái “trí tuệ
quang minh môn,” có nghĩa là lúc ấy ngài Thiện Tài hiểu rõ rằng, tất cả pháp
giới này chỉ được dệt nên bằng quang minh mà thôi. Vì sao? Vì thấy Phật là thấy
đại quang minh, và Phật cũng là Tạng quang minh biến hóa không cùng tràn đầy
thế gian. Ngài Thiện Tài tin chắc như vậy, vì lòng tin đó nên mới có cái sức mà
đi. Như kinh nói “Chư Phật hiện tiền môn, quang minh môn…” tức là làm thế nào
cho mình thấy được những quang minh đó. Thế rồi, ngài Thiện Tài đi lần đến xứ
Hải Môn. Thì vẫn có hai nghĩa, vẫn có một xứ tên là Hải Môn thật, và một vị Tỳ
Kheo là Hải Vân. Nhưng vẫn có một nghĩa tượng trưng đó là cửa biển của tâm. Lúc
đó, ngài Thiện Tài lễ vị Tỳ Kheo Hải Vân và cầu vị đó chỉ cho biết thế nào tu
Bồ Tát đạo, và hành Bồ Tát hạnh, như trong kinh nói, (đây là lời của ngài Thiện
Tài): “Thế nào bỏ nhà thế tục mà sanh vào nhà Như Lai? Thế nào cạn được biển ái
dục mà sanh vào biển đại bi?”…) ở đây, quí vị cũng nên để ý rằng kinh thường
nhắc đến chữ đại bi, nhiều hơn nhắc đến chữ bát nhã, vì ở giai đoạn này là bước
vào giả quán, và bát nhã của các ngài đã chuyển thành đại bi rồi, thì như vậy
mới độ sanh được nhiều. Trong kinh cũng hay dùng chữ “đại bi” hoặc “trang
nghiêm” hoặc “phổ trang nghiêm” hay “diệu trang nghiêm” v.v… mà mỗi chữ đều có
một ý nghĩa khác nhau. Lúc gặp, ngài Hải Vân Tỳ Kheo trước hết tán tụng Bồ Đề
Tâm trước đã, (mà phần đông ngài nào cũng làm thế cả), sau đó ngài mới dạy…
Kinh:
Này thiện nam tử, ta ở
nước Hải Môn này đã mười hai năm thường dùng đại hải làm cảnh giới, những là
suy gẫm dại hải quảng đại vô lượng, suy gẫm đại hải rất sâu khó lường, suy gẫm
đại hải lần lần sâu rộng, suy gẫm đại hải vô lượng châu báu kỳ diệu trang
nghiêm, suy gẫm đại hải chứa vô lượng nước, suy gẫm đại hải màu nước, chẳng
động, không thể nghĩ bàn. Suy gẫm đại hải là chỗ ở của vô lượng chúng sanh, suy
gẫm đại hải dung thọ những chúng sanh thân to lớn, suy gẫm đại hải nạp thọ nước
của trận mưa lớn, suy gẫm đại hải không tăng không giảm.
Giảng:
Một mặt, ngài dạy rằng
có một cái biển thực như vậy, nghĩa là có nhiều sự kỳ diệu của nó. Thí dụ nó có
thể chứa vô lượng chúng sanh, chứa tất cả nước mưa mà không bao giờ đầy vơi cả.
Ngài nói rằng “ta ở nơi đây mười hai năm,” thì ta có thể hiểu rằng mười hai năm
ở đây có một nghĩa sâu hơn. Trong kinh hay dùng những con số như một, mười hoặc
mười hai. số mười hai là chỉ cho sự viên mãn của một chu kỳ, chẳng hạn như ngài
nói rằng ngài quán cái biển này mười hai năm, cũng như trong kinh Pháp Hoa có
ngài Nhất Thiết chúng Sanh Hỉ Kiến Bồ Tát, kinh hành tụng kinh Pháp Hoa trong
một nghìn hai trăm năm, tức là một chu kỳ lớn hơn, nhưng cũng có ý viên mãn một
chu kỳ. Và trong kinh Hoa Nghiêm, có rất nhiều chỗ dùng mười hai năm, như ngài
Thiện Tài đi từ ngài thứ tư đến ngài thứ năm đi mất mười hai năm, thì cũng thế,
đó cũng là một chu kỳ viên mãn, chứ không phải là mười hai năm thường. Trở về
với kinh, ngài thiện tri thức thứ hai này nói ta ở cửa biển này mười hai năm mà
ta thường quán cái biển này, tức là quán biển tâm của ngài. Ngài nói đại hải đó
rất sâu, mà lại quảng đại rộng lớn vô lượng, thì cũng như cái tâm vậy. Đôi khi,
tâm ấy còn rộng lớn vô lượng hơn nữa. Ngài suy ngẫm đại hải này dung chứa tất
cả thứ nước, thì cũng như cái tâm, nó dung chứa tất cả pháp giới. Đại hải này
dung chứa tất cả chúng sanh, ngay cả những chúng sanh râ’t to lớn, cũng thế,
tâm cũng dung chứa hết tất cả pháp giới này, và có một điều rất kỳ lạ là tâm đó
không bao giờ đầy, không bao giờ vơi cả, mà thật ra nó cũng chẳng có, chẳng
không…
Kinh:
Này thiện nam tử, lúc
suy gẫm như vậy, ta lại nhớ rằng thế gian này có gì rộng lớn hơn đại hải không?
Còn có gì vô lượng hơn đại hải chăng? Còn có gì sâu hơn chăng? Còn có gì lạ hơn
đại hải này chăng?
Giảng:
Tức là sao? ở đây, ta
nên nhắc lại chuyện một vị Tổ thiền bên Ấn Độ, ngài đến thăm một vị vua.
Vua có một vị hoàng tử
tức là ngài Bồ Đề Đạt Ma sau này. Ngài hỏi ngay rằng: trong thế gian này, cái
gì ghê gớm nhất, sâu nhất, lớn nhất? Ngài Đạt Ma trả lời ngay rằng: đó là cái
tâm. Thì ở đây cũng thế, ngài suy ngẫm biển kia tuy là lớn, rộng, và sâu nhưng
cũng chưa lạ bằng cái tâm, vì tâm kia còn sâu hơn, lớn hơn, còn dung chứa nhiều
chúng sanh hơn, mà dung chứa cả pháp giới này. Và hơn nữa, nó mang một tính chất
cực kỳ lạ lùng và kỳ diệu, vì nó có khả năng biến hiện tất cả…
Kinh:
Này thiện nam tử, lúc ta
suy ngẫm như vậy, bỗng có đại liên hoa xuất hiện.
Giảng:
Ngài ngồi quán cái biển
tâm ấy, bỗng một ngày kia ngài nhìn thấy ở mặt biển mọc lên một cây đại liên
hoa. Thì cây này cũng rất lạ kỳ…
Kinh:
Liên hoa này cọng bằng
vô năng thắng nhơn đà la ni bửu, cánh bằng lưu ly, nở thơm lan tràn khắp tất cả
đại hải, trăm vạn A Ta La cầm cọng hoa, trăm vạn châu ma ni kết lưới trang
nghiêm, trăm vạn Long Vương mưa nước thơm, trăm vạn Ca Lâu La Vương v.v… (tiếp theo mấy trang nói như vậy…)
Giảng:
Bông liên hoa này chính
là pháp giới, vì ngài quán giả, ngài quán cái tâm kia, và cái tâm ấy nó hiện ra
pháp giới này, như vậy ngài quán từ không ra giả. cần nhớ rằng, ngài thiện tri
thức đầu tiên dạy cho ngài Thiện Tài chỉ quán đức Phật để vào niệm Phật tam
muội thôi. Đến đây, ngài thiện tri thức thứ hai dậy ngài Thiện Tài đi sâu hơn
nữa về quán giả, là quán cái biển tâm để thấy rõ ràng biển tâm ấy hiện ra pháp
giới này. Đây là các ngài chỉ cho ngài Thiện Tài những pháp môn tu hành chính.
Và pháp môn này tên là “Phổ Nhãn pháp môn” tức là trông rõ các pháp, và pháp
giới là do tâm biến hiện…
Nếu đọc hết thì rất dài,
nên ở đây, tôi chỉ nêu lên ý chính mà thôi. Để tóm lại, ngài thiện tri thức đầu
dạy Ức Niệm Nhứt Thiết chư Phật, còn ngài thứ hai thì dạy Quang Minh Phổ Nhãn
Pháp Môn, tất cả chỉ toàn là quang minh.
Kinh:
Này thiện nam tử, ở nơi
đức Phật ấy (tức là sau khi ngài nhìn thấy trong
Liên Hoa đó có một vị Phật ngồi), ta thọ trì pháp môn phổ nhãn như vậy trọn
một ngàn hai trăm năm (cũng là một chu kỳ viên mãn), trong mỗi ngày ta
dùng văn trì đà la ni quang minh lãnh thọ vô số phẩm, dùng tịch tịnh môn đà la
ni quang minh xu nhập vô số phẩm, dùng vô biên triền đà la ni quang minh vào
khắp vô số phẩm…
Giảng:
Tức là ngài quán chiếu
luôn luôn Phổ Nhãn Quang Minh đó đến độ tâm thức ngài mở ra, làm nở nhiều thứ
diệu đức, gọi là “đà la ni,” tức là tâm thức nở ra rất nhiều bông hoa.
