ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH

 


Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


Ngày 18 tháng 3 năm 1990


Kính thưa Đại Đức trụ trì, 

cùng chư vị Đạo Hữu…


Vừa rồi, quí vị vừa tụng xong thời kinh, có nói đến chữ “trí vi tế.” Nhân đây, tôi cũng xin nhắc qua, trong tất cả mức gọi là vô trước vô phược giải thoát hồi hướng, cũng có nhắc tới trí vi tế. Mà chúng ta cũng cần hiểu rằng, tất cả sự tu hành là chỉ cốt đi đến bình diện vi tế đó mà thôi. Tâm chúng ta rất thô kệch, và năm căn như mắt, mũi, v.v… cũng rất thô kệch, nên ta cần mài cái tâm đến chỗ vi tế và nhu nhuyễn, để không chấp chước, có thể nhập vào bình diện sâu hơn, đồng thời, được cái mắt vi tế, hoặc năm căn vi tế. Tu hành chỉ là vậy, nên càng lên cao, mắt của mình càng thênh thang hơn, chúng ta sẽ được thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và sau cùng là Phật nhãn. Nên nếu quí vị có thì giờ, thì nên đọc kỹ lại phẩm này. Mà ta cũng cần hiểu rằng, trí vi tế cũng là trí rộng lớn, hay trí như biển, vì tâm thức con người cần chuyển từ cực độ này sang cực độ kia, còn chúng ta cứ đứng ở giữa, nhìn thây lắt lay được một chút khúc giữa. Khi nào chúng ta đi sâu được vào cái vi tế cực nhỏ, thì đồng thời chúng ta cũng nhập được vào cực lớn, vì vậy, lúc đó ta có thể nhìn thấy vật rất nhỏ, cũng đồng thời nhìn thấy vật rất lớn.

Bây giờ, xin trở lại phẩm nhập pháp giới…

Trong lần trước, chúng ta đã đến vị thiện tri thức thứ 4, hôm nay, chúng ta lại dở lại cuốn tiểu thuyết rất kỳ diệu và khó hiểu này để theo dõi những diễn biến sau…

Nhưng trước khi đi vào kinh, tôi muốn nhắc mấy điểm để quí vị dễ hiểu những đoạn đó. Chúng ta đọc kinh, thường hay gặp phải danh từ ‘Trang nghiêm,” như Thiện Tài đến vị thiện tri thức thứ 5 thì trong kinh nói đến chữ “vô ngại giải thoát trang nghiêm,” đến ngài thứ 6 là ngài Hải Tràng thì thấy có chữ “phổ trang nghiêm,” rồi mấy vị sau cũng thấy nói đến “phổ trang nghiêm,” rồi sau cùng đến ngài Di Lặc thì gọi là “diệu trang nghiêm.” Vậy chữ trang nghiêm, phổ trang nghiêm và diệu trang nghiêm khác nhau thế nào? Nó là cái gì??? Trong nhà Phật, thường dùng chữ trang nghiêm để chỉ cho tàng thức thứ tám, đã chuyển.thành Bạch Tịnh Thức, rồi đến cảnh giới hiện ra trong đó, tức là pháp giới. Khi nào nói về các cảnh giới nơi thọ ấm, tưởng ấm… kinh không bao giờ dùng chữ trang nghiêm, nhưng khi lọt vào tàng thức lặn sâu vào trong đó, thì bây giờ mới dùng chữ trang nghiêm. Trước hết là trang nghiêm thôi, rồi đến phổ trang nghiêm, tức là trang nghiêm tất cả mọi nơi, rồi đến chữ diệu trang nghiêm, nghĩa là tất cả mọi nơi, đều là những cảnh giới chập chùng kỳ diệu, mà nếu càng ngày hành giả càng đi sâu vào tàng thức, thì tàng thức ngày càng nở ra bao trùm pháp giới. Vì vậy, gọi là diệu trang nghiêm.

Trong kinh Pháp Hoa, phẩm thứ hai mươi bảy, gọi là “Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự.” Phẩm này có hai nghĩa, một nghĩa thực, và một nghĩa tượng trưng. Nghĩa tượng trưng là diệu trang nghiêm chỉ cho tàng thức đó. Còn nghĩa ngoài đời là ở thời đó, rất xa xưa, có một vị vua tên là Diệu Trang Nghiêm, có hai người con tên Tịnh Nhãn, và Tịnh Tạng, ông vua cha lại theo ngoại đạo. Vì sao gọi là ngoại đạo? Vì ông vua này, tu hành vào được tàng thức rồi thì dừng ở đó, không đi sâu thêm nữa. Nói cách khác, nhà vua vào đến tàng thức rồi, nhưng không chịu thanh tịnh hóa không hải đó, để diệt những phần vọng và chuyển thành Bạch Tịnh Thức hay Vô Cấu Thức. Vì vậy, không đạt được đạo quả, chỉ hưởng sự trầm không thú tịch thôi, nên tuy tu cao như vậy, nhưng nhà Phật vẫn gọi là ngoại đạo. Còn các vị Thanh Văn vào được đó mà dừng chân lại, hưởng cái Niết Bàn cho chính mình thôi thì vị đó gọi là tà kiến. Và chư Phật luôn khuyến cáo phải đi lặn sâu vào không hải, gột tất cả phần vọng, chuyển tàng thức thành Như Lai Tạng xuất triền, tức là Diệu Tâm, cũng là Bạch Tịnh Thức. Nếu còn trộn lẫn với vọng thì Tàng thức gọi là “Như Lai Tạng tại triền” hay là “tàng thức sơ năng biến”… Thì vị vua Diệu Trang Nghiêm này đã tu hành cao rồi, nhưng khi mấp mé không hải thì không chịu đi sâu hơn nữa, không mong cầu tiến đến Phật quả, chỉ ngồi lỳ ở đó thôi để hưởng thiền lạc. Nhưng vua có túc duyên rất nhiều với Phật pháp, vì vậy hai người con mới thọ sanh vào nhà ông, và hai vị đều là Bồ Tát cả, tức là Tịnh Tạng, và Tịnh Nhãn. Hai vị này muốn làm cho cha phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, khởi đại bi đi vào Phật quả. số là hai người con này, một người đã đắc Pháp Hoa tam muội, một người đắc Ly Chư ÁcThú tam muội. Hai vị bèn dùng thần thông hiện đủ thứ thần biến như bay lên hư không, hiện thân lớn như núi, rồi hiện thân nhỏ như hạt cát, hoặc trên thân tuôn ra nước, dưới thân tuôn ra lửa, đi qua núi đá như đi trên hư không v.v… Vua cha thấy vậy lấy làm lạ hỏi rằng: Sao cha không thấy ngoại đạo có những phép như thế, các con học ở đâu vậy, và thầy các con là ai? (Nên ghi rằng đối với một vị tu cao như thế, mà muốn độ cũng phải dùng thần thông để nhiếp phục cha mình). Hai người con đáp con học ở vị Phật (tên là gì tôi cũng quên mất). Vua cha mới hớn hở đi đến, nghe Phật thuyết pháp, sau bỏ ngôi vua truyền lại cho em rồi xuất gia, về sau được Phật thọ ký.

Nói như vậy để quí vị hiểu rằng, khi vào đến tàng thức thì gọi là bắt đầu đi vào cảnh giới trang nghiêm. Nên trong kinh, thường dùng những chữ rất ẩn mật nhưng rất xác đáng, như ngài đầu tiên gọi là trang nghiêm, sau đó là phổ trang nghiêm, cuối cùng là diệu trang nghiêm. Đó là điểm thứ nhát, còn điểm thứ hai là Thiện Tài khi mới đi tìm cầu thiện tri thức, câu hỏi đặt ra là: ngài đã biết biến hóa chưa? Và tại sao không bị ma chướng?

Bây giờ nói đến chuyện biến hóa trước. Khi ngài mới gặp ngài Đức Vân, vị thiện tri thức đầu tiên, lúc đó tâm thức của Thiện Tài đã vượt qua tứ thiền rồi, mới chớm đi vào không hải. Mà qua tứ thiền là đã biết một ít biến hóa, nhưng không biến hóa được nhiều. Còn sở dĩ ngài không bị “ma chướng” là vì khi một hành giả tu thiền, lúc vượt thọ ấm và tưởng ấm, thường bị ma chướng nặng nề về tình dục nhưng tới hành ấm và thức ấm thì không còn bị thiên ma não hại nữa. Song ở đây, lại bị 2 chướng nặng nhất là kiêu mạn và luyến ái pháp, vì khi đắc được quả này, hành giả dễ luyến ái nó nên bám chặt vào mà không tu lên được. Nên trong kinh, sau đây có rất nhiều vị thiện tri thức khuyên nói về điều này, vì với sức định mạnh như vậy mà khởi kiêu mạn thì sẽ trở thành Thiên Ma. Sở dĩ Thiện Tài không khởi ma chướng vì kinh đã nói trước, ngài là người phúc đức rất dày, thân, ngữ, ý không có lỗi, tâm thanh tịnh như hư không, hồi hướng bồ đề không chướng ngại. Còn ma chướng ái luyến pháp, trong kinh cũng có cảnh giác nhưng ngài lại không bị.

Đạo Phật là luôn luôn phải “yết đế,” đắc được một pháp rồi lại phải xả ngay, vì nếu không, hành giả không thể đi lên được. Như nếu đắc sơ thiền mà không xả thì không thể lên được nhị thiền, và cứ thế… Có một điều cần nhớ là càng lên cao thì càng phải cần sức gia trì của chư Phật bấy nhiêu. Ngay cả Bồ Tát ở bực Đẳng Giác, chỉ còn một phẩm vô minh vi tế cuối cùng cần gột thôi, mà không gần Phật để được sức gia trì thì cũng không thể thành Phật được. Vì vậy, khi đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm ta sẽ thấy rằng người tu thiền rất cam go, phải lập đàn pháp, xong tụng chú Thủ Lăng Nghiêm một ngày ba thời, mỗi thời tụng 108 biến, để làm gì? Chỉ để cầu chư Phật vân tập đến đàn tràng và tỏa sức gia trì. Nên trên con đường thiền quán, không tụng chú thì lạc vào ma chướng như chơi, vì vậy, ngài Di Già, vị thiện tri thức thứ tư dạy Thiện Tài tụng chú.

Bốn vị thiện tri thức đầu là ngài Đức Vân, Hải Vân, Thiện Trụ và Di Già chỉ giảng dạy cho Thiện Tài bằng lời nói, kể lại cho Thiện Tài nghe mức độ chứng đắc của mình, mà chưa đưa Thiện Tài vào tam muội. Càng về sau, Thiện Tài càng thấy hiển bày cảnh giới trang nghiêm của tàng thức sơ năng biến, và các vị thiện tri thức cho Thiện Tài nhìn ngay vào cảnh giới vi diệu nên các ngài không cần giảng giải nữa. Cũng như khi đức Phật phóng quang cho pháp hội trông thấy các cõi thì ngài không cần dùng ngôn từ thuyết pháp nữa, và cả pháp hội đều nhìn rõ tất cả đều là duy tâm sở hiện… Nên từ vị thứ tư trở đi là kết thúc sự giảng nói bằng lời, vì những pháp môn chính đã dạy rồi, bây giờ chỉ hiện bày rõ rệt cho Thiện Tài nhìn mà thôi. Đến ngài thứ 5 là ngài Giải Thoát Trưởng Giả thì ngài cho Thiện Tài nhìn thấy cảnh giới ngay, nên không dạy Thiện Tài gì nữa cả. Ngài Giải Thoát này sẽ nhập pháp giới, để cho Thiện Tài trông thấy. Ta cũng nên nhớ rằng sự nhập pháp giới có nhiều mức độ viên dung của nó. Đây, xin quí vị theo dõi vị thiện tri thức thứ năm.

Hỏi: Có phải ngài Di Già tu theo văn đà la ni không?

Đáp: Trong đạo Phật có rất nhiều thứ đà la ni, như đà la ni quang minh biết tất cả những ngữ ngôn, cũng gọi là nhất thiết ngữ ngôn đà la ni. Còn văn trì đà la ni thì không phải là một pháp môn, vì khi nào tâm thức của một hành giả mở ra thì tự nhiên có văn trì đà la ni. Sự nở ra tự nhiên như vậy gọi là diệu đức.

Còn ở đây, ngài chỉ nói rằng ta tu diệu âm và dạy cho Thiện Tài như thế.

Từ vị thiện tri thức thứ 5 thì các ngài rất ít giảng, mà  gia trì cho Thiện Tài nhìn thấy ngay.


5.- GIẢI THOÁT TRƯỞNG GIẢ


 Thiện nam tử ! Ta chỉ nhập xuất được MÔN GIẢI THOÁT NHƯ LAI VÔ NGẠI TRANG NGHIÊM" này.


Thiện Tài đồng tử tư duy pháp môn Bồ Tát vô ngại giải đà la ni quang minh trang nghiêm. Thâm nhập pháp môn Bồ Tát ngữ ngôn hải. Nghĩ nhớ pháp môn vi tế phương tiện Bồ Tát biết tất cả chúng sanh. Quán sát pháp môn Bồ Tát thanh tịnh tâm. Thành tựu pháp môn Bồ Tát thiện căn quang minh. Tịnh trị pháp môn Bồ Tát giáo hóa chúng sanh. Minh lợi trí môn Bồ Tát nhiếp chúng sanh. Kiên cố pháp môn Bồ Tát quảng đại chí nguyện. Nhiệm trì pháp môn Bồ Tát thù thắng chí nguyện. Tịnh trị pháp môn Bồ Tát tín giải. Tư duy pháp môn Bồ Tát vô lượng thiện tâm. Thệ nguyện kiên cố, tâm không mỏi nhàm. Dùng những mão giáp để tự trang nghiêm. Thâm tâm tinh tấn chẳng thối chuyển. Ðủ đức tin bất hoại. Tâm kiên cố như kim cang và như na la diên không gì phá hoại được. Giữ gìn tất cả lời dạy của thiện tri thức. Nơi các cảnh giới được trí bất hoại. Phổ môn thanh tịnh việc làm vô ngại. Trí quang viên mãn chiếu khắp tất cả. Ðầy đủ tổng trì quang minh của các địa. Biết rõ pháp giới nhiều loại sai biệt, không y không trụ, bình đẳng không hai, tự tánh thanh tịnh, mà khắp trang nghiêm. Nơi các công hạnh đều được rốt ráo. Trí huệ thanh tịnh rời lìa chấp trước. Biết pháp sai biệt mười phương trí không chướng ngại. Qua khắp xứ sai biệt ở mười phương thân không mỏi lười. Biết rõ những nghiệp sai biệt ở mười phương. Ðều hiện thấy Phật sai biệt ở mười phương. Ðều thâm nhập thời gian sai biệt ở mười phương. Diệu pháp thanh tịnh sung mãn nơi tâm. Phổ trí tam muội chiếu rõ nơi tâm. Tâm hằng vào khắp cảnh giới bình đẳng. Ðược trí huệ của Như Lai chiếu đến. Dòng Nhứt thiết trí tương tục chẳng dứt. Hoặc thân hoặc tâm đều chẳng rời Phật pháp.

Tất cả chư Phật thần lực gia hộ. Tất cả Như Lai quang minh chiếu đến.

Thành tựu đại nguyện. Nguyện thân cùng khắp tất cả sát võng, tất cả pháp giới vào khắp thân mình.

Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam, trải qua mười hai năm, đến thành Trụ Lâm tìm GIẢI THOÁT TRƯỞNG GIẢ.

Lúc đã gặp được, Thiện Tài đảnh lễ chân Trưởng giả chắp tay cung kính thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Nay tôi được hội ngộ bực thiện tri thức. Tôi đã được lợi ích rộng lớn.

Tại sao vậy ?

Vì với các bực thiện tri thức, khó được thấy, khó được nghe, khó được xuất hiện, khó được phụng sự, khó được gần gũi, khó được tiếp rước, khó được gặp gỡ, khó được ở chung, khó làm cho vui đẹp, khó được theo dõi. Mà nay tôi được gặp gỡ, nên tôi được lợi lành rộng lớn.

Bạch đức Thánh ! Tôi đã trước phát tâm Vô thượng Bồ đề, vì muốn thờ tất cả chư Phật, vì muốn gặp tất cả chư Phật, vì muốn thấy tất cả chư Phật, vì muốn nhìn tất cả chư Phật, vì muốn biết tất cả chư Phật, vì muốn chứng tất cả chư Phật bình đẳng, vì muốn phát tất cả chư Phật đại nguyện, vì muốn thành mãn tất cả Phật đại nguyện, vì muốn đầy đủ tất cả chư Phật trí quang, vì muốn thành những hạnh của tất cả chư Phật, vì muốn được thần thông của tất cả chư Phật, vì muốn đầy đủ trí lực của tất cả chư Phật, vì muốn được vô úy của tất cả chư Phật, vì muốn nghe pháp của tất cả chư Phật, vì muốn thọ pháp của tất cả chư Phật, vì muốn hiểu pháp của tất cả chư Phật, vì muốn hộ pháp của tất cả chư Phật, vì muốn đồng một thể với tất cả chúng Bồ Tát, vì muốn đồng thiện căn với tất cả Bồ Tát, vì muốn viên mãn Ba la mật của tất cả Bồ Tát, vì muốn thành tựu hạnh tu hành của tất cả Bồ Tát, vì muốn xuất sanh thanh tịnh nguyện của tất cả Bồ Tát, vì muốn được tạng oai thần của tất cả chư Phật, Bồ Tát, vì muốn được pháp tạng vô tận trí huệ đại quang minh của tất cả Bồ Tát, vì muốn được tạng tam muội quảng đại của tất cả Bồ Tát, vì muốn thành tựu tạng vô lượng vô số thần thông của tất cả Bồ Tát, vì muốn dùng tạng đại bi giáo hóa điều phục của tất cả chúng sanh đều làm cho họ rốt ráo đến biên tế, vì muốn hiển hiện tạng thần biến, vì ở trong tất cả tạng tự tại đều dùng tự tâm được tự tại, vì muốn nhập trong thanh tịnh tạng nên dùng tất cả tướng mà trang nghiêm.

Bạch đức Thánh ! Nay tôi đem tâm như vậy, ý như vậy, thích như vậy, muốn như vậy, trông mong như vậy, tư duy như vậy, tôn trọng như vậy, phượng tiện như vậy, cứu cánh như vậy, khiêm hạ như vậy, mà đến chỗ đức Thánh.

Tôi nghe đức Thánh có thể khéo dạy bảo chúng Bồ Tát, có thể dùng phương tiện xiển minh chỗ sở đắc, chỉ cho đường sá, ban cho cầu đò, trao cho pháp môn, khiến trừ chướng mê đảo, nhổ mũi tên do dự, cắt lưới nghi hoặc, soi tâm rừng rậm, rửa tâm nhơ đục, khiến tâm trắng sạch, khiến tâm thanh tịnh, chánh tâm dua vậy, tuyệt tâm sanh tử, ngăn tâm bất thiện, mở tâm chấp trước.

Nơi chỗ chấp trước làm cho tâm giải thoát, ở chỗ nhiễm ái làm cho tâm động chuyển. Khiền họ mau nhập cảnh nhứt thiết trí. Khiến họ mau đến thành vô thượng pháp. Khiến họ trụ đại bi. Khiến họ trụ đại từ. Khiến họ nhập Bồ Tát hạnh. Khiến họ tu môn tam muội. Khiến họ nhập chứng vị. Khiến họ quán pháp tánh. Khiến họ tăng trưởng lực. Khiến họ tu tập hạnh. Tâm họ bình đẳng khắp ở tất cả.

Cúi xin đức Thánh vì tôi tuyên nói Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo. Theo chỗ tu tập mau được thanh tịnh, mau được minh liểu.

Lúc đó Giải Thoát Trưởng giả do sức thiện căn quá khứ, sức oai thần của Phật, do niệm lực của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, mà nhập Bồ Tát tam muội môn tên là "vô biên triền đà la ni nhiếp khắp tất cả cõi Phật".

Nhập tam muội này rồi được thân thanh tịnh. Ở trong thân mình hiển hiện mười phương, mỗi phương đều mười Phật sát vi trần số Phật và quốc độ, chúng hội đạo tràng, các thứ quang minh, các sự trang nghiêm. Cũng hiện những thần thông biến hóa, tất cả đại nguyện, những pháp trợ đạo tu hành thuở xưa của chư Phật và những hạnh xuất ly thanh tịnh trang nghiêm. Cũng thấy chư Phật thành Ðẳng Chánh Giác chuyển diệu pháp luân giáo hóa chúng sanh. Tất cả những sự như vậy thảy đều hiển hiện trong phân thân không chướng ngại. Các thứ hình tướng, nhiều loại thứ đệ an trụ như cũ chẳng tạp loạn nhau.

Những là : các thứ quốc độ, các thứ chúng hội, các thứ đạo tràng, các thứ nghiêm sức.

Trong đó chư Phật hiện những thần lực, lập những thừa đạo, bày những nguyện môn.

Hoặc nơi một thế giới, ở cung Ðâu Suất mà làm Phật sự.

Hoặc nơi một thế giới, ẩn cung Ðâu Suất mà làm Phật sự.

Như vậy, hoặc lại trụ thai, hoặc đản sanh, hoặc ở trong cung, hoặc xuất gia, hoặc đến đạo tràng, hoặc phá ma quân, hoặc chư Thiên Long cung kính vây quanh, hoặc các Thế Chủ khuyến thỉnh thuyết pháp, hoặc chuyển pháp luân, hoặc nhập Niết bàn, hoặc chia Xá lợi, hoặc xây tháp miếu.

Chư Phật Như Lai đó ở các chúng hội, các thế gian, các loài, các chủng tộc, các dục lạc, các nghiệp hành, các ngữ ngôn, các căn tánh, các phiền não, tùy miên, tập khí, trong các chúng sanh.

Hoặc ở vi tế đạo tràng, hoặc ở quảng đại đạo tràng, hoặc ở đạo tràng lượng một do tuần, hoặc ở đạo tràng lượng mười do tuần, hoặc ở đạo tràng lượng bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số do tuần.

Dùng các thứ thần thông, các thứ ngôn từ, các thứ âm thanh, các thứ pháp môn, các thứ tổng trì môn, các thứ biện tài môn. Dùng các thứ Thánh đế, các thứ vô úy đại sư tử hống mà diễn thuyết những thiện căn, những ức niệm của các chúng sanh. Thọ ký cho Bồ Tát. Nói những Phật pháp.

Chư Phật Như Lai có bao nhiêu ngôn thuyết, Thiện tài đồng tử đều nghe thọ được cả. Cũng thấy bất tư nghì tam muội thần biến của chư Phật và chư Bồ Tát.

Lúc bấy giờ Giải Thoát Trưởng giả xuất tam muội, bảo Thiện Tài rằng :

Thiện nam tử ! Ta đã nhập xuất môn vô ngại trang nghiêm giải thoát của Như Lai.

Thiện nam tử ! Lúc ta nhập xuất môn giải thoát này, liền thấy thế giới Diêm Phù Ðàn Kim Quang Minh ở phương Ðông, đức Long Tự Tại Vương Như Lai Ðẳng Chánh Giác, chúng hội đạo tràng vây quanh. Tỳ lô Giá Na Tạng Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy thế giới Tốc Tật Lực ở phương Nam, Phổ Hương Như Lai Ðẳng Chánh Giác và đạo tràng chúng hội vây quanh. Tâm Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy thế giới Hương Quang ở phương Tây, Tu Di Ðăng Vương Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Vô Ngại Tâm Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy thế giới Ca Sa Tràng ở phương Bắc, Bất Khả Hoại Kim Cang Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Kim Cang Dũng Mãnh Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy phương Ðông Bắc, thế giới Nhứt Thiết Thượng Diệu Bửu, đức Vô Sở Ðắc Cảnh Giới Nhãn Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Vô Sở Ðắc Thiện Biến Hóa Bồ Tát làm thượng chủ.

Lại thấy phương Ðông Nam, thế giới Hương Diệm Quang Âm, đức Hương Ðăng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Kim cang Diệm Huệ Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy phương Tây Nam, thế giới Trí Huệ Nhựt Phổ Quang Minh, đức Pháp Giới Luân Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Hiện Nhứt Thiết Biến Hóa Tràng Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy phương Tây Bắc, thế giới Phổ Thanh Tịnh, đức Nhứt Thiết Phật Bửu Cao Thắng Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Pháp Tràng Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy Thượng phương, thế giới Phật Thứ Ðệ Xuất Hiện Vô Tận, đức Vô Biên Trí Huệ Quang Viên Mãn Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Pháp Giới Môn Tràng Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy Hạ phương, thế giới Phật Quang Minh, đức Vô Ngại Trí Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Nhứt Thiết Thế Gian Sát Tràng Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Thiện nam tử ! Ta thấy mười phương như vậy. Mỗi phương đều mười Phật sát vi trần số Như Lai. Chư Như Lai chẳng đến đây, ta cũng chẳng qua đó.

Nếu ta muốn thấy thế giới An Lạc, đức A Di Ðà Như Lai, thời tùy ý liền thấy.

Nếu ta muốn thấy Chiên Ðàn thế giới, Kim Cang Quang Minh Như Lai; Diệu Hương thế giới, Bửu Quang Minh Như Lai; Liên Hoa thế giới, Bửu Liên Hoa Quang Minh Như Lai; Diệu Kim thế giới; Tịch Tịnh Quang Như Lai; Diệu Hỉ thế giới, Bất Ðộng Như Lai, Thiện Trụ thế giới; Sử Tử Như Lai; Cảnh Quang Minh thế giới, Nguyệt Giác Như Lai; Bửu Sư Tử Trang Nghiêm thế giới, Tỳ Lô Giá Na Như Lai; tất cả chư Như Lai như vậy đều tùy ý liền thấy. Nhưng chư Như Lai chẳng đến đây, ta cũng không qua đó.

Biết tất cả chư Phật cùng tâm của ta đều như mộng. Biết tất cả chư Phật như ảnh tượng, còn tâm mình như nước. Biết tất cả sắc tướng của chư Phật và tâm mình đều như huyễn. Biết tất cả Phật và tâm mình thảy đều như vang.

Ta biết như vậy, ức niệm như vậy. Chư Phật được thấy đều do tự tâm.

Thiện nam tử ! Phải biết Bồ Tát tu những Phật pháp, tịnh những Phật độ, tích tập diệu hạnh, điều phục chúng sanh, phát đại thệ nguyện, nhập nhứt thiết trí, tự tại du hí bất tư nghì môn giải thoát, được Phật Bồ đề, hiện đại thần thông, qua khắp tất cả mười phương pháp giới, dùng vi tế trí nhập khắp các kiếp, tất cả như vậy đều do tự tâm.

Thiện nam tử ! Do đây nên phải dùng thiện pháp phò trợ tự tâm. Phải dùng pháp thủy thấm nhuần tự tâm. Phải ở cảnh giới trị sạch tự tâm. Phải dùng tinh tấn kiên cố tự tâm. Phải dùng nhẫn nhục san bằng tự tâm. Phải dùng trí chứng rửa sạch tự tâm. Phải dùng trí huệ minh tự tâm. Phải dùng Phật tự tại khai phát tự tâm. Phải dùng Phật bình đẳng quản đại tự tâm. Phải dùng Phật thập lực chiếu xét tự tâm.

Thiện nam tử ! Ta chỉ nhập xuất được “MÔN GIẢI THOÁT NHƯ LAI VÔ NGẠI TRANG NGHIÊM" này.

Còn như chư đại Bồ Tát được vô ngại trí, trụ vô ngại hạnh, được tam muội "thường thấy tất cả Phật", được tam muội "chẳng trụ niết bàn tế", rõ thấu tam muội "Phổ môn cảnh giới". Với những pháp tam thế thảy đều bình đẳng. Hay khéo phân thân khắp tất cả cõi. An trụ nơi cảnh giới bình đẳng của chư Phật. Cảnh giới mười phương đều hiện tiền. Trí huệ quán sát đều thấy biết rõ ràng tất cả. Ở trong thân mình đều hiện tất cả thế giới thành hoại, nhưng đối với thân mình và các thế giới không có tưởng nghĩ là hai.

Những diệu hạnh như vậy, làm sao ta biết hết được, nói hết được.

Này thiện nam tử ! từ đây qua phương Nam đến bờ Diêm Phù Ðề, có một nước tên là Ma Lợi Già La. Nước đó có Tỳ kheo tên là Hải Tràng.

Ngươi đến đó hỏi : Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Giải Thoát Trưởng giả, hữu nhiễu quán sát xưng dương ca ngợi, tư duy chiêm ngưỡng, buồn khóc rơi lệ, nhứt tâm ghi nhớ y tựa thiện tri thức, thờ thiện tri thức, kính thiện tri thức, do thiện tri thức được thấy nhứt thiết trí. Với thiện tri thức chẳng có lòng chống trái, không dua dối. Với thiện trí thức tâm thường tùy thuận. Nơi thiện tri thức phát tưởng là từ mẫu, vì bỏ rời tất cả pháp vô ích. Nơi thiện tri thức phát tưởng là từ phụ, vì xuất sanh tất cả pháp lành. Tư duy rồi, từ tạ mà đi.



