ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



3.- THIỆN TRỤ TỲ KHEO


 Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết  “PHÁP MÔN VÔ NGẠI GIẢI THOÁT MAU CHÓNG CÚNG DƯỜNG KHẮP CHƯ PHẬT THÀNH TỰU KHẮP CHÚNG SANH” này.


Lúc đó, Thiện tài đồng tử chuyên niệm lời dạy của thiện tri thức, chuyên niệm phổ nhãn pháp môn, chuyên niệm Phật thần lực, chuyên trì pháp cú vân, chuyên nhập pháp hải môn, chuyên gẫm pháp sai biệt, thậm nhập pháp xoay chuyển, vào khắp pháp hư không, trừ sạch pháp ế chương quán sát pháp bửu xứ.

Thiện tài đồng tử vừa tư duy suy gẫm đi lần qua phương Nam, đến bên đường Lăng Già, nơi tụ lạc Hải Ngạn, xem xét mười phương tìm cầu THIỆN TRỤ TỲ KHEO. Thấy Thiện Trụ Tỳ Kheo đi kinh hành qua lại ở trên hư không.

Có vô số chư thiên cung kính vây quanh rưới những thiên hoa, trổi thiên kỹ nhạc, tràng phan gấm lụa thảy đều nhiều vô số đầy khắp hư để cúng dường.

Chư đại Long Vương ở giữa hư không nổi bất tư nghì mây trầm thủy hương, chấn sấm, xẹt chớp, dùng để cúng dường.

Khẩn Na La Vương trổi những tiếng nhạc, đúng pháp ca ngợi, dùng đây để cúng dường.

Ma Hầu La Già Vương dùng bất tư nghì y phục rất vi tế trải giăng trần thiết, lòng rất hoan hỷ, để cúng dường.

A Tu La Vương nổi bất tư nghì mây ma ni bửu, vô lượng quang minh các thứ trang nghiêm đồng khắp hư không dùng để cúng dường.

Ca Lâu La Vương hiện hình đồng tử, có vô lượng thể nữ vây quanh, rốt ráo thành tựu tâm không sát hại, ở giữa hư không chắp tay cúng dường.

Bất tư nghì số các La Sát Vương, vô lượng La Sát vây quanh, thân hình cao lớn đáng kinh sợ, thấy Thiện Trụ Tỳ Kheo từ tâm tự tại, liền chắp tay khom mình chiêm ngưỡng cúng dường.

Bất tư nghì số các Dạ Xoa Vương, mỗi vị đều có chúng của mình vây quanh, bao vòng bốn phía cung kính thủ hộ.

Bất tư nghì số các Phạm Thiên Vương, ở giữa hư không, cúi mình chắp tay dùng pháp nhân gian tán dương ca ngợi.

Bất tư nghì số các Tịnh Cư Thiên, với cung điện ở giữa hư không, chắp tay cung kính phát hoằng thệ nguyện.

Thiện tài đồng tử thấy những sự trên đây, lòng hoan hỷ chắp tay kính lễ Thiện Trụ Tỳ Kheo rồi bạch rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào tu hành Phật pháp ? Thế nào tích tập Phật pháp ? Thế nào đầy đủ Phật pháp ? Thế nào huân tập Phật pháp ?Thế nào tăng trưởng Phật pháp ? Thế nào tổng nhiếp Phật pháp ? Thế nào cứu cánh Phật pháp ? Thế nào tịnh trị Phật ? thế nào thâm tịnh Phật pháp ?Thế nào thông đạt Phật pháp ?

Tôi nghe đức thánh hay khéo dạy bảo. Ngưỡng mong xót thương vì tôi mà tuyên nói Bồ Tát thế nào chẳng bỏ thấy Phật, thường ở chỗ Phật siêng năng tu tập ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ Phật pháp đều dùng trí huệ mà được minh chứng ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ đại nguyện có thể lợi ích khắp tất cả chúng sanh ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ chúng sanh trụ tất cả kiếp không lòng mỏi nhàm ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ Phật độ có thể nghiêm tịnh tất cả thế giới ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ Phật lực đều có thể thấy biết Như Lai tự tại ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ hữu vi mà cũng chẳng trụ hữu vi, ở trong tất cả loài hữu lậu, dường như biến hóa, thị hiện thọ sanh tử tu Bồ Tát hạnh ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ nghe pháp đều có thể lãnh thọ chánh giáo của chư Phật ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ trí quang vào khắp chỗ sở hành của tam thế trí ?

Thiện Trụ Tỳ Kheo bảo Thiện Tài rằng :

Lành thay ! Lành Thay ! Này thiện nam tử ! ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, nay lại phát tâm cầu hỏi Phật pháp, cầu hỏi pháp nhứt thiết trí, tự nhiên trí.

Này thiện nam tử ! Ta đã thành tựu môn giải thoát vô ngại. Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc đến, hoặc lui, tùy thuận tư duy tu tập quán sát, liền được trí huệ quang minh tên là cứu cánh vô ngại.