Kinh:
Dùng quang tụ đà la ni
quang minh thêm rộng vô số phẩm, dùng hải tạng đà la ni quang minh luận biện
phân tích vô số phẩm.
Giảng:
Khi ngài vào trong tam
muội đó nhìn được pháp giới này, rồi ngài lại triền miên trong tam muội ấy nên
ngài được nhiều thứ đà la ni khiến nhìn pháp giới ở nhiều khía cạnh. Sau khi
dạy bảo, ngài lại chỉ cho ngài Thiện Tài đến ngài thiện tri thức thứ ba. Ngài
thứ ba này sẽ dạy rõ hơn hai vị thiện tri thức trước một chút, nhưng ngài cũng chưa
gia trì gì cả. Thiện Tài cũng chưa nhìn thấy gì hết, chỉ nghe các ngài nói
thôi.
Kinh:
Này thiện nam tử, từ đây
qua phương Nam sáu mươi do tuần, bên đường Lăng Già có một tụ lạc tên là Hải
Ngạn ồ đó có một Tỳ Kheo tên là Thiện Trụ, ngươi nên đến đó hỏi
Bồ Tát làm thế nào tịnh Bồ Tát hạnh.
Giảng:
Ngài thứ ba ở đường tên
là Lăng Già, tức tượng trưng cho cái tâm (vì kinh Lăng Già được gọi là kinh Tâm
Ấn) và có một tụ lạc tên là Hải Ngạn, cũng vẫn là “hải,” nhưng ở đây hơn ở Hải
Môn một chút, vì Hải Ngạn là sang đến bờ bên kia của biển, ở đó, có Tỳ Kheo tên
là Thiện Trụ, hãy đến đó hỏi Bồ Tát thế nào tịnh Bồ Tát hạnh.
Theo các sách Trung Hoa,
thì họ hay giảng theo từng mức thang đi lên, tỷ dụ như vị thiện tri thức đầu
tiên dạy ngài Thiện Tài vào bậc sơ trụ, ngài thứ nhì dạy nhị trụ, ngài thứ ba
là tam trụ v.v… Hoặc ngài thứ nhất dạy tu bố thí, thứ nhì dạy trì giới v.v…,
lối giảng giải này có vẻ không ổn lắm, vì ta thấy lời kinh không có gì gọi là
sơ trụ và nhị trụ, cũng không thấy các vị dạy ngài Thiện Tài bố thí hay trì
giới cả. Như ngài Đức Vân đáng lý phải dạy Thiện Tài hành trì bố thí mà không
thây ngài dạy gì về bố thí cả mà lại dạy cho Thiện Tài niệm Phật tam muội. Còn
ngài Hải Vân, đáng lẽ dạy Thiện Tài trì giới, nhưng lại dạy quán biển tâm. Nên
theo ý tôi, nếu giảng theo lối đó cũng có thể được nhưng không ổn lắm. Và chúng
ta cần hiểu rằng hành Bồ Tát đạo là đi trong tàng thức để thây cái tâm nó rất
chập chùng và biến hóa không cùng. Nên những vị thiện tri thức sau này, là các
ngài toàn thi triển những cảnh giới chập chùng trong tâm thức, mỗi ngài thị
hiện mỗi khác, có khi vẫn chỉ là bố thí, trì giới v.v… nhưng mỗi ngài mỗi khác,
nên chúng ta cũng không thể chia chẻ một cách nhất quyết được. Bây giờ, chúng
ta tới ngài Thiện Trụ…
Kinh:
Thiện Tài đảnh lễ chân
Hải Vân Tỳ Kheo hữu nhiễu chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. Lúc đó Thiện Tài đồng tử
chuyên niệm lời dạy của thiện tri thức, chuyên niệm phổ nhãn pháp môn, chuyện
niệm Phật thần lực, chuyên trì pháp cú vân, chuyện nhập pháp hải môn, chuyên
gẫm pháp sai biệt, thâm nhập pháp xoay chuyển vào khắp pháp hư không…
Giảng:
Lời kinh danh từ đổ
xuống như cơn lốc, nên chúng ta rất dễ lạc, không biết tìm danh từ nào chính
yếu cho mạch kinh. Tương tự như trong tâm thức chúng ta mọc một cái cây, nhưng
cây đó rậm rạp rất nhiều cành lá, nên chúng ta phải suy nghĩ cho khéo để tìm
đúng cái thân cây.
2.- HẢI VÂN TỲ KHEO
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết “PHỔ NHÃN PHÁP MÔN” này.
Thiện Tài đồng tử nhứt tâm
suy gẫm lời dạy của thiện tri thức. Chánh niệm quán sát trí huệ quang minh môn,
Bồ Tát giải thoát môn, Bồ Tát tam muội môn, Bồ Tát đại hải môn, chư Phật hiện
tiền môn, chư Phật phương sở môn, chư Phật quỹ tắc môn, chư Phật đẳng hư không
giới môn, chư Phật xuất hiện thứ đệ môn, chư Phật sở nhập phương tiện môn.
Thiện Tài đồng tử đi lần
qua phương Nam đến nước Hải Môn, đến chỗ HẢI VÂN TỲ KHEO, đảnh lễ chân Hải
Vân, hữu nhiễu xong, chắp tay bạch rằng :
Bạch đức Thánh ! Tôi đã
phát tâm Vô thượng Bồ đề, muốn nhập tất cả trí hải vô thượng, mà chưa biết Bồ
Tát thế nào có thể bỏ nhà thế tục sanh vào nhà Như Lai ? Thế nào có thể qua
khỏi biển sanh tử vào được biển Phật trí ? Thế nào lìa được hàng phàm phu vào
được hàng Như Lai ? Thế nào dứt được dòng sanh tử vào được dòng Bồ Tát hạnh ?
Thế nào phá được xe sanh tử thành xe Bồ Tát nguyện ? Thế nào diệt được cảnh
giới ma hiển dược cảnh giới Phật ? Thế nào cạn được biển ái dục thêm lớn biển
đại bi ? Thế nào đóng được cửa các nạn các ác đạo mở được cửa đại Niết bàn ?
Thế nào ra khỏi thành tam giới vào được thành Nhứt thiết trí ? Thế nào vất bỏ
được tất cả vật ngoạn hảo để đem lợi ích tất cả chúng sanh ?
Hải Vân Tỳ Kheo bảo Thiện
Tài đồng tử rằng :
- Thiện nam tử ! Người đã phát tâm Vô thượng Bồ đề rồi ư ?
Thiện Tài thưa :
- Vâng, tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Hải Vân Tỳ Kheo nói :
-Thiện
nam tử ! Nếu các chúng sanh chẳng gieo lành thời chẳng có thể phát tâm Vô
thượng Bồ đề. Cần phải được phổ môn thiện căn quang minh, đủ chơn thiệt đạo tam
muội trí quang, xuất sanh những phước hải quảng đại, tăng trưởng pháp bạch tịnh
không có lười nghỉ, thờ thiện trí thức chẳng mỏi nhàm, chẳng kể thân mạng,
không thề cất chứa, tâm bình đẳng như mặt đất không có niệm cao hạ, tánh thường
từ mẫn với tất cả chúng sanh, nơi các loài sanh tử chuyên niệm chẳng bỏ, hàng
thích quán sát cảnh giới Như Lai. Có như vậy mới phát được tâm Vô thượng Bồ đề.
Phát Bồ đề tâm là phát tâm
đại bi, vì cứu khắp tất cả chúng sanh. Là phát tâm đại từ, vì khắp giúp tất cả
thế gian. Là phát tâm an lạc, vì làm cho tất cả chúng sanh diệt tất cả khổ.
Phát tâm lợi ích, vì làm cho tất cả chúng sanh lìa ác pháp. Phát tâm ai mẫn, vì
có ai kinh sợ thời đều giữ gìn. Phát tâm vô ngại, vì rời bỏ tất cả chướng ngại. Phát
tâm quảng đại, vì tất cả pháp giới đều đầy khắp. Phát tâm vô biên, vì khắp cõi
hư không đều qua đến. Phát tâm rộng rãi, vì đều thấy tất cả Như Lai. Phát tâm
thanh tịnh, vì trí không trái với pháp tam thế. Phát tâm trí huệ, vì vào khắp
biển nhứt thiết trí huệ.
Này thiện nam tử ! Ta ở nước
Hải Môn này đã mười hai năm, thường dùng đại hải làm cảnh giới.
Những là suy gẫm đại hải
quảng đại vô lượng. Suy gẫm đại hải rất sâu khó lường. Suy gẫm đại hải lần
lần sâu rộng. Suy gẫm đại hải vô lượng châu báu kỳ diệu trang nghiêm. Suy gẫm
đại hải chứa vô lượng nước. Suy gẫm đại hải màu nước chẳng đồng không thể nghĩ
bàn. Suy gẫm đại hải là chỗ ở vô lượng chúng sanh. Suy gẫm đại hải dung thọ
những chúng sanh thân to lớn. Suy gẫm đại hải nạp thọ được nước của trận mưa
lớn. Suy gẫm đại hải không tăng không giảm.
Này thiện nam tử ! Lúc suy
gẫm như vậy, ta lại nghĩ rằng :Trong thế gian còn có gì rộng lớn hơn đại hải
này chăng ? Còn có gì vô lượng hơn đại hải này chăng ? Còn có gì rất sâu hơn
đại hải này chăng ? Còn có gì báu lạ hơn đại hải này chăng ?