Kinh:

Thiện Tài Đồng Tử đi lần qua phương Nam, trải qua mười hai năm

Giảng:

Như tôi đã nói nhiều lần, mười hai năm là một chu kỳ viên mãn, có thể là một trăm hai mươi năm, cũng có thể là một nghìn hai trăm năm.

Kinh:

Đến thành Trụ Lâm, tìm Giải Thoát Trưởng Giả.

Giảng:

Ta nhớ rằng đầu tiên Thiện Tài đi đến núi Diệu Phong, sau đến cửa bể Hải Môn, rồi đến vị thứ 5 là đến Trụ Lâm, v.v… càng ngày, vị trí các vị thiện tri thức càng vững và càng cao, đến đây là Thiện Tài đã trụ được vào trung quán song chiếu, tức là quán cả giả lẫn quán không, đến ngài Giải Thoát Trưởng Giả là đã đến một nấc viên dung, trong sự nhập pháp giới. Trong mười hai năm Thiện Tài đi, thì ngài tu trung quán, cả không lẫn giả. Giải thoát đây không có nghĩa như giải thoát bên Thanh Văn đâu, mà cũng chưa phải nhập pháp giới viên mãn như đức Phật, nhưng ngài gọi là Giải Thoát tức là đã đến một mức viên dung của trung quán. Vì vậy ngài có thể nhập pháp giới cho Thiện Tài trông thấy được.

Kinh:

Lúc đã gặp được, Thiện Tài đảnh lễ chân Trưởng Giả, chắp tay cung kính thưa rằng: “Bạch đức Thánh, nay tôi được hội ngộ thiện tri thức. Tôi đã được lợi ích rộng lớn… (bỏ bớt một đoạn kinh…) Bạch đức Thánh, nay tôi đem tâm như vậy, ý như vậy, thích như vậy, muốn như vậy, trông mong như vậy, tư duy như vậy, tôn trọng như vậy, cứu cánh như vậy, khiêm hạ như vậy, mà đến chỗ đức Thánh…

Giảng:

Đại khái trong đoạn kinh này, Thiện Tài muốn xin học đến chỗ viên mãn của Bồ Tát hạnh. Và lúc đó Giải Thoát Trưởng Giả không trả lời Thiện Tài mà nhập ngay tam muội cho Thiện Tài trông thấy. Xin đọc đoạn kinh sau:

Kinh:

Lúc đó Giải Thoát Trưởng Giả do sức thiện căn quá khứ.

Giảng:

Thiện căn tức là do sức tu hành về trung quán song chiếu lâu rồi, đến một mức viên dung tuy chưa phải sự viên dung của chư Phật.

Kinh:

Do sức oai thần của Phật, do niệm lực của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, mà nhập Bồ Tát tam muội tên là “vô biên triền đà la ni nhiếp khắp tất cả cõi Phật…”

Giảng:

Vẫn phải do sức gia trì của chư Phật đồng thời do niệm lực của ngài Văn Thù, đồng thời do nguyện lực tu hành cũ của mình mới vào được tam muội này… Lúc nào Hoa Nghiêm cũng dạy rằng, phải hội đủ ba điều đó cùng đi song song mới được. Vô biên thì quí vị hiểu rồi, còn triền là dính mắc, chuyển chuyển xoay vần lẫn nhau. Nhà Phật nhìn pháp giới bao giờ cũng xoay vần như một cái bánh xe. Vì mọi vật đều xoáy tròn trôn ốc, tâm thức chúng ta cũng thế, mà cả pháp giới này cũng đều xoáy tròn như vậy, mà ta không trông thấy thôi. Chúng ta cứ tưởng rằng mình tự do lắm, đi ngang đi dọc, nhưng chính chúng ta cũng nằm trong quĩ đạo xoáy tròn ấy. Như sáng ra đi làm, tối về chơi lăng xăng rồi cuối cùng cũng trở về nhà, rồi hôm sau lại y như vậy. Chỉ có mỗi ngày, tâm thức mỗi đổi khác một chút mà không biết. Chỉ có chuyển động xoáy tròn đó và chuyển động theo bề ngang (mouvement latéral hay tangentiel) thuộc về nhục nhãn của chúng ta. Tỷ dụ một hòn bi bắn vào một hòn bi khác thì đó là chuyển động bề ngang mà mắt thịt chúng ta nhìn thấy. Nhìn sâu hơn nữa, nhìn theo Phật nhãn, thì tất cả đều do sức phụt từ điểm không hư lên thành pháp giới này. Vì vậy, thuyết nhà Phật gọi là thuyết Sát Na, vì tất cả các flash đó đều là sát na.

Trở lại vị thiện tri thức Giải Thoát, ngài nhập “Vô biên triền đà la ni.” Trong đạo Phật nghĩa chữ “đà la ni” rất rộng, có khi nó được gọi là “pháp,” có khi gọi là “pháp môn,” có khi là câu thần chú, có khi là một khả năng tâm thức, một diệu đức. Khi một hành giả tu trong tàng thức lâu rồi, thì tàng thức nở ra nhiều thứ diệu đức, như một cụm hoa đến thời kỳ nở vậy. Diệu đức lâu rồi trở thành một Lực gọi là diệu lực, thí dụ như khả năng chỉ nói một lời, có thể khiến tâm thức người khác thấy mát mẻ, bớt giận, hoặc khả năng nghe tất cả ngữ ngôn chúng sanh, đó cũng gọi là “đà la ni.” Trong phẩm Phổ Môn có nói đến “Vô tác diệu đức, vô tác diệu lực” của ngài Quán Thế Âm. Tức là ngài quán về âm thanh lâu dài nên trong tàng thức của ngài nở ra tất cả khả năng. Vì tàng thức vốn “cụ túc,” hàm chứa đủ tất cả, không cái gì là không có, ngay cả pháp giới này, cùng những luồng lực đều có trong ấy cả. Vì vậy, sau này Thiện Tài đến gặp một vị thiện tri thức gọi là Cụ Túc, ngài tu theo hạnh bố thí nhưng không bố thí như chúng ta đâu, mà ngài móc trong tàng thức của ngài, chỉ dùng một cái chén nhỏ làm hiện lên các đồ cần dùng để bố thí. Tàng thức ấy rất lạ, nó có thể khởi lên đủ các sắc tướng, và Ma Vương Ba Tuần có thể móc ra từ đó cả trăm ngàn thiên nữ múa hát cho mình nghe, hoặc móc ra cả một thế giới châu báu v.v…

Trong phẩm nhập pháp giới này, tên của các vị thiện tri thức rất chập chùng, nhưng tên nào cũng mang một ý nghĩa của nó, đọc tên là chúng ta có thể hiểu vị đó làm những hạnh gì, tu hành ra sao v.v… Trở lại ngài Giải Thoát Trưởng Giả, ngài nói ngài vào trong Vô biên triền đà la ni, nhiếp khắp tất cả cõi Phật. Có nghĩa là ngài vào trong tam muội ấy làm nở tất cả khả năng tâm thức có thể xoay chuyển hoài hoài, nhiếp tất cả cõi Phật. Nên ta phải hiểu rằng, tâm thức như cái bánh xe xoay tít, trong đà xoay ấy nó thâu gồm đủ mọi cõi Phật trong đó. Tuy ngài nói như thế, cũng chưa phải là tất cả, vì ngài có khả năng xoáy tròn vô lượng cõi Phật, nhưng không phải là tất cả cõi Phật, vì tất cả cõi Phật thì chỉ có chư Phật mới làm được thôi. Còn vị này chỉ đến một mức viên dung nào của trung đạo song chiếu thôi, ở đây, chúng ta cũng phải hiểu ý nghĩa của chữ “vô lượng.” Thí dụ như trong kinh nói “vô lượng hạt cát sông Hằng…” nghĩa là số cát sông Hằng rất nhiều người thường không thể tính đếm được, chứ không phải nó vô lượng thật đâu. Vì sao? Vì chư Đại Bồ Tát và chư Phật vẫn có thể tính đếm được. Còn cái vô lượng thật thì không tính được, chỉ trừ chư Phật mới tính được thôi. Theo nhà Phật, có hai pháp thực là vô lượng đó là hư không và Niết Bàn, đó là trong đại trí độ luận nói như vậy.

Kinh:

Nhập tam muội này rồi được thân thanh tịnh, ở trong thân mình hiển hiện mười phương, mỗi phương đều mười Phật sát vi trần số Phật, và quốc độ chúng hội đạo tràng, các thứ quang minh, các sự trang nghiêm…

Giảng:

Trong tam muội này, thân của ngài Giải Thoát Trưởng Giả rất thanh tịnh, (thân thanh tịnh có lẽ còn hơn vị hành giả được thân thanh tịnh trong Pháp Hoa tam muội), nên trong thân ngài hiện nhiều cõi Phật, rất nhiều, như mười phương, mỗi phương đều hiện nhiều phật sát vi trần số cõi trong thân ngài. “Mười phật sát vi trần số cõi” tức là rất nhiều, nhưng cũng chưa phải là tất cả pháp giới này đâu, nhưng ta phải hiểu tam muội này rất sâu, phải là một người thân tâm thanh tịnh, trồng rất sâu căn lành mới đắc được tam muội này — Và như thế, là ngài Nhập Pháp Giới —

Kinh:

Cũng hiện những thần thông biến hóa, tất cả đại nguyện…

Giảng:

Thần thông biến hóa, tất cả đại nguyện tức là tất cả những bổn sanh, bổn sự của chư Đại Bồ Tát và chư Phật tu hành trong đó, lúc thọ sanh làm kiếp này, lúc thọ sanh làm kiếp khác, biến hóa ra sao v.v… rất nhiều cõi Phật như thế, người nào tu hành ra sao đều có thứ đệ rõ rệt, không hề tạp loạn. Đoạn kinh này rất dài, đại khái nói trong các cõi có rất nhiều đạo tràng, hoặc vi tế đạo tràng, hoặc quảng đại đạo tràng, hoặc có những đạo tràng vô lượng bất khả thuyết, bất khả thuyết phật sát vi trần số do tuần v.v…

Kinh:

Chư Phật Như Lai trong đó có bao nhiêu ngôn thuyết, Thiện Tài Đồng Tử đều nghe thọ được cả. Cũng thấy bất tư nghì thần biến của chư Phật và chư Bồ Tát.

Giảng:

Ở đây, ta thấy rõ rằng ngài Giải Thoát Trưởng Giả gia trì cho Thiện Tài cùng nhập vào môn tam muội của ngài nên nhìn thấy được cảnh giới y như ngài và nghe được chư Phật thuyết pháp.

Kinh:

Lúc bấy giờ Giải Thoát Trưởng Giả xuất tam muội bảo Thiện Tài rằng: Thiện nam tử, ta đã nhập xuất môn vô ngại trang nghiêm giải thoát của Như Lai.

Giảng:

Trong kinh không nói Thiện Tài nhập môn tam muội ấy, trong kinh chỉ nói Thiện Tài cũng nhìn thấy được 10 phương chư Phật, nghe chư Phật thuyết pháp và nhớ được hết. Sở dĩ ta nói rằng vị này mức độ tu chứng chưa cao tuyệt là vì sao? Vì ngài còn nhập, còn xuât tam muội đó. Chúng ta nhớ lại ngài thiện tri thức thứ 3 là ngài Thiện Trụ, ngài được môn “Vô ngại giải thoát” tam muội, còn ngài Giải Thoát Trưởng Giả này được thêm chữ “trang nghiêm,” nên ta thấy có những thứ bực đi lên. Rồi ngài Giải Thoát lại nói rằng khi ngài nhập tam muội này thì liền thấy mười phương thế giới chư Phật, cùng đạo tràng chúng hội vây quanh, ở đây, nhớ lại ngài Đức Vân, ngài cũng nhìn thấy 10 phương chư Phật nhưng không kể rõ danh hiệu của chư Phật, còn ngài này thì kể rõ danh hiệu. Vì vậy, có thể nói ngài Giải Thoát tu sâu vào tàng thức hơn ngài Đức Vân. Từ đây về sau, chúng ta sẽ thấy phần nhiều các vị thiện tri thức đều hiện những cảnh giới trang nghiêm. Ngài Giải Thoát lại nói tiếp:

Kinh:

Nếu ta muốn thấy thế giới an lạc, đức A Di Đà Như Lai thời tùy ý liền thấy. Nếu ta muốn thấy chiên đàn thế giới, Kim Cang Quang Minh Như Lai, diệu hương thế giới, Bửu Quang Minh Như Lai, liên hoa thế giới, Bửu Liên Hoa Quang Minh Như Lai, diệu kim thế giới, Tịch Tịnh Quang Như Lai v.v… (Bỏ một đoạn kinh nói danh hiệu các đức Như Lai và các thế giới của ngài)… Tât cả chư Như Lai như vậy đều tùy ý liền thấy. Nhưng chư Như Lai chẳng đến đây, ta cũng không qua đó… Biết tất cả chư Phật cùng tâm ta đều như mộng. Biết tất cả sắc tướng của chư Phật và tâm mình đều như huyễn. Biết tất cả Phật và tâm mình thảy đều như vang…

Giảng:

Ở đây, ngài đã đến một nấc viên dung của trung quán, đồng thời ngài cũng dạy cho Thiện Tài quán chiếu như huyễn. Sau đó, ngài lại nhắc rằng, tất cả đều là tự tâm hết, cả chư Phật Như Lai, cùng với ta, cùng với ông, tất cả pháp giới đều hiện lên từ tự tâm ấy thôi.

Kinh:

Ta biết như vậy, ức niệm như vậy, chư Phật được thấy đều do tự tâm. Thiện nam tử, phải biết Bồ Tát tu những Phật pháp, tịnh những Phật độ, tích tập diệu hạnh, điều phục chúng sanh, phát đại thệ nguyện, nhập nhát thiết trí, tự tại du hí bất tư nghi môn giải thoát, được Phật bồ đề, hiện đại thần thông, qua khắp tất cả mười phương pháp giới, dùng vi tế trí nhập khắp các kiếp, tất cả như vậy đều do tự tâm…

Giảng:

Tóm lại, vị thiện tri thức thứ 5 này đã đến một mức viên dung khá cao để cho Thiện Tài trông thấy các cõi ngay, nhưng trong kinh không nói rằng Thiện Tài được tam muội gì hết, phải đến vị thiện tri thức thứ 8 lúc bấy giờ Thiện Tài mới nhập được năm thứ tam muội.

Kinh:

Thiện nam tử, ta chỉ nhập xuất được môn giải thoát “Như Lai vô ngại trang nghiêm” này…

Giảng:

Ở đây, ngài phải nhập, xuất tam muội thì chưa phải cao lắm, đến sau này, khi Thiện Tài gặp những vị thiện tri thức cao hơn, thì lúc nào các ngài cũng ở trong tam muội cả.

Kinh:

Này thiện nam tử, từ đây qua phương Nam đến bờ Diêm Phù Đề, có một nước tên là Ma Lợi Già La. Nước đó có Tỳ Kheo tên là Hải Tràng. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Giảng:

Thiện Tài vừa đi qua hai vị Ưu Bà Tắc thì đây, ngài lại đến một vị Tỳ Kheo.

Kinh:

Thiện Tài Đồng Tử nhất tâm chánh niệm lời dạy của Giải Thoát Trưởng Giả, quán sát lời dạy của Trưởng Giả. Ghi nhớ môn bất tư nghì Bồ Tát giải thoát của Trưởng Giả…

Giảng:

Đại khái đoạn này tả Thiện Tài nhất tâm tu theo những gì Giải Thoát Trưởng Giả đã dạy…, rồi đi lần qua phương Nam…



6.- HẢI TRÀNG TỲ KHEO


 Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết một “BÁT NHÃ BA LA MẬT TAM MUỘI QUANG MINH” này.


Thiện Tài Ðồng Tử nhất tâm chánh niệm lời dạy của Giải Thoát Trưởng giả, quán sát lời dạy của Trưởng giả. Ghi nhớ môn bất tư nghì Bồ Tát Giải Thoát của Trưởng giả. Tư duy bất tư nghì Bồ Tát trí quang minh của Trưởng giả. Thâm nhập bất tư nghì pháp giới môn của Trưởng giả. Xu hướng bất tư nghì Bồ Tát phổ nhập môn của Trưởng giả. Thấy rõ bất tư nghì Như Lai thần biến của Trưởng giả. Hiểu rõ bất tư nghì phổ nhập Phật độ của Trưởng giả. Phân biệt bất tư nghì Phật lực trang nghiêm của Trưởng giả. Suy gẫm bất tư nghì Bồ Tát tam muội giải thoát cảnh giới phần vị của Trưởng giả. Rõ thấu bất tư nghì thế giới sai biệt cứu cánh vô ngại của Trưởng giả. Tu hành bất tư nghì Bồ Tát kiên cố thâm tâm của Trưởng giả. Phát khởi bất tư nghì Bồ Tát đại nguyện nghiệp của Trưởng giả.

Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam đến bờ Diêm Phù Ðề, nước Ma Lợi, tìm HẢI TRÀNG TỲ KHEO. Bèn thấy Hải Tràng Tỳ Kheo ngồi kiết già ở bên chỗ đi kinh hành, đang nhập tam muội, bặt hơi thở, lìa tư giác, thân tâm bất động.

Từ dưới chân của Tỳ Kheo ấy hiện ra vô số muôn ngàn ức Trưởng giả, Cư Sĩ, Bà La Môn. Ðại chúng này đều dùng nhiều đồ trang nghiêm để nghiêm sức thân mình. Tất cả đều đội bửu quan, đeo minh châu, qua khắp tất cả thế giới mười phương mưa tất cả châu bửu, tất cả chuỗi ngọc, tất cả y phục, tất cả đồ uống ăn thượng vị đúng pháp, tất cả hoa, tất cả tràng hoa, tất cả hương, tất cả hương thoa, tất cả đồ tư sanh theo sở thích. Ở tất cả chỗ cứu nhiếp những chúng sanh nghèo cùng, an ủi những chúng sanh khổ não, đều làm cho hoan hỷ. Tâm ý thanh tịnh. Thành tựu đạo Vô thượng Bồ đề.

Từ hai gối của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện trăm ngàn ức Sát Ðế Lợi, Bà La Môn. Ðại chúng này đều thông huệ, nhiều sắc tướng, nhiều hình mạo, nhiều y phục thượng diệu trang nghiêm, cùng khắp tất cả thế giới mười phương, dùng ái ngữ và đồng sự nhiếp các chúng sanh.

Những là làm cho người nghèo được đầy đủ, người bệnh được lành, người nguy được an, người kinh sợ được y tựa, người ưu sầu được sung sướng. Lại dùng phương tiện để khuyến dụ họ, làm cho họ đều bỏ ác làm lành.

Từ khoảng eo lưng của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô lượng vô số tiên nhân : hoặc mặc y phục bằng cỏ, bằng vỏ cây. Ðều cầm bình rửa, oai nghi tịch tịnh, du hành thế giới mười phương. Ở trên hư không, dùng diệu âm ca ngợi Như Lai. Diễn thuyết các pháp : hoặc diễn thuyết đạo thanh tịnh phạm hạnh, làm cho họ tu tập điều phục các căn tánh. Hoặc nói các pháp đều không tự tánh, cho họ quán sát phát sanh trí huệ. Hoặc nói pháp tắc ngôn luận thế gian. Hoặc lại khai thị nhứt thiết trí phương tiện xuất yếu, làm cho họ theo thứ đệ đều tu tập hạnh nghiệp của riêng mình.

Từ hai bên hông của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện bất tư nghì Long, bất tư nghì Long nữ, thị hiện bất tư nghì thần biến của chư Long. Những là mưa những mây hương thơm, mây hoa, mây tràng hoa, mây bửu cái, mây bửu phan, mây diệu bửu trang nghiêm, mây như ý bửu, mây bửu anh lạc, mây bửu tọa, mây bửu cung điện, mây bửu liên hoa, mây bửu quan, mây thiên thân, mây thể nữ, tất cả đều bất tư nghì khắp hư không để trang nghiêm. Sung mãn chư Phật đạo tràng tất cả thế giới mười phương để cúng dường, làm cho các chúng sanh đều hoan hỷ.

Từ tướng chữ "vạn" trước ngực xuất hiện vô số trăm ngàn ức A Tu La Vương, thảy đều thị hiện bất tư nghì huyễn lực tự tại, làm chấn động cả trăm thế giới. Tất cả nước biển tự nhiên sôi trào. Tất cả Sơn Vương tự nhiên xung kích. Chư Thiên cung điện đều lay động. Quang minh của chư ma đều bị che khuất. Chúng ma quân đều bị xô dẹp. Khiến khắp chúng sanh bỏ tâm kiêu mạng, trừ tâm sân hại, phá núi phiền não, dứt các pháp ác, thêm lớn pháp vô tránh, hằng hòa lành nhau. Lại dùng huyễn lực khai ngộ chúng sanh, làm cho họ diệt tội ác, sợ sanh tử, khỏi các loài, lìa nhiễm trước. Khiến họ an trụ tâm Vô Thượng Bồ Ðề, khiến họ tu tất cả hạnh Bồ Tát, khiến mạnh các môn Ba la mật, khiến nhập tất cả bực Bồ Tát, khiến quán sát tất cả pháp môn vi diệu, khiến biết tất cả phương tiện của chư Phật. Những việc làm trên đây cùng khắp pháp giới.

Từ trên lưng của Hải Tràng Tỳ Kheo, vì người đáng dùng Nhị thừa để độ, xuất hiện vô số trăm ngàn ức Thanh Văn và Ðộc Giác. Vì người chấp ngã mà nói pháp vô ngã. Vì người chấp thường mà nói tất cả thành pháp đều vô thường. Vì người tham mà nói bất tịnh quán. Vì người sân ma nói từ tâm quán. Vì người si mà nói duyên khởi quán. Vì người đẳng phần phiền não mà nói cảnh giới pháp cùng trí huệ tương ưng. Vì người mến thích cảnh giới mà nói pháp vô sở hữu. Vì người mến thích chỗ tịch tịnh mà nói pháp phát thệ nguyện lớn khắp lợi ích tất cả chúng sanh. Những việc làm như vậy cùng khắp pháp giới.

Từ hai vai của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức Dạ Xoa Vương, La Sát Vương : những hình mạo, những sắc tướng, hoặc cao hoặc thấp đều đáng kinh sợ. Vô lượng quyến thuộc vây quanh. Chư Vương này thủ hộ tất cả chúng sanh làm lành và các Hiền Thánh chúng hội Bồ Tát, người hướng chánh trụ và người chánh trụ. Hoặc hiện làm thần Chấp Kim Cang thủ hộ chư Phật và chỗ chư Phật ngự. Hoặc khắp thủ hộ thế gian : làm cho người hãi sợ được an ổn. Người tật bệnh được lành. Người khổ não được hết khổ. Người có lỗi lầm thời ăn năn. Người bị tai nạn thời khổ nạn. Lợi ích tất cả chúng sanh như vậy đều làm cho họ bỏ sanh tử luân mà chuyển chánh pháp luân.

Từ nơi bụng của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện trăm ngàn ức Khẩn Na La Vương, đều có vô số Khẩn Na La nữ trước sau vây quanh. Lại xuất hiện vô số Càn Thát Bà Vương, đều có vô số Càn Thát Bà nữ trước sau vây quanh. Ðều trổi vô số trăm ngàn thiên nhạc ca ngâm tán thán những pháp bửu tánh. Ca ngâm tán thán chư Phật Bửu. Ca ngâm tán thán phát Bồ đề tâm. Ca ngâm tán thán tu Bồ Tát hạnh. Ca ngâm tán thán môn thành Ðẳng Chánh Giác của tất cả chư Phật. Ca ngâm tán thán môn chuyển pháp luân của tất cả chư Phật. Ca ngâm tán thán môn hiện thần biến của tất cả chư Phật. Khai thị diễn thuyết môn nhập Niết bàn của tất cả chư Phật. Khai thị diễn thuyết môn thủ hộ giáo pháp của tất cả chư Phật. Khai thị diễn thuyết môn làm cho tất cả chúng sanh đều hoan hỷ. Khai thị diễn thuyết môn nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Khai thị diễn thuyết môn hiển bài tất cả pháp vi diệu. Khai thị diễn thuyết môn bỏ lìa tất cả chướng ngại. Khai thị diễn thuyết môn phát sanh tất cả thiện căn. Tất cả như vậy đều cùng khắp thế giới mười phương.

Từ trên mặt của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức Chuyển Luân Thánh Vương, thất bửu đầy đủ, bốn đội binh vây quanh, phóng ánh sáng đại xả, mưa vô lượng bửu làm cho người nghèo thiếu đều được no đủ và làm cho họ bỏ hẳn sự trộm cắp. Thể nữ sinh đẹp vô số trăm ngàn đều đem xả thí không tiếc, làm cho họ bỏ hẳn sự tà dâm; làm cho họ sanh lòng từ chẳng giết hại; làm cho họ rốt ráo thường nói lời chân thật, chẳng dối phỉnh, chẳng luận đàm vô ích; làm cho họ nói lời hòa giải vui thuận chẳng làm sự ly gián; làm cho họ nói lời diệu dàng không có thô ác; làm cho họ thường diễn thuyết những nghĩa thậm thâm nhất định minh liễu, chẳng nói lời vô nghĩa trau chuốt. Vì họ mà nói thiểu dục cho họ trừ tham ái lòng không nhơ bợn. Vì họ mà nói đại bi cho họ trừ sân hận tâm ý được thanh tịnh. Vì họ mà nói thật nghĩa khiến họ quán sát tất cả pháp thâm nhập nhơn duyên, khéo rõ đế lý, nhổ gai tà kiến, phá núi nghi hoặc, trừ diệt tất cả chướng ngại. Những việc làm như vậy đều đầy khắp pháp giới.

Từ hai mắt của Hải Tràng tỳ kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức nhật luân chiếu khắp tất cả những đại địa ngục và những ác thú ,đều làm cho họ khỏi khổ. Lại chiếu chặng giữa tất cả thế giới để trừ tăm tối. Lại chiếu chúng sanh mười phương đều làm cho họ bỏ lìa ngu si ế chướng. Nơi quốc độ cấu trược phóng thanh tịnh quang. Cõi nước bạch ngân phóng ánh sáng màu huỳnh kim. Nơi cõi nước huỳnh kim phóng ánh sáng màu bạch ngân. Nơi cõi nước lưu ly phóng ánh sáng màu pha lê. Cõi nước pha lê phóng ánh sáng màu lưu ly. Cõi nước xa cừ phóng ánh sáng màu mã não. Cõi nước mã não phóng ánh sáng màu xa cừ. Cõi nước đế thanh phóng ánh sáng màu nhật tạng ma ni vương. Cõi nước nhật tạng ma ni vương phóng ánh sáng màu đế thanh. Cõi nước xích chơn châu phóng ánh sáng nguyệt quang võng tạng ma ni vương. Cõi nước nguyệt quang võng tạng ma ni vương phóng ánh sáng màu xích chơn châu. Cõi nước một thứ bửu làm thành phóng ánh sáng màu nhiều thứ báu. Cõi nước nhiều thứ báu làm thành phóng ánh sáng màu một thứ báu. Những ánh sáng này chiếu đến tâm rừng rậm của chúng sanh, làm xong vô lượng sự nghiệp của chúng sanh, nghiêm sức tất cả cảnh giới thế gian, làm cho các chúng sanh tâm được mát mẻ rất hoan hỷ. Những sự như vậy sung mãn pháp giới.

Từ trong tướng bạch hào giữa chặng mày của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức Ðế Thích dều tự tại nơi cảnh giới, trên đảnh có ma ni bửu châu chiếu sáng tất cả các thiên cung điện. Chấn động tất cả Tu Di Sơn Vương, giác ngộ tất cả chư Thiên chúng, khen sức phước đức, nói sức trí huệ, sức sanh báo vui, sức trì chí, sức tịnh niệm, sức bền tâm Bồ đề đã phát, khen thích thấy Phật khiến trừ ham muốn thế gian, khen thích nghe pháp khiến nhàm cảnh thế gian, khen thích quán trí khiến tuyệt thế nhiễm, ngăn chiến trận của A Tu La, dứt phiền não đấu tranh, diệt tâm sợ chết, phát nguyện hàng ma, hưng lập chánh pháp, thành xong tất cả sự nghiệp của chúng sanh. Những việc làm như vậy cùng khắp pháp giới.