Này thiện nam tử ! Lúc ta
suy gẫm như vậy, bỗng có đại liên hoa xuất hiện.
Liên hoa này cọng bằng vô
năng thắng nhơn đà la ni la bửu, cánh bằng phệ lưu ly bửu, lá bằng vàng diêm
phù đàn, đài bằng trầm thủy, tua bằng mã não, nở thơm lan khắp trùm che cả đại
hải.
Trăm vạn A Tu La Vương cầm
lấy cọng hoa.
Trăm vạn châu ma ni kết
lưới trang nghiêm giăng che trên hoa.
Trăm vạn Long Vương mưa
nước thơm.
Trăm vạn Ca Lâu La Vương
ngậm những chuỗi ngọc và dải lụa báu rủ thòng bốn phía.
Trăm vạn La Sát Vương từ
tâm quán sát.
Trăm vạn Dạ Xoa Vương cung
kính đảnh lễ.
Trăm vạn càn Thát Bà Vương
nhiều thứ âm nhạc tán thán cúng dường.
Trăm vạn Thiên vương mưa
những thiên hoa, thiên man, thiên hương, thiên thiêu hương, thiên đồ hương,
thiên mạt hương, thiên y phục , thiên tràng, thiên phan, thiên cái.
Trăm vạn Phạm Vương đảnh lễ
và cung kính.
Trăm vạn Tịnh Cư Thiên chắp
tay làm lễ.
Trăm vạn Chuyển Luân Vương
cúng dường thất bửu trang nghiêm.
Trăm vạn Hải Thần đồng xuất
hiện cung kính đảnh lễ.
Trăm vạn vị quang ma ni bửu
quang minh chiếu khắp.
Trăm vạn tịnh phước ma ni
bửu dùng để trang nghiêm.
Trăm vạn phổ quang ma ni
bửu làm tạng thanh tịnh.
Trăm vạn thù thắng ma ni
bửu ánh sáng rực rỡ.
Trăm vạn diệu tạng ma ni
bửu quang chiếu vô biên.
Trăm vạn diêm phù đàn ma ni
bửu thứ đệ bày hàng.
Trăm vạn kim cang sư tử ma
ni bửu chẳng thể phá hoại thanh tịnh trang nghiêm.
Trăm vạn nhật tạng ma ni
bửu quảng đại thanh tịnh.
Trăm vạn khả lạc ma ni bửu
đủ mọi màu.
Trăm vạn như ý ma ni bửu
trang nghiêm vô tận, quang minh chiếu rực.
Liên hoa lớn này có ra là
do thiện căn xuất thế của Như Lai. Tất cả Bồ Tát đều sanh lòng tin mến. Thập
phương thế giới đều hiện tiền. Từ như huyễn pháp mà sanh, như mộng pháp mà
sanh, thanh tịnh nghiệp mà sanh. Trang nghiêm bằng pháp môn vô tránh. Nhập ấn
vô vi. Trụ môn vô ngại. Sung mãn tất cả quốc độ mười phương. Tùy thuận cảnh
giới thậm thâm của chư Phật.
Trong vô số trong ngàn kiếp
ca ngợi công đức đó cũng không hết được.
Lúc đó ta thấy trên liên
hoa lớn ấy có một đức Như Lai ngồi kết già. Thân Phật từ đây cao đến trời Hữu
Ðảnh.
Tòa bửu liên hoa bất tư
nghì. Ðạo tràng chúng hội bất tư nghì. Những tướng hảo thành tựu bất tư nghì.
Tùy hảo viên mãn bất tư nghì. Thần thông biến hóa bất tư nghì. Sắc tướng thanh
tịnh bất tư nghì. Vô kiến đảnh tướng bất tư nghì. Tướng lưỡi rộng dài bất tư
nghì. Ngôn thuyết thiện xảo bất tư nghì. Âm thanh viên mãn bất tư nghì. Lực vô
biên tế bất tư nghì. Thanh tịnh vô úy bất tư nghì. Biện tài quảng đại bất tư
nghì.
Ta lại nghĩ nhớ đức Phật đó
thuở xưa tu hành bất tư nghì. Tự tại thành đạo bất tư nghì. Diệu âm diễn pháp
bất tư nghì. Phổ môn thị hiện các thứ trang nghiêm bất tư nghì. Tùy hai bên
thấy Phật đều sai khác bất tư nghì. Tất cả sự lợi ích đều làm cho viên mãn bất
tư nghì.
Lúc đó, đức Như Lai ấy liền
đưa tay hữu rờ đảnh đầu của ta, vì ta mà diễn nói phổ nhãn pháp môn, khai thị
cảnh giới tất cả Như Lai, hiển pháp tất cả hạnh Bồ Tát, xiển minh tất cả diệu
pháp của chư Phật, tất cả pháp luân đều nhập trong đó. Có thể thanh tịnh tất cả
Phật độ. Có thể dẹp tất cả dị đạo tà luận. Có thể diệt tất cả quân ma. Có thể
làm cho chúng sanh đều sanh hoan hỷ. Có thể soi tất cả tâm hành của các chúng
sanh. Có thể biết những căn cơ của tất cả chúng sanh, tùy tâm chúng sanh đều
làm cho được khai ngộ.
Ở nơi đức Như Lai ấy, ta
được nghe pháp môn này, thọ trì đọc tụng ghi nhớ quán sát.
Giả sử có người dùng nước
mực nhiều như nước đại hải, cây viết chất đống lớn như núi Tu Di, biên chép
pháp môn phổ nhãn này, một môn trong một phẩm, một pháp trong một môn, một
nghĩa trong một pháp, một câu trong một nghĩa cũng viết chẳng được ít phần
huống là có thể viết hết.
Này thiện nam tử ! Ở nơi
đức Phật ấy, ta thọ trì pháp môn phổ nhãn như vậy trọn một ngàn hai trăm năm.
Trong mỗi ngày, ta dùng văn trì đà la ni quang minh lãnh thọ vô số phẩm. Dùng
tịch tịnh môn đà la ni quang minh xu nhập vô số phẩm. Dùng vô biên triền đà la
ni quang minh vào khắp vô số phẩm. Dùng tùy tha quán sát đà la ni quang minh
phân biệt vô số phẩm . Dùng oai lực đà la ni quang minh nhiếp khắp vô số phẩm.
dùng liên hoa trang nghiêm đà la ni quang minh dẫn phát vô số phẩm. Dùng thanh
tịnh ngôn âm đà la ni quang minh khai diễn vô số phẩm. Dùng hư không tạng đà la
ni quang minh hiển thị vô số phẩm. Dùng quang tụ đà ni quang minh thêm rộng vô
số phẩm. Dùng hải tạng đà la ni quang minh luận biện phân tích vô số phẩm.
Nếu có chúng sanh từ mười
phương đến, hoặc Thiên, hoặc Thiên Vương, hoặc Long, hoặc Long Vương, hoặc Dạ
Xoa, hoặc Dạ Xoa Vương, hoặc Càn Thát Bà, hoặc Càn Thát Bà Vương, hoặc A Tu La,
hoặc A Tu La Vương, hoặc Ca Lâu La, hoặc Ca Lâu La Vương, hoặc Khẩn Na la, hoặc
Khẩn Na La Vương, hoặc Ma Hầu La Già, hoặc Ma Hầu La Già Vương, hoặc Nhơn, hoặc
Nhơn Vương, hoặc Phạm hoặc Phạm Vương. Tất cả đại chúng như vậy đều đến chỗ ta.
Ta đều vì họ mà khai thị giải thích xưng dương tán thán. Ðều làm cho họ mến
thích xu nhập an trụ quang minh phổ nhãn pháp môn này.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ
biết “PHỔ NHÃN PHÁP MÔN” này.
Như chư đại Bồ Tát thâm
nhập tất cả Bồ Tát hạnh hải, vì tùy duyên nguyện lực mà tu hành. Nhập đại
nguyện hải vì ở thế gian trong vô lượng kiếp số. Nhập tất cả chúng sanh hải, vì
tùy tâm sở thích của họ để rộng lợi ích. Nhập nhứt thiết chúng sanh tâm hải, vì
xuất sanh thập phương vô ngại trí quang. Nhập nhứt thiết chúng sanh căn hải, vì
đáng tùy cơ nghi giáo hóa đều làm cho điều phục. Nhập tất cả sát hải, vì thành
mãn bổn nguyện nghiêm tịnh Phật độ. Nhập tất cả Phật hải, vì nguyện thường cúng
dường chư Như Lai. Nhập tất cả pháp hải, vì có thể dùng trí huệ đều ngộ nhập.
Nhập tất cả công đức hải, vì mỗi mỗi tu hành cho được đầy đủ. Nhập tất cả chúng
sanh ngôn từ hải, vì ở tất cả cả cõi chuyển chánh pháp luân.
Như thế thời ta làm sao
biết được nói được công đức hạnh đó.
Này thiện nam tử ! Từ đây
qua phương Nam sáu mươi do tuần, bên đường Lăng Già, có một tụ lạc tên là. Hải
Ngạn. Ở đó có Tỳ Kheo tên là Thiện Trụ. Ngươi nên đến đó hởi : Bồ Tát phải thế
nào tịnh Bồ Tát hạnh ?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ
chân Hải Vân Tỳ Kheo, hữu nhiễu chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
3.- THIỆN TRỤ TỲ KHEO
Kinh:
Thiện Tài đồng tử vừa tư
duy suy gẫm, đi lần qua phương Nam, đến bên đường Lăng Già, nơi tụ lạc Hải
Ngạn, xem xét mười phương tìm cầu Thiện Trụ Tỳ Kheo…
Giảng:
Khi một hành giả muốn
gặp một vị nào thì phải quán chiếu thâm sâu, như chúng ta muốn gặp được đức A
Di Đà thì phải quán chiếu rất lâu. Trong kinh, lúc đầu ngài Thiện Tài phải quán
chiếu bảy ngày mới thấy được ngài Đức Vân. Đến đây, ngài quán chiếu một lúc là
thấy ngay, như vậy tâm thức của ngài cũng đã sâu hơn trước rồi.
Kinh:
Thiện Tài thấy Thiện Trụ
Tỳ Kheo đi kinh hành qua lại ở trong hư không.
Giảng: Lúc đầu, ta nhớ rằng Thiện Tài thây vị thiện tri thức
đầu tiên đi kinh hành trên một ngọn núi, vị thứ nhì thây đứng ở bờ biển, còn vị
này thì đi giữa hư không. Tức là vị này hình như cao hơn hai vị kia, mà vị này
dạy một pháp môn cao hơn thật, vì ngài không dạy quán giả mà ngài lại dạy song
chiếu, tức là quán trung.
Kinh:
Có vô số chư Thiên
cung kính vây quanh, rưới những thiên hoa, trổi thiên kỷ nhạc, tràng phan gấm
lụa thảy đều nhiều vô số dầy khắp hư không để cúng dường. Chư
đại Long vương ở giữa hư không nổi bất tư nghì mây trầm thủy hương, chân sấm,
xẹt chớp, dùng để cúng dường…
Giảng:
Ở đây, chúng ta thấy vô
số chúng cung kính vây quanh, ngài Đức Vân thì không thấy có chúng vây quanh,
ngài Hải Vân lúc đầu cũng không thấy, nhưng đến khi ngài nói khi ta quán thấy
được bông Liên Hoa nổi lên thì có rất nhiều Ca Lâu La Vương hoặc vua trời v.v…
cầm cọng hoa, chứ không phải vây chung quanh ngài Hải Vân. Còn đến ngài Thiện
Trụ Tỳ Kheo thì thấy ngài đi kinh hành giữa hư không mà chung quanh toàn những
Long Vương, hoặc chư Thiên, Khẩn Na La Vương, Chư Thần v.v… đến hầu, thì có thể
mức tu chứng của vị này đã cao hơn rồi, đồng thời ngài cũng dạy cho Thiện Tài
pháp môn cao hơn. Ở đây, chúng ta khó có thể xét kỹ các ngài về mức độ tu
chứng. Chỉ cần nhận định đối với một vị tu hành cao, mức độ y báo lộng lẫy
thường tương xứng với mực độ tâm thức.
Kinh:
Bạch Đức Thánh, tôi đã
phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào tu hành Phật pháp, thế nào
tích tập Phật pháp, thế nào đầy đủ Phật pháp, thế nào huân tập Phật pháp, thế
nào tăng trưởng Phật pháp, thế nào tổng nhiếp Phật pháp, thế nào cứu cánh Phật
pháp, thế nào thâm tịnh Phật pháp, thế nào thông đạt Phật pháp.
Giảng:
Thân tịnh là thế nào?
Tức là khi đã lên cao thì sau khi đã quán không, thì phải đi vào giả nữa, và
bây giờ phải đến chỗ tịnh hơn nữa, tức là đi vào trung đạo song chiếu.
Kinh:
Tôi nghe đức thánh khéo
dạy bảo… (bỏ một đoạn kinh), khi ngài dạy Bồ
Tát thế nào chẳng bỏ hữu vi mà cũng chẳng trụ hữu vi, ở trong
tất cả loài hữu lậu, dường như biến hóa, thị hiện thọ sanh tử tu Bồ Tát hạnh?
Bồ Tát thế nào chẳng bỏ nghe pháp đều có thể lãnh thọ chánh giáo của chư Phật?
Bồ Tát thế nào chẳng bỏ trí quang vào khắp chỗ sở hành của tam thế trí?
Giảng:
Ngài Thiện Trụ lúc đầu
khen ngài Thiện Tài, sau ngày nói rằng: “Này thiện nam tử, ta đã thành tựu
môn giải thoát vô ngại, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc đến, hoặc lui, tùy thuận tư
duy tu tập quán sát, liền được trí huệ quang minh tên là Cứu Cánh Vô Ngại, vì
được trí huệ quang minh này, nên biết tâm hành của tất cả chúng sanh không
chương, không ngại. Biết sự chết và sanh của tất cả chúng sanh, biết đời trước
của tất cả chúng sanh, biết những kiếp vị lai của tâ’t cả chúng sanh, biết
những sự trong đời hiện tại của tất cả chúng sanh, biết những ngôn ngữ âm thanh
nhiều loại sai biệt của tất cả chúng sanh… (bỏ một khúc…), biết tất cả
sát na la-bà- mâu-hô-lật-da, giờ khắc ngày đêm, biết thứ đệ lưu chuyển trong
biển tam thế… Biết tất cả sát na, có nghĩa rằng ngài biết từng tia chớp nháng
một, và biết từng đơn vị thời gian rất nhỏ.”
Kinh:
Tại sao vậy? Vì được sức
thần thông vô trụ, vô tác.
Giảng:
Thần thông vô trụ vô tác
là cao lắm rồi, nhưng ở mức độ này cũng chưa phải là mức độ vô trụ, vô tác của
chư Phật đâu, vì chúng ta nên nhớ rằng, lộ trình tu hành của nhà Phật đi
theo vòng trôn ốc, nên có những nấc viên dung
của nó. ở chỗ vô trụ, vô tác này, nếu so với chư Phật thì vẫn còn thấp mà phải
đến chỗ vô trụ, vô tác bất động mới là tuyệt vời, tức là đến chỗ vô trụ, vô tác
của chư Phật. Nên vị này, mức độ chỉ ở một nấc nào viên dung
của trung đạo song chiếu thôi. Khi một hành giả quán giả, để đi vào trung đạo
song chiếu, thì thần thông nở ra như hoa, còn như chỉ quán không thôi, thì hành
giả đi được vào thức ấm nông cạn, chưa có thần thông gì mấy. Chúng ta nên biết,
đi vào không hải phải đi qua tứ thiền, đến được đệ tứ thiền thì có những thần
thông như bặt được hơi thở, ngưng tim đập mà không chết. Nên các vị hành giả
khi đã vào đệ tứ thiền rồi thì có được sự tự tại trong việc chết, tỷ dụ như có
vị thiền sư chỉ cần thắp một nén hương, vào tứ thiền, bặt hơi thở là đi luôn.
Ngoài ra, các ngài còn có thể biến hóa và phóng hào quang được, biến hóa thân
mình được ít nhiều, như trên thân ra lửa, dưới thân tuôn nước, có thể biến thân
lớn như núi, hoặc biến thân nhỏ lại như hạt cải, nhưng không biến hóa được
ngoại vật, và cũng chưa đủ sức để hóa hiện nhiều hóa thân, tức là phân thân vô
lượng. Vụ này cần phải vào đại bi, vào trung đạo song chiếu để biến hóa được
nhiều… Trở lại kinh, ngài Thiện Trụ nói ta được sức giải thoát thần thông vô
trụ, vô tác.
Kinh:
Này thiện nam tử, vì ta
được sức thần thông này nên ở giữa hư không hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc
nằm, hoặc ẩn, hoặc hiện, hoặc hiện một thân, hoặc hiện nhiều thân, đi xuyên qua
tường vách như nơi trong không, ở trên hư không ngồi kiết già qua lại tự tại
như chim bay, vào trong đất như xuống nước, đi trên nước như trên đất khắp thân
trên dưới đều phát lửa ngọn như đấng lửa lớn. Hoặc có lúc chân động tất cả đại
địa, hoặc có lúc lấy tay rờ rẫm mặt nhật, mặt nguyệt, hoặc hiện thân mình cao
đến Phạm Cung, hoặc hiện mây hương đốt, hoặc hiện mây bửu diệm v.v… thảy đều
rộng lớn dầy khắp hư không mười phương… (bỏ một đoạn…), hoặc trong một niệm qua phương đông một thế giới, hai thế
giới, trăm thế giới, ngàn thế giới… bất khả thuyết, bất khả thuyết thế giới…,
qua bất khả thuyết, bất khả thuyết phật sát vi trần số thế giới, ta ở trước
chư Phật Thế Tôn trong tất cả quốc độ đó mà nghe thuyết pháp, ớ chỗ mỗi
đức Phật, hiện vô lượng Phật sát vi trần số thân sai khác.
Giảng:
Ở đây, chúng ta thấy
ngài hiện vô lượng số thân vi trần số sai khác như thế thì đã thấy thần biến
rất ghê gớm rồi, nhưng so với chư Phật thì chưa đi đến đâu cả…
Kinh:
Mỗi đức Như Lai, có bao
nhiêu lời ta đều thọ trì cả, (tức là ngài đã được văn
trì đà la ni), nơi mỗi quôc độ có bao nhiêu sự trang nghiêm ta đều nhớ rõ
cả.