Từ trên trán của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện trăm ngàn ức Phạm Thiên sắc tướng đoan nghiêm thế gian không sánh kịp oai nghi tịch tịnh, lời nói hay diệu, khuyên Phật thuyết pháp, khen Phật công đức làm cho các Bồ Tát đều hoan hỷ, có thể làm xong vô lượng sự nghiệp cho chúng sanh, cùng khắp tất cả thế giới mười phương.

Từ trên đầu của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô lượng Phật sát vi trần số chư Bồ Tát đều dùng tướng hảo trang nghiêm nơi thân, phóng vô biên quang nói các công hạnh. Những là tán thán bố thí khiến bỏ xan tham được các diệu bửu trang nghiêm thế giới, xưng dương công đức trì giới khiến các chúng sanh dứt hẳn những điều ác mà an trụ nơi giới đại từ bi của Bồ Tát. Nói tất cả pháp hữu vi thảy đều như mộng, nói những dục lạc không có tư vị khiến các chúng sanh rời sự ràng buộc của phiền não. Nói sức nhẫn nhục khiến các pháp tâm được tự tại. Khen thân kim sắc khiến các chúng sanh lìa nhơ sân hận, khởi hạnh đối trị tuyệt đường súc sanh. Khen hạnh tinh tấn khiến họ xa lìa thế gian phóng dật, đều siêng tu vô lượng diệu pháp. Lại tán thán Thiền Ba la mật khiến tất cả tâm được tự tại. Lại diễn thuyết Bát Nhã Ba la mật khai thị chánh kiến, khiến các chúng sanh thích trí tự tại trừ những kiến chấp. Lại diễn thuyết những việc làm tùy thuận thế gian, khiến các chúng sanh dầu lìa sanh tử mà ở nơi các loài tự tại thọ sanh. Lại hiện thần thông biến hóa nói thọ mạng tự tại, khiến các chúng sanh phát đại thệ nguyện. Lại diễn thuyết thành tựu sức tổng trì, xuất sanh sức đại nguyện, sức tịnh trị tam muội, sức tự tại thọ sanh. Lại diễn thuyết các thứ trí : như là trí biết khắp căn tánh của các chúng sanh, trí biết khắp tất cả tâm hành, trí biết khắp Như Lai thập lực, trí biết khắp chư Phật tự tại, những sự như vậy cùng khắp pháp giới.

Từ trên đảnh của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức thân Như Lai. Thân đó không ai bằng, đủ các tướng hảo thanh tịnh trang nghiêm, oai quang rực rỡ như tòa núi vàng vô lượng quang minh chiếu khắp mười phương, pháp diệu âm thanh sung mãn pháp giới, thị hiện vô lượng sức thần thông. Vì tất cả thế gian mà mưa pháp vũ : vì chư Bồ Tát ngồi Bồ đề đạo tràng mà mưa pháp vũ bình đẳng biết khắp. Vì chư Bồ Tát ở ngôi quán đảnh mà mưa pháp vũ nhập phổ môn. Vì chư Bồ Tát Pháp Vương Tử vị mà mưa pháp vũ phổ trang nghiêm. Vì chư Bồ Tát đồng tử vị mà mưa pháp vũ kiên cố sơn. Vì chư Bồ Tát bất thối vị mà mưa pháp vũ hải tạng. Vì chư Bồ Tát thành tựu chánh tâm vị mà mưa pháp vũ phổ cảnh giới. Vì chư Bồ Tát phương tiện cụ túc vị mà mưa pháp vũ tự tánh môn. Vì chư Bồ Tát sanh quý vị mà mưa pháp vũ tùy thuận thế gian. Vì chư Bồ Tát tu hành vị mà mưa pháp vũ khắp bi mẫn. Vì chư Bồ Tát tân học mà mưa pháp vũ tích tập tạng. Vì chư Bồ Tát sơ phát tâm mà mưa pháp vũ nhiếp chúng sanh. Vì chư Bồ Tát tín giải mà mưa pháp vũ vô tận cảnh giới khắp hiện tiền. Vì Sắc giới các chúng sanh mà mưa pháp vũ phổ môn. Vì chư Phạm Thiên mà mưa pháp vũ sanh lực. Vì chư ma chúng mà mưa pháp vũ tâm tràng. vì chư Thiên Hóa Lạc mà mưa pháp vũ tịnh niệm. Vì chư Thiên Ðâu Suất ma mưa pháp vũ sanh ý. Vì chư Thiên Dạ Ma mà mưa pháp vũ hoan hỷ. Vì chư Thiên Ðao Lợi mà mưa pháp vũ mau trang nghiêm cõi hư không. Vì chư Dạ Xoa Vương mà mưa pháp vũ hoan hỷ. Vì chư Càn Thát Bà Vương mà mưa pháp vũ kim cang luân. Vì chư A Tu La Vương mà mưa pháp vũ đại cảnh giới. Vì chư Ca Lâu La Vương mà mưa pháp vũ vô biên quang minh. Vì chư Khẩn Na La Vương mà mưa pháp vũ tất cả thế gian trí thù thắng. Vì chư Nhơn Vương mà mưa pháp vũ không say đắm. Vì chư Long Vương mà mưa pháp vũ hoan hỷ tràng. Vì chư Ma Hầu La Già Vương mà mưa pháp vũ bất hưu tức. Vì các chúng sanh địa ngục mà mưa pháp vũ chánh niệm trang nghiêm. Vì các súc sanh mà mưa pháp vũ trí huệ tạng. Vì các chúng sanh cõi Diêm La Vương mà mưa pháp vũ vô úy. Vì các chúng sanh ở xứ ách nạn mà mưa pháp vũ phổ an ủy. Ðều làm cho tất cả chúng sanh được vào chúng hội Hiền Thánh. Những sự như vậy sung mãn pháp giới.

Lại nơi tất cả lỗ lông trên thân của Hải Tràng tỳ Kheo, mỗi mỗi đều phóng ra vô số Phật sát vi trần số quang minh võng. Mỗi mỗi quang minh võng đủ vô số sắc tướng, vô số trang nghiêm, vô cảnh giới, vô số sự nghiệp, sung mãn tất cả thế giới mười phương.

Lúc đó Thiện Tài đồng tử nhất tâm quán sát Hải Tràng Tỳ Kheo lòng rất khát ngưỡng. Ghi nhớ tam muội giải thoát của Tỳ kheo. Tư duy bất tư nghì Bồ Tát tam muội của Tỳ kheo. Tư duy bất tư nghì phương tiện lợi ích chúng sanh của Tỳ kheo. Tư duy bất tư nghì vô tác dụng phổ trang nghiêm môn của Tỳ kheo. Tư duy trí thanh tịnh trang nghiêm pháp giới của Tỳ kheo. Tư duy trí thọ Phật gia trì của Tỳ kheo. Tư duy sức tự tại xuất sanh Bồ Tát của Tỳ kheo. Tư duy sức đại nguyện kiên cố Bồ Tát của Tỳ kheo. Tư duy sức thêm rộng Bồ Tát hạnh của Tỳ Kheo Hải Tràng.

Thiện Tài đồng tử đứng tư duy quán sát như vậy qua một ngày đêm, nhẫn đến bảy ngày đêm, nửa tháng, một tháng, đến sáu tháng, lại qua sáu ngày nữa Hải Tràng Tỳ Kheo mới xuất tam muội.

Thiện Tài đồng tử khen rằng : Bạch đức Thánh ! Hy hữ kỳ đặc, tam muội như thế rất là sâu xa, tam muội như vậy rất là quảng đại, tam muội như vậy cảnh giới vô lượng, tam muội như vậy thần lực khó nghĩ, tam muội như vậy quang minh không gì bằng, tam muội như vậy trang nghiêm vô số, tam muội như vậy oai lực khó chế ngự, tam muội như vậy cảnh giới bình đẳng, tam muội như vậy chiếu khắp mười phương, tam muội như vậy lợi ích vô hạn, vì có thể trừ diệt vô lượng khổ cho tất cả chúng sanh. Như là làm cho tất cả chúng sanh lìa khổ do tham, khỏi khổ địa ngục, súc sanh, đóng cửa ách nạn, mở đường nhơn thiên, làm cho nhơn thiên hoan hỷ. Làm cho họ thích thiền cảnh giới. Có thể làm cho tăng trưởng sự vui hữu vi. có thể vì họ mà hiển bày sự vui giải thoát. Có thể vì họ dẫn phát tâm Bồ đề. Có thể khiến tăng trưởng hạnh phước trí. Có thể khiến tăng trưởng tâm đại bi. Có thể làm cho sanh khởi sức đại nguyện. Có thể làm cho minh liễu đạo Bồ Tát. Có thể làm cho trang nghiêm trí cứu cánh. Có thể làm cho xu nhập cảnh Ðại thừa. Có thể làm cho chiếu liễu hạnh Phổ Hiền. Có thể làm cho chứng được trí quang minh của các bậc Bồ Tát. Có thể làm cho thành tựu các hạnh nguyện của tất cả Bồ Tát. Có thể làm cho an trụ trong cảnh giới Nhứt thiết chủng trí.

Bạch đức Thánh ! Tam muội này tên là gì ?

Hải Tràng Tỳ Kheo nói :

Nầy thiện nam tử ! Tam muội đây tên là "Phổ nhãn xả đắc". Lại tên là " Bát Nhã Ba la mật cảnh giới thanh tịnh quang minh". Lại gọi là "Phổ trang nghiêm thanh tịnh môn".

Này thiện nam tử ! Ta do tu tập Bát Nhã Ba la mật nên được tam muội phổ trang nghiêm thanh tịnh này và trăm vạn vô số tam muội.

Thiện Tài đồng tử thưa :

Bạch đức Thánh ! Cảnh giới rốt ráo của tam muội này chỉ như vậy thôi ư ?

Hải Tràng Tỳ Kheo nói :

Này thiện nam tử ! Lúc nhập tam muội này, thời rõ biết tất cả thế giới không chướng ngại. Qua đến tất cả thế giới không chướng ngại. Vượt qua tất cả thế giới không chướng ngại. Trang nghiêm tất cả thế giới không chướng ngại. Tu trị tất cả thế giới không chướng ngại. Nghiêm tịnh tất cả thế giới không chướng ngại. Thấy tất cả Phật không chướng ngại. Quán tất cả chư Phật oai đức quảng đại không chướng ngại. Biết tất cả chư Phật thần lực tự tại không chướng ngại. Chứng tất cả chư Phật quảng đại lực không chướng ngại. Nhập tất cả chư Phật những công đức hải không chướng ngại. Thọ tất cả chư Phật vô lượng diệu pháp không chướng ngại. Nhập trong tất cả Phật pháp tu tập diệu hạnh không chướng ngại. Chứng trí tất cả chư Phật chuyển pháp luân bình đẳng không chướng ngại. Nhập tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng không chướng ngại. Quán Phật pháp mười phương không chướng ngại. Ðại bi nhiếp thọ chúng sanh mười phương không chướng ngại. Thường khởi đại từ sung mãn mười phương không chướng ngại. Thấy thập phương chư Phật lòng không nhàm đủ, không chướng ngại. Nhập tất cả chúng sanh hải không chướng ngại. Biết căn tánh hải của tất cả chúng sanh không chướng ngại. Biết những căn sai biệt trí của tất cả chúng sanh không chướng ngại.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết một “BÁT NHÃ BA LA MẬT TAM MUỘI QUANG MINH” này. Còn như chư Bồ Tát nhập trí huệ hải, tịnh pháp giới cảnh, đạt tất cả thú, khắp vô lượng cõi, tổng trì tự tại, tam muội thanh tịnh, thần thông quảng đại, biện tài vô tận, khéo nói các địa, làm chỗ nương cho chúng sanh, ta làm sao biết được những diệu hạnh đó, biện được công đức đó, rõ được chỗ làm đó, tỏ được cảnh giới đó, tột được nguyện lực đó, nhập được yếu môn đó, đạt được sở chứng đó, nói được đạo phần đó, trụ được tam muội đó, thấy được tâm cảnh đó, chứng được bao nhiêu trí huệ bình đẳng đó.

Này thiện nam tử ! Từ dây qua phương Nam có một xứ tên là Hải Triều. Xứ đó có khu viên lâm tên là Phổ Trang Nghiêm. Trong viên lâm đó có Ưu bà di tên là Hưu Xã. Ngươi đến đó hỏi Ưu bà di : Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh ? Thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Bấy giờ Thiện Tài đồng tử ở chỗ Hải Tràng Tỳ Kheo được thân kiên cố, được của diệu pháp, nhập thâm cảnh giới, trí huệ sáng suốt, tam muội chiếu sáng, trụ thanh tịnh giải, thấy pháp thậm thâm, tâm an trụ trong các môn thanh tịnh, trí huệ quang minh sung mãn mười phương.

Thiện Tài đồng tử rất vui mừng hớn hở vô lượng. Năm vóc gieo xuống đất đảnh lễ chân Hải Tràng Tỳ Kheo, hữu nhiễu vô lượng vòng, cung kính chiêm ngưỡng tư duy quán sát ngậm ngùi luyến mộ. Nhớ danh hiệu của Hải Tràng Tỳ Kheo. Tưởng dung nhan cử chỉ của Hải Tràng Tỳ Kheo. Ghi âm thanh của Hải Tràng Tỳ Kheo. Suy gẫm tam muội của Hải Tràng Tỳ Kheo và đại nguyện cùng cảnh giới. Thọ lấy trí huệ quang minh thanh tịnh của Hải Tràng Tỳ Kheo, sao đó từ tạ mà đi.


Kinh:

Thiện Tài Đồng Tử đi lần qua phương Nam đến bờ Diêm Phù Đề, nước Ma Lợi, tìm Hải Tràng Tỳ Kheo.

Bèn thấy Hải Tràng Tỳ Kheo ngồi kiết già ở bên chỗ đi kinh hành, đang nhập tam muội, bặt hơi thở, lìa tư giác, thân tâm bất động.

Giảng:

Thiện Tài đến đó thấy một vị Tỳ Kheo đương ngồi trong tam muội. Kinh kể tất cả những hóa thân bời bời của ngài Hải Tràng Tỳ Kheo, ở ngài Giải Thoát Trưởng Giả thứ năm dạy Thiện Tài quán như huyễn, trung đạo song chiếu, sau đó lại chì đến ngài Hải Tràng để dạy cho Thiện Tài cách hóa, hiện vô lượng hóa thân. Tức là sau khi quán chiếu như huyễn, sẽ được thần thông rồi hiện vô lượng hóa thân. Tôi xin đọc một đoạn kinh tả ngài Hải Tràng Tỳ Kheo nhập tam muội…

Kinh:

Từ dưới chân của Tỳ Kheo ấy hiện ra vô số ngàn ức Trưởng Giả, Cư Sĩ, Bà La Môn. Đại chúng này đều dùng nhiều đồ trang nghiêm để nghiêm sức thân mình. Tất cả đều đội bửu quan, đeo minh châu qua khắp tất cả thế giới mười phương, mưa tất cả châu bửu, tất cả chuỗi ngọc, tất cả y phục, tất cả đồ uống ăn thượng vị đúng pháp, tất cả hoa, tất cả tràng hoa, tâ’t cả hương, tất cả hương thoa, tất cả đồ tư sanh theo sỗ thích…

Giảng:

“Từ dưới chân ngài…,” tức là từ chỗ thấp nhát hiện ra vô lượng những hóa thân đều là Cư Sĩ, Trưởng Giả, Bà La Môn. Những hóa thân bay đi mười phương làm mưa những thứ đồ cần thiết cho chúng sanh…

Kinh:

Từ hai gối của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện trăm ngàn ức sát đế lợi, Bà La Môn. Đại chúng này đều thông huệ, nhiều sắc tướng nhiều hình mạo, nhiều y phục thượng diệu trang nghiêm, cùng khắp tất cả thế giới mười phương, dùng ái ngữ và đổng sự nhiếp các chúng sanh.

Giảng:

Quí vị nên để ý, vị này hiện hóa thân từ dưới chân lên cao dần, rồi đến hai gối, eo lưng, hông, để độ sanh từ dưới thấp lên đến cao.

Kinh:

Từ khoảng eo lưng của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô lượng vô số tiên nhân…

Giảng:

Ngài Hải Tràng Tỳ Kheo hóa ra vô số tiên nhân để bay đi các nơi thuyết những pháp thanh tịnh.

Kinh:

Từ hai bên hông của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện bất tư nghì Long, bất tư nghi Long Nữ…

Giảng:

Thường thường các chư Long này hay hiện thần biến, mây bửu, cung điện, mưa, mây bửu phan, mây diệu bửu trang nghiêm v.v…

Kinh:

… Từ tướng chữ “Vạn” trước ngực, xuất hiện vô số trăm ngàn ức A Tu La Vương…

Giảng:

Các ngài A Tu La Vương thường thích tu thần thông biến hóa, đồng thời, loài A Tu La rất kiêu mạn. Nhưng các vị này, trong kinh tả sau khi đã dẹp được kiêu mạn, thì bay đi các nơi để giúp chúng sanh dẹp bớt kiêu mạn. Mỗi loài có những hạnh nguyện riêng, và tùy theo các loài mà ngài Hải Tràng hiện hóa thân để độ sanh.

Kinh:

…Từ trên vai của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức Dạ Xoa Vương, La Sát Vương…

Giảng:

Dạ Xoa Vương, La Sát Vương là những vị quĩ thần lớn. Các loài La Sát và Dạ Xoa ở dưới thấp thường hay bắt người để ăn thịt, còn các ngài này đã là những vị vương chủ rổi, nên các ngài bay đi để giúp chúng sanh đỡ sụ kinh sợ, làm đủ những công hạnh độ sanh.

Kinh:

Hoặc khắp thủ hộ thế gian làm cho người được an ổn, người tật bệnh được lành…

Giảng:

Vì vậy, ta cần hiểu rằng trong pháp giới này, có rất nhiều vị thần thủ hộ cho những người có thiện tâm và các vị tu hành.

Kinh:

…Từ nơi bụng của Hải Tràng Tỳ Kheo xuâthiện trăm ngàn ức Khẩn Na La Vương…, Càn Thát Bà Vương…,

Giảng:

Nếu chúng ta ngồi đây mà tán thán những thần thông của chư Phật thì được công đức rất nhiều…

Kinh:

…Từ hai mắt của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức Nhật Luân…

Giảng:

Những vị hóa thân này bay đi khắp nơi để giúp chúng sanh bớt những si ám…

Kinh:

…Từ trong tướng bạch hào giữa chặng mày của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức Đế Thích đều tự tại nơi cảnh giới…

Giảng:

Các vị hóa thân này, cũng hóa hiện làm vị trời Đế Thích, bay đi các nơi để độ sanh cho những vị trên cõi thiên, ở đây, tôi chỉ xin nói lên những ý chính, không thể nói hết được, chỉ giúp quí vị hiểu khoảng chừng 3 phần, còn 7 phần thì quí vị phải tự tìm hiểu lấy, về nhà đọc thêm kinh sách và suy tư để hiểu rõ hơn. Mà lời giảng của tôi chỉ có thể giúp đỡ cho những vị nào đã chịu khó đọc rồi độ hai lần, mà tốt hơn nữa là phải suy tư về kinh, phải khổ sở, loay hoay, thắc mắc v.v… thì khi nghe giảng mới có thể lĩnh hội được nhiều. Còn nếu chỉ đến chùa, nghe sơ sơ, thì cũng có lợi đây, nhưng đó chỉ là trồng những thiện căn về sau thôi. Vì kinh dài quá, không thể nói hết những chi tiết được, mà dù tôi có cố nói hết cho quí vị nghe nhưng nếu không suy tư thì cũng chẳng được lợi gì mấy. Phải do nơi quý vị một phần lớn mới được. Mà trong pháp giới này, chư Phật và chưThần Linh lớn đều tôn trọng Bồ Đề Tâm và nền giáo lý cao siêu nhất Giáo lý của các tôn giáo khác cũng lớn, nhưng chưa phải là rốt ráo. Khi một hành giả thấm được giáo lý nhất như tự tâm biến hiện thì vị đó chắc sẽ được sức gia trì của chư Phật, chư Đại Bồ Tát. Thì đây, xin đọc tiếp kinh…

Kinh:

Lúc đó Thiện Tài Đổng Tử nhất tâm quán sát Hải Tràng Tỳ Kheo lòng rất khát ngưỡng, ghi nhớ tam muội giải thoát của Tỳ Kheo. Tư duy bất tư nghì Bồ Tát tam muội của Tỳ Kheo. Tư duy bất tư nghì phương tiện lợi ích chúng sanh của Tỳ Kheo… (Bỏ một đoạn kinh nói về sự tư duy của Thiện Tài về những tam muội bất tư nghi của Tỳ Kheo Hải Tràng…) …Thiện Tài Đồng Tử đứng tư duy quán sát như vậy qua một ngày một đêm, nhẫn đến bảy ngày bảy đêm, nửa tháng, một tháng, đến sáu tháng, lại qua sáu ngày nữa Hải Tràng Tỳ Kheo mới xuất tam muội…

Giảng:

Thực sự, khi tôi đọc kinh nói về thời gian tôi cũng không dám chắc ý lắm, vì thời gian trong kinh thật khó có thể nói rõ ràng, khi thì rất dài, khi thì rất ngắn, một kiếp có thể thu lại bằng một sát na, hoặc một sát na kéo dài ra nhiều kiếp. Cũng như đoạn sau này, khi Thiện Tài đến gặp vị thiện tri thức Thiện Kiến, ngài Thiện Kiến nói rằng, ta còn rất trẻ mới xuất gia chưa được bao lâu, nhưng ngài lại nói ngay rằng, trong kiếp này ta tu qua bao nhiêu ức-na-do-tha đức Phật, tu bất khả thuyết, bất khả thuyết thời gian. Nên trong kinh bao giờ cũng nói hai nghĩa, một nghĩa theo thế gian, một nghĩa theo tâm thức sâu của vị đó. Vì đối với người thế gian, ngài mới có độ ba mươi tuổi, mới xuất gia, nhưng trong tâm thức ngài tu không biết bao nhiêu kiếp rồi. Mà trong phẩm nhập pháp giới này, có rất nhiều đoạn nói về thời gian một cách hư ảo như thế, nên ta chỉ có thể đoán chừng và dõi theo dữ kiện để hiểu phần nào mà thôi…

Kinh:

Thiện Tài Đồng Tử khen rằng: Bạch đức Thánh, hy hữu kỳ đặc, tam muội như thế rất là sâu xa, tam muội như vậy rất là quảng đại, tam muội như vậy cảnh giới vô lượng, tam muội như vậy thần lực khó nghĩ, tam muội như vậy quang minh không gì bằng v.v… (Bỏ một đoạn kinh nói về Thiện Tài tán thán về sức tam muội của ngài Hải Tràng Tỳ Kheo)… Bạch đức Thánh, tam muội này tên là gì? Hải Tràng Tỳ Kheo nói: Này thiện nam tử, tam muội đây tên là “phổ nhãn xả đắc.” Lại tên là “Bát Nhã Ba La Mật cảnh giới thanh tịnh quang minh.” Lại gọi là phổ trang nghiêm thanh tịnh môn…

Giảng:

Thì đây, tôi giảng lại từng chữ trong tên của tam muội này. “Bát nhã ba la mật cảnh giới thanh tịnh quang minh.” “Bát nhã ba la mật” là thuộc về bát nhã, nhưng đồng thời đi kèm theo là “cảnh giới thanh tịnh” tức là thuộc về đại bi (vì có cảnh giới và có quang minh), nên nếu không để ý thì cứ tưởng rằng ngài Hải Tràng chỉ dạy bát nhã thôi. Nhưng không phải đúng như vậy, ở đây, ngài dạy Thiện Tài song chiếu và hiện tướng để đi vào diệu hữu. Đồng thời đi vào bát nhã rất sâu, mà vẫn khởi đại bi để tạo những cảnh giới thanh tịnh quang minh độ sanh. Tam muội này còn có một tên khác là “phổ trang nghiêm thanh tịnh môn,” là tạo nên những cảnh giới trong tâm thức, rồi phổ những cảnh giới đó vào pháp giới để trang nghiêm.

Kinh:

Này thiện nam tử, ta do tu tập bát nhã ba la mật nên được tam muội phổ trang nghiêm thanh tịnh này và trăm vạn vô số tam muội.

Giảng:

Kinh không bao giờ quên cả, vừa nói “bát nhã ba la mật” bèn đi liền theo sau là “phổ trang nghiêm” tức đại bi. Lúc này, Thiện Tài Đồng Tử nói một câu mà tôi phải nghĩ mãi mới ra, ngài hỏi một câu khá… buồn cười.

Kinh:

Bạch đức Thánh, cảnh giới rốt ráo của tam muội này chỉ như vậy thôi ư?

Giảng:

Thế nghĩa là sao? Có phải Thiện Tài… chê ngài Hải Tràng hay không? Ở đây, ý Thiện Tài muốn nói rằng: “con đã trông thấy ngài xuất hiện hóa thân bời bời trăm ức na do tha, vô lượng nhiều như thế hóa thân như vậy, con nghĩ rằng không biết đó có phải tất cả cảnh giới của pháp giới này chăng? Vì con thấy ngài hiện tất cả hóa thân của các chúng hữu tình thôi, còn những cảnh y báo thì sao? Ngài có hiện những cái đó không??” Đó là ý nghĩa câu hỏi của Thiện Tài như vậy. Ngài Hải Tràng Tỳ Kheo đáp rằng: Không, như vậy không phải là hết đâu…

Kinh: Này thiện nam tử, lúc nhập tam muội này, thời rõ biết tất cả thế giới không chướng ngại.

Giảng:

Ỷ ngài muốn nói rằng, ta hiện tam muội như thế thôi chính thật ta biết rõ tất cả những thếgiới. Nhưng như tôi đã nói ở trên, chữ “tất cả” này (cũng như chữ vô lượng) vẫn tùy theo mức độ của người nói thôi. Còn đến chỗ “ngằn mé” của sự tất cả thì chắc phải là chư Phật mới biết được. Nhưng trong đoạn kinh này, ngài Hải Tràng muốn nói rằng: Ngài có thể hóa hiện hơn nhiều nhưng ngài chĩ hiện thế cho Thiện Tài xem mà thôi. Ngài dạy Thiện Tài cách thức khởi tâm đại bi, để tạo dựng hóa thân, hình hài vô lượng. Vì nếu không có hình hài vô lượng không thể độ sanh được. Với một nhục thân hai tay, hai chân này nhiều lắm chỉ độ được một số ít người là cùng, hoặc vài trăm, vài ngàn, thì ăn thua gì với pháp giới?! Nên ở đây, ngài dạy Thiện Tài nhập pháp giới trọn vẹn để độ tất cả chúng sanh, hiện nhiều thần thông, nhiều hóa thân. Và ta cũng thấy mức độ đi lên của Thiện Tài rất rõ, từ niệm Phật tam muội, sau đến quán tâm khởi lên pháp giới, sau đó học thiện trụ, rồi tụng chú đà la ni, diệu âm, rồi nhập pháp giới cho Thiện Tài nhìn thây, rồi dạy như huyễn, trung đạo song chiếu, rồi hiện hóa thân vô lượng v.v…

Kinh:

Này thiện nam tử, từ đây qua phương Nam có một xứ tên là Hải Triều…

Giảng:

Quí vị nên nhớ, những chữ dùng trong kinh rất chính xác, Hải Triều là gì? Là ngọn thủy triều đưa tâm thức hành giả đi sâu vào biển tàng thức ấy.

Kinh:

Xứ đó có khu viên lâm tên là Phổ Trang Nghiêm, trong viên lâm đó có ưu Bà Di tên là Hữ xả. Ngươi đến đó hỏi Ưu Bà Di: Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh? Thế nào tu Bồ Tát đạo?

Giảng:

Bà ưu Bà Di Hưu xả này cũng là “phổ trang nghiêm” ở một cảnh giới khác, đều là những cảnh giới hiện trong tàng thức của các vị thiện tri thức đó thôi, và gia trì, khiến cho Thiện Tài nhìn thấy.

Kinh:

Bấy giờ Thiện Tài Đồng Tử ở chỗ Hải Tràng Tỳ Kheo được thân kiên cố…

Giảng:

“Thân kiên cố” là cái thân thanh tịnh gần như bất hoại, có thể làm xuất hiện vô lượng hóa thân.

Kinh:

…Được của diệu pháp, nhập thâm cảnh giới, trí huệ sáng suốt, tam muội chiếu sáng, trụ thanh tịnh giải, thấy các pháp thậm thâm, tâm an trụ trong các môn thanh tịnh, trí huệ quang minh sung mãn mười phương.