Giảng:
Quốc độ đẹp đẽ thế nào
thì vị này nhớ rõ cả, mà nói cho cùng, tất cả sự đẹp đẽ trang nghiêm đều nằm
trong tàng thức ấy cả, vấn đề là mình phải lọt được vào trong ấy thì sẽ thấy đủ
tất cả sự trang nghiêm, và tất cả chín phương kia cũng đều như vậy.
Kinh:
Tất cả chúng sanh trong
những thế giới đó ta đều thấy rõ, ta đều thấy rõ tùy theo sự lớn nhỏ thắng liệt
khổ vui của họ mà thị hiện đồng thân hình với họ để giáo hóa cho họ được thành
tựu… (bỏ một khúc...). Này thiện nam tử,
ta chỉ biết pháp môn vô ngại giải thoát mau chóng cúng dường khắp chư Phật
thành tựu khắp chúng sanh này.
Giảng:
Vị này, theo quí vị nghĩ
ngài dạy pháp môn gì? Ta lại phải trở lại cái tên của ngài, vì chúng ta cũng
cần để ý đến những tên, và những ngôn danh trong kinh, luôn luôn mang theo một
ý nghĩa cần thiết của nó. Ngài tên là Thiện Trụ, nghĩa là Khéo Trụ. Tức
là khéo giữ giữa cái sắc và cái không, giữa Bát Nhã và Đại Bi,
tựa như con chim có hai cánh, thì có thể bay xa ngàn dặm được. Đại lược, có
khoảng ba, bốn vị đầu dạy cho Thiện Tài những nét chính, còn những vị sau thì
chỉ thi triển thần biến, như những bông hoa lạ nở trong pháp giới này mà thôi.
Nên phải giữ cái tâm thật khéo mà không nghiêng về bên nào cả. “Khéo khéo lúc
dụng tâm, khéo khéo không tâm dụng” là vì vậy, theo như ngài Huyền Giác nói. Đó
là một kỹ thuật dụng tâm rất cao siêu mà chúng ta phải cặm cụi nghĩ mãi mới
thấy được ít chút sự mầu nhiệm. Nên chúng ta phải khéo dụng tâm, lúc nào cũng
nhìn cảnh giới như “hoa trong gương, trăng đáy nước” thôi, và như vậy, ta có
thể giữ được tâm ở trung đạo, giữa Bát Nhã và Đại Bi, giữ giữa sắc và không. Tỷ
dụ như đối với một người bạn, một người vợ, hay một người con, chúng ta sẽ
không bị tình nhiễm bao vây nhiều nữa, dù vậy ta vẫn làm tất cả những lo lắng
cần thiết cho người đó để độ sanh. Quán tâm như vậy lâu dài, thì ngay cả đối
với những người không thân thiết, ta cũng có thể nhiệt tình giúp họ được, còn
như nếu ta coi một người quá thắm thiết thì ta sẽ thiếu Bát Nhã, như vậy tâm
vẫn bị lệch, không phải là thiện trụ. Nên bí quyết là phải quán như huyễn, hoặc
hoa trong gương, trăng đáy nước, hoặc quán như điện chớp (flash) mà thôi. Theo
tôi nghĩ, quán như vậy, thì có thể quán bất cứ nơi đâu, ngay lúc đi chơi ta
cũng quán được, không cứ phải ngồi ngay ngắn tham thiền mới quán được. Và có
lẽ, ngài Thiện Trụ luôn luôn quán chiếu như thế mới có được nhiều thần thông
lực.
3.- THIỆN TRỤ TỲ KHEO
Này thiện nam tử !
Ta chỉ biết “PHÁP MÔN VÔ NGẠI GIẢI
THOÁT MAU CHÓNG CÚNG DƯỜNG KHẮP CHƯ PHẬT THÀNH TỰU KHẮP CHÚNG SANH” này.
Lúc đó, Thiện tài đồng tử
chuyên niệm lời dạy của thiện tri thức, chuyên niệm phổ nhãn pháp môn, chuyên
niệm Phật thần lực, chuyên trì pháp cú vân, chuyên nhập pháp hải môn, chuyên
gẫm pháp sai biệt, thậm nhập pháp xoay chuyển, vào khắp pháp hư không, trừ sạch
pháp ế chương quán sát pháp bửu xứ.
Thiện tài đồng tử vừa tư
duy suy gẫm đi lần qua phương Nam, đến bên đường Lăng Già, nơi tụ lạc Hải Ngạn,
xem xét mười phương tìm cầu THIỆN TRỤ TỲ KHEO. Thấy Thiện Trụ Tỳ Kheo đi
kinh hành qua lại ở trên hư không.
Có vô số chư thiên cung
kính vây quanh rưới những thiên hoa, trổi thiên kỹ nhạc, tràng phan gấm lụa
thảy đều nhiều vô số đầy khắp hư để cúng dường.
Chư đại Long Vương ở giữa
hư không nổi bất tư nghì mây trầm thủy hương, chấn sấm, xẹt chớp, dùng để cúng
dường.
Khẩn Na La Vương trổi những
tiếng nhạc, đúng pháp ca ngợi, dùng đây để cúng dường.
Ma Hầu La Già Vương dùng
bất tư nghì y phục rất vi tế trải giăng trần thiết, lòng rất hoan hỷ, để cúng
dường.
A Tu La Vương nổi bất tư
nghì mây ma ni bửu, vô lượng quang minh các thứ trang nghiêm đồng khắp hư không
dùng để cúng dường.
Ca Lâu La Vương hiện hình
đồng tử, có vô lượng thể nữ vây quanh, rốt ráo thành tựu tâm không sát hại, ở
giữa hư không chắp tay cúng dường.
Bất tư nghì số các La Sát
Vương, vô lượng La Sát vây quanh, thân hình cao lớn đáng kinh sợ, thấy Thiện
Trụ Tỳ Kheo từ tâm tự tại, liền chắp tay khom mình chiêm ngưỡng cúng dường.
Bất tư nghì số các Dạ Xoa
Vương, mỗi vị đều có chúng của mình vây quanh, bao vòng bốn phía cung kính thủ
hộ.
Bất tư nghì số các Phạm
Thiên Vương, ở giữa hư không, cúi mình chắp tay dùng pháp nhân gian tán dương
ca ngợi.
Bất tư nghì số các Tịnh Cư
Thiên, với cung điện ở giữa hư không, chắp tay cung kính phát hoằng thệ nguyện.
Thiện tài đồng tử thấy
những sự trên đây, lòng hoan hỷ chắp tay kính lễ Thiện Trụ Tỳ Kheo rồi bạch
rằng :
Bạch đức Thánh ! Tôi đã
phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào tu hành Phật pháp ? Thế
nào tích tập Phật pháp ? Thế nào đầy đủ Phật pháp ? Thế nào huân tập Phật pháp
?Thế nào tăng trưởng Phật pháp ? Thế nào tổng nhiếp Phật pháp ? Thế nào cứu
cánh Phật pháp ? Thế nào tịnh trị Phật ? thế nào thâm tịnh Phật pháp ?Thế nào
thông đạt Phật pháp ?
Tôi nghe đức thánh hay khéo
dạy bảo. Ngưỡng mong xót thương vì tôi mà tuyên nói Bồ Tát thế nào chẳng bỏ
thấy Phật, thường ở chỗ Phật siêng năng tu tập ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ Phật
pháp đều dùng trí huệ mà được minh chứng ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ đại nguyện
có thể lợi ích khắp tất cả chúng sanh ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ chúng sanh trụ
tất cả kiếp không lòng mỏi nhàm ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ Phật độ có thể nghiêm
tịnh tất cả thế giới ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ Phật lực đều có thể thấy biết
Như Lai tự tại ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ hữu vi mà cũng chẳng trụ hữu vi, ở
trong tất cả loài hữu lậu, dường như biến hóa, thị hiện thọ sanh tử tu Bồ Tát
hạnh ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ nghe pháp đều có thể lãnh thọ chánh giáo của chư
Phật ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ trí quang vào khắp chỗ sở hành của tam thế trí ?
Thiện Trụ Tỳ Kheo bảo Thiện
Tài rằng :
Lành thay ! Lành Thay ! Này
thiện nam tử ! ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, nay lại phát tâm cầu hỏi Phật
pháp, cầu hỏi pháp nhứt thiết trí, tự nhiên trí.
Này thiện nam tử ! Ta đã
thành tựu môn giải thoát vô ngại. Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc đến, hoặc lui, tùy
thuận tư duy tu tập quán sát, liền được trí huệ quang minh tên là cứu cánh vô
ngại.
Vì được trí huệ quang minh
này nên biết tâm hành của tất cả chúng sanh không chướng không ngại. Biết sự
chết và sanh của tất cả chúng sanh. Biết đời trước của tất cả chúng sanh. Biết
những sự trong kiếp vị lai của tất cả chúng sanh. Biết những sự trong đời hiện
tại của tất cả chúng sanh. Biết ngôn ngữ âm thanh nhiều loại sai biệt của tất
cả chúng sanh. Quyết những nghi vấn của tất cả chúng sanh. Biết căn tánh của
tất cả chúng sanh. Tùy theo lúc tất cả chúng sanh nên được giáo hóa đều có thể
qua đến nơi họ ở. Biết tất cả sát na, la bà mâu hô lật đa, giờ khắc ngày đêm.
Biết thứ đệ lưu chuyển trong biển tam thế. Tất cả những sự thấy biết như vậy
đều không chướng không ngại. Cũng có thể đem thân mình qua đến tất cả cõi Phật
mười phương không chướng ngại. Tại sao vậy ? Vì được sức thần thông vô trụ vô
tác.