Thiện Tài Đồng Tử rất vui mừng hớn hở vô lượng. Năm vóc gieo xuống đất đảnh lễ chân Hải Tràng Tỳ Kheo, hữu nhiễu vô lượng vòng, cung kính chiêm ngưỡng, tư duy quán sát, ngậm ngùi luyến mộ. Nhớ danh hiệu của Hải Tràng Tỳ Kheo…

Giảng:

Cũng như chúng ta tưởng nhớ danh hiệu của ngài Quán Thế Âm vậy, và sự tưởng nhớ sẽ chiêu cảm sức gia trì.

Kinh:

Tưỏng dung nhan cử chỉ của Hải Tràng Tỳ Kheo. Ghi âm thanh của Hải Tràng Tỳ Kheo. Suy gẫm tam muội của Hải Tràng Tỳ Kheo và đại nguyện cùng cảnh giới. Thọ lấy trí huệ quang minh thanh tịnh của Hải Tràng Tỳ Kheo sau đó từ tạ mà đi…

Giảng:

Có chỗ này tôi lấy làm lạ là Thiện Tài không khóc, trong khi ở nhiều chỗ khác, ngài lại khóc. Trong kinh, bất kỳ chi tiết nào đều có nghĩa thâm sâu của nó, chỉ có cái là mình không nghĩ ra mà thôi…



7.- HƯU XẢ ƯU BÀ DI


Này thiện nam tử ! Môn giải thoát này tên là  "LY ƯU AN ỔN TRÀNG".  

Ta chỉ biết một môn giải thoát này.

 

Khi ấy Thiện tài đồng tử nhờ sức thiện tri thức, y lời dạy của thiện tri thức, nhớ lời nói của thiện tri thức, thâm tâm mến thích thiện tri thức. Tự nghĩ rằng : Nhơn thiện tri thức, làm cho tôi được thấy Phật. Nhơn thiện tri thức làm cho tôi được nghe pháp. Thiện tri thức là thầy học của tôi, vì chỉ dạy tôi những Phật pháp. Thiện tri thức là nhãn mục của tôi, vì làm cho tôi thấy Phật như hư không. Thiện tri thức là chiếc đò của tôi, vì làm cho tôi được vào ao hoa sen của chư Phật Như Lai.

Vừa suy gẫm vừa đi lần qua phương Nam đền xứ Hải Triều, thấy vườn Phổ Trang Nghiêm, tường rào bằng các thứ bửu bao bọc. Tất cả cây báu hàng liệt trang nghiêm. Tất cả cây bửu hoa rải những diệu hoa trải trên mặt đất. Tất cả cây bửu hương mùi thơm ngào ngạt xông khắp mười phương. Tất cả cây tràng hoa báu mưa tràng hoa báu lớn rủ xuống khắp nơi. Tất cả cây ma ni bửu vương mưa báu đại ma ni rải đầy khắp nơi. Tất cả cây bửu y mưa y phục nhiều màu tùy sở nghi giăng trải quanh vườn. Tất cả cây âm nhạc gió động thành tiếng êm dịu hơn thiên nhạc. Tất cả cây đồ trang nghiêm mưa những vật trân ngoạn kỳ dịu trần thiết nghiêm sức khắp nơi. Mặt đất trong vườn thanh tịnh không có cao thấp. Trong vườn có trăm vạn điện đường xây bằng đại ma ni bửu. Có trăm vạn lâu các, vàng diêm phù đàn che trùm phía trên. Trăm vạn cung điện, tỳ lô giá na ma ni bửu xen lẫn trang nghiêm. Một vạn ao tắm các báu hiệp thành. Lan thuẫn bảy báu bao bọc giáp vòng, thềm đường bảy báu phân bố bốn phía. Nước tám công đức đứng lặng đầy ao, hơi thơm như thiên chiên đàn. Cát vàng trải đáy ao. Bửu châu thủy thanh xem lẫn khắp nơi. Nhiều loại chim đẹp du ngoạn trong đó hót tiếng, hòa nhã. Cây bửu đa la hàng liệt bao vòng, bửu võng giăng trùm, thòng những linh vàng, gió nhẹ rung thường vang tiếng dịu. Giăng màn đại bửu. Dựng vô số ma ni bửu tràng quang minh chiếu khắp trăm ngàn do tuần. Trong đó lại có trăm vạn ao, bùn hắc chiên đàn ngưng đọng đáy ao. Tất cả diệu bửu làm hoa sen nở trên mặt nước. Hoa đại ma ni màu sáng chiếu rực rở. Trong ao lại có cung điện rộng lớn tên là trang nghiêm tràng hải tạng, diệu bửu làm nền, tỳ lưu ly bửu làm cột, diêm phù đàn kim che trên, quang tạng ma ni dùng trang nghiêm, vô số bửu vương ánh sáng rực rở. Lầu nhiều từng giáp với gác nhiều thứ trang sức a lô na hương vương, giác ngộ hương vương, đều phát ra diệu hương xông khắp nơi.

Trong cung điện đó lại có vô lượng tòa bửu liên hoa trần thiết giáp vòng. Như là tòa bửu liên hoa ma ni chiếu sáng mười phương. Tòa tỳ lô giá na ma ni bửu liên hoa. Tòa ma ni bửu liên hoa chiếu sáng thế gian. Tòa diệu tạng ma ni bửu liên hoa. Tòa sư tử tạng ma ni bửu liên hoa. Tòa ly cấu tạng ma ni bửu liên hoa. Tòa phổ môn ma ni bửu liên hoa. Tòa quang nghiêm ma ni bửu liên hoa. Tòa an trụ đại hải tạng thanh tịnh ma ni vương bửu liên hoa. Tòa kim cang sư tử ma ni bửu liên hoa.

Trong vườn lại có trăm vạn thứ màn. Như là màn y phục, màn tràng hoa, màn hương, màn hoa, màn cành, màn ma ni, màn chơn kim, màn đồ trang nghiêm, màn âm nhạc, màn tượng vương thần biến, màn mã vương thần biến, màn ma ni bửu của Thiên Ðế đeo.

Lại có trăm vạn mành lưới đại bửu giăng che phía trên. Như là lưới bửu linh, lưới bửu cái, lưới bửu thân, lưới hải tạng chơn châu, lưới cám lưu ly ma ni bửu, lưới sư tử ma ni, lưới nguyệt quang ma ni, lưới thơm nhiều hình tượng, lưới bửu quang, lưới bửu anh lạc.

Lại có trăm vạn đại quang minh chiếu sáng. Như Lai quang minh diệm quang ma ni bửu. Quang minh nhựt ma ni bửu. Quang minh nguyệt tràng ma ni bửu. Quang minh hương diệm ma ni bửu. Quang minh thắng tạng ma ni bửu. Quang minh liên hoa tạng ma ni bửu. Quang minh diệm tràng ma ni bửu. Quang minh đại đăng ma ni bửu. Quang minh ma ni bửu chiếu khắp mười phương. Quang minh hương quang ma ni bửu.

Thường mưa trăm vạn đồ trang mghiêm, trăm vạn hương hắc chiên đàn vang ra âm thanh vi diệu, trăm vạn hoa mạn đà la hơn hoa cõi trời, trăm vạn chuỗi ngọc hơn chuỗi cõi trời để trang nghiêm, trăm vạn tràng hoa báu đẹp hơn cõi trời thòng xuống khắp nơi, trăm vạn y phục nhiều màu hơn cõi trời, trăm vạn ma ni bửu nhiều màu ánh sáng chiếu khắp nơi, trăm vạn Thiên Tử vui mừng chiêm ngưỡng đầu mặt đảnh lễ, trăm vạn Thiên nữ ở giữa hư không bay xuống, trăm vạn Bồ Tát cung kính thân cận thường thích nghe pháp.

Lúc ấy, Hưu Xả Ưu bà di ngồi tòa chơn kim, đội mão hải tạng chơn châu võng, đeo bửu xuyến chơn kim hơn cõi trời, rủ tóc xanh biếc, đại ma bửu trang nghiêm trên đầu, sư tử khẩu ma ni bửu làm bông tai, như ý ma ni bửu vương làm chuỗi ngọc, bửu võng trùm trên thân. Trăm ngàn ức na do tha chúng sanh cúi mình cung kính.

Phương Ðông có vô lượng chúng đến chỗ Ưu bà di. Như là Phạm Thiên, Phạm Chúng Thiên, Ðại Phạm Thiên, Phạm Phụ Thiên, Tự Tại Thiên, nhẫn đến tất cả hạng người và phi nhơn. Chín phương kia cũng như vậy.

Có ai thấy Ưu bà di này thời tất cả bệnh khổ đều trừ diệt, lìa phiền não hết kiến chấp, xô núi chướng ngại, nhập nơi cảnh giới vô ngại thanh tịnh, thêm lớn tất cả những thiện căn, trưởng dưỡng các căn, vào tất cả môn trí huệ, vào tất cả môn tổng trì, tất cả môn tam muội, tất cả môn đại nguyện, tất cả môn diệu hạnh, tất cả môn công đức đều được hiện tiền. Tâm họ rộng lớn đầy đủ thần thông, thân không chướng ngại đến khắp mọi xứ.

Thiện Tài đồng tử vào vườn Phổ Trang Nghiêm, xem xét khắp nơi, thấy HƯU XẢ ƯU BÀ DI ngồi diệu tòa, liền đến đảnh lễ chân Ưu bà di rồi hữu nhiễu vô số vòng, thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Tôi nghe đức Thánh khéo có thể dạy bảo, xin vì tôi mà giảng giải.

Ưu bà di nói :

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được một môn giải thoát của Bồ Tát.

Nếu có ai thấy nghe nhớ nghĩ đến ta, cùng ta ở chung, cung cấp cho ta thời không luống công.

Này thiện nam tử ! nếu có chúng sanh chẳng gieo căn lành, chẳng được thiện hữu nhiếp thọ, chẳng được chư Phật hộ niệm, kẻ đó chẳng thấy được ta.

Này thiện nam tử ! Có chúng sanh nào được thấy ta thời đều được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.

Này thiện nam tử ! Chư Phật phương đông thường đến đây, nhự trên bửu tòa vì ta mà thuyết pháp. Chư Phật chín phương kia cũng vậy.

Này thiện nam tử ! Ta thường chẳng rời thấy Phật, nghe pháp, cùng chư Bồ Tát ở chung.

Này thiện nam tử ! Nơi vường này có tám muôn bốn ngàn ức na do tha đại chúng cùng ta đồng hành, đếu bất thối chuyển nơi Vô thượng bồ đề. Những chúng sanh khác ở trong vườn này cũng đều nhập bậc bất thối chuyển.

Thiện Tài thưa : Bạch đức Thánh ! Ngài phát tâm Vô thượng Bồ đề được bao lâu ?

Ưu bà di nói : Này thiện nam tử ! Ta nhớ quá khứ ở chỗ đức Nhiên Ðăng Phật, ta tu hành phạm hạnh, cung kính cúng dường nghe pháp thọ trì.

Trước đó ở chỗ đức Ly Cấu Phật, ta xuất gia học đạo thọ trì chánh pháp.

Trước đó ở chỗ đức Diệu Tràng Phật. Trước nữa ở chỗ Thắng Tu Di Phật. Trước nữa ở chỗ đức Liên Hoa Ðức Tạng Phật. Trước nữa ở chỗ đức Tỳ Lô Giá Na Phật. Trước nữa chỗ đức Phổ Nhãn Phật. Trước nữa ở chỗ đức Phạm Thọ Phật. Trước nữa ở chỗ đức Kim Cang Tê Phật. Trước nữa ở chỗ đức Bà Lâu Na Thiên Phật.

Này thiện nam tử ! Ta nhớ thuở quá khứ vô lượng kiếp, trong vô lượng đời, thứ đệ như vậy ở chỗ ba mươi sáu hằng hà sa đức Phật, ta đều thờ kính cúng dường nghe pháp thọ trì tịnh tu phạm hạnh. Quá đây về trước thời Phật trí mới biết được, chẳng phải trí của ta có thể lường đến.

Này thiện nam tử ! Bồ Tát mới phát tâm không có hạn lượng, vì sung mãn tất cả pháp giới.

Bồ Tát đại bi môn không hạn lượng, vì vào khắp tất cả thế gian.

Bồ Tát đại nguyện môn không hạn lượng, vì rốt ráo mười phương pháp giới.

Bồ Tát đại từ môn không hạn lượng, vì che khắp tất cả chúng sanh.

Bồ Tát tu hành không hạn lượng, vì tu tập trong tất cả cõi tất cả kiếp.

Bồ Tát tam muội lực không hạn lượng, vì làm cho Bồ Tát đạo chẳng thối chuyển.

Bồ Tát tổng trì lực không hạn lượng, vì có thể nhiếp trì tất cả thế gian.

Bồ Tát trí quang lực không hạn lượng, vì có thể chứng nhập khắp tam thế.

Bồ Tát thần thông lực không hạn lượng, vì hiện khắp tất cả cõi.

Bồ Tát biện tài lực không hạn lượng, vì một âm thanh mà tất cả đều hiểu.

Bồ Tát thanh tịnh thân không hạn lượng, vì đều khắp tất cả cõi Phật.

Thiện Tài thưa : Bạch đức Thánh ! Bao Lâu nữa Ngài sẽ chứng Vô thượng Bồ đề ?

Hưu Xả Ưu bà di nói : Này thiện nam tử ! Bồ Tát chẳng vì giáo hóa điều phục một chúng sanh mà phát Bồ đề tâm. Chẳng vì giáo hóa điều phục trăm chúng sanh , ngàn chúng sanh, cho đến chẳng vì giáo hóa điều phục bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh mà phát Bồ đề tâm.

Chẳng vì giáo hóa chúng sanh trong một thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới mà phát Bồ đề tâm.

Chẳng vì giáo hóa Diêm Phù Ðề vi trần số chúng sanh, Ðại Thiên thế giới vi trần số chúng sanh, nhẫn đến chẳng vì giáo hóa bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vi trần số thế giới chúng sanh mà phát Bồ đề tâm.

Chẳng vì cúng dường một đức Như Lai, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết đức Như Lai mà phát Bồ đề tâm.

Chẳng vì cúng dường chư Như Lai thứ đệ xuất thế trong một thế giới nhẫn đến trong bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới mà phát Bồ đề tâm.

Chẳng vì cúng dường chư Như Lai thứ đệ xuất thế trong Ðại Thiên thế giới vi trần số thế giới, nhẫn đến trong bất khả thuyết bất khả thuyết vi trần số thế giới mà phát Bồ đề tâm.

Chẳng vì nghiêm tịnh một số thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới mà phát Bồ đề tâm.

Chẳng vì nghiêm tịnh một Ðại Thiên thế giới vi trần số thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vi trần số thế giới mà phát Bồ đề tâm.

Chẳng vì trụ trí giáo pháp của một đức Như Lai nhẫn đến của bất khả thuyết bất khả thuyết đức Như Lai mà phát Bồ đề tâm.

Chẳng vì trụ trì giáo pháp của một thế giới Như Lai nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới Như Lai mà phát Bồ đề tâm.

Chẳng vì trụ trì giáo pháp của một Diêm Phù Ðề vi trần số thế giới Như Lai nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới Như Lai mà phát Bồ đề tâm.

Như vậy lược nói, chẳng vì mãn thệ nguyện của một Như Lai, chẳng vì đến một Phật độ, chẳng vì nhập một Phật chúng hội, chẳng vì trì một Phật pháp nhãn, chẳng vì chuyển một Phật pháp luân, chẳng vì biết những kiếp thứ đệ trong một thế giới, chẳng vì biết một chúng sanh tâm hải, chẳng vì biết một chúng sanh căn hải, chẳng vì biết một chúng sanh nghiệp hải, chẳng vì biết một chúng sanh hạnh hải, chẳng vì biết một chúng sanh phiền não hải, chẳng vì biết một chúng sanh phiền não tập hải, nhẫn đến chẳng vì biết bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh phiền não tập hải mà phát Bồ đề tâm.

Mà chính vì muốn giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh không để sót thừa nên phát Bồ đề tâm.

Vì muốn cúng dường tất cả chư Phật không để sót nên phát Bồ đề tâm.

Vì muốn nghiêm tịnh tất cả Phật độ không để sót nên phát Bồ đề tâm.

Vì muốn hộ trì chánh pháp của tất cả chư Phật không để sót nên phát Bồ đề tâm.

Vì muốn thành mãn đại nguyện của tất cả Như Lai không để sót mà phát Bồ đề tâm.

Vì muốn đến tất cả Phật độ không để sót mà phát Bồ đề tâm.

Vì muốn nhập tất cả Phật chúng hội không để sót mà phát Bồ đề tâm.

Vì muốn biết những kiếp thứ đệ trong tất cả kiếp không để sót mà phát Bồ đề tâm.

Vì muốn biết tất cả chúng sanh tâm hải không sót nên phát Bồ đề tâm.

Vì muốn biết tất cả chúng sanh căn hải không sót nên phát Bồ đề tâm.

Vì muốn biết tất cả chúng sanh nghiệp hải không sót nên phát Bồ đề tâm.

Vì muốn biết tất cả chúng sanh hạnh hải không sót nên phát Bồ đề tâm.

Vì muốn diệt tất cả chúng sanh phiền não hải không sót nên phát Bồ đề tâm.

Vì muốn trừ tất cả chúng sanh phiền não tập hải không sót nên phát Bồ đề tâm.

Này thiện nam tử ! Tóm lược mà nói, Bồ Tát dùng vô lượng trăm ngàn vô số phương tiện hạnh như vậy mà phát Bồ đề tâm.

Này thiện nam tử ! Bồ Tát hạnh vào khắp tất cả pháp, vì đều chứng được. Vào khắp tất cả cõi, vì đều nghiêm tịnh.

Vì thế nên thiện nam tử ! Khi nghiêm tịnh hết tất cả thế giới thời nguyện của tôi mới hết.

Khi dứt hết phiền não tập khí của tất cả chúng sanh thời nguyện của tôi mới mãn.

Thiện Tài thưa : Bạch đức Thánh ! Môn giải thoát này tên là gì ?

Hưu Xả Ưu bà di nói : Này thiện nam tử ! Môn giải thoát này tên là "LY ƯU AN ỔN TRÀNG".

Ta chỉ biết một môn giải thoát này. Như chư đại Bồ Tát, tâm như biển cả có thể đều dung thọ tất cả Phật pháp. Như núi Tu Di, chí ý kiên cố chẳng bị lay động. Như vị thuốc thiện kiến, hay trừ những bệnh nặng phiền não của các chúng sanh. Như mặt nhựt sáng sạch, hay phá chúng sanh vô minh ám chướng. Dường như đại địa, hay làm chỗ y tựa cho tất cả chúng sanh. Như gió tốt, hay làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Như đèn sáng, hay vì chúng sanh mà sanh trí huệ quang. Như đại vân, hay vì chúng sanh mà mưa đại pháp tịch diệt. Như minh nguyệt hay vì chúng sanh mà phóng phước đức quang. Như Thiên Ðế, đều hay thủ hộ tất cả chúng sanh.

Như thế thời ta làm sao biết được hết, nói được hết những công đức đó.

Này thiện nam tử ! Phương Nam Xứ Hải Triều đây có một nước tên là Na La Tố. Trong đó có tiên nhơn tên là Tỳ Mục Cù Sa. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Hưu Xả Ưu bà di, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, buồn khóc rơi lệ. Tự nghĩ rằng được Bồ đề khó, gần thiện tri thức khó, gặp thiện tri thức khó, được gặp đồng hành thiện tri thức khó, đúng lý quán sát khó, y giáo tu hành khó, Bồ Tát căn khó, tịnh Bồ Tát căn khó, gặp gở xuất sanh thiện tâm phương tiện khó, gặp gở thêm lớnNhứt thiết trí pháp quang minh khó.

Nghĩ xong, Thiện Tài từ tạ Ưu bà di mà đi.


Kinh:

Khi ấy Thiện Tài Đồng Tử nhờ sức thiện tri thức, y lời dạy của thiện tri thức, nhớ lời nói của thiện tri thức, thâm tâm mến thích thiện tri thức. Tự nghĩ rằng: Nhân thiện tri thức làm cho tôi được thấy Phật, được nghe pháp, thiện tri thức là thầy học của tôi… (Bỏ một đoạn nói đến sự tư duy và tán thán của Thiện Tài về thiện tri thức)… vừa suy ngẫm vừa đi lần qua phương Nam đến xứ Hải Triều, thấy vườn phổ trang nghiêm, tường rào bằng các thứ bửu bao bọc. Tất cả cây báu hàng liệt trang nghiêm… (Bỏ một đoạn kinh tả về sự y báo trang nghiêm của ngài Ưu Bà Di Huti Xã) …Lúc ấy, Hưu Xả Ưu Bà Di ngồi tòa chơn kim, đội mão hải tạng chơn châu võng, đeo bửu xuyến chơn kim hơn cõi trời, rũ tóc xanh biếc, đài ma ni bửu trang nghiêm trên đầu, sư tử khẩu ma ni bửu là bông tai, như ý ma ni bửu vương làm chuỗi ngọc, bửu võng trùm trên thân. Trăm ngàn ức na do tha chúng sanh cúi mình cung kính…

Giảng:

Theo tôi nghĩ, mỗi vị tu đi sâu vào tàng thức của mình, đều tu theo một hạnh nguyện riêng. Ngài Hải Tràng tu theo hạnh nguyện hiện những hóa thân để độ sanh, còn ngài Hưu Xả Ưu Bà Di thì tu theo lối muốn cho tất cả y báo của mình đều thanh tịnh đẹp đẽ như những cõi thanh tịnh vậy. Vì vậy, khi Thiện Tài đến, (một phần do sức gia trì của ngài Hưu Xả, một phần do tịnh nhãn của Thiện Tài) nên Thiện Tài trông thây rõ tất cả cảnh giới y báo của ngài. Ví dụ, nếu một người thường đi qua đó, thì chắc họ sẽ không trông thấy gì cả, chỉ thây đất cát, nhà cửa bình thường mà thôi. (Cũng như khi niệm Phật đi sâu vào thức â’m rồi, thì sẽ mở tâm nhãn và thấy được cõi Cực Lạc với đầy đủ diệu trang nghiêm). Ngài Hưu Xả này cũng là “phổ trang nghiêm” nhưng hơi khác với ngài Hải Tràng vì ngài Hải Tràng hiện sắc thân (tức là chánh báo) vô lượng trang nghiêm để độ sanh, còn ngài Hưu Xả thì hiện đầy những cảnh giới rất đẹp đẽ (y báo) để độ sanh. Đồng thời ngài cũng có những thứ khác, như “Hưu Xả Ưu Bà Di đeo bửu xuyến chơn kim hơn cõi trời, phương đông có vô lượng chúng đến chỗ Ưu Bà Di. Như là Phạm Thiên, Phạm Chúng Thiên, Tự Tại Thiên, nhẫn đến tất cả hàng người và phi nhơn. Chín phương kia cũng vậy.” Ngài Hưu xả này có lẽ ở địa thứ mười của Bồ Tát, vì trong kinh nói rõ ai thấy ngài bệnh tật đều tiêu trừ, phiền não chướng đều diệt sạch, thanh tịnh thêm lớn thiện căn v.v… ở đây, ta cũng phải hiểu theo hai nghĩa, nếu người có túc duyên đủ, nhìn thây ngài thì lìa phiền não và hết kiến chấp v.v… nhưng lại có một nghĩa khác là những người nào tu hành vào đến tàng thức, đến mức độ này thì lìa tất cả kiến chấp, phiền não, thấy tất cả cảnh giới đều vô ngại, thanh tịnh, tâm rộng lớn đầy đủ thần thông v.v…

Kinh:

Thiện Tài Đồng Tử vào vườn Phổ Trang Nghiêm, xem xét khắp nơi, thây Hưu xả Ưu Bà Di ngồi diệu tòa, liền đến đảnh lễ chân Ưu Bà Di rồi hữu nhiễu vô số vòng, thưa rằng: Bạch đức Thánh, tôi đã phát tâm vô lượng bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo… Ưu Bà Di nói, này thiện nam tử, ta chỉ được một môn giải thoát của Bồ Tát…

Giảng:

Ngài nói như vậy thôi, chứ chưa nói môn giải thoát Bồ Tát là môn gì, rồi ngài nói sang chuyện khác. Sau đó Thiện Tài Đồng Tử mới tò mò hỏi kỹ rằng: “Bạch đức Thánh, ngài phát tâm vô thượng bồ đề được bao lâu?”

Kinh:

Ta nhớ quá khứ, ở thời đức Phật Nhiên Đăng, ta tu hành phạm hạnh cung kính cúng dường nghe pháp thọ trì…

Giảng:

Ngài muốn nói rằng ngài phát tâm bồ đề đã lâu lắm rồi, chỉ kể từ thời Phật Nhiên Đăng trở về sau thôi, còn trước thì khó thể tính đếm, “chỉ có Phật trí mới biết được chẳng phải trí của ta có thể biết đến.”Vả lại, trong đạo Phật, những vị tu cao ít khi khẳng định một điều gì, vì đều tùy theo tâm của mình cả, có thể có những vị tu rất nhanh, hoặc có vị tu qua vô lượng vô số kiếp, thời gian theo kinh là một thời gian rất co giãn, vì TÙY THEO TÂM. Tâm trệ ngại thì thời gian rất lê thê. Tâm thanh tịnh, thời gian trôi nhanh.

Kinh:

Bạch đức Thánh bao lâu nữa ngài sẽ chứng vô thượng bồ đề?

Giảng:

Các vị Bồ Tát ít khi khẳng định còn bao nhiêu thời gian nữa ta sẽ chứng được vô thượng bồ đề cả. Mà các ngài thường nói đại khái rằng, khi nào chúng sanh hết, thì ta mới chứng vô thượng bồ đề.

Kinh:

Vì thế nên thiện nam tử, khi nghiêm tịnh hết tất cả thế giới thời nguyện của tôi mới hết. Khi dứt hết phiền não tập khí của tất cả chúng sanh thời nguyện của tôi mới mãn.

Giảng:

Ngài này có một đặc điểm là ngài rất tán thán Bồ Đề tâm. Nhấn mạnh vào Nguyện, — nguyện vô tận như Hư Không.

Kinh:

Bạch đức Thánh, môn giải thoát này tên là gì? Xả ưu Bà Di nói: Này thiện nam tử, môn giải thoát này tên là “Ly ưu an ổn tràng.”

Giảng:

Ly ưu là lìa sự ưu lo, mà tâm thức an ổn. Ngài tên là Hưu Xả, có nghĩa là sao? Hưu là hượm lại, Xả là xả Bồ Đề Tâm, các ông phải hượm lại, không bao giờ xả Bồ Đề Tâm cả, không bao giờ bỏ Đại Bi. ở mục này, tuy đã cao rồi, nhưng các ngài vẫn luôn luôn nhắc Thiện Tài nhớ kỹ điều đó, không được bao giờ bỏ Bề Đồ Tâm. Vì vậy, khi đã quyết giữ Bồ Đề Tâm và Đại Bi cho đến tột vị lai tế, thì tâm đó lúc bây giờ rất rộng lớn, không sợ hãi. Vì sao? Vì hành giả quyết đi đến bờ mé của Tận – vô tận, nên môn giải thoát này tên là “ly ưu an ổn tràng” vì phải làm cho tâm thật vững, thật an ổn để có thể độ thoát hoài hoài, không hề khởi niệm sợ hãi, hoặc thối thất. Trong 53 vị thiện tri thức, có đến năm, bảy vị nhắc đi nhắc lại tán thán Bồ Đề Tâm, nhâ’t là ngài Di Lặc. Tất cả tinh hoa là chỗ đó, nếu ta giữ được Bồ Đề Tâm, không nói là nhiều chỉ cần chút ít cũng là khá lắm rồi. Đạo Phật luôn luôn chú trọng ở lối dụng tâm, phải dụng tâm Bát Nhã và Đại Bi thì mới được, còn tu hành thì có thể tu gấp rút hoặc tu vừa phải, nhưng lúc nào cũng giữ tâm có ít nhiều Bát Nhã, Đại Bi và vô sở cầu hạnh, còn pháp môn chỉ là những phương tiện tiến tu thôi. Khi dụng tâm như vậy thì kết quả sẽ tốt đẹp, rộng lớn, và đem lại nhiều lợi ích. Còn nếu dụng tâm lệch lạc thì sẽ thành Thiên Ma ngay. Đó là sự khác biệt giữa đạo Phật và các ngoại đạo. Có những ngoại đạo tu rất gay go, cần khổ, nhưng không có đạo nào nói kỹ đến cái dụng tâm cho khéo cả, nên rất dễ lạc. Như chúng ta, nếu có thể mỗi ngày nuồi một ít huệ Bát Nhã, một chút tâm từ, làm những hạnh vừa vừa trong khả năng của mình mà có tính chất “vô sở cầu,” đều đặn giữ mãi tâm đó còn tốt hơn là tu hành một cách gấp rút mà thiếu tâm ấy. Dụ như có người lễ Phật một ngày hai nghìn lễ chẳng hạn, nhưng không giữ tâm Từ Bi và Bát Nhã mà cứ nghĩ mình quá giỏi rồi, công đức vô lượng, lại vênh vang lên, thì cũng không bằng người hành trì một hạnh trông thây rất nhỏ nhít, như cứu một con sâu, con kiến mà họ giữ được tâm như huyễn tức là Bát Nhã và Từ Bi. Nên vì thế, những người tu ngoại đạo, như tu tiên chẳng hạn, họ tu rất cam go và cần khổ, giữ giới rất khó nhưng lệch lạc, không phải tâm Bát Nhã và Đại Bi mà chỉ giữ giới cầu mong cho chính mình thôi, thì tâm đó vẫn còn râ’t hẹp hòi, hạn lượng, nếu có chứng đắc một chút thần thông thì cũng nằm trong vòng hữu lậu thôi.

Vì vậy, ngài Hưu Xả nhắc lại một lần nữa rằng, ông không bao giờ được xả Bồ Đề Tâm ấy. Vì Bồ Đề Tâm tức là Bát Nhã và Đại Bi, vì nếu ông quyết tâm như thế, dù đi qua vô lượng kiếp vẫn không thay đổi, thì ông sẽ đến chỗ rất an ổn, vững chắc, không có gì lay động nổi. Vì vậy, ta được môn giải thoát gọi là “ly ưu an ổn tràng.”

Rồi ngài Hưu Xả lại giới thiệu Thiện Tài đến một vị khác, vị này là một vị ngoại đạo rõ rệt.

Kinh:

Này thiện nam tử, phương Nam xứ Hải Triều đây có một nước tên là Na La Tố. Trong đó có tiên nhơn tên là Tỳ Mục Cù Sa. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.

Lúc đó Thiện Tài Đồng Tử đảnh lễ chân Hưu Xả Ưu Bà Di, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, buồn khóc rơi lệ. Tự nghĩ rằng được Bồ Đề khó, gần thiện tri thức khó, gặp thiện tri thức khó, được gặp đồng hạnh thiện tri thức khó, đúng lý quan sát khó, y giáo tu hành khó, Bồ Tát căn khó, tịnh Bồ Tát căn khó, gặp gỡ xuất sanh thiện tâm phương tiện khó, gặp gỡ thêm lớn nhát thiết trí pháp quang minh khó…

Nghĩ xong Thiện Tài từ tạ Ưu Bà Di mà đi…

Giảng:

Đến ngài thứ 8 này Thiện Tài đắc được nhiều tam muội, mà ngài này cũng chẳng giảng giải gì cả, ngài là một vị tiên, thì hiểu rằng có nhiều vị Bồ Tát thị hiện làm tiên nhân…



8.- TIÊN NHƠN TỲ MỤC CÙ SA


 Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết  “MÔN BỒ TÁT VÔ THẮNG TRÀNG GIẢI THOÁT” này.



Bấy giờ Thiện Tài đồng tử tùy thuận tư duy chánh giáo của Bồ Tát. Tùy thuận tư duy tịnh hạnh của Bồ Tát. Sanh tâm tăng trưởng phước lực của Bồ Tát, sanh tâm thấy rõ tất cả chư Phật. Sanh tâm xuất sanh tất cả chư Phật. Sanh tâm tăng trưởng tất cả đại nguyện. Sanh tâm thấy khắp các pháp mười phương. Sanh tâm chiếu rõ thiệt tánh của các pháp. Sanh tâm phá tan khắp tất cả chướng ngại. Sanh tâm quán sát pháp giới không tối. Sanh tâm thanh tịnh ý bửu trang nghiêm. Sanh tâm xô dẹp tất cả chúng ma.

Thiện Tài đồng tử lần lần du hành đến nước Na La Tố tìm TIÊN NHƠN TỲ MỤC CÙ SA, thấy một khu rừng lớn, vô số cây trang nghiêm. Như là những cây lá rậm rợp che mát, những cây nở hoa sặc sỡ, những cây đơm trái chín tiếp nối. Lại có những cây báu mưa trái ma ni, những cây chiên đàn lớn bày hàng khắp nơi, những cây trầm thủy thường thoảng hương thơm, những cây duyệt ý hương thơm tho trang nghiêm, những cây ba tra la bao bọc bốn phía, những cây ni câu luật cao vút, những cây diêm phù đàn thường mưa trái ngọt, những bông sen xanh, bông sen đỏ trang nghiêm ao hồ.

Thiện Tài đồng tử thấy tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa trải cỏ ngồi dưới cây chiên đàn, đồ chúng mười ngàn người. Có người mặc da nai, mặc cỏ cây, có người bện cỏ làm y phục, vấn tóc, để râu trước sau vây quanh.

Thiện Tài đến mọp lạy thưa tiên nhơn rằng :

Nay tôi được gặp chơn thiện tri thức. Thiện trí thức là cửa xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi được vào đạo chân thật.

Thiện tri thức là cỗ xe xu hướng nhất thiết trí,  vì làm cho tôi được đến Như Lai địa.

Thiện tri thức là thuyền xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi được đến châu trí bửu.

Thiện tri thức là đuốc xu hướng nhất thiết trí, vì khiến tôi được sanh ánh sáng thập lực.

Thiện tri thức là đường xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi được vào thành Niết bàn.

Thiện tri thức là đèn xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi thấy được đường yên lành hay hiểm trở.

Thiện tri thức là cầu xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi qua khỏi chỗ hiểm ác.

Thiện tri thức là lọng xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi được sanh lòng đại từ mát mẻ.

Thiện tri thức là con mắt xu hướng nhứt thiết trí, vì làm cho tôi được thấy môn pháp tánh.

Thiện trí thức là nước triều xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi đầy đủ nước đại bi.

Nói xong, Thiện Tài đứng dậy hữu nhiễu vô lượng vòng đứng chắp tay thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo. Tôi nghe đức Thánh khéo dạy dỗ. Xin chỉ dạy cho tôi.

Tỳ Mục Cù Sa đoái nhìn đồ chúng mà nói : Này đại chúng ! Ðồng tử này đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, khắp ban sự vô úy cho tất cả chúng sanh, khắp ban sự lợi ích cho tất cả chúng sanh, thường quát sát trí hải của tất cả chư Phật.

Ðồng tử này muốn uống tất cả pháp vũ cam lồ, muốn lường tất cả pháp hải rộng lớn, muốn cho chúng sanh an trụ trong trí hải, muốn khắp phát khởi mây bi rộng lớn, muốn khắp mưa pháp vũ rộng lớn, muốn dùng trí nguyệt chiếu khắp thế gian, muốn diệt thế gian phiền não độc nhiệt, muốn làm lớn tất cả thiện căn cho chúng sanh.

Tiên chúng nghe lời trên đây rồi đều đem những hương hoa đẹp tốt rải trên thân Thiện Tài, làm lễ cung kính mà nói rằng :

Ðồng tử này tất sẽ cứu hộ tất cả chúng sanh, tất cả trừ diệt khổ địa địa ngục, tất sẽ dứt hẳn loài súc sanh, tất sẽ chuyển bỏ cõi Diêm La Vương, tất sẽ đóng bít cửa chướng nạn, tất sẽ làm khô cạn biển ái dục, tất làm cho chúng sanh diệt hẳn khổ uẩn, tất sẽ phá hẳn vô minh hắc ám, tất sẽ dứt hẳn dây trói tham ái, tất sẽ dùng dãy núi phước đức bao bọc thế gian, tất sẽ đem đại bửu trí huệ hiển thị thế gian, tất sẽ xuất hiện trí nhựt thanh tịnh, tất sẽ khai thị pháp tạng thiện căn, tất làm cho thế gian biết rõ là hiểm khó hay là dễ dàng.

Tỳ Mục Cù Sa bảo quần tiên rằng : Nếu có người hay phát tâm Vô thượng Bồ đề, tất sẽ được thành đạo Nhứt thiết trí.

Ðồng tử này đã phát tâm Vô thượng Bồ đề tất sẽ tịnh bậc tất cả công đức của chư Phật.

Tỳ Mục Cù Sa bảo Thiện Tài : Này thiện nam tử ! Ta được môn Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát.

Thiện Tài thưa : Bạch đức Thánh ! Cảnh giới của Vô thắng tràng giải thoát như thế nào ?

Lúc đó Tỳ Mục Cù Sa tiên nhơn liền giơ tay hữu xoa đầu Thiện Tài, cầm tay Thiện Tài.

Thiện Tài liền thấy mình đến trong mười Phật sát vi trần thế giới mười phương, chỗ của mười Phật sát vi trần số thế giới chư Phật. Thấy chư Phật và chúng hội cùng Phật độ trang nghiêm thanh tịnh. Lại nghe chư Phật tùy sở thích của các chúng sanh mà thuyết pháp, mỗi câu mỗi văn đều thông đạt cả, đều riêng thọ trì không tạp loạn. Cũng biết đức Phật đó dùng những tri giải tịnh trị các nguyện. Cũng biết chư Phật đó dùng thanh tịnh nguyện thành tựu các lực. Cũng thấy chư Phật đó tùy chúng sanh tâm mà hiện sắc tướng. Cũng thấy chư Phật đó, lưới đại quang minh nhiều màu sắc thanh tịnh viên mãn. Cũng biết chư Phật đó, trí huệ vô ngại sức đại quang minh.

Thiện Tài lại tự thấy mình ở chỗ chư Phật qua một ngày đêm, hoặc bảy ngày đêm, nửa tháng, một tháng, một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, hoặc trải qua ức năm, hoặc a du đa ức năm, hoặc na do tha ức năm, hoặc trải qua nửa kiếp, hoặc một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp.

Nhờ Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát trí quang minh chiếu đến , nên Thiện Tài đồng tử được tỳ lô giá na tạng tam muội quang minh.

Nhờ vô tận trí giải thoát tam muội quang minh chiếu đến nên Thiện Tài được phổ nhiếp chư phương đà la ni quang minh.

Nhờ kim cang luân đà la ni môn quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được cực thanh tịnh trí huệ tâm tam muội quang minh.

Nhờ phổ môn trang nghiêm tạng Bát nhã Ba la mật quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được Phật hư không tạng luân tam muội quang minh.

Nhờ nhất thiết Phật pháp luân tam muội quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được tam thế vô tận trí tam muội quang minh.

Bấy giờ Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa buông tay Thiện Tài đồng tử.

Thiện Tài liền tự thấy mình ở tại chỗ cũ.

Tiên Nhơn bảo Thiện Tài : Này Thiện nam tử ! Ngươi có ghi nhớ chăng ?

Thiện Tài thưa : Bạch vâng ! Ðây là do sức của đức Thánh thiện tri thức vậy.

Tiên Nhơn nói :

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết “MÔN BỒ TÁT VÔ THẮNG TRÀNG GIẢI THOÁT” này. Như chư đại Bồ Tát thành tựu tất cả tam muội thù thắng, được tự tại trong tất cả thời gian. Trong khoảng một niệm xuất sanh chư Phật vô lượng trí huệ. Dùng đèn Phật trí làm trang nghiêm để chiếu khắp thế gian. Trong một niệm vào khắp cảnh giới tam thế. Phân thân qua khắp cõi nước mười phương. Trí thân vào khắp tất cả pháp giới. Tùy theo tâm chúng sanh mà hiện ra trước họ, xem xét căn hành của họ để làm lợi ích, phóng tịnh quang minh rất đáng mến thích.

Như thế, ta làm sao biết được tất cả, nói được tất cả công đức hạnh đó, thù thắng nguyện đó, trang nghiêm độ đó, trí cảnh giới đó, tam muội cảnh giới đó, thần thông biến hóa đó, giải thoát du hí đó, thân tướng sai biệt đó, âm thanh thanh tịnh đó, trí huệ quang minh đó.

Này thiện nam tử ! Phương Nam này có một tụ lạc tên là y Sa Na, có Bà La Môn tên là Thắng Nhiệt. Người đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Thiện Tài đồng tử vui mừng hớn hở, đảnh lễ Tiên Nhơn Tỳ Mục Cù Sa, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi qua phương Nam.


Kinh:

Bây giờ Thiện Tài Đồng Tử tùy thuận tư duy chánh giáo của Bồ Tát. Tùy thuận tư duy tịnh hạnh của Bồ Tát. Sanh tâm tăng trưởng phước lực của Bồ Tát. Sanh tâm thây rõ tất cả chư Phật… (Bỏ một đoạn kinh nói về sự tư duy về những lôi dạy của ngài Hưu xả sau khi từ tạ ngài mà đi)…. Thiện Tài Đồng Tử lần lần du hành đến nước Na La Tô tìm tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa, thấy một khu rừng lớn, vô sô cây trang nghiêm…

Giảng:

Tỳ Mục Cù Sa, nghĩa trong sách nói là “phát tâm ghê gớm”… Ngài Tỳ Mục Cù Sa ở một nơi y báo rất đẹp, vườn tược, nhà cửa đều rất đẹp, trăm vạn quang minh, trăm vạn trướng màn, v.v… ngay cả cây lớn đều rất trang nghiêm.

Kinh:

Như là những cây lá rậm rợp che mát, những cây nỗ hoa sặc sỡ, những cây đơm trái chín tiếp nối. Lại có những cây báu mưa trái ma-ni, những cây chiên đàn lớn bày hàng khắp nơi, những cây trầm thủy thường thoảng hương thơm, những cây duyệt ý hương thơm tho trang nghiêm, những cây ba-tra-la bao bọc bấn phía, những cây ni-câu-luật cao vút, những cây diêm-phù-đàn thường mưa trái ngọt, những bông sen xanh, bông sen đỏ trang nghiêm ao hồ.

Giảng:

Ta để ý thấy y báo của vị này trang nghiêm và có vẻ gần cận với người hơn, vì cây đầy quả. Tức là ngài hiện những y báo cần thiết để cho gần với đời sống thế tục hơn.

Kinh:

Thiện Tài Đồng Tử thấy tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa trải cỏ ngồi dưới cây chiên đàn, đồ chúng mười ngàn người, có người mặc da nai, mặc vỏ cây, có người bện cỏ làm y phục, vấn tóc, để râu trước sau vây quanh…

Giảng:

Đây là ngài thị hiện làm những vị ngoại đạo,

Kinh:

Thiện Tài đến mọp lạy thưa tiên nhơn rằng: Nay tôi được gặp chơn thiện tri thức. Thiện tri thức là cửa xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi được vào đạo chân thật. Thiện tri thức là cỗ xe xu hướng nhất thiết trí…, thiện tri thức là thuyền xu hướng nhât thiết trí…, thiện tri thức là đuốc xu hướng nhất thiết trí…, thiện tri thức là đường xu hướng nhất thiết trí…, thiện tri thức là đèn xu hướng nhát thiết trí…, thiện tri thức là cầu xu hướng nhất thiết trí…, thiện tri thức là lọng xu hướng nhất thiết trí…, thiện tri thức là con mắt xu hướng nhất thiết trí…, thiện tri thức là nước triều xu hướng nhất thiết trí…, nói xong Thiện Tài đứng dậy hữu nhiễu vô lượng vòng đứng chắp tay thưa rằng: Bạch đức Thánh tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo. Tôi nghe đức Thánh khéo dạy dỗ. Xin chỉ dạy cho tôi.

Giảng:

Ở đây, ngài Thiện Tài lại ca ngợi thiện tri thức…

Kinh:

Tỳ Mục Cù Sa đoán nhìn đồ chúng mà nói: Này đại chúng, Đồng Tử này đã phát tâm vô thượng bồ đề, khắp ban sự vô úy cho tất cả chúng sanh, khắp ban sự lợi ích cho tất cả chúng sanh, thường quan sát trí hải của tất cả chư Phật…

Giảng:

Ngài Tỳ Mục Cù Sa ca tụng Thiện Tài một hồi sau đó mang những hương hoa rải trên thân Thiện Tài.

Đây là lần đầu tiên trên con đường tìm cầu thiện tri thức, Thiện Tài được rải hoa, có lẽ cũng là một thứ quán đảnh. Vì vậy, sau đây Thiện Tài đắc ngay 5 thứ tam muội, rồi sau đó có một số các vị thiện thần đi theo Thiện Tài.

Kinh:

Tỳ Mục Cù Sa bảo quần tiên rằng: Nếu có người hay phát tâm vô thượng bồ đề, tất sẽ được thành đạo nhất thiết trí. Đồng Tử này đã phát tâm vô thượng bồ đề, tất sẽ tịnh bậc tất cả công đức của chư Phật. Tỳ Mục Cù Sa bảo Thiện Tài: Này thiện nam tử, ta được môn Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát…

Giảng:

“Môn vô thắng tràng giải thoát,” môn giải thoát nào cũng là tam muội cả, mà vô thắng tràng giải thoát tức một tam muội triển chuyển, có nghĩa ngài được rất nhiều tam muội, cái nào cũng liên tục với nhau, mà cái nào cũng “vô thắng” cả.

Kinh:

Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh, cảnh giới của vô thắng tràng giải thoát như thế nào? Lúc đó Tỳ Mục Cù Sa tiên nhơn liền giơ tay hữu xoa đầu Thiện Tài cầm tay Thiện Tài. Thiện Tài liền thấy mình đến trong mười Phật sát vi trần số thế giới mười phương, chỗ của mười Phật sát vi trần số thế giới chư Phật. Thấy chư Phật và chúng hội cùng Phật độ trang nghiêm thanh tịnh. Lại nghe chư Phật tùy sở thích của các chúng sanh mà thuyết pháp, mỗi câu mỗi văn đều thông đạt cả, đều riêng thọ trì không tạp loạn. Cũng biết chư Phật đó dùng thanh tịnh nguyện thành tựu các lực. Cũng thấy chư Phật đó tùy chúng sanh tâm mà hiện sắc tướng. Cũng thây chư Phật đó lưới đại quang minh nhiều màu sắc thanh tịnh viên mân. Cũng biết chư Phật đó, trí huệ vô ngại sức đại quang minh. Thiện Tài tự thấy mình ở chỗ chư Phật qua một ngày một đêm, hoặc bảy ngày bảy đêm, nửa tháng, một tháng, một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, trải qua ức năm, hoặc a-du-da ức năm, hoặc na-do-tha ức năm, hoặc trải qua nửa kiếp, hoặc một kiếp, nhẫn đến bất khả thuyết, bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp…

Giảng:

Ở đây, chúng ta thấy rõ vị tiên nhơn này trải hoa cho Thiện Tài, đồng thời xoa đầu và cầm tay, để cho Thiện Tài vào được một số tam muội, thây mười phương chư Phật, nghe thuyết pháp nhớ rõ cả. Đặc biệt trong tam muội, vọng tưởng không gian và thời gian cũng biến đổi, không biết là ở trong đó một ngày, hai ngày hay bất khả thuyết, bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp. Vào tam muội bao giờ ý thức thời gian cũng nhòe nhoẹt đi. Không gian cũng vậy.

Kinh:

Nhờ Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát trí quang minh chiếu đến…

Giảng:

Tức là vẫn do sức gia trì của ngài Tỳ Mục Cù Sa, của tam muội vô thắng tràng giải thoát chiếu đến…

Kinh:

Nên Thiện Tài Đồng Tử được Tỳ Lô Giá Na Tạng tam muội quang minh…

Giảng:

Tỳ Lô Giá Na Tạng tam muội quang minh tức là vào được cái tâm, thấy tất cả quang minh.

Kinh:

Nhờ vô tận trí giải thoát tam muội quang minh chiếu đến nên Thiện Tài được phổ nhiếp chư phương đà la ni quang minh. Nhờ kim cang luân đà la ni môn quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được cực thanh tịnh trí huệ tâm tam muội quang minh. Nhờ phổ môn trang nghiêm tạng Bát Nhã Ba La Mật quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được Phật hư không tạng luân tam muội quang minh. Nhờ nhát thiết Phật pháp luân tam muội quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được tam thế vô tận trí tam muội quang minh.

Bấy giờ tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa buông tay Thiện Tài Đồng Tử. Thiện Tài liền tự thấy mình ở tại chỗ cũ…

Giảng:

Khi ngài Tỳ Mục Cù Sa buông tay Thiện Tài ra thì Thiện Tài thấy mình đang ở tại chỗ cũ. Nhưng ở đây, tôi nghĩ rằng, lúc này Thiện Tài tuy xuất tam muội, nhưng sau này Thiện Tài vẫn giữ những tam muội đó.

Kinh:

Tiên nhơn bảo Thiện Tài: Này thiện nam tử, ngươi có ghi nhớ chăng? Thiện Tài thưa: Bạch vâng, đây là do sức của đức thánh thiện tri thức vậy. Này thiện nam tử, ta chỉ biết môn Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát này.

Giảng:

Ở vị thiện tri thức thứ năm dậy Thiện Tài môn giải thoát như huyễn, từ tâm, ngài sau dạy biến hóa vô lượng hóa thân, tới ngài thứ bảy là hiện tất cả những y báo thanh tịnh rất đẹp cho Thiện Tài trông thấy, còn ngài này, thì ngài cho Thiện Tài vào tam muội luôn, mỗi người một vẻ.

Kinh:

Bây giờ Thiện Tài Đồng Tử tùy thuận tư duy chánh giáo của Bồ Tát. Tùy thuận tư duy tịnh hạnh của Bồ Tát. Sanh tâm tăng trưởng phước lực của Bồ Tát. Sanh tâm thây rõ tất cả chư Phật… (Bỏ một đoạn kinh nói về sự tư duy về những lôi dạy của ngài Hưu xả sau khi từ tạ ngài mà đi)…. Thiện Tài Đồng Tử lần lần du hành đến nước Na La Tô tìm tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa, thấy một khu rừng lớn, vô sô cây trang nghiêm…

Giảng:

Tỳ Mục Cù Sa, nghĩa trong sách nói là “phát tâm ghê gớm”… Ngài Tỳ Mục Cù Sa ở một nơi y báo rất đẹp, vườn tược, nhà cửa đều rất đẹp, trăm vạn quang minh, trăm vạn trướng màn, v.v… ngay cả cây lớn đều rất trang nghiêm.

Kinh:

Như là những cây lá rậm rợp che mát, những cây nỗ hoa sặc sỡ, những cây đơm trái chín tiếp nối. Lại có những cây báu mưa trái ma-ni, những cây chiên đàn lớn bày hàng khắp nơi, những cây trầm thủy thường thoảng hương thơm, những cây duyệt ý hương thơm tho trang nghiêm, những cây ba-tra-la bao bọc bấn phía, những cây ni-câu-luật cao vút, những cây diêm-phù-đàn thường mưa trái ngọt, những bông sen xanh, bông sen đỏ trang nghiêm ao hồ.

Giảng:

Ta để ý thấy y báo của vị này trang nghiêm và có vẻ gần cận với người hơn, vì cây đầy quả. Tức là ngài hiện những y báo cần thiết để cho gần với đời sống thế tục hơn.

Kinh:

Thiện Tài Đồng Tử thấy tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa trải cỏ ngồi dưới cây chiên đàn, đồ chúng mười ngàn người, có người mặc da nai, mặc vỏ cây, có người bện cỏ làm y phục, vấn tóc, để râu trước sau vây quanh…

Giảng:

Đây là ngài thị hiện làm những vị ngoại đạo,

Kinh:

Thiện Tài đến mọp lạy thưa tiên nhơn rằng: Nay tôi được gặp chơn thiện tri thức. Thiện tri thức là cửa xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi được vào đạo chân thật. Thiện tri thức là cỗ xe xu hướng nhất thiết trí…, thiện tri thức là thuyền xu hướng nhât thiết trí…, thiện tri thức là đuốc xu hướng nhất thiết trí…, thiện tri thức là đường xu hướng nhất thiết trí…, thiện tri thức là đèn xu hướng nhát thiết trí…, thiện tri thức là cầu xu hướng nhất thiết trí…, thiện tri thức là lọng xu hướng nhất thiết trí…, thiện tri thức là con mắt xu hướng nhất thiết trí…, thiện tri thức là nước triều xu hướng nhất thiết trí…, nói xong Thiện Tài đứng dậy hữu nhiễu vô lượng vòng đứng chắp tay thưa rằng: Bạch đức Thánh tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo. Tôi nghe đức Thánh khéo dạy dỗ. Xin chỉ dạy cho tôi.

Giảng:

Ở đây, ngài Thiện Tài lại ca ngợi thiện tri thức…

Kinh:

Tỳ Mục Cù Sa đoán nhìn đồ chúng mà nói: Này đại chúng, Đồng Tử này đã phát tâm vô thượng bồ đề, khắp ban sự vô úy cho tất cả chúng sanh, khắp ban sự lợi ích cho tất cả chúng sanh, thường quan sát trí hải của tất cả chư Phật…

Giảng:

Ngài Tỳ Mục Cù Sa ca tụng Thiện Tài một hồi sau đó mang những hương hoa rải trên thân Thiện Tài.

Đây là lần đầu tiên trên con đường tìm cầu thiện tri thức, Thiện Tài được rải hoa, có lẽ cũng là một thứ quán đảnh. Vì vậy, sau đây Thiện Tài đắc ngay 5 thứ tam muội, rồi sau đó có một số các vị thiện thần đi theo Thiện Tài.

Kinh:

Tỳ Mục Cù Sa bảo quần tiên rằng: Nếu có người hay phát tâm vô thượng bồ đề, tất sẽ được thành đạo nhất thiết trí. Đồng Tử này đã phát tâm vô thượng bồ đề, tất sẽ tịnh bậc tất cả công đức của chư Phật. Tỳ Mục Cù Sa bảo Thiện Tài: Này thiện nam tử, ta được môn Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát…

Giảng:

“Môn vô thắng tràng giải thoát,” môn giải thoát nào cũng là tam muội cả, mà vô thắng tràng giải thoát tức một tam muội triển chuyển, có nghĩa ngài được rất nhiều tam muội, cái nào cũng liên tục với nhau, mà cái nào cũng “vô thắng” cả.

Kinh:

Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh, cảnh giới của vô thắng tràng giải thoát như thế nào? Lúc đó Tỳ Mục Cù Sa tiên nhơn liền giơ tay hữu xoa đầu Thiện Tài cầm tay Thiện Tài. Thiện Tài liền thấy mình đến trong mười Phật sát vi trần số thế giới mười phương, chỗ của mười Phật sát vi trần số thế giới chư Phật. Thấy chư Phật và chúng hội cùng Phật độ trang nghiêm thanh tịnh. Lại nghe chư Phật tùy sở thích của các chúng sanh mà thuyết pháp, mỗi câu mỗi văn đều thông đạt cả, đều riêng thọ trì không tạp loạn. Cũng biết chư Phật đó dùng thanh tịnh nguyện thành tựu các lực. Cũng thấy chư Phật đó tùy chúng sanh tâm mà hiện sắc tướng. Cũng thây chư Phật đó lưới đại quang minh nhiều màu sắc thanh tịnh viên mân. Cũng biết chư Phật đó, trí huệ vô ngại sức đại quang minh. Thiện Tài tự thấy mình ở chỗ chư Phật qua một ngày một đêm, hoặc bảy ngày bảy đêm, nửa tháng, một tháng, một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, trải qua ức năm, hoặc a-du-da ức năm, hoặc na-do-tha ức năm, hoặc trải qua nửa kiếp, hoặc một kiếp, nhẫn đến bất khả thuyết, bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp…

Giảng:

Ở đây, chúng ta thấy rõ vị tiên nhơn này trải hoa cho Thiện Tài, đồng thời xoa đầu và cầm tay, để cho Thiện Tài vào được một số tam muội, thây mười phương chư Phật, nghe thuyết pháp nhớ rõ cả. Đặc biệt trong tam muội, vọng tưởng không gian và thời gian cũng biến đổi, không biết là ở trong đó một ngày, hai ngày hay bất khả thuyết, bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp. Vào tam muội bao giờ ý thức thời gian cũng nhòe nhoẹt đi. Không gian cũng vậy.

Kinh:

Nhờ Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát trí quang minh chiếu đến…

Giảng:

Tức là vẫn do sức gia trì của ngài Tỳ Mục Cù Sa, của tam muội vô thắng tràng giải thoát chiếu đến…

Kinh:

Nên Thiện Tài Đồng Tử được Tỳ Lô Giá Na Tạng tam muội quang minh…

Giảng:

Tỳ Lô Giá Na Tạng tam muội quang minh tức là vào được cái tâm, thấy tất cả quang minh.

Kinh:

Nhờ vô tận trí giải thoát tam muội quang minh chiếu đến nên Thiện Tài được phổ nhiếp chư phương đà la ni quang minh. Nhờ kim cang luân đà la ni môn quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được cực thanh tịnh trí huệ tâm tam muội quang minh. Nhờ phổ môn trang nghiêm tạng Bát Nhã Ba La Mật quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được Phật hư không tạng luân tam muội quang minh. Nhờ nhát thiết Phật pháp luân tam muội quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được tam thế vô tận trí tam muội quang minh.