Này thiện nam tử ! Vì ta
được sức thần thông này nên ở giữa hư không, hoặc đi, hoặc, đứng, hoặc ngồi,
hoặc nằm, hoặc ẩn, hoặc hiển, hoặc hiện một thân, hoặc hiện nhiều thân, đi
xuyên qua tường vách như đi nơi trống không. Ở trên hư không ngồi kiết già
qua lại tự tại như chim bay. Vào trong đất như xuống nước, đi trên nước như
trên đất, khắp thân trên dưới đều phát lửa ngọn như đống lửa lớn. Hoặc có lúc
chấn động tất cả đại địa. Hoặc có lúc lấy tay rờ rẫm mặt nhựt mặt nguyệt. Hoặc
hiện thân mình cao đến phạm cung. Hoặc hiện mây hương đốt. Hoặc hiện mây bửu diệm.
Hoặc hiện mây biến hóa . Hoặc hiện mây quang võng. Thảy đều rộng lớn đầy khắp
hư không mười phương.
Hoặc trong một niệm qua
phương Ðông một thế giới, hai thế giới, trăm thế giới, ngàn thế giới, trăm ngàn
thế giới, nhẫn đến qua vô lượng thế giới, bất khả thuyết bất khả thuyết thế
giới. Hoặc qua Diêm Phù Ðề vi trần số thế giới. Hoặc qua bất khả thuyết bất khả
thuyết Phật sát vi trần số thế giới. Ta ở trước chư Phật Thế Tôn trong tất cả
quốc độ đó mà nghe thuyết pháp.
Ở cho mỗi đức Phật, hiện vô
lượng Phật sát vi trần số thân sai khác.
Mỗi mỗi thân rưới vô lượng
Phật sát vi trần số mây đồ cúng dường. Những là mây tất cả hoa, mây tất cả
hương, mây tất cả tràng hoa , mây tất cả hương bột, mây tất cả hương thoa, mây
tất cả lọng, mây tất cả y phục, mây tất cả tràng, mây tất cả phan, mây tất cả
trướng. Ðem tất cả thân vân cúng dường lên chư Phật.
Mỗi đức Như Lai có bao
nhiêu lời dạy bảo ta đều thọ trì cả.
Mỗi quốc độ có bao nhiêu sự
trang nghiêm, ta đều nhớ rõ cả.
Tất cả chín phương kia cũng
đều như phương Ðông.
Bao nhiêu chúng sanh trong
tất cả thế giới như vậy, nếu được thấy thân của ta, thời đều quyết định được Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Tất cả chúng sanh trong
những thế giới đó, ta đều thấy rõ tùy theo sư lớn nhỏ thắng liệt khổ vui của họ
mà thị hiện đồng thân hình với họ để giáo hóa cho họ được thành tựu.
Nếu có chúng sanh nào thân
cận ta, thời ta làm cho họ an trụ nơi pháp môn như đây.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ
biết “PHÁP MÔN VÔ NGẠI GIẢI THOÁT MAU CHÓNG CÚNG DƯỜNG KHẮP CHƯ PHẬT THÀNH
TỰU KHẮP CHÚNG SANH” này.
Như chư Bồ Tát trì giới đại
bi, giới ba la mật, giới Ðại thừa, giới tương ưng với Bồ Tát đạo, giới vô
chướng ngại, giới chẳng thối đọa, giới chẳng bỏ tâm Bồ đề, giới thường dùng
Phật pháp làm cảnh sở duyên, giới thường để ý nơi nhứt thiết trí, giới như hư
không, giới không y tựa tất cả thế gian, giới không mất, giới không tổn, giới
không khuyết, giới không tạp, giới không trược, giới không hối, giới thanh
tịnh, giới ly trần, giới ly cấu.
Những công đức như vậy, ta
đâu có thể biết và nói được hết.
Này thiện nam tử ! từ đây
qua phương Nam có một nước tên là Ðạt Lý Tỹ Trà, có thành tên là Tự Tại, trong
đó có một người tên là Di Già. Ngươi nên đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát
hạnh, trụ Bồ Tát đạo ?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ
chân Thiện Trụ Tỳ Kheo, hữu nhiễu chiêm ngưỡng lui ra đi về phương Nam.
Kinh:
Này thiện nam tử, từ đây
qua phương nam có một nước tên là Đạt Lý Tỹ Trà, có thành tên là Tự Tại, trong
đó có một người tên là Di Già.
Giảng:
Theo tôi hiểu, chữ “Di
Già” cũng có nghĩa là mây, vị này là một vị Ưu Bà Tắc, không xuất gia. Trong
kinh, rải từ các vị Tỳ Kheo đến Ưu Bà Tắc, rồi qua đến cả ngoại đạo nữa, cả
tiên ông, và những vị Bà La Môn. Và ngài Thiện Tài học được rất nhiều ở những
vị nữ nhân, và có những người nữ rất giỏi. Nên đi tìm cầu thiện tri thức có thể
ở bất cứ tôn giáo nào cũng được, nhưng phải giữ tâm mình thật khéo ở giữa Bát
Nhã và Đại Bi thì đi chỗ nào cũng không lạc được. Ngay ở những vị Bà La Môn
cũng có thể học được nhiều điều, vì sao? Vì có nhiều vị Bồ Tát thị hiện vào
hàng Bà La Môn để giáo hóa họ. Nên ta có thể gặp mọi người, rồi dùng trí huệ
tìm hiểu biết vị này là đi con đường chính đạo mà thị hiện, hay là vị đó là
ngoại đạo. Vì dù ở bất cứ tôn giáo nào, nếu là một vị Bồ Tát thị hiện, các ngài
luôn luôn giữ tâm song chiếu, đúng theo Bát Nhã và Từ Bi mà không có gì khác
cả.
Kinh:
Lúc đó Thiện Tài Đồng Tử
nhất tâm chánh niệm pháp môn pháp quang minh tin sâu xu nhập.
Giảng:
Chánh niệm là gì? Ta có
thể nói chánh niệm có nhiều mức độ, như ta có thể chánh niệm hơi thở, nhưng
cũng chưa phải là chánh niệm cao, mà cái cao nhất (như ngài Mã Minh nói) là
phải chánh niệm duy tâm sở hiện, tức là nhìn cảnh giới như hoa
trong gương, trăng đáy nước. Khi tâm chúng ta nhìn, thấy cả pháp giới đều chỉ
là hoa trong gương, trăng đáy nước thì dễ đạt được tâm tịch tĩnh. Còn chánh
niệm hơi thở thì ta mới mức độ sắc ấm mà thôi, hoặc chánh niệm tứ đế thì ta lên
được mức Thanh Văn thừa. Đến khi nào ta lâm chung, ta có thể nghĩ được rằng,
thân này cũng chỉ là sự biến hóa trong tàng thức, như hoa trong gương, trăng
đáy nước, và nếu giữ được niệm đó mà chết thì không cách nào bị đọa được. Nếu
thêm được câu niệm Phật thì chắc sẽ được vãng sanh, chúng ta cũng nên thử so
sánh mức độ ngài Thiện Tài với những vị vãng sanh bên Cực Lạc. Tôi thiển nghĩ
những vị ở thượng phẩm có thể hơn mức độ định của ngài Thiện Tài lúc bắt đầu đi
tìm cầu thiện tri thức, (tuy rằng không có tạng công đức như ngài), vì những
phẩm trên đều đã vào được định, có đủ ngũ thông rồi. Như vậy, càng suy nghĩ ta
càng nên đảnh lễ chư Phật đã bày ra pháp môn tịnh độ cho chúng ta tu hành. Là
vì tất cả những cảnh giới thị hiện trong phẩm Nhập Pháp Giới, thường thường
cũng tương tự như cảnh giới bên Cực Lạc, hoặc cao thấp hơn một chút mà thôi. Vả
lại, cảnh giới Cực Lạc cũng chính là cảnh giới nở ra từ tàng thức của đức Phật
A Di Đà. Cho nên Thiện Tài Đồng Tử nhất tâm chánh niệm pháp môn pháp quang minh
tin sâu xu nhập nơi tàng thức. Nên khi giảng kinh, nếu không giảng về quang
minh thì kinh rất khó hiểu.
Kinh:
Chuyên niệm Phật chẳng
dứt ngôi tam bảo. Khen tánh ly dục.
Giảng:
Ở đây, chữ dục này
bao gồm chữ dục thường của thế gian, và ngay cả thắng dục, tức là cái tâm muốn
đi lên và tâm ái luyến pháp của mình cũng phải ly. Như một hành giả tu đắc được
một pháp nào đó rồi khởi tâm Ưa thích, thì điều đó cũng phải bỏ…
Kinh:
Chiếu khắp tam thế. Nhớ
những đại nguyện khắp cứu chúng sanh. Chẳng chấp hữu vi… (bỏ một đoạn kinh…), đi lần đến thành Tự Tại tìm Di Già,
thấy người này đang ngồi trên pháp tòa sư tử nơi chợ giảng thuyết pháp môn
luân-tự-trang-nghiêm. Có mười ngàn người vây quanh nghe pháp.