Bấy giờ tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa buông tay Thiện Tài Đồng Tử. Thiện Tài liền tự thấy mình ở tại chỗ cũ…

Giảng:

Khi ngài Tỳ Mục Cù Sa buông tay Thiện Tài ra thì Thiện Tài thấy mình đang ở tại chỗ cũ. Nhưng ở đây, tôi nghĩ rằng, lúc này Thiện Tài tuy xuất tam muội, nhưng sau này Thiện Tài vẫn giữ những tam muội đó.

Kinh:

Tiên nhơn bảo Thiện Tài: Này thiện nam tử, ngươi có ghi nhớ chăng? Thiện Tài thưa: Bạch vâng, đây là do sức của đức thánh thiện tri thức vậy. Này thiện nam tử, ta chỉ biết môn Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát này.

Giảng:

Ở vị thiện tri thức thứ năm dậy Thiện Tài môn giải thoát như huyễn, từ tâm, ngài sau dạy biến hóa vô lượng hóa thân, tới ngài thứ bảy là hiện tất cả những y báo thanh tịnh rất đẹp cho Thiện Tài trông thấy, còn ngài này, thì ngài cho Thiện Tài vào tam muội luôn, mỗi người một vẻ.



9.- THẮNG NHIỆT BÀ LA MÔN


Này thiện nam tử ! Ta chỉ được  “MÔN BỒ TÁT VÔ TẬN LUÂN GIẢI THOÁT”.


 

Bấy giờ Thiện Tài đồng tử nhờ Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát chiếu đến nên được trụ chư Phật bất tư nghì thần lực, được chứng Bồ Tát bất tư nghì giải thoát thần thông trí, được Bồ Tát bất tư nghì tam muội trí quang minh, được tất cả thời gian huân tu tam muội trí quang minh, được biết rõ tất cả cảnh giới đều nương tưởng mà an trụ tam muội trí quang minh, được tất cả thế gian thù thắng trí quang minh. Ðều hiện thân mình ở tất cả chỗ. Dùng trí cứu cánh nói pháp bình đẳng không hai không phân biệt. Dùng trí sáng sạch chiếu khắp cảnh giới. Phàm những pháp được nghe đều có thể nhẫn thọ tin hiểu thanh tịnh. Nơi pháp tự tánh quyết định rõ ràng. Tâm luôn chẳng bỏ Bồ Tát diệu hạnh. Cần nhứt thiết trí trọn không thối chuyển. Chứng được thập lực trí huệ quang minh. Siêng cầu diệu pháp thường chẳng nhàm đủ. Dùng chánh tu hành nhập Phật cảnh giới. Xuất sanh bồ tát vô lượng trang nghiêm, vô biên đại nguyện đều đã thanh tịnh. Dùng trí vô cùng tận mà biết vô biên thế giới võng. Dùng tâm không khiếp nhược mà độ vô lượng chúng sanh hải. Rõ vô biên công hạnh cảnh giới của Bồ Tát. Thấy vô biên thế giới những thứ sai biệt, những thứ trang nghiêm. Nhập vô biên thế giới những cảnh vi tế. Biết vô biên thế giới những danh hiệu, những ngôn ngữ. Biết vô biên chúng sanh các tri giải, các công hạnh, các hạnh thành thục, những tưởng sai biệt.

Thiện Tài nghĩ tưởng thiện tri thức đồng thời đi lần đến tụ lạc Y Sa Na, thấy THẮNG NHIỆT BÀ LA MÔN tu những khổ hạnh cầu nhứt thiết trí : bốn phía đốt lửa ngọn cao như núi lớn, ở giữa có núi đao cao nhọn vô cực. Thắng Nhiệt leo lên núi đao nhảy vào đống lửa.

Lúc đó Thiện Tài đến đảnh lễ chân Thắng Nhiệt mà thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin giảng giải cho tôi.

Thắng Nhiệt nói : Này thiện nam tử ! Nay ngươi có thể leo lên núi đao này, nhảy vào đống lửa này, thời những Bồ Tát hạnh sẽ được thanh tịnh.

Lúc đó thiện Tài nghĩ rằng được thân người là khó, lìa các nạn là khó, được không nạn là khó, được tịnh pháp là khó, được gặp Phật là khó, đủ các căn là khó, nghe Phật pháp là khó, gặp người lành là khó, gặp chơn thiện tri thức là khó, thọ chánh giáo đúng lý là khó, được chánh mạng là khó, tùy pháp hành là khó. Ðây phải chăng là ma, bị ma sai sử chăng ? Phải chăng là đồ đảng hiểm ác của ma trá hiện tướng Bồ Tát thiện tri thức mà muốn làm chướng nạn cho thiện căn của tôi, muốn làm nạn thọ mạng để chướng sự tu hành đạo nhất thiết trí của tôi. Muốn kéo tôi vào trong các ác đạo. Muốn chướng pháp môn của tôi, chướng Phật pháp của tôi chăng ?

Lúc Thiện Tài suy nghĩ như vậy, mười ngàn Phạm Thiên ở trên hư không bảo rằng :

Này thiện nam tử ! Chớ nghĩ như vậy, chớ tưởng như vậy. Ðức Thánh đây đã được kim cang diện tam muội quang minh, phát đại tinh tấn độ các chúng sanh tâm không thối chuyển, muốn cạn tất cả biển tham ái, muốn triệt tất cả lưới tà kiến, muốn thiêu tất cả củi phiền não, muốn soi tất cả rừng mê lầm, muốn dứt tất cả điều lo sợ về vấn đề già chết, muốn hoại tất cả chướng tam thế, muốn phóng tất cả pháp quang minh.

Này thiện nam tử ! Phạm Thiên chúng tôi phần nhiều chấp tà kiến, đều tự cho mình là bậc tự tại, là đấng làm ra tất cả, là tối thắng trong thế gian.

Khi thấy Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, lòng chúng tôi không còn mến luyến cung điện của mình, chẳng còn tham đắm các thiền định, cùng nhau đến chỗ Bà La Môn này.

Bấy giờ Bà La Môn này dùng sức thần thông hiển thị sự khổ hạnh lớn vì chúng tôi mà thuyết pháp, có thể làm cho chúng tôi diệt tất cả sự chấp, trừ tất cả kiêu mạn, an trụ đại từ, thật hành đại bi, phát khởi tâm quảng đại, phát Bồ đề tâm, thường thấy chư Phật, hằng nghe diệu pháp, ở tất cả chỗ tâm không chướng ngại.

Lại có mười ngàn chư ma ở trên hư không đem thiên ma ni bửu rải trên mình Bà La Môn mà bảo Thiện Tài đồng tử rằng :

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa chiếu khuất chúng tôi, cung điện và những đồ trang nghiêm của chúng tôi đều như đống mực đen, làm cho chúng tôi không còn mến luyến.

Chúng tôi cùng quyến thuộc đến chỗ Bà La Môn. Ðức Thánh này nói pháp cho chúng tôi, làm cho chúng tôi và vô lượng Thiên Tử cùng vô lượng Thiên nữ đều chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề.

Lại có mười ngàn Tự Tại Thiên Vương ở trên hư không rải thiên hoa, nói rằng :

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu khuất chúng tôi, bao nhiêu cung điện và đồ trang nghiêm đều tối như đống mực, làm cho chúng tôi không còn mến luyến, bèn cùng quyến thuộc đến chỗ Bà La Môn. Ðức Thánh này vì chúng tôi mà thuyết pháp, làm cho chúng tôi được tự tại nơi tâm, được tự tại trong phiền não, được tự tại trong thọ sanh, được tự tại nơi nghiệp chướng, được tự tại nơi các tam muội, được tự tại nơi những đồ trang nghiêm, được tự tại nơi thọ mạng, nhẫn đến được tự tại nơi tất cả Phật pháp.

Lại có mười ngàn Hóa Lạc Thiên Vương ở trong hư không trổi thiên nhạc cung kính cúng dường, nói rằng :

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu đến cung điện, đồ trang nghiêm và thể nữ của chúng tôi. Làm cho chúng tôi chẳng thọ dục lạc, chẳng cầu dục lạc, thân tâm nhu nhuyến. Chúng tôi liền cùng quyến thuộc đến chỗ của Bà La Môn này. Ðức Thánh này vì chúng tôi mà thuyết pháp, làm cho thân tâm chúng tôi thanh tịnh, tâm được sáng sạch, tâm được thuần thiện, tâm nhu nhuyến, tâm hoan hỷ, nhẫn đến làm cho chúng tôi được thân thanh tịnh, thập lực thanh tịnh, sanh vô lượng thân cho đến được Phật thân, Phật ngữ, Phật thanh, Phật tâm thành tựu đầy đủ nhất thiết chủng trí.

Lại có mười ngàn Ðâu Suất Thiên Vương, Thiên Tử, Thiên Nữ và quyến thuộc ở trên hư không rưới những diệu hương cung kính đảnh lễ, nói rằng :

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, làm cho chư Thiên chúng tôi và quyến thuộc không còn mến luyến cung điện của mình, đồng đến chỗ này nghe đức Thánh đây thuyết pháp. Có thể làm cho chúng tôi chẳng tham cảnh giới thiểu dục tri túc tâm sanh hoan hỷ, tâm được sung mãn phát sanh thiện căn, phát Bồ đề tâm nhẫn đến viên mãn tất cả Phật pháp.

Lại có mười ngàn Ðao Lợi chư Thiên và quyến thuộc Thiên Tử, Thiên Nữ ở trên hư không rải hoa thiên mạn đà la cung kính cúng dường, nói rằng :

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, làm cho chư Thiên chúng tôi chẳng mến luyến thiên âm nhạc, đồng đến chỗ này. Ðức Thánh đây vì chúng tôi mà nói những pháp vô thường hư tan, làm cho chúng tôi bỏ rời những dục lạc, dứt trừ kiêu mạng phóng dật, thích Vô thượng Bồ đề.

Lại này thiện nam tử ! Lúc chúng tôi thấy đức Thánh đây, thời đảnh núi Tu Di chấn động sáu cách, chúng tôi kinh sợ, đồng phát tâm Bồ đề kiên cố chẳng động lay.

Lại có mười ngàn Long Vương, như là Y Na Bạt La Long Vương, Nan Ðà Long Vương, Ưu Ba Nan Ðà Long Vương v.v… Ở trên hư không mưa hắc chiên đàn vô lượng, Long Nữ tấu thiên âm nhạc, rải thiên diệu hoa và thiên hương thủy cung kính cúng dường. Nói rằng :

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu khắp tất cả Long Cung, làm cho Long Chúng khỏi sợ cát nóng, khỏi sợ kim sí điểu, trừ sân hận, thân mát mẻ, tâm không nhơ, nghe pháp liền tin hiểu, nhàm rét loài rồng, chí thành sám hối nghiệp chướng, nhẫn đến phát tâm Vô thượng Bồ đề an trụ nơi Nhứt thiết trí.

Lại có mười ngàn Dạ Xoa Vương ở trên hư không cung kính cúng dường Bà La Môn này và Thiện Tài đồng tử mà nói rằng :

Này Thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, chúng tôi cùng quyến thuộc đều phát tâm từ mẫn đối với chúng sanh. Tất cả La Sát, Cưu Bàn Trà … Cũng sanh lòng từ mẫn. Vì có tâm từ mẫn nên không não hại chúng sanh, đồng đến chỗ chúng tôi. Chúng tôi và đại chúng ấy không luyến mến cung điện của mình, đồng nhau đến chỗ này. Ðức Thánh đây liền theo sở nghi mà thuyết pháp làm cho chúng tôi thâm tâm đều được an lạc. Lại làm cho vô lượng Dạ Xoa, La Sát, Cưu Bà Trà … Phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Lại có mười ngàn Càn Thát Bà Vương ở trên hư không mà nói rằng :

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn đây dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu cung điện của chúng tôi, làm cho chúng tôi thọ bất tư nghì vô lượng khoái lạc. Vì thế chúng tôi đến chỗ này. Ðức Thánh đây vì chúng tôi mà thuyết pháp làm cho chúng tôi được chẳng thối chuyển Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lại có mười ngàn A Tu La Vương ra khỏi đại hải ở giửa hư không duỗi đầu gối hữu chắp tay làm lễ mà nói rằng :

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, thời cung điện của chúng tôi và đại hải, đại địa đều chấn động, làm cho chúng tôi bỏ kiêu mạn phóng dật. Do đó chúng tôi đến chỗ này nghe pháp, rời bỏ siễm cuống, an trụ nhẫn địa kiên cố bất động, viên mãn thập lực.

Lại có mười ngàn Ca Lâu La Vương, Dũng Lực Trì Vương làm thượng thủ. Ðồng hóa làm thân ngoại đạo đồng tử ở trên không xướng rằng :

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa chiếu cung điện chúng tôi, tất cả đều chấn động, thảy đều kinh sợ. Do đó chúng tôi đồng đến chỗ này. Ðức Thánh đây tùy nghi mà thuyết pháp cho chúng tôi, khiến chúng tôi tu tập đại từ, khen ngợi đại bi, qua khỏi biển sanh tử, ở trong sình lầy ái dục mà cứu vớt chúng sanh, khen Bồ đề tâm, khởi trí phương tiện, tùy sở nghi điều phục chúng sanh.

Lại có mười ngàn Khẩn Na La Vương ở trong hư không xướng rằng :

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, thời cung điện của chúng tôi ở, cùng những cây đa la, cây âm nhạc, cây diệu bửu, những lưới bửu linh, những giây lụa báu và những nhạc khí tự nhiên vang ra tiếng Phật, tiếng Pháp và tiếng bất thối chuyển Bồ Tát Tăng, tiếng nguyện cầu Vô thượng Bồ đề, nói rằng : phương đó, nước đó có Bồ Tát đó phát Bồ đề tâm. Phương đó, nước đó có Bồ Tát tu hành khổ hạnh, khó xả mà xả được, nhẫn đến thanh tịnh hạnh nhất thiết trí. Phương đó, nước đó có Bồ Tát đó qua đạo tràng. Nhẫn đến phương đó nước đó có đức Như Lai đó làm Phật sự xong liền nhập Niết bàn.

Này thiện nam tử ! Giả sử có người đem tất cả cỏ cây ở Diêm Phù Ðề nghiền nát thành vi trần, có thể đếm biết được số vi trần này. Còn trong cung điện của chúng tôi, những cây đa la nhẫn đến nhạc khí nói Bồ Tát danh, Như Lai danh phát đại nguyện chỗ tu hành  …không ai biết được ngằn mé.

Này thiện nam tử ! Vì chúng tôi được nghe tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Bồ Tát Tăng nên rất hoan hỷ, cùng nhau đến chỗ này. Ðức Thánh này liền vì chúng tôi mà thuyết pháp. Làm cho chúng tôi và vô lượng chúng sanh được bất thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lại có vô lượng chư Thiên Dục giới ở trên hư không dùng đồ cúng vi diệu cung kính cúng dường, xướng rằng.

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu sáng tất cả địa ngục A Tỳ. Những kẻ chịu khổ đều làm cho thôi dứt. Chúng tôi thấy ánh sáng lửa này liền sanh lòng tịnh tín. Do lòng tin nên thân địa ngục chết được sanh lên cõi trời. Nhớ ơn, nên chúng tôi đến đây cung kính chiêm ngưỡng đức Thánh này lòng không nhàm đủ. Ðức Thánh đây vì chúng tôi mà thuyết pháp, làm cho vô lượng chúng sanh phát Bồ đề tâm.

Lúc đó Thiện Tài đồng tử nghe pháp như vậy lòng rất hoan hỷ, xem Bà La Môn Thắng Nhiệt là bậc chân thiện tri thức, cúi đầu kính lễ, xướng rằng :

Tôi sanh lòng bất thiện đối với đức Thánh thiện tri thức, ngưỡng mong đức Thánh cho tôi sám hối.

Thắng Nhiệt Bà La Môn vì Thiện Tài mà nói kệ rằng :


Nếu có chư Bồ Tát

Thuận theo thiện tri thức

Tất cả không nghi sợ

An trụ tâm chẳng động

Nên biết người như vậy

Tất được lợi quảng đại

Ngồi dưới cây Bồ đề

Thành bậc Vô Thượng Giác.


Bấy giờ Thiện Tài đồng tử liền leo lên núi đao tự nhảy vào đống lửa. Khi rơi xuống giữa chừng. Thiện Tài liền chứng được Bồ Tát thiện trụ tam muội. Vừa chạm ngọn lửa, Thiện Tài lại chứng được Bồ Tát tịch tịnh lạc thần thông tam muội.

Thiện Tài thưa :

Bạch đức Thánh ! Núi đao và đống lửa này, thân tôi vừa chạm đến thời được an ổn khoái lạc.

Thắng Nhiệt Bà La Môn nói :

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được “MÔN BỒ TÁT VÔ TẬN LUÂN GIẢI THOÁT”.

Còn như ngọn lửa đại công đức của chư đại Bồ Tát có thể đốt cháy kiến hoặc của tất cả chúng sanh không để thừa, tất được bất thối chuyển, tâm vô cùng tận, tâm không giải đãi, tâm không khiếp nhược, phát tâm kiên cố như kim cang tạng, tâm chóng tu các công hạnh không trì hưỡn, nguyện như phong luân trì khắp tất cả đại thệ tinh tấn đều không thối chuyển, ta thế nào biết hết được, nói hết được công đức hạnh đó.

Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một thành tên là Sư Tử Phấn Tấn, trong thành ấy có một đồng nữ tên là Từ Hạnh. Người đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Thắng Nhiệt Bà La Môn, hữu nhiễu vô lượng vòng từ tạ mà đi.


Kinh:

Này thiện nam tử, phương Nam đây có một tụ lạc tên là Y Sa Na, có Bà La Môn tên là Thắng Nhiệt. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo… Thiện Tài Đồng Tử vui mừng hớn hở, đảnh lễ tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi qua phương Nam.

Giảng:

Thắng Nhiệt là lửa tối thắng. Đoạn này là trong kinh nói về tà kiến, xin đọc cho quí vị nghe một đoạn, tôi xin tóm lược…

Kinh:

Bấy giờ Thiện Tài Đồng Tử nhờ Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát chiếu đến nên được trụ chư Phật bất tư nghi thần lực, được chúng Bồ Tát bất tư nghi giải thoát, thần thông trí, được Bồ Tát bất tư nghi tam muội v.v… đều hiện thân mình ở tất cả chỗ…

Giảng:

“Đều hiện thân mình ở khắp tất cả chỗ…,” lúc này, Thiện Tài đã biết bắt đầu hiện hóa thân rồi…

Kinh:

Dùng trí cứu cánh nói pháp bình đẳng không hai không phân biệt. Dùng trí sáng sạch chiếu khắp cảnh giới…, dùng tâm không khiếp nhược mà độ vô lượng chúng sanh hải. Thấy vô biên thế giới những thứ sai biệt, những thứ trang nghiêm. Nhập vô biên thế giới những cảnh vi tế. Biết vô biên thế giới những danh hiệu, những ngôn ngữ. Biết vô biên chúng sanh các tri giải, các công hạnh, các hạnh thành thục những tưởng sai biệt…

Giảng:

Có nhiều vị thắc mắc rằng không hiểu sao không thấy Thiện Tài độ sanh gì cả, nhưng có lẽ những vị đó không để ý kỹ, vì ngay đoạn này kinh nói rất rõ rằng Thiện Tài độ sanh rất nhiều, vì sao? Vì khi ngài được những môn tam muội rồi, thì hiện thân vô lượng để độ sanh. “Biết vô biên chúng sanh hải…”để độ sanh, “biết các công hạnh, các hạnh thành thục, những tưởng sai biệt.”để độ sanh, tức là trong thời gian này Thiện Tài đã biến hóa và độ sanh rất nhiều… Theo Hoa Nghiêm, Bồ Tát sơ địa đã có thể hiện 100 hóa thân.

Kinh:

Thiện Tài nghĩ tưỏng thiện tri thức đồng thời đi lần đến tụ lạc Y Sa Na, thấy Thắng Nhiệt Bà La Môn tu những khổ hạnh cầu nhất thiết trí, bốn phía đốt lửa ngọn cao như núi lớn,  giữa có núi đao cao nhọn vô cực. Thắng Nhiệt leo lên núi đao nhảy vào đống lửa.

Giảng:

Khi Thiện Tài đến, thấy Thắng Nhiệt Bà La Môn làm một đống lửa lớn giữa có núi đao, sau đó trèo lên núi cao nhảy xuống đống lửa. Chúng ta cũng nên hiểu thế nào là cái “núi đao” và “đống lửa” đó.

Kinh:

Lúc đó Thiện Tài đến đảnh lễ chân Thắng Nhiệt mà thưa rằng: Bạch đức Thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo xin giảng giải cho tôi. Thắng Nhiệt nói: Này thiện nam tử, nay ngươi có thể leo lên núi đao này, nhảy vào đống lửa này, thời những Bồ Tát hạnh sẽ được thanh tịnh.

Giảng:

Ở đây, chúng ta cũng vẫn phải hiểu hai nghĩa, tức là có một vị Bà La Môn tu cái pháp môn đó thật, tức là làm một núi đao thật lớn, trong đống lửa lớn, rồi trèo lên cao gieo mình vào đống lửa. Còn nghĩa đen, thì chúng ta phải hiểu “núi đao” là tượng trưng cho tất cả những tà kiến và sở tri chướng, còn”núi lửa” tượng trưng cho lửa của 5 thứ, tức là giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Ngài dùng những trí huệ đó để đốt núi đao tà kiến. Vì sao? Vì khi chúng ta mang những tà kiến trong người chẳng khác nào chúng ta mang những con dao trong người, dao đó nó có thể chém chết “giới thân huệ mạng” của mình, vì thế phải dùng năm trí huệ để đốt nó. Như tôi đã nhắc nhiều lần, tà kiến nặng nhất là kiêu mạn, tà kiến thứ nhì là ái luyến cái pháp, được cái gì thì nắm chắc lấy nó rồi tự cao. ở các bậc cao thì tham dục không còn mấy nữa, nhưng các ngài lại vấp cái kiêu mạn và ái luyến về pháp, cũng như nếu ngài Thiện Tài khởi tâm kiêu mạn thì ngài sẽ thành Thiên Ma ngay, rồi sẽ thọ sanh trong cung trời Tha Hóa Tự Tại. Vì thế, cần để ý kỹ đến vấn đề ma chướng trong kinh Lăng Nghiêm. Nếu tu Như Huyễn Tam Ma Đề đến mức độ khá mà còn khởi tâm kiêu mạn thì lập tức thành Thiên Ma ngay. Nên tâm kiêu mạn rất nguy hiểm, còn như ái luyến pháp thì nguy hiểm là hành giả không thể đi lên được, mà dừng chân ở đó thôi. Sau khi ngài Thắng Nhiệt bảo Thiện Tài như vậy, lúc đó Thiện Tài bắt đầu nghi ngờ.

Kinh:

Lúc đó Thiện Tài nghĩ rằng được thân người là khó, lìa các nạn là khó, được không nạn là khó, được tịnh pháp là khó, đủ các căn là khó, nghe Phật pháp là khó, gặp người lành là khó, gặp chân thiện tri thức là khó, thọ chánh giáo đúng lý là khó, được chánh mạng là khó, tùy pháp hành là khó. Đây phải chăng là ma, bị ma sai sử chăng? Phải chăng là đồ đảng hiểm ác của ma trá hiện tướng Bồ Tát thiện tri thức mà muốn làm chướng nạn cho thiện căn của tôi, muốn làm nạn thọ mạng để chướng sự tu hành dạo nhất thiết trí của tôi. Muốn kéo tôi vào trong các ác đạo. Muốn chướng pháp môn của tôi, chướng Phật pháp của tôi chăng?

Giảng:

Vì Thiện Tài là người có quá nhiều thiện căn và phước đức, nên lập tức có vô lượng chư thiên hiện lên cảnh giác ngay lập tức.

Kinh:

Lúc Thiện Tài suy nghĩ như vậy, mười ngàn Phạm Thiên ở trên hư không bảo rằng: Này thiện nam tử, chớ nghĩ như vậy, chớ tưởng như vậy. Đức Thánh đây đã được kim cang dỉệm tam muội quang minh…

Giảng:

“Kim Cang Diệm Tam Muội Quang Minh” là trong đó dùng lửa kim cang của trí huệ đốt tất cả những tà kiến.

Kinh:

Phát đại tinh tấn độ các chúng sanh tâm không thối chuyển, muốn cạn tất cả biển tham ái, muốn triệt tất cả lưới tà kiến, muốn thiêu tất cả củi phiền não, muốn soi tất cả rừng mê lầm, muốn dứt tất cả điều lo sợ về vấn đề già chết, muốn hoại tất cả chướng tam thế, muốn phóng tất cả pháp quang minh…

Giảng:

Các ngài Phạm Thiên giải thích cho Thiện Tài biết rằng, đây không phải là người tu theo ngoại đạo đâu, mà ngài dùng lửa trí huệ đốt tất cả những tà kiến, những tham ái, cũng phải nhớ rằng tham ái đây không phải là tình dục nam nữ mà là tham ái cái pháp mình đắc được.

Kinh:

Này thiện nam tử, Phạm Thiên chúng tôi phần nhiều chấp tà kiến…

Giảng:

Người Ấn thường coi Phạm Thiên là Thượng Đế, và những vị trên cõi Phạm Thiên rất sướng, hào quang rất nhiều lại có thần thông biến hóa. Nên có nhiều vị khởi tà kiến nghĩ rằng mình là Thượng Đế thật và tưởng rằng mình sinh ra cái vũ trụ này… Đó là những tà kiến nặng.

Kinh:

Đều tự cho mình là bậc tự tại, là đấng làm ra tất cả, là tối thắng trong thế gian.

Giảng:

Đó là cái tâm kiêu mạn, vì thế gian này không phải do những vị Phạm Thiên làm ra mà do thần lực hải của chư Phật do nguyện lực hải của chư Đại Bồ Tát và do nghiệp lực hải của chúng sanh. Nếu nói do chính tâm chúng sanh mà ra thì cũng đúng, nhưng ta thiếu mất thần lực và nguyện lực. Nên các vị Phạm Thiên bị vướng vào những tà kiến ấy, nghĩ rằng mình tạo dựng ra thế gian này, vì vậy cần tu hành để diệt tà kiến.

Kinh:

Khi thấy Bà La Môn này dùng năm thứ lửa để đốt thân…

Giảng:

Năm thứ lửa là giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.

Kinh:

Lòng chúng tôi không còn mến luyến cung điện của mình, chẳng còn tham dăm các thiền định, cùng nhau đến chỗ Bà La Môn này.

Giảng:

Các ngài Phạm Thiên kể cho Thiện Tài nghe rằng trước chúng tôi bị tà kiến như vậy, tự cho mình là đấng sinh ra thế gian này, nhưng khi chúng tôi thấy ánh lửa đốt lên thì tự nhiên thấy nhàm chán tất cả những cung điện. (Đó là những y báo do thiền định mà ra. Nên biết rằng chư thiên đi đâu cũng thường mang theo cung điện cùng quyến thuộc của mình, vì cung điện đó không phải là những căn nhà ù lỳ như của nhân thế đâu. Cung điện của chư thiên chính là y báo của các ngài, mà y báo đó dính liền với thiền lực của các ngài, nên đi đâu như đi dự những pháp hội thì các ngài mang theo cung điện với mình. Nên trong kinh có tả, nhiều vị chư thiên đến chỗ đức Phật dâng cung điện để cúng dường. Nên phải hiểu rằng, pháp giới biến đổi và huyễn hiện vô chừng, khi xuống thấp thì y báo và chánh báo bị tách ra rõ rệt, nhưng càng lên cao thì hai cái đó càng dính lại gần nhau hơn, lên đến đức Phật thì y báo và chánh báo nhập lại thành một và thân tâm Phật là một với cõi). Trở lại kinh, các vị Phạm Thiên gặp được cảnh duyên bên ngoài (Thắng Nhiệt) nên khởi tâm chán cái trầm không thú tịch trong thiền định của mình mà muốn tu lên nữa. Sau đó, Thắng Nhiệt Bà La Môn vì những vị chư thiên mà thuyết pháp, nghe pháp xong ai cũng phát bồ đề tâm cả.

Kinh:

Lại có mười ngàn chư ma  trên hư không đem thiên ma ni bửu rải trên mình Bà La Môn mà bảo Thiện Tài Đồng Tử rằng: Này thiện nam tử, lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa chiếu khuất chúng tôi, cung điện và những đồ trang nghiêm của chúng tôi đều như đấng mực đen, làm cho chúng tôi không còn mến luyến.

Giảng:

Chư Ma cũng có sức định lớn, có thể tạo ra cung điện của họ, nhưng khi ánh lửa của Thắng Nhiệt Bà La Môn chiếu sáng thì bỗng thấy cung điện của mình đen xì như đống mực, nên không còn đắm luyến nữa, mà khởi tâm muốn tu lên để đạt đến lớp quang minh lớn vi diệu hơn…

Kinh:

Chúng tôi cùng quyến thuộc đến chỗ Bà La Môn. Đức Thánh này nói pháp cho chúng tôi, làm cho chúng tôi và vô lượng thiên tử cùng vô lượng thiên nữ đều chẳng thối chuyển nơi vô lượng bồ đề.

Giảng:

Thiên Ma cũng là chư Thiên, nhưng vì những vị này khởi tâm kiêu mạn chấp ngã, có nhiều tà ý thì trở thành thiên ma.

Kinh:

…Lại có mười ngàn Hóa Lạc Thiên Vương ở trong hư không trồi thiên nhạc cung kính cúng dường nói rằng: Này thiện nam tử, lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đôi thân, ánh sáng của lửa này chiếu đến cung điện, đồ trang nghiêm và thể nữ của chúng tôi. Làm cho chúng tôi chẳng thọ dục lạc, chẳng cầu dục lạc, thân tâm nhu nhuyễn.

Giảng:

Hóa Lạc Thiên Tử tức là chỗ cung trời Lạc Biến Hóa, các vị này chuyên môn biến hóa những vật mà các vị thích thú để hưởng cái vui của ngũ dục. Khi lửa của Thắng Nhiệt Bà La Môn ánh lên thì các vị này bỗng thấy chán tất cả dục lạc, thân tâm nhu nhuyễn hơn, muốn tu lên nữa.

Kinh:

Lại có mười ngàn Dạ Xoa Vương ỏ trên hư không cung kính cúng dường Bà La Môn này và Thiện Tài Đồng Tử mà nói rằng: Này thiện nam tử, lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, chúng tôi cùng quyến thuộc đều phát tâm từ mẫn đối với chúng sanh.

Giảng:

Dạ Xoa là một loài rất ác độc, thích bắt người để ăn thịt, vậy mà ánh sáng của ngọn lửa chiếu đến thì lập tức khởi tâm từ mẫn và muốn tu lên nữa. Còn loại A Tu La thì bỏ tâm kiêu mạn, phóng dật v.v… đại khái là như vậy. Sau khi Thiện Tài nghe xong thì vội sám hối ngay…

Kinh:

Tôi sanh lòng bất thiện đối với đức Thánh thiện tri thức, ngưỡng mong đức Thánh cho tôi sám hối. Thắng Nhiệt Bà La Môn vì Thiện Tài mà nói kệ rằng:

Nếu có chư Bồ Tát
Thuận theo thiện tri thức

Tất cả không nghi sợ An trụ tâm chẳng động, Nên biết người như vậy Tất được lợi quảng đại Ngồi dưới cây bổ đề Thành bậc vô thượng giác.

Bấy giờ Thiện Tài Đồng Tử liền leo lên núi đao tự nhảy vào dống lửa. Khi rơi xuống giữa chừng, Thiện Tài liền chứng được Bồ Tát thiện trụ tam muội. Vừa chạm ngọn lửa, Thiện Tài lại chứng được Bồ Tát tịch tịnh lạc thần thông tam muội.

Giảng:

Sau khi nghe ngài Thắng Nhiệt Bà La Môn dạy như thế rồi, Thiện Tài bèn leo lên núi đao nhảy xuống, liền chứng được tam muội thứ nhất là “Bồ Tát thiện trụ tam muội,” ở đây, kinh lại dùng chữ “thiện trụ,” tức là khi Thiện Tài rơi đến giữa hư không thì được thiện trụ tam muội. Tức là Thiện Tài giữ tâm rất khéo giữa sắc và không, có thể đi lại tự tại giữa sắc và không. Và khi thân rơi chạm ngọn lửa Thiện Tài lại chứng được “Bồ Tát tịch tịnh lạc thần thông tam muội.” Người thường nếu khởi tâm sai lệch, thì rơi đến lửa sẽ bị đốt, còn Thiện Tài không bị đau đớn gì, vì tâm của Thiện Tài đã giải thoát giữa sắc và không rồi. Đồng thời, Thiện Tài được “tịch tĩnh lạc thần thông tam muội,” tức là thấy an lạc tịch tĩnh, có nghĩa là Thiện Tài đã dứt bỏ thêm một mớ phiền não nữa, kiêu mạn, luyến ái về pháp v.v…, và có khả năng dễ dàng biến hóa.

Kinh:

Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh, núi đao và đống lửa này thân tôi vừa chạm đến thời được an ổn khoái lạc. Thắng Nhiệt Bà La Môn nói: Này thiện nam tử, ta chỉ được môn Bồ Tát vô tận luân giải thoát.

Giảng:

Cũng thế, vẫn là tam muội, trong tâm thức vị này vẫn xoay như cái bánh xe vô tận, chuyển từ tam muội này sang tam muội khác, vẫn là hình ảnh bánh xe.

Kinh:

Này thiện nam tử, phương Nam đây có một thành tên là Sư Tử Phấn Tân, trong thành ấy có một đồng nữ tên là Từ Hạnh. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.

Giảng:

Thiện Tài đến thành gọi là “SưTử Phấn Tấn,” trong thành ấy có một vị đồng nữ tên Từ Hạnh, quí vị vẫn thây rằng, tất cả cũng vẫn là Bát Nhã và Đại Bi, vẫn đi sâu vào tàng thức sơ năng biến, vì sao, vì đến thành Sư Tử Phấn Tấn, tượng trưng cho định và huệ (sư tử tiến lui an ổn), trong thành có dồng nữ tên Từ Hạnh, tượng trưng cho Đại Bi. Và nơi đó lại hiện lên những trang nghiêm cảnh giới. Cảnh giới thì rất nhiều danh tự và nhiều sự hiển bày, nhưng bao giờ cũng vậy, muốn vào sâu trong tàng thức, chỉ có một cách là giữ tâm Bát Nhã Đại Bi vô sở cầu hạnh, càng vào sâu bao nhiêu thì cảnh giới càng trang nghiêm bấy nhiêu, từ phổ trang nghiêm đến diệu trang nghiêm. Mỗi vị thiện tri thức đều phô bày hạnh nguyện và thần lực riêng của mình.

Kinh:

Lúc đó Thiện Tài Đồng Tử đảnh lễ chân Thắng Nhiệt Bà La Môn, hữu nhiễu vô lượng vòng từ tạ mà đi. Thiện Tài đôì với thiện tri thức sanh lòng rât tôn trọng, sanh trí hiểu quảng đại thanh tịnh, thường nhớ đại thừa, chuyên cầu Phật trí…

Giảng:

Lúc nào cũng phải nhớ đến đại thừa và cầu Phật đạo, tức là lúc nào cũng nhớ tâm Bồ Đề của mình.

Kinh:

Nguyện thấy chư Phật, quán pháp cảnh giới. Trí vô ngại thường hiện tiền. Quyết định biết rõ thật tế của các pháp, thường trụ tế, tất cả tam thế những sát na tế, như hư không tế, vô nhị tế, tât cả pháp vô phân biệt tế, tất cả nghĩa vô chướng ngại tế, tất cả kiếp sô thất hoại tế, tâ’t cả Như Lai vô tế chi tế. Với tất cả Phật tâm vô sai biệt. Phá những lưới tưởng. Lìa những châ’p trước. Chẳng lấy chúng hội đạo tràng của chư Phật, cũng chẳng lấy cõi nước thanh tịnh của chư Phật. Biết các chúng sanh đều không có ngã. Biết tất cả tiếng thảy đều như vang. Biết tất cả sắc thảy đều như bóng…

Giảng:

Ở đây, ta nên để ý đến chữ “tế,” đôi khi kinh nói như nước chảy mây trôi, dồn dập như thác lũ, nên nhiều khi ta đọc kinh cảm thây chóng mặt, ngơ ngác hoang mang. Thì đây, xin đi lại từng câu một… trí vô ngại thường hiện tiền. Quyết định biết rõ thật tế của cấc pháp, thường trụ tế…, vô nhị tế, tất cả pháp vô phân biệt tế… Chữ “tế” ở đây, thì phải dẫn thí dụ mới hiểu được. Giáo lý chư Phật là một giáo lý bình đẳng bất nhị, không có tế, dụ như phàm phu chúng ta luôn phân biệt như pháp này là thiện, pháp kia là ác, giữa hai pháp thì có khoảng cách. Trong đạo Phật dạy rằng, tất cả cái đó đều “bất nhị”, khoảng cách chính là do thức tâm của ông phân biệt tưởng tượng ra thôi, vì các pháp đều là như như, không có tế. Một thí dụ khác về ý niệm thời gian, chúng ta tưởng là có cái “Sát Na,” từ sát na này đến một sát na tiếp có một khoảng cách, vì vậy nên thời gian được dệt lên bằng những sát na ấy, nhưng chính khoảng cách giữa hai sát na ấy không có, nó là như như. Ngay cả đến chư Phật cũng vậy, “vô chướng ngại tế,” giữa cái chướng ngại và không chướng ngại có một khoảng cách, nhưng thật ra chỉ do tâm tưởng của chúng sanh, mà nếu tâm đến chỗ như như thì tất cả những “tế” ấy đều được tiêu dung, và sẽ thấy rằng pháp của chư Phật là bình đẳng vô nhị. Tế nghĩa thực của nó là khoảng cách, cũng là chữ vi tế, một khoảng cách rất nhỏ, rất… vi tế. Đó là cái khoảng cách giữa hai pháp. Một thí dụ khác như chúng ta khởi tâm phân biệt giữa một người tốt và một người xâu, rồi khởi tâm Ưa thích người tốt này mà ghét người xấu, có nghĩa là tâm ta có một khoảng cách, cho rằng người này tốt, người kia xấu, nhưng chính thực không có pháp nào có cả, chĩ do tâm ta vọng tưởng mà thôi, vì tất cả đều do diệu tâm khởi lên cả. Đoạn kinh này muốn dạy chúng ta cái pháp “bất nhị,” tất cả các pháp đều không có ngã, đều như tiếng vang, đều như bóng v.v… Nên tất cả sự vật đều là ảnh tượng, nghĩ lâu thì thấy rất đúng. Tế là do cái tưởng phân biệt mà ra.



KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám



THU BẢY ĐẠI VỀ TÁNH NHƯ LAI TẠNG



Ông A-nan bạch Phật : "Thưa Thế-tôn, đức Như-lai thường nói về nhân duyên hòa-hợp rằng: Tất-cả các thứ biến-hóa trong thế-gian đều nhân bốn món "Đại" hòa-hợp mà phát ra. Làm sao đức Như-lai lại bác-bỏ cả hai nghĩa nhân-duyên và tự-nhiên. Nay tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật rủ lòng thương-xót chỉ-bày cho chúng-sinh nghĩa rốt-ráo của trung-đạo, không còn các đều hý-luận."


Khi bấy giờ, đức Thế-tôn bảo ông A-nan rằng : "Trước đây ông nhàm-chán các pháp tiểu-thừa Thanh-Văn, Duyên-giác, phát tâm tha-thiết cầu đạo vô-thượng Bồ-đề, nên tôi lúc nầy chỉ-bày cho ông đệ-nhất-nghĩa-đế, làm sao ông lại còn đem những nhân-duyên vọng-tưởng hý-luận thế-gian mà tự ràng-buộc mình? Ông tuy nghe được nhiều pháp, nhưng cũng như người nói tên vị thuốc, mà đến khi thuốc thật ở trước mắt, thì lại không phân-biệt được. Như-lai gọi là rất đáng thương-xót. Nay ông hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ vì ông phân-tách chỉ-bày và cũng để cho những người tu đại-thừa sau nầy thông-suốt được thật-tướng."

Ông A-nan yên-lặng kính vâng thánh-chỉ của Phật.

Phật dạy : "A-nan, như ông đã nói: Bốn món "Đại" hòa-hợp phát ra các thứ biến-hóa trong thế-gian. A-nan, nếu tính các món đại kia không phải hòa-hợp, thì không thể lẫn-lộn với các đại khác, cũng như hư-không không thể hòa-hợp được với các sắc-tướng. Nếu tính của các đại là hòa-hợp, thì cũng đồng như các thứ biến-hóa, thủy chung thành nhau, sinh diệt nối nhau, sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, sinh sinh diệt diệt, như vòng lửa quay tròn chưa hề dừng nghỉ. A-nan, như nước thành giá, giá lại thành nước.


Ông hãy xét cái tính của địa-đại, to thì làm đất liền, nhỏ thì làm vi-trần, cho đến lân-hư-trần, do chẻ chất cực-vi, là sắc-tướng nhỏ tột, ra 7 phần mà thành. Nếu chẻ lân-hư-trần nữa, thì thật là tính hư-không.

A-nan, nếu cái lân-hư-trần đó, chẻ ra thành được hư-không, thì biết hư-không cũng sinh ra được sắc-tướng. Nay ông hỏi rằng do hòa-hợp mà sinh ra các tướng biến-hóa trong thế-gian, thì ông hãy xét một cái lân-hư-trần, phải dùng bao nhiêu hư-không hợp lại mới có, không thể lân-hư-trần hợp lại thành lân-hư-trần. Lại lân-hư-trần đã chẻ được thành hư-không, thì phải dùng bao nhiêu sắc-tướng hợp lại, mới thành cả hư-không. Nhưng nếu sắc-tướng hợp lại, thì hợp sắc-tướng lại, không thể thành được hư-không; còn nếu hư-không hợp lại, thì hợp hư-không lại, không thể thành được sắc-tướng; sắc-tướng còn có thể chẻ được, chứ hư-không thì làm sao mà hợp được?

Ông vốn không biết trong Như-lai-tạng, tính sắc là chân-không, tính không là chân-sắc, bản-nhiên thanh-tịnh, cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng với lượng hay-biết, theo nghiệp mà phát-hiện; thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.


"A-nan, hỏa-đại không có tự-thể, gửi nơi các duyên mà phát-hiện. Ông hãy xem các nhà, chưa ăn ở trong thành, khi muốn nhóm bếp, thì tay cầm kính hiển-vi, đưa trước ánh sáng mặt trời mà lấy lửa.

A-nan, phàm gọi là hòa-hợp, thì như tôi cùng ông và 1.250 vị tỷ-khưu, hiện nay, hợp-thành một chúng; tuy chúng chỉ có một, song gạn-xét về căn-bản, thì mỗi người đều có thân, đều có danh-tự họ-hàng của mình, như ông Xá-lỵ-phất, thì thuộc dòng Bà-la-môn, ông Ưu-lâu-tần-loa, thì thuộc dòng Ca-diếp-ba, cho đến ông A-nan, thì thuộc dòng họ Cù-đàm.

A-nan, nếu lửa đó nhân hòa-hợp mà có, thi khi người kia cầm kính lấy lửa nơi ánh sáng mặt trời, lửa đó từ trong kính mà ra, do bùi-nhùi mà có hay từ mặt trời mà đến?

A-nan, nếu từ mặt trời mà đến, thì lửa ấy đã đốt được bùi-nhùi trong tay của ông, những rừng cây mà ánh sáng mặt trời đi qua, lẽ ra đều bị đốt cả. Nếu từ trong kính mà ra, thì lửa ấy đã có thể từ trong kính ra đốt cháy bùi-nhùi, làm sao cái kính lại không chảy; cho đến cả cái tay ông cầm kính còn không thấy nóng, thì làm sao kính lại chảy được. Nếu do bùi-nhùi sinh ra, thì cần gì ánh sáng mặt trời và kính tiếp-đối với nhau, rồi sau lửa mới sinh ra. Ông hãy xét cho kỹ, kính do tay cầm, mặt trời thì đi trên trời, còn bùi-nhùi thì từ đất sinh ra, vậy lửa từ phương nào đi đến chỗ đó. Mặt trời và kính xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ lửa kia, không do đâu mà tự có.

Ông còn không biết trong Như-lai-tạng, tính hỏa là chân-không, tính không là chân-hỏa, bản-nhiên thanh-tịnh cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng với lượng hay-biết.

A-nan, ông nên biết rằng người đời cầm kính một chỗ, thì một chỗ có lửa sinh ra, khắp pháp-giới đều cầm kính, thì khắp pháp-giới bốc lửa. Lửa bốc khắp thế-gian, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện. Thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.


"A-nan, tính nước không nhất-định, khi chảy, khi đứng không chừng. Như trong thành Thất-la-phiệt, các ông tiên Ca-tỳ-la, Chước-ca-la và các nhà đại-huyễn-thuật Bát-đầu-ma, Ha-tát-đa, vân vân... muốn cầu tinh Thái-âm để hòa với các thuốc huyễn-thuật, thì các ông ấy, trong lúc sáng trăng trong, tay cầm hạt châu Phương-chư, hứng nước trong ánh mặt trăng. Vậy, nước ấy từ trong hạt châu mà ra, do hư-không mà có hay từ mặt trăng mà đến?

A-nan, nếu từ mặt trăng mà đến, thì ở phương xa còn có thể làm cho hạt châu chảy ra nước, những rừng cây ánh sáng mặt trăng đi qua, lẽ ra đều phải phun nước; mà nếu phun nước, thì sao lại phải đợi có hạt châu Phương-như mới chảy nước được? Còn nếu không phun nước, thì rõ-ràng nước đó, không phải từ mặt trăng mà xuống. Nếu từ hạt châu mà ra, thì trong hạt châu ấy, thường phải chảy nước, sao còn phải đợi ánh sáng mặt trăng trong lúc nửa đêm? Nếu do hư-không mà sinh, thì hư-không không bờ-bến, nước cũng không giới-hạn; vậy từ cõi người đến cõi trời, lẽ ra đều phải chìm-ngập cả, làm sao lại còn có thủy, lục, không, hành? Ông hãy xét cho kỹ, mặt trăng từ trên trời đi qua, hạt châu do tay cầm, còn cái mâm hứng nước thì do người sắp đặt; vậy nước kia từ phương nào mà chảy đến đó. Mặt trăng và hạt châu xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ nưóc kia, không do đâu mà tự có.

Ông còn biết trong Như-lai-tạng, tính thủy là chân-không, tính không là chân-thủy, bản-nhiên thanh-tịnh, cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng với lượng hay-biết. Một chỗ cầm hạt châu, thì một chỗ nước chảy ra, khắp pháp-giới cầm hạt châu, thì đầy pháp-giới nước sinh ra. Thủy-đại sinh khắp thế-gian, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện; thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.


"A-nan, phong-đại không có tự-thể, khi động, khi tĩnh không chừng. Ông thường sửa áo, vào trong đại-chúng, gấu áo Tăng-già-lê động đến người bên cạnh, thì có chút gió phảy qua mặt người kia. Gió đó lại là, do gấu áo ca-sa mà ra, do hư-không mà phát-khởi hay do mặt người kia mà sinh?

A-nan, nếu gió đó phát ra, do gấu áo ca-sa, thì ông đã mặc cả gió, lẽ ra cái áo phải bay tung ra, rời khỏi thân-thể của ông. Nay tôi thuyết-pháp, rũ áo ở trong Hội nầy, ông hãy xem cái áo tôi, gió ở chỗ nào? Không lẽ trong áo lại có chỗ chứa gió.

Nếu gió đó do hư-không sinh ra, thì khi cái áo ông không động, vì sao lại không phải gió? Và tính hư-không thường còn, thì gió lại phải thường sinh ra; khi không có gió, thì hư-không phải diệt mất. Gió diệt, thì có thể thấy được, còn hư-không diệt, thì hình-trạng thế nào? Lại nếu có sinh diệt, thì không gọi là hư-không và đã gọi là hư-không, thì làm sao lại phát ra gió được?

Nếu gió đó sinh ra do cái mặt người bị phảy, thì đã do mặt người đó sinh ra, lẽ ra phải phảy lại ông, sao tự ông sửa áo mà lại phảy ngược lại người kia?

Ông hãy xét cho kỹ: Sửa áo là do nơi ông, cái mặt thì thuộc về người kia, hư-không thì vắng-lặng, không thể lay-động, vậy gió từ phương nào giong-ruổi đến đó. Tính gió và tính hư-không cách xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ gió kia, không do đâu mà tự có.

Ông thật không biết trong Như-lai-tạng, tính phong là tính chân-không, tính không là chân-phong, bản-nhiên thanh-tịnh cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng với lượng hay-biết. A-nan, như một mình ông hơi động cái áo, thì có chút gió phát ra; khắp pháp-giới đều phảy, thì khắp cõi nước sinh ra phong-đại. Phong-đại đầy-nhẩy thế-gian, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện. Thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.


"A-nan, hư-không không có hình, nhân sắc-tướng mà tỏ-bày ra. Như trong thành Thất-la-phiệt, chỗ cách xa sông, những người dòng Sát-lỵ, dòng Bà-la-môn, dòng Tỳ-xá, dòng Thủ-đà hay dòng Phả-la-đọa, dòng Chiên-đà-la, vân vân... khi dựng nhà mới, thì đào giếng mà lấy nước, đào đất ra một thước, thì trong đó có một thước hư-không, như vậy cho đến đào đất ra một trượng, thì trong đó lại được một trượng hư-không, hư-không nông hay sâu, tùy đào đất ra nhiều hay ít. Hư-không đó là nhân đất mà ra, nhân đào mà có hay không nhân gì mà tự sinh?

A-nan, nếu hư-không đó không nhân gì mà tự sinh, thì khi trước khi chưa đào đất, sao nơi đó lại không trống-rỗng, mà chỉ thấy đất liền, hẳn không thông-suốt. Nếu nhân đất mà ra, thì khi đất ra, phải thấy hư-không vào; nếu đất ra trước, mà không thấy hư-không vào, thì làm sao hư-không lại nhân đất mà ra. Còn nếu không ra, không vào, thì hư-không với đất vốn không khác nhau; không khác tức là đồng, thì khi đất ra, sao hư-không lại không ra. Nếu nhân đào mà ra, thì phải đào ra hư-không, chứ không đào ra đất; nếu không nhân đào mà ra, thì tự đào ra đất, làm sao lại thấy hư-không?

Ông hãy xét cho kỹ, nhận-rõ xét-chín: Đào, thì do tay người, theo phương hướng mà vận-chuyển, đất, thì từ nơi đất liền mà dời đi, còn hư-không, như vậy, thì nhân đâu mà ra. Đào là thật sự, hư-không là rỗng trống, không có tác-dụng gì với nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ hư-không không do đâu mà tự ra. Nếu cái hư-không đó, bản-tính viên-mãn cùng khắp, không có lay-động, thì nên biết hiện-tiền hư-không và bốn thứ địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là năm đại, tính thật viên-dung, vốn là tính Như-lai-tạng, không sinh, không diệt.

A-nan, tâm ông mê-muội, không ngộ được bốn đại vốn là tính Như-lai-tạng, ông hãy xét cái hư-không là ra, là vào hay không ra, không vào. Ông toàn không biết trong Như-lai-tạng, tính giác là chân-không, tính không là chân-giác, bản-nhiên thanh-tịnh, cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng với lượng hay-biết. A-nan, như một giếng trống không, thì hư-không sinh trong một giếng; hư-không thập phương, thì cũng như vậy. Không-đại cùng khắp mười phương, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện; thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.


"A-nan, kiến-đại có giác-quan mà không phân-biệt, nhân các thứ sắc, không mà có. Như hiện nay ông ở trong rừng Kỳ-đà, sớm mai thì sáng, ban đêm thì tối, đến lúc nửa đêm, trăng tròn thì sáng, vắng trăng thì tối; những tướng sáng, tối ấy do cái thấy phân-tách. Cái thấy đó, lại là đồng một thể với các tướng sáng, tối và cả hư-không, hay không đồng một thể. Hoặc cũng đồng, cũng không phải đồng, hoặc cũng khác, cũng không phải khác?

A-nan, nếu cái thấy đó, cùng với sáng, tối và hư-không vốn là một thể, thì cái sáng, cái tối tiêu-diệt lẫn nhau, khi tối, thì không sáng, khi sáng thì không tối; nếu như cái thấy cùng một thể với cái tối, thì khi sáng, cái thấy phải tiêu mất; nếu cùng một thể với cái sáng, thì khi tối, cái thấy phải diệt rồi, mà đã diệt, thì làm sao còn thấy được sáng, thấy được tối. Còn như sáng và tối khác nhau, còn cái thấy thì không sinh không diệt, thì làm sao lại thành đồng một thể được?

Nếu cái thấy đó không phải đồng một thể với cái tối và cái sáng, thì ngoài cái sáng, cái tối và hư-không ra, ông hãy phân-tách cái thấy thành hình-tướng gì; rời cái sáng, cái tối và hư-không, cái thấy đó cũng đồng như lông rùa sừng thỏ; nếu tách hẳn ba thứ sáng, tối và hư-không, thì do đâu mà thành-lập được cái thấy?

Sáng và tối trái-ngược lẫn nhau, làm sao hoặc cũng là đồng; rời ba thứ sáng, tối và hư-không, cái thấy vốn không còn gì, làm sao hoặc cũng là khác. Bên hư-không, bên cái thấy, vốn không có bờ-cõi, làm sao lại không phải đồng; thấy cái tối, thấy cái sáng, tính không dời-đổi, làm sao lại không phải khác?

Ông hãy xét cho kỹ, suy-xét chín-chắn, nhận cho cùng, xét cho rõ, sáng là do mặt trời, tối là do đêm không trăng, thông-suốt thuộc về hư-không, ngăn-bịt thuộc về đất liền còn cái thấy, như vậy nhân đâu mà ra. Cái thấy có giác-quan, hư-không thì không hay-biết, không phải hòa, không phải hợp; không lẽ cái thấy, không do đâu mà tự phát ra. Còn như tất-cả các sự thấy, nghe, hay, biết, bản-tính viên-mãn cùng khắp, vốn không lay-động, thì nên biết kiến-đại cùng với hư-không không bờ-bến, không lay-động và bốn món đại : địa, thủy, hỏa, phong, có lay-động, đều gọi là sáu đại, tính thật là viên-dung, vốn là tính Như-lai-tạng, không sinh, không diệt.

A-nan, tính ông chìm-đắm, không ngộ được những sự thấy, nghe, hay, biết của ông vốn là tính Như-lai-tạng; ông hãy xét những thấy, nghe, hay, biết, đó là sinh hay diệt, là đồng hay là khác, là không phải sinh, không phải diệt, hay không phải đồng, không phải khác. Ông chưa từng biết trong Như-lai-tạng, cái thấy nơi tâm-tính là cái tính-minh của bản-giác; cái tính-minh của bản-giác biểu-lộ ra nơi cái thấy, bản-nhiên thanh-tịnh cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh đáp-ứng với lượng hay-biết.

Như nơi nhãn-căn, cái thấy cùng khắp pháp-giới, thì cái biết nghe, biết ngửi, biết nếm, biết xúc, biết các pháp, công-năng nhiệm-mầu sáng-suốt cũng cùng khắp pháp-giới, đầy-đủ thập phương hư-không, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện. Thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những phân-biệt so-đo của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.


"A-nan, thức-đại không có nguồn-gốc, nhân nơi sáu thứ căn, trần giả-dối phát ra. Nay ông hãy xem khắp thánh-chúng trong Hội này; ông dùng con mắt lướt qua, mắt ông trông khắp, chỉ như bóng trong gương, không phân-tách riêng-biệt. Cái thức ông, trong ấy theo thứ lớp chỉ ra đây là ông Văn-thù, đây là ông Phú-lâu-na, đây là ông Mục-kiền-liên, đây là ông Tu-bồ-đề, đây là ông Xá-lỵ-phất. Cái thức nhận-biết như thế sinh ra do cái thấy, do các tướng, do hư-không, hay không nhân gì bỗng-nhiên sinh ra?

A-nan, nếu cái thức của ông sinh ra do cái thấy; mà như không có các tướng sáng, tối và sắc, không, thì không còn cái thấy của ông; cái thấy còn không có, do đâu mà phát ra được cái thức? Nếu cái thức của ông sinh ra do các tướng, chứ không do cái thấy, thì đã không thấy sáng, cũng không thấy tối; sáng và tối đã không thấy, thì cũng không có sắc, không; các tướng kia còn không có, thì cái thức do đâu mà phát ra? Nếu cái thức sinh ra do hư-không, ngoài các tướng và ngoài cái thấy, thì ngoài cái thấy không có cảm-giác, tự-nhiên không thể biết được cái sáng, cái tối, các sắc-tướng và hư-không; ngoài các tướng, thì không có các duyên của tiền-trần, sự thấy, nghe, hay, biết, không do đâu mà thành-lập được. Ngoài hai thứ căn trần ra, nếu là không, thì cũng đồng như không có, còn nếu là có, thì cũng không đồng như các vật, dầu cho phát ra cái thức của ông, thì đem ra mà phân-biệt cái gì?