Giảng:
Thiện Tài đến thì thấy
ngài Di Già ngồi giữa chợ đang thuyết pháp cho dân chúng nghe về pháp môn
“luân-tự-trang-nghiêm,” luân là bánh xe, tự là chữ, như chữ “ÚM,” hoặc chữ “A,”
hay chữ “HỒNG” v.v… thì ngài dạy chúng ta phải quán những chữ có xoáy tròn thì đó
là pháp môn luân-tự-trang-nghiêm.
Thường thường tu theo
mật tông, quí vị cũng nên biết là hành giả phải tụng chú đồng thời phải quán
những luân xa trong người xoay tròn, đồng thời quán một mẫu tự chính nào đó,
như chữ “ÚM,” quán đến khi nào mẫu tự đó đỏ rực lên xoáy tròn và bay lên, nhập
vào miệng hành giả, rồi rơi vào tâm nguyệt luân. Tại sao phải quán thế? Vì mật
tông cho rằng pháp giới này được dệt nên bởi quang minh và diệu âm, diệu âm sau
viết thành chữ, nên phải quán những chữ đó. Vì trong giáo lý nhà Phật, chữ của
thế gian là thứ chữ thường do người đặt ra, như chữ Việt chúng ta thì do ông
giám mục Bá Đa Lộc đặt ra, còn chữ của Trung Hoa thì do ông Thương Hiệt đặt ra.
Nhưng có một loại chữ nguồn gốc, gọi là chữ thánh là do các bậc thánh đặt ra, những
bậc đó thường có thiên nhãn hoặc huệ nhãn, nên các ngài nhìn vào những rung
động của các quang minh nguyên sơ để đặt ra thứ chữ đó. Nên khi hành giả mật
tông quán những chữ nguyên sơ ấy, tức là đặt tâm mình vào nhịp rung chuyển
nguyên sơ của những quang minh, rồi họ lập đàn tràng, tụng chú, quán mẫu tự,
bay lớn lên không trùm cả pháp giới. Nhưng chúng ta cũng khó có người làm được
điều Ấy, vì tâm chúng ta thường quen tán loạn. Vì vậy, pháp môn của ngài Di Già
gọi là “luân-tự-trang-nghiêm.” Ở đây, trên thực tế, cũng có một vị Di Già ngồi
giữa chợ thật, chung quanh có mười ngàn người nghe pháp, đồng thời chúng ta
cũng phải nghĩ theo nghĩa bóng rằng trong tàng thức của ngài Di Già có mười
ngàn hạnh nở ra.
Khi đọc kinh, ta bao giờ
cũng cần hiểu theo hai nghĩa, một nghĩa trong, và một nghĩa bên ngoài thì mới
đúng ý kinh. Và trong kinh vẫn nói, hành giả tu cao sẽ làm nở vô lượng diệu
đức, vô lượng hoa lá của thần thông, mỗi thứ hành một hạnh, hạnh bi, hạnh xả,
từ v.v…
Kinh:
Thiện Tài Đồng Tử đảnh
lễ chân Di Già hữu nhiễu vô lượng vòng chắp tay cung kính bạch rằng… Bạch đức
Thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề, nhưng tôi chưa biết Bồ Tát thế nào học
Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo…, thế nào lưu chuyển trong các loài mà chẳng quên
mất tâm bồ đề,…
Giảng:
Lưu chuyển trong các
loài, tức là lưu chuyển trong hai mươi lăm cõi mà không bao giờ quên tâm bồ đề…
Kinh:
Thế nào được ý bình đẳng
kiên cố bất động,… thế nào phát sanh sức đại bi hằng không mỏi nhọc…, thế nào
phát sanh tất cả quang minh nơi tất cả pháp lìa những ám chướng, thế nào đủ sức
vô ngại giải biện tài quyết rõ tất cả nghĩa tạng thậm thâm, thế nào được sức
chánh niệm ghi nhớ thọ trì tất cả pháp luân sai biệt, thế nào được sức tịnh
đạo, nơi tất cả loài khắp diễn thuyết các pháp, thế nào được sức trí huệ nói
tất cả pháp đều có thể quyết định phân biệt nghĩa đó??
Giảng:
Ở đây, Thiện Tài hỏi về
đại bi, về sự lưu chuyển từ cõi đời này sang cõi đời khác mà không quên tâm bồ
đề. Và hỏi về trí huệ…
Kinh:
Di Già bảo Thiện Tài
rằng: Ngươi đã phát tâm bồ đề rồi ư? —Vâng, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề. Di
Già liền vội vàng rời tòa sư tử mọp lạy Thiện Tài. Rồi lại rải bông bột mịn
chiên đàn, vô lượng thứ y trùm trên mình Thiện Tài.
Giảng:
Tại sao ngài Di Già lại
phải lễ ngài Thiện Tài cung kính như thế? Tức là không phải lễ Thiện Tài đâu,
mà đó là lễ lậy Bồ Đề Tâm và trùm y lên Bồ Đề Tâm của Thiện Tài. Sau này, đến
đoạn Thiện Tài đến gặp ngài Di Lặc, trong kinh sẽ nói về Bồ Đề Tâm một cách huy
hoàng. Tỷ dụ như, ngài Di Lặc nói rằng: “Nếu có người mang mão Bồ Đề Tâm, khi
đi xuống nước không thể chìm, các Long Vương đều theo hộ trì và nước cũng dạt
ra hai bên, và người nào tin được điều này mới thực là khó.” Mà nghĩ cho cùng
thì sẽ thấy đúng, có điều là Bồ Đề Tâm của chúng ta quá nhỏ nên hay khởi tâm
không tin, và không chịu hiểu.
Sau đó, ngài Di Già nói
một tràng dài đại khái ca tụng tâm bồ đề, chẳng hạn như: “Bồ Tát như phong
luân, Bồ Tát như đại địa, Bồ Tát như đại hải, Bồ Tát như mặt trời, Bồ Tát như
núi Tu Di, Bồ Tát như minh nguyệt, BồTát như mãnh tướng, Bồ Tát như quân chủ v.v…”
Kinh:
Di Già tán thán Thiện
Tài như vậy, làm cho chư Bồ Tát hoan hỉ rồi, từ trên mặt phóng ra những ánh
sáng chiếu khắp Đại Thiên thế giới.
Giảng:
Sau khi ngài Di Già tán
thán Bồ Đề Tâm của Thiện Tài rồi thì ngài phóng quang, nhưng ngài chỉ phóng quang
chiếu một đại thiên thế giới thôi.
Kinh:
Chúng sanh trong cõi Đại
Thiên gặp ánh sáng này, từ Long Thần nhẫn đến Phạm Thiên đều đến chỗ Di Già.
Giảng:
Ở đây, nên để ý đến một
tiểu tiết rằng, vì ngài Di Già phóng ánh sáng cho một cõi đại thiên thôi, nên
chỉ có Long Thần nhẫn đến Phạm Thiên đến nghe pháp. Và không thấy nói tới các
vị Bồ Tát ở các cõi khác. Sau khi các Long Thần và chư Thiên vân tập đến rồi,
thì Di Già đại sĩ liền vì họ mà khai thị pháp môn Luân Tự Phẩm Trang Nghiêm. Có
nghĩa rằng ngài dạy tu về Mật Tông, tụng chú, lập đàn tràng và quán những chủng
tự, như chữ “ÚM, A, HỒNG” v.v…
Kinh:
Đại chúng nghe pháp xong
đều được chẳng thối chuyển nơi vô thượng bồ đề.
Giảng:
Nếu một hành giả tu đến
mức độ không thối chuyển nơi vô thượng bồ đề thì cũng cao lắm rồi, gần tương
đương đến địa thứ bảy, hay thứ tám của Bồ Tát. Thực ra, các vị Phạm Thiên phần
nhiều cũng đã tu đến những địa thứ tư hoặc thứ năm rồi…
Kinh:
Lúc bấy giờ Di Già trở
lại lên bổn tòa bảo Thiện Tài rằng: Thiện nam tử, ta đã được Diệu Âm Đà La Ni.
Có thể phân biệt ngữ ngôn của tất cả chúng sanh, chư Thiên Long Bát Bộ trong
cõi Đại Thiên. Cũng như cõi Đại Thiên này, vô số thế giới nhẫn đến bất khả
thuyết, bất khả thuyết thế giới khắp mười phương đều biết rõ ngữ ngôn cả. Này
thiện nam tử, ta chỉ biết pháp môn Bồ Tát diệu âm đà la ni quang minh này.
Giảng:
Chúng ta thấy rõ, bốn vị
thiện tri thức đầu tiên dạy Thiện Tài những nét chính trong con đường Bồ Tát
đạo, phải tu tập thế nào, còn những vị sau thì như thêm hoa, thêm lá để Thiện
Tài biết rõ tất cả sự kỳ ảo của diệu tâm mà thôi. Nên đến vị thiện tri thức thứ
5 là ngài bắt đầu cho Thiện Tài nhập tam muội ngay, ngài nhập tam muội đó, thu
pháp giới vào trong thân mình để cho Thiện Tài thấy. Tức là ngài “nhập pháp
giới” ở một mức độ thấp. (Tuy gọi là thấp nhưng chỉ thấp đối với chư Phật mà
thôi, còn đối với phàm phu chúng ta thì thực tình mà nói, không biết phải lẽo
đẽo tu đến bao nhiêu kiếp mới được đến mức độ này).