Nếu cái thức không nhân gì bỗng-nhiên mà phát ra, làm sao lại không phân-biệt mặt trăng sáng, trong lúc mặt trời đứng bóng?

Ông hãy xét kỹ, nhận-xét chín-chắn, cái thấy gá vào mắt của ông, các tướng thì trả về cho tiền-cảnh, cái gì có thể hình-trạng được, thì mới thành có, cái gì không có tướng, thì thành ra không; còn cái thức như vậy, nhân đâu mà ra?

Cái thức thì lay-động, cái thấy thì đứng-lặng, không phải hòa, không phải hợp, cho đến các sự nghe, ngửi, hay, biết, cũng đều như vậy. Không lẽ cái thức nhận-biết không do đâu mà phát ra.

Nếu cái thức đó không do đâu, thì nên biết cái thức-đại nhận-biết và cái căn-đại thấy, nghe, hay, biết, vẳng-lặng cùng khắp, bản-tính không nương vào đâu mà có; hai món đại ấy cùng với hư-không, địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là bảy đại, tính thật là viên-dung, vốn là tính Như-lai-tạng, không sinh, không diệt.

A-nan, tâm ông nông-nổi, không ngộ được cái nhận-biết các điều thấy-nghe, vốn là tính Như-lai-tạng. Ông hãy xét sáu cái thức là đồng hay là khác, là không hay là có, là không phải đồng, không phải khác, hay không phải không, không phải có. Ông vốn không biết trong Như-lai-tạng, cái thức nơi tâm-tính là cái tác-dụng nhận-biết của tính-minh bản-giác, và tính-minh bản-giác thật là chân-tính của thức-đại; bản-giác diệu-minh yên-lặng cùng khắp pháp-giới, ẩn-hiện thập-phương hư-không, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện. Thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên, và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật".



GIÁC NGỘ TÁNH NHƯ LAI TẠNG

Đem thâm-tâm phụng-sự cõi nước như vi-trần
Làm được như vậy mới gọi là báo ơn Phật


Khi bấy giờ, ông A-nan và cả đại-chúng nhờ Phật nhiệm-mầu chỉ-bày, thân tâm vắng-lặng, không điều ngăn-ngại. Cả trong đại-chúng đó, mỗi người tự biết tâm-tính cùng khắp mười phương, trông mười phương hư-không như xem cái vật, cái lá nắm trong bàn tay; tất-cả những vật có ra trong thế-gian, đều tức là tâm-tính Bồ-đề nhiệm-mầu sáng-suốt. Tâm-tính viên-mãn cùng khắp, trùm-chứa mười phương, trở lại xem cái thân cha mẹ sinh ra cũng như trong mười phương hư-không kia, thổi một vi-trần, dầu còn, dầu mất, chẳng khác biển lớn yên-lặng, nổi lên một bọt nước, dầu sinh hay diệt, cũng không dính-dáng gì. Rõ vậy tự biết-nhận được tâm-tính bản-lai thường-trụ không diệt, lễ Phật chấp tay, được cái chưa từng có, ở trước đức Như-lai, nói bài kệ tán-thán Phật: 


"Đức Thế-tôn bất-động,
Tổng-trì tính diệu-trạm,
Nói pháp Thủ-lăng-nghiêm,
Thật hy-hữu trong đời,
Khiến chúng tôi tiêu-diệt
Vọng-tưởng trong ức-kiếp,
Không trải qua tăng-kỳ
Mà chứng được pháp-thân.
Nguyện nay đã chứng-quả
Thành được vị Bảo-vương
Lại hóa-độ như thế
Cho cả hằng-sa chúng.
Đem thâm-tâm phụng-sự
Cõi nước như vi-trần,
Làm được như vậy mới
Gọi là báo ơn Phật.
Cúi xin đức Thế-tôn
Chứng-minh cho chúng tôi,
Thệ-nguyện quyết vào trước
Trong ngũ-trược ác-thế;
Nếu còn một chúng-sinh
Chưa thành được Phật-đạo,
Quyết không ở nơi đó
Chịu chứng-quả Niết-Bàn.
Kính thưa đức Đại-Hùng,
Đại-lực, Đại-Từ-Bi,
Trông-mong lại xét-trừ
Những điều lầm nhỏ-nhiệm,
Cho chúng tôi sớm lên
Đến bậc Vô-Thượng-Giác,
Nơi thập phương thế-giới
Ngồi đạo-trường thuyết-pháp.
Tính hư-không bất-diệt
Dầu có thể tiêu-mất,


Tâm-nguyện chắc-chắn nầy,
Quyết không hề lay-động."


( Diệu trạm tổng trì bất động tôn,

Thủ Lăng Nghiêm Vương thế hy hữu.

Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng.

Bất lịch tăng kỳ hoạch Pháp thân.

Nguyện kim đắc quả thành Bảo Vương

Hoàn độ như thị Hằng sa chúng.

Tương thử thâm tâm phụng trần sát,

Thị tắc danh vi báo Phật ân.

Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh,

Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập.

Như nhất chúng sanh vị thành Phật,

Chung bất ư thử thủ Nê hoàn.

Ðại hùng đại lực đại từ bi,

Hy cánh thẩm trừ vi tế hoặc.

Linh ngã tảo đăng Vô Thượng Giác,

Ư thập phương giới tọa đạo tràng,

 

Thuấn-nhã-đa tánh khả tiêu vong,

Thước-ca-ra tâm vô động chuyển.)



Nam-mô thường-trụ thập-phương Phật.

 

Nam-mô thường-trụ thập-phương Pháp.

 

Nam-mô thường-trụ thập-phương Tăng.

 

Nam-mô Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

 

Nam-mô Phật-đảnh Thủ-Lăng-Nghiêm.

 

Nam-mô Quán-Thế-Âm Bồ-tát.

 

Nam-mô Kim-Cang-Tạng Bồ-tát.



10.- TỪ HẠNH ĐỒNG NỮ


 Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết  “MÔN BÁT NHÃ BA LA MẬT PHỔ TRANG NGHIÊM”.



Thiện Tài đối với thiện tri thức sanh lòng rất tôn trọng. Sanh trí hiểu quảng đại thanh tịnh. Thường nhớ Ðại thừa chuyên cầu Phật trí. Nguyện thấy chư Phật, quán pháp cảnh giới. Trí vô ngại thường hiện tiền. Quyết định biết rõ thiệt tế của các pháp, thường trụ tế, tất cả tam thế những sát na tế, như hư không tế, vô nhị tế, tất cả pháp vô phân biệt tế, tất cả nghĩa vô chướng ngại tế, tất cả kiếp vô thất hoại tế, tất cả Như Lai vô tế chi tế. Với tất cả Phật tâm vô phân biệt. Phá những lưới tưởng. Lìa những chấp trước. Chẳng lấy chúng hội đạo tràng của chư Phật, cũng chẳng lấy cõi nước thanh tịnh của chư Phật. Biết các chúng sanh đều không có ngã. Biết tất cả tiếng thảy đều như vang. Biết tất cả sắc thảy đều như bóng.

Thiện Tài đi lần về phương Nam đến thành Sư Tử Phấn Tấn tìm TỪ HẠNH ĐỒNG NỮ. Nghe nói đồng nữ là con gái của Vua Sư Tử Tràng, năm trăm đồng nữ hầu hạ, ở điện Tỳ Lô giá Na Tạng, ngồi trên tòa Long Thắng Chiên Ðàn Túc Kim Tiền Võng Thiên Y mà thuyết diệu pháp.

Thiện Tài đến cửa Vương cung, thấy vô lượng đại chúng đi vào cung bèn hỏi : Các Ngài hôm nay vào Vương cung có việc gì thế ?

Ðại chúng đáp : Chúng tôi muốn đến nghe Từ Hạnh đồng nữ thuyết diệu pháp.

Nghe xong, Thiện Tài cũng đi vào Vương cung, thấy điện Tỳ Lô Giá Na Tạng, đất bằng pha lê, cột bằng lưu ly, vách bằng kim cang, tường rào bằng vàng diêm phù đàn, trăm ngàn ánh sáng làm cửa nẻo, trang nghiêm với vô số báu, ma ni. Gương bửu tạng ma ni trang nghiêm giáp vòng. Dùng ma ni bửu tối thượng ở thế gian để trang sức. Vô số lưới báu giăng che phía trên. Trăm ngàn linh vàng vang tiếng vi diệu.

Từ Hạnh đồng nữ da màu huỳnh kim, mắt tím biếc, tóc xanh biếc, dùng phạm âm thanh để thuyết pháp.

Thiện Tài đồng tử thấy xong, đảnh lễ chân Từ Hạnh đồng nữ hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh tu Bồ Tát đạo ? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo. Xin vì tôi mà giảng giải.

Ðồng nữ bão Thiện Tài rằng :

Này thiện nam tử ! Người nên quát sát cung điện trang nghiêm của ta đây.

Thiện Tài vâng lời đảnh lễ, quán sát khắp cung điện. Thấy trong mỗi vách, mỗi cột, mỗi gương, mỗi tướng, mỗi hình, mỗi ma ni bửu, mỗi đồ trang nghiêm, mỗi linh, mỗi cây báu, mỗi hình tượng báu, mỗi bửu anh lạc đều hiện pháp giới tất cả Như Lai từ sơ phát tâm tu hạnh Bồ Tát thành mãn đại nguyện, đầy đủ công đức, thành Ðẳng Chánh Giác, chuyển diệu Pháp luân, nhẫn đến thị hiện nhập Niết bàn. Tất cả ảnh tượng như vậy đều hiện rõ cả. Như trong nước thanh tịnh đứng lặng, thấy khắp hư không nhựt nguyệt tinh tú. Ðây là do sức thiện căn trong đời quá khứ của Từ Hạnh đồng nữ.

Thiện Tài ghi nhớ những tướng chư Phật đã được thấy, đứng chắp tay chiêm ngưỡng đồng nữ.

Ðồng nữ bảo Thiện Tài rằng :

Này thiện nam tử ! đây là môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm. Ta ở chỗ ba mươi sáu hằng hà sa chư Phật cầu được pháp này. Chư Phật Như Lai đều dùng môn khác nhau làm cho ta nhập môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm này. Pháp của một đức Phật diễn nói, chư Phật khác chẳng nói lập lại.

Thiện Tài thưa :

Bạch đức Thánh ! Cảnh giới của môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm này như thế nào ?

Từ Hạnh nói :

Này thiện nam tử ! Ta nhập môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm này, tùy thuận xu hướng tư duy quán sát ghi nhớ phân biệt liền được phổ môn đà la ni, trăm vạn vô số môn đà la ni đều hiện tiền.

Như là : Môn Phật sát đà la ni, môn Phật đà la ni, môn pháp đà la ni, môn chúng sanh đà la ni, môn quá khứ đà la ni, môn vị lai đà la ni, môn hiện tại đà la ni, môn thường trụ tế đà la ni, môn phước đức đà la ni, môn phước đức trợ đạo cụ đà la ni, môn trí huệ đà la ni, môn tri huệ trợ đạo cụ đà la ni, môn chư nguyện đà la ni, môn phân biệt chư nguyện đà la ni, môn tập chư hạnh đà la ni, môn thanh tịnh hạnh đà la ni, môn viên mãn hạnh đà la ni, môn nghiệp đà la ni, môn nghiệp bất thất hoại đà la ni, môn nghiệp lưu chú đà la ni, môn nghiệp sở tác đà la ni, môn xả ly ác nghiệp đà la ni, môn tu tập chánh nghiệp đà la ni, môn nghiệp tự tại đà la ni, môn thiện hạnh đà la ni, môn tam muội đà la ni, môn tùy thuận tam muội đà la ni, môn quán sát tam muội đà la ni, môn tam muội cảnh giới đà la ni, môn tùng tam muội khởi đà la ni, môn thần thông đà la ni, môn tâm hải đà la ni, môn chủng chủng tâm đà la ni, môn trực tâm đà la ni, môn chiếu tâm trù lâm đà la ni, môn điều tâm thanh tịnh đà la ni, môn đà la ni biết chúng sanh từ đâu sanh, môn đà la ni biết chúng sanh phiền não hiện hành, môn đà la ni biết chúng sanh tập khí, môn đà la ni biết phiền não phương tiện, môn đà la ni biết chúng sanh giải, môn đà la ni biết chúng sanh hạnh, môn đà la ni biết chúng sanh hạnh chẳng đồng, môn đà la ni biết chúng sanh tánh, môn đà la ni biết chúng sanh dục, môn đà la ni biết chúng sanh tưởng, môn đà la ni thấy khắp mười phương, môn thuyết pháp đà la ni, môn đại bi đà la ni, môn đại từ đà la ni, môn tịch tịnh đà la ni, môn ngôn ngữ đạo đà la ni, môn phương tiện phi phương tiện đà la ni, môn tùy thuận đà la ni, môn sai biệt đà la ni, môn phổ nhập đà la ni, môn vô ngại tế đà la ni, môn phổ biến đà la ni, môn Phật pháp đà la ni, môn Bồ Tát pháp đà la ni, môn Thanh văn pháp đà la ni, môn Ðộc Giác pháp đà la ni, môn thế gian pháp đà la ni, môn thế giới thành đà la ni, môn thế giới hoại đà la ni, môn thế giới trụ đà la ni, môn tịnh giới đà la ni, môn cấu thế giới đà la ni, môn đà la ni nơi cấu thế giới hiện tịnh, môn đà la ni nơi tịnh thế giới hiện tịnh, môn thuần cấu thế giới đà la ni, môn thần tịnh thế giới đà la ni, môn bất bình thản thế giới đà la ni, môn bình thản thế giới đà la ni, môn phúc thế giới đà la ni, môn nhơn đà la võng thế giới đà la ni, môn thế giới chuyển đà la ni, môn đà la ni biết nương nơi tưởng mà an trụ, môn đà la ni tế vào thô, môn đà la ni thô vào tế, môn thấy chư Phật đà la ni, môn phân biệt thân Phật đà la ni, môn Phật quang minh trang nghiêm võng đà la ni, môn Phật viên mãn âm đà la ni, môn Phật pháp luân đà la ni, môn thành tựu Phật pháp luân đà la ni, môn sai biệt Phật pháp luân đà la ni, môn vô sai biệt Phật pháp luân đà la ni, môn giải thích Phật luân đà la ni, môn chuyển Phật pháp luân đà la ni, môn năng tác Phật sự đà la ni, môn phân biệt Phật chúng hội đà la ni, môn nhập Phật chúng hội hải đà la ni, môn phổ chiếu Phật lực đà la ni, môn chư Phật tam muội đà la ni, môn chư Phật tam muội tự tại dụng đà la ni, môn chư Phật sở trụ đà la ni, môn chư Phật sở trì đà la ni, môn chư Phật biến hóa đà la ni, môn chư Phật tri chúng sanh tâm hành đà la ni, môn chư Phật thần thông biến hiện đà la ni, môn đà la ni ở Ðâu Suất Thiên cung nhẫn đến nhập Niết bàn, môn đà la ni lợi ích vô lượng chúng sanh, môn đà la ni nhập pháp thậm thâm, môn đà la ni nhập pháp vi diệu, môn Bồ đề tâm đà la ni, môn khởi Bồ đề tâm đà la ni, môn trợ Bồ đề tâm đà la ni, môn chư nguyện đà la ni, môn chư hạnh đà la ni, môn thần thông đà la ni, môn xuất ly đà la ni, môn tổng trì thanh tịnh đà la ni, môn trí luân thanh tịnh đà la ni, môn trí huệ thanh tịnh đà la ni, môn Bồ đề vô lượng đà la ni, môn tự tâm thanh tịnh đà la ni.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết “MÔN BÁT NHÃ BA LA MẬT PHỔ TRANG NGHIÊM”.

Còn như chư đại Bồ Tát tâm lượng quảng đại khắp cõi hư không nhập vào pháp giới phước đức thành mãn, an trụ pháp xuất thế, xa hạnh thế gian, trí nhãn thanh tịnh xem khắp pháp giới. Huệ tâm quảng đại như hư không. Thảy đều thấy rõ tất cả cảnh giới. Ðược bực vô ngại tạng đại quang minh. Khéo hay phân biệt tất cả pháp nghĩa. Làm công hạnh thế gian mà chẳng nhiễm thế pháp. Hay lợi ích thế gian chẳng bị thế gian làm hoại. Khắp làm y chỉ cho tất cả thế gian. Biết khắp tâm hành của tất cả thế gian, tùy sở nghi mà vì họ thuyết pháp. Trong tất cả thời gian hằng được tự tại.

Như thế thời ta làm sao biết được nói được hết công đức hạnh đó.

Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một nước tên là Tam Nhãn. Xứ đó có Tỳ Kheo tên là Thiện Kiến. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân của Từ Hạnh đồng nữ, hữu nhiễu vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.


Kinh:

Thiện Tài đi lần về phương Nam đến thành Sư Tử Phân Tấn tìm Từ Hạnh Đồng Nữ. Nghe nói đồng nữ là con gái của vua Sư Tử Tràng, năm trăm đồng nữ hầu hạ, ỗ điện Tỳ Lô Giá Na Tạng, ngồi trên tòa long-thắng- chiên-đàn-túc kim-tiền-võng thiên y mà thuyết diệu pháp.

Giảng:

Ở đây, kinh nói đến thành Sư Tử Phấn Tấn, vua tên là Sư Tử Tràng, người con gái tên là Từ Hạnh, tức là nghĩa đen ở ngoài thì thật có những vị này, nghĩa bóng là Thiện Tài đã đi sâu vào trong tàng thức sơ năng biến, đến chỗ SưTử Phấn Tân, tượng trưng cho định huệ, có người con gái tên Từ Hạnh, tượng trưng cho Đại Bi. VỊ này ngồi trên một tòa rất đẹp, thuyết diệu pháp càng ngày càng đi sâu vào tàng thức. Ta cần nhớ rằng, khi một hành giả càng đi sâu vào tàng thức để trở thành Bạch Tịnh Thức thì càng ngày càng thấy nhiều sự kỳ diệu.

Kinh:

Thiện Tài đến cửa vương cung thấy vô lượng đại chúng đi vào cung bèn hỏi: Các ngài hôm nay vào vương cung có việc gì thế? Đại chúng đáp: Chúng tôi muốn đến nghe Từ Hạnh Đồng Nữ thuyết diệu pháp. Nghe xong, Thiện Tài cũng đi vào vương cung, thây điện Tỳ Lô Giá Na Tạng, đất bằng pha lê, cất bằng luư ly, vách bằng kim cang, tường rào bằng vàng diêm phù đàn, trăm ngàn ánh sáng làm cửa nẻo, trang nghiêm với vô số báu ma ni. Gương bửu tạng ma ni trang nghiêm giáp vòng. Dùng ma ni bửu tối thượng  thế gian để trang sức. Vô sấ lưới báu giăng che phía trên. Trăm ngàn linh vàng vang tiếng vi diệu.

Giảng:

Ở đây, kinh tả đến y báo của Từ Hạnh Đồng Nữ. Sau đây là tả đến chánh báo của ngài.

Kinh:

Từ Hạnh Đồng Nữ da mầu huỳnh kim, mắt tim biếc, dùng phạm âm thanh để thuyết pháp.

Thiện Tài Đồng Tử thấy xong đảnh lễ chân Từ Hạnh Đồng Nữ hữu nhiễu vô số vòng, chấp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo. Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo. xin vì tôi mà giảng giải. Đổng nữ bảo Thiện Tài rằng: Này thiện nam tử, ngươi nên quán sát cung điện trang nghiêm của ta đây.

Giảng:

Vẫn là chữ trang nghiêm, mà cung điện trang nghiêm ở đây chính là tàng thức của ngài Từ Hạnh hóa hiện ra cả. Ý nói rằng, vị này nhập pháp giới đến một mức có thể hóa hiện ra những cảnh giới trang nghiêm như thế này.

Kinh:

Thiện Tài vâng lời đảnh lễ, quán sát khắp cung điện. Thấy trong mỗi vách, mỗi cột, mỗi gương, mỗi tướng, mỗi hình, mỗi ma ni bửu, mỗi đồ trang nghiêm, mỗi linh, mỗi cây báu, mỗi bửu anh lạc đều hiện pháp giới tất cả như lai từ sơ phát tâm tu hạnh Bồ Tát thành mãn đại nguyện, dầy đủ công đức, thành đẳng chánh giác, chuyển diệu pháp luân, nhẫn đến thị hiện nhập Niết Bàn. Tất cả ảnh tượng như vậy đều hiện rõ cả. Như trong nước thanh tịnh đứng lặng, thây khắp hư không nhựt nguyệt tinh tú. Đây là do sức thiện căn trong đời quá khứ của Từ Hạnh Đồng Nữ.

Giảng:

Tất cả y báo trong này như cột, tường, vách, ma ni bửu v.v… đều là những mặt gương vì cái nào cũng bằng kim cang trong như pha lê. Những vật này tượng trưng cho Bát Nhã, bát nhã như mặt gương chiếu soi, tất cả đại bi hiện lên rõ những cảnh giới của chư Phật tu hành là những hạnh đại bi của chư Phật, từ sơ phát tâm đến thành chánh giác. Tức là trong tâm đó như bóng nước thanh tịnh, hiện lên những cảnh giới đại bi về sự tu hành của chư Như Lai, sở dĩ hiện lên được những cảnh giới như vậy thường là do tâm “vô sở cầu hạnh” mà ra.

Kinh:

Thiện Tài ghi nhớ những tướng chư Phật đã được thấy, đứng chắp tay chiêm ngưỡng đồng nữ. Đồng nữ bảo Thiện Tài rằng: Này thiện nam tử, đây là môn Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm. Ta  chỗ ba mươi sáu hằng hà sa chư Phật cầu được pháp này. Chư Phật Như Lai đều dùng môn khác nhau làm cho ta nhập môn Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm này. Pháp của một đức Phật diễn nói, chư Phật khác chẳng nói lập lại.

Giảng:

Con đường đi sâu vào tàng thức chĩ có Bát Nhã và Đại Bi, từ tàng thức sơ năng biến còn một chút vọng, sáng đến Bạch Tịnh Thức thì toàn là chân cả. Vào Như Lai Tạng Xuât Triền tức là Diệu Tâm thì chỉ có Bát Nhã, Đại Bi và vô sở cầu hạnh. Người nào cũng phải tu như thế, nhưng mỗi người tu một hạnh và một khía cạnh riêng.

Kinh:

Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh, cảnh giới của môn Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm này như thế nào? Từ Hạnh nói: Này thiện nam tử, ta nhập môn Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm này, tùy thuận, xu hướng, tư duy, quán sát ghi nhớ phân biệt liền được phổ môn đà la ni, trăm vạn vô số môn đà la ni đều hiện tiền.

Giảng:

Ngài Từ Hạnh kể rằng, sau khi ngài tu tập môn Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm này thì trong tâm ngài nở ra vô số những diệu đức, diệu đức là những khả năng của tâm thức, tu lâu sẽ biến thành diệu lực. Nhưng ngài chưa đến chỗ của đức Quán Thế Âm là “vô tác diệu đức và vô tác diệu lực.” Đà la ni cũng có nghĩa là những khả năng của tâm thức, nhớ những ngôn ngữ, hay nhớ tất cả những lời kinh. Như môn Phật sát đà là ni, tức là có khả năng biết tất cả những cõi Phật, môn Phật hiệu đà la ni, khả năng biết tất cả những danh hiệu chư Phật, môn pháp đà là ni, biết tất cả các pháp, môn chúng sanh đà la ni, môn quá khứ đà la ni, môn vị lai đà la ni v.v… biết tất cả những quá khứ, vị lai. Nói cho dễ hiểu ngài đã đắc được những thần thông này. Môn nghiệp bất thất hoại đà la ni, môn nghiệp lưu trú đà la ni, môn nghiệp sở tác đà la ni V.V…. Môn nghiệp bất thất hoại đà la ni là có khả năng biết rõ nghiệp không thể nào mất được. Có được trí biết về nghiệp rất khó, vì nghiệp biến hiện luôn luôn, chỉ có chư Phật biết rõ mà thôi, còn vị này, chỉ biết được rằng nghiệp không mất được, vì nghiệp nó “lưu trú,” tức là vừa chảy vừa biến từ cái này qua cái khác, môn đà la ni biết chúng sanh tập khí, tức là biết những chúng sanh có tập khí gì, tham dục, sân v.v… môn đà la ni chư Phật thần thông biến hiện, biết rõ thần thông của chư Phật, môn đà la ni ở Đâu Xuất thiên cung nhẫn đến nhập niết bàn, tức là biết rõ thây chư Phật ở cung trời Đâu Xuất, thị hiện xuống trần gian lúc nào, rồi xuất thai như thế nào, xuất gia như thế nào, thành đạo thế nào, chuyển pháp luân thế nào, rồi nhập Niết Bàn như thế nào v.v… tất cả chĩ đều là thị hiện cả. Môn trí luân thanh tịnh đà la ni, tức là trí thanh tịnh xoay tròn như cái bánh xe vậy, mà bánh xe càng xoay bao nhiêu thì càng nhìn thấy rõ và rộng bấy nhiêu.

Hỏi: Theo ông nghĩ, vị nàỵ tu đến địa thứ mấỵ của thập địa Bồ Tát?

Đáp: Tôi cũng không thể quyết chắc, nhưng có lẽ vị này tu đến địa thứ mười chăng? Đó chỉ là ức đoán thôi, chưa chắc đã đúng.

Sự tu hành là vậy, là vào tàng thức ấy, khai triển tất cả các khả năng vô biên, cụ túc của nó.

Hôm nay, mới đi hết được mười vị thiện tri thức, có vị nào cần hỏi không, nếu không xin để kỳ sau sẽ giảng tiếp…

Hỏi: Thiện Tài là một vị trong kinh tả thân, ngữ, ý không lầm lỗi, ngài lại được ngài Văn Thù dạy rằng: “thờ thiện tri thức chớ có mỏi lười, phương tiện thiện xảo của thiện tri thức chớ có nghi hoặc,” trong kinh lại kể, tất cả các vị thiện tri thức Thiện Tài đến gặp đều do vị này giới thiệu đến vị khác, thì chắc chắn các vị thiện tri thức nầỵ đều là thực sự thiện tri thức cả, thì tại sao Thiện Tài lại khởi tâm nghi khi ngài đến gặp vị thiện tri thức Thắng Nhiệt?

Đáp: Người nào dù hoàn toàn đến đâu cũng còn lại một chút tì vết, đây là những tì vết rơi rớt cuối cùng của ngài Thiện Tài, nhất là thiện tri thức Thắng Nhiệt lại thị hiện làm một vị Bà La Môn nữa, cộng thêm phương tiện tu hành rất quái lạ, vì tất cả những duyên ấy làm cho Thiện Tài nở tâm nghi hoặc.

Vậy cảm ơn quí vị, xin để tiếp theo kỳ sau…



KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám


THẬP TRỤ

 

A-nan, thiện-nam-tử đó, dùng phương-tiện chân-chính phát được mười cái tâm ấy, tâm-tinh đã phát-huy, mười cái dụng ấy xen-lẫn với nhau, viên-thành một tâm; gọi là Phát-tâm-trụ.


Trong tâm phát ra sáng-suốt, như ngọc lưu-ly trong-sạch, ở trong hiện ra vàng-ròng; dùng cái diệu-tâm trước kia, sửa-sang thành chỗ nương-đứng; gọi là Trị-địa-trụ.


Tâm-địa biết khắp, đều được rõ-ràng, đi cùng mười phương, được không ngăn-ngại; gọi là Tu-hành-trụ.


Hạnh đồng với Phật, nhận khí-phần của Phật như thân trung-ấm tự cầu cha mẹ, âm-tín thầm-thông vào giống Như-lai; gọi là Sinh-quý-trụ.


Đã vào đạo-thai, chính mình nhờ được sự nuối-nấng của tính-giác, như cái thai đã thành, tướng người không thiếu; gọi là Phương-tiện-cụ-túc-trụ.


Hình-dáng như Phật, tâm-tướng cũng vậy; gọi là Chính-tâm-trụ.


Thân tâm hợp-thành, ngày càng tăng-trưởng; gọi là Bất-thối-trụ.


Linh-tướng mười thân, một thời đầy-đủ; gọi là Đồng-chân-trụ.


Hình đã thành, ra khỏi thai, chính mình làm Phật-tử; gọi là Pháp-vương-tử-trụ.


Nghi-biểu đã thành người lớn, như khi một quốc-vương, phân-công ủy-nhiệm cho thái-tử các việc nước, thì quốc-vương kia, lúc thái-tử trưởng-thành, bày ra lễ quán-đỉnh; gọi là Quán-đỉnh-trụ.

Comments

Popular posts from this blog