Thôi, tới đây cũng xin
ngừng để đến kỳ sau…
4.- DI GIÀ ÐẠI SĨ
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết “PHÁP MÔN BỒ TÁT DIỆU ÂM ĐÀ LA NI QUANG MINH” này.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử
nhất tâm chánh niệm pháp môn pháp quang minh tin sâu xu nhập. Chuyên niệm Phật
chẳng dứt ngôi Tam Bảo. Khen tánh ly dục. Nhớ thiện tri thức. Chiếu khắp tam
thế. Nhớ những đại nguyện khắp cứu chúng sanh. Chẳng chấp hữu vi. Rốt ráo tư
duy tự tánh của các pháp. Ðều có thể nghiêm tịnh tất cả thế giới. Nơi chúng hội
đạo tràng của tất cả chư Phật, lòng không chấp trước.
Thiện tài đồng tử đi lần
qua phương Nam đến thành Tự Tại tìm DI GIÀ, thấy người này đang ngồi trên
pháp tòa sư tử nơi chợ giảng thuyết pháp môn luân tự trang nghiêm . Có mười
ngàn người vây quanh nghe pháp.
Thiện tài đồng tử đảnh lễ
chân Di Già, hữu nhiễu vô lượng vòng , chắp tay cung kính bạch rằng :
Bạch đức Thánh ! Tôi đã
pháp tâm Vô thượng Bồ đề, mà tôi chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu
Bồ Tát đạo ? Thế nào lưu chuyển trong các loài mà chẳng quên mất tâm Bồ đề ?
Thế nào được ý bình đẳng kiên cố bất động ? Thế nào được tâm thanh tịnh không
gì trở ngại được ? Thế nào phát sanh sức đại bi hằng không mỏi nhọc ? Thế nào
nhập đà la ni khắp được thanh tịnh ? Thế nào phát sanh trì huệ quảng đại quang
minh nơi tất cả pháp lìa những ám chướng ? Thế nào đủ sức vô ngại giải biện tài
quyết rõ tất cả nghĩa tạng thậm thâm ? Thế nào được sức chánh niệm ghi nhớ thọ
trì tất cả pháp luân sai biệt ? Thế nào được sức tịnh đạo, nơi tất cả loài khắp
diễn thuyết các pháp ? Thế nào được sức trí tuệ nơi tất cả pháp đều có thể
quyết định phân biệt nghĩa đó ?
Di Già bảo Thiện Tài rằng :
- Ngươi đã phát tâm Vô
thượng Bồ đề rồi ư ?
- Vâng, tôi đã phát tâm Vô
thượng Bồ đề.
Di Già liền vội vàng rời
tòa sư tử mọp lạy Thiện Tài. Rồi lại rải bông kim ngân, bửu châu vô giá, cùng
với bột mịn chiên đàn, vô lượng thứ y trùm trên mình Thiện Tài.
Di Già lại rải vô lượng
những thứ hương hoa, các thứ phẩm vật để cúng dường. Sau đó mới đứng dậy khen
rằng :
Lành thay ! Lành thay !
Thiện nam tử có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Này thiện nam tử ! Nếu có
ai phát được tâm Vô thượng Bồ đề thời là chẳng dứt mất tất cả Phật chủng. Thời
là nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Thời là thành thục tất cả chúng sanh. Thời là
thấu rỏ tất cả pháp tánh. Thời là tỏ ngộ tất cả ngiệp chủng. Thời là viên mãn
tất cả các hạnh. Thời là chẳng dứt tất cả đại nguyện. Thời là thiệt hiểu chủng
tánh ly tham. Thời có thể thấy rõ tam thế sai biệt. Thời làm cho tín giải trọn
được kiên cố. Thời được tất cả Như Lai nhiếp trì. Thời được tất cả chư Phật ức
niệm. Thời bình đẳng với tất cả Bồ Tát. Thời được tất cả Hiền Thánh khen mừng.
Thời được tất cả Phạm Vương kính lễ. Thời được tất cả Thiên Vương cúng dường.
Thời được tất cả Dạ Xoa thủ hộ. Thời được tất cả La Sát hầu hạ. Thời được tất
cả Long Vương nghinh tiếp. Thời được tất cả Khẩn Na La Vương ca ngâm khen ngợi.
Thời được tất cả các Thế Chủ khen ngợi mừng vui. Thời làm cho tất cả chúng sanh
giới đều được an ổn.
Những là làm cho họ bỏ ác
thú. Làm cho họ ra khỏi chỗ nạn. Làm cho họ dứt tất cả cội gốc nghèo cùng. Làm
cho họ sanh tất cả trời người vui sướng. Làm cho họ thân cận thiện tri thức.
Làm cho họ được nghe và thọ trì pháp quảng đại. Làm cho họ sanh tâm Bồ đề. Làm
cho họ tịnh tâm Bồ đề. Làm cho họ rõ Bồ Tát đạo. Làm cho họ nhập Bồ Tát trí.
Làm cho họ trụ Bồ Tát địa.
Này thiện nam tử ! Phải
biết chỗ làm của Bồ Tát rất khó, khó ra, khó gặp. Người được thấy Bồ Tát lại
còn khó có hơn.
Vì Bồ Tát là chỗ tất cả
chúng nương nhờ mà được sanh trưởng thành tựu. Là chỗ cứu tế của tất cả chúng
sanh, vì Bồ Tát cứu họ khỏi khổ nạn. Là chỗ y tựa của tất cả chúng sanh, vì thủ
hộ thế gian. Là người cứu hộ tất cả chúng sanh, vì làm cho họ khỏi sự kinh sợ.
Bồ Tát như phong luân, vì
gìn giữ các thế gian chẳng cho đọa lạc ác đạo.
Bồ Tát như đại địa vì tăng
trưởng thiện căn cho chúng sanh.
Bồ Tát như đại hải, vì
phước đức sung mãn vô tận.
Bồ Tát như mặt trời, vì trí
huệ quang minh chiếu khắp nơi.
Bồ Tát như núi Tu Di, vì
thiện căn cao xuất.
Bồ Tát như minh nguyệt, vì
trí quang xuất hiện.
Bồ Tát như mãnh tướng, vì
xô dẹp ma quân.
Bồ Tát như quân chủ, vì
được tự tại trong thành trì Phật pháp.
Bồ Tát như ngọn lửa mạnh,
vì cháy sạch tâm ngã ái của chúng sanh.
Bồ Tát như mây lớn, vì mưa
vô lượng diệu pháp.
Bồ Tát như mưa phải thời,
vì làm thêm lớn mầm tất cả tín căn.
Bồ Tát như Thuyền sư, vì
chỉ dẫn bờ mé pháp hải.
Bồ Tát như cầu đò, vì làm
cho chúng sanh qua khỏi biển sanh tử.
Di Già tán thán Thiện Tài
như vậy, làm cho chư Bồ Tát hoan hỉ rồi, từ trên mặt phóng ra những ánh sáng
chiếu khắp Ðại Thiên thế giới.
Chúng sanh trong cõi Ðại
Thiên gặp ánh sáng này, từ Long Thần nhẫn đến Phạm Thiên đều đến chỗ Di Già.
Di Già ÐẠI SĨ liền
dùng phương tiện vì họ mà khai thị giải thích pháp môn luân tự phẩm trang
nghiêm.
Ðại chúng nghe pháp xong,
đều được chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề.
Lúc bấy giờ Di Già trở lại
lên bổn tòa bảo Thiện Tài rằng :
Thiện nam tử ! Ta đã được
diệu âm đà la ni. Có thể phân biệt biết ngử ngôn của tất cả chúng sanh, chư
Thiên, Long, Bát Bộ, trong cõi Ðại Thiên. Cũng như cõi Ðại Thiên này, vô số thế
giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới khắp mười phương đều biết
rõ ngữ ngôn cả.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ
biết “PHÁP MÔN BỒ TÁT DIỆU ÂM ĐÀ LA NI QUANG MINH” này.
Như Chư đại Bồ Tát có thể
vào khắp biển những tư tưởng của tất cả chúng sanh, biển những sự thi thiết,
biển những danh hiệu, biển những ngữ ngôn của tất cả chúng sanh.
Có thể vào khắp diễn thuyết
biển tất cả pháp cú thâm mật. Diễn thuyết biển tất cả pháp cú cứu cánh. Diễn
thuyết biển pháp cú trong tất cả sở duyên có tất cả tam thế sở duyên. Diễn
thuyết biển thượng pháp cú. Diễn thuyết biển thượng thượng pháp cú. Diễn thuyết
biển pháp cú sai biệt. Diễn thuyết biển pháp cú tất cả sai biệt.
Có thể vào khắp tất cả thế
gian chú thuật hải. Tất cả âm thanh trang nghiêm luân. Tất cả sai biệt tự luân
tế.
Những công đức như vậy, nay
ta làm sao biết hết được, nói hết được.
Này thiện nam tử ! Từ đây
qua phương Nam có một tụ lạc tên là Trụ Lâm. Nơi đó có một Trưởng giả tên là
Giải Thoát.
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế
nào tu Bồ Tát hạnh ? Bồ Tát thế nào thành Bồ Tát hạnh ? Bồ Tát thế nào tích tập
Bồ Tát hạnh ? Bồ Tát thế nào tư duy Bồ Tát hạnh ?
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử
nhờ thiện tri thức nên đối với pháp nhứt thiết trí rất tôn trọng. Trồng sâu gốc
tịnh tín. Thêm nhiều lợi ích.
Thiện Tài đảnh lễ chân Di Già, rơi lệ buồn khóc nhiễu vô lượng vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Comments
Post a Comment