Vì được trí huệ quang minh này nên biết tâm hành của tất cả chúng sanh không chướng không ngại. Biết sự chết và sanh của tất cả chúng sanh. Biết đời trước của tất cả chúng sanh. Biết những sự trong kiếp vị lai của tất cả chúng sanh. Biết những sự trong đời hiện tại của tất cả chúng sanh. Biết ngôn ngữ âm thanh nhiều loại sai biệt của tất cả chúng sanh. Quyết những nghi vấn của tất cả chúng sanh. Biết căn tánh của tất cả chúng sanh. Tùy theo lúc tất cả chúng sanh nên được giáo hóa đều có thể qua đến nơi họ ở. Biết tất cả sát na, la bà mâu hô lật đa, giờ khắc ngày đêm. Biết thứ đệ lưu chuyển trong biển tam thế. Tất cả những sự thấy biết như vậy đều không chướng không ngại. Cũng có thể đem thân mình qua đến tất cả cõi Phật mười phương không chướng ngại. Tại sao vậy ? Vì được sức thần thông vô trụ vô tác.

Này thiện nam tử ! Vì ta được sức thần thông này nên ở giữa hư không, hoặc đi, hoặc, đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ẩn, hoặc hiển, hoặc hiện một thân, hoặc hiện nhiều thân, đi xuyên qua tường vách như đi nơi trống không. Ở trên hư không ngồi kiết già qua lại tự tại như chim bay. Vào trong đất như xuống nước, đi trên nước như trên đất, khắp thân trên dưới đều phát lửa ngọn như đống lửa lớn. Hoặc có lúc chấn động tất cả đại địa. Hoặc có lúc lấy tay rờ rẫm mặt nhựt mặt nguyệt. Hoặc hiện thân mình cao đến phạm cung. Hoặc hiện mây hương đốt. Hoặc hiện mây bửu diệm. Hoặc hiện mây biến hóa . Hoặc hiện mây quang võng. Thảy đều rộng lớn đầy khắp hư không mười phương.

Hoặc trong một niệm qua phương Ðông một thế giới, hai thế giới, trăm thế giới, ngàn thế giới, trăm ngàn thế giới, nhẫn đến qua vô lượng thế giới, bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới. Hoặc qua Diêm Phù Ðề vi trần số thế giới. Hoặc qua bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới. Ta ở trước chư Phật Thế Tôn trong tất cả quốc độ đó mà nghe thuyết pháp.

Ở cho mỗi đức Phật, hiện vô lượng Phật sát vi trần số thân sai khác.

Mỗi mỗi thân rưới vô lượng Phật sát vi trần số mây đồ cúng dường. Những là mây tất cả hoa, mây tất cả hương, mây tất cả tràng hoa , mây tất cả hương bột, mây tất cả hương thoa, mây tất cả lọng, mây tất cả y phục, mây tất cả tràng, mây tất cả phan, mây tất cả trướng. Ðem tất cả thân vân cúng dường lên chư Phật.

Mỗi đức Như Lai có bao nhiêu lời dạy bảo ta đều thọ trì cả.

Mỗi quốc độ có bao nhiêu sự trang nghiêm, ta đều nhớ rõ cả.

Tất cả chín phương kia cũng đều như phương Ðông.

Bao nhiêu chúng sanh trong tất cả thế giới như vậy, nếu được thấy thân của ta, thời đều quyết định được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tất cả chúng sanh trong những thế giới đó, ta đều thấy rõ tùy theo sư lớn nhỏ thắng liệt khổ vui của họ mà thị hiện đồng thân hình với họ để giáo hóa cho họ được thành tựu.

Nếu có chúng sanh nào thân cận ta, thời ta làm cho họ an trụ nơi pháp môn như đây.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết “PHÁP MÔN VÔ NGẠI GIẢI THOÁT MAU CHÓNG CÚNG DƯỜNG KHẮP CHƯ PHẬT THÀNH TỰU KHẮP CHÚNG SANH” này.

Như chư Bồ Tát trì giới đại bi, giới ba la mật, giới Ðại thừa, giới tương ưng với Bồ Tát đạo, giới vô chướng ngại, giới chẳng thối đọa, giới chẳng bỏ tâm Bồ đề, giới thường dùng Phật pháp làm cảnh sở duyên, giới thường để ý nơi nhứt thiết trí, giới như hư không, giới không y tựa tất cả thế gian, giới không mất, giới không tổn, giới không khuyết, giới không tạp, giới không trược, giới không hối, giới thanh tịnh, giới ly trần, giới ly cấu.

Những công đức như vậy, ta đâu có thể biết và nói được hết.

Này thiện nam tử ! từ đây qua phương Nam có một nước tên là Ðạt Lý Tỹ Trà, có thành tên là Tự Tại, trong đó có một người tên là Di Già. Ngươi nên đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, trụ Bồ Tát đạo ?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Thiện Trụ Tỳ Kheo, hữu nhiễu chiêm ngưỡng lui ra đi về phương Nam.



Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


4 tháng Ba 1990


3.- THIỆN TRỤ TỲ KHEO


 Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết  “PHÁP MÔN VÔ NGẠI GIẢI THOÁT MAU CHÓNG CÚNG DƯỜNG KHẮP CHƯ PHẬT THÀNH TỰU KHẮP CHÚNG SANH” này.


Kinh:

Thiện Tài đồng tử vừa tư duy suy gẫm, đi lần qua phương Nam, đến bên đường Lăng Già, nơi tụ lạc Hải Ngạn, xem xét mười phương tìm cầu Thiện Trụ Tỳ Kheo…

Giảng:

Khi một hành giả muốn gặp một vị nào thì phải quán chiếu thâm sâu, như chúng ta muốn gặp được đức A Di Đà thì phải quán chiếu rất lâu. Trong kinh, lúc đầu ngài Thiện Tài phải quán chiếu bảy ngày mới thấy được ngài Đức Vân. Đến đây, ngài quán chiếu một lúc là thấy ngay, như vậy tâm thức của ngài cũng đã sâu hơn trước rồi.

Kinh:

Thiện Tài thấy Thiện Trụ Tỳ Kheo đi kinh hành qua lại ở trong hư không.

Giảng: Lúc đầu, ta nhớ rằng Thiện Tài thây vị thiện tri thức đầu tiên đi kinh hành trên một ngọn núi, vị thứ nhì thây đứng ở bờ biển, còn vị này thì đi giữa hư không. Tức là vị này hình như cao hơn hai vị kia, mà vị này dạy một pháp môn cao hơn thật, vì ngài không dạy quán giả mà ngài lại dạy song chiếu, tức là quán trung.

Kinh:

Có vô số chư Thiên cung kính vây quanh, rưới những thiên hoa, trổi thiên kỷ nhạc, tràng phan gấm lụa thảy đều nhiều vô số dầy khắp hư không để cúng dường. Chư đại Long vương ở giữa hư không nổi bất tư nghì mây trầm thủy hương, chân sấm, xẹt chớp, dùng để cúng dường…

Giảng:

Ở đây, chúng ta thấy vô số chúng cung kính vây quanh, ngài Đức Vân thì không thấy có chúng vây quanh, ngài Hải Vân lúc đầu cũng không thấy, nhưng đến khi ngài nói khi ta quán thấy được bông Liên Hoa nổi lên thì có rất nhiều Ca Lâu La Vương hoặc vua trời v.v… cầm cọng hoa, chứ không phải vây chung quanh ngài Hải Vân. Còn đến ngài Thiện Trụ Tỳ Kheo thì thấy ngài đi kinh hành giữa hư không mà chung quanh toàn những Long Vương, hoặc chư Thiên, Khẩn Na La Vương, Chư Thần v.v… đến hầu, thì có thể mức tu chứng của vị này đã cao hơn rồi, đồng thời ngài cũng dạy cho Thiện Tài pháp môn cao hơn. Ở đây, chúng ta khó có thể xét kỹ các ngài về mức độ tu chứng. Chỉ cần nhận định đối với một vị tu hành cao, mức độ y báo lộng lẫy thường tương xứng với mực độ tâm thức.

Kinh:

Bạch Đức Thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào tu hành Phật pháp, thế nào tích tập Phật pháp, thế nào đầy đủ Phật pháp, thế nào huân tập Phật pháp, thế nào tăng trưởng Phật pháp, thế nào tổng nhiếp Phật pháp, thế nào cứu cánh Phật pháp, thế nào thâm tịnh Phật pháp, thế nào thông đạt Phật pháp.

Giảng:

Thân tịnh là thế nào? Tức là khi đã lên cao thì sau khi đã quán không, thì phải đi vào giả nữa, và bây giờ phải đến chỗ tịnh hơn nữa, tức là đi vào trung đạo song chiếu.

Kinh:

Tôi nghe đức thánh khéo dạy bảo… (bỏ một đoạn kinh), khi ngài dạy Bồ Tát thế nào chẳng bỏ hữu vi mà cũng chẳng trụ hữu vi,  trong tất cả loài hữu lậu, dường như biến hóa, thị hiện thọ sanh tử tu Bồ Tát hạnh? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ nghe pháp đều có thể lãnh thọ chánh giáo của chư Phật? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ trí quang vào khắp chỗ sở hành của tam thế trí?

Giảng:

Ngài Thiện Trụ lúc đầu khen ngài Thiện Tài, sau ngày nói rằng: “Này thiện nam tử, ta đã thành tựu môn giải thoát vô ngại, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc đến, hoặc lui, tùy thuận tư duy tu tập quán sát, liền được trí huệ quang minh tên là Cứu Cánh Vô Ngại, vì được trí huệ quang minh này, nên biết tâm hành của tất cả chúng sanh không chương, không ngại. Biết sự chết và sanh của tất cả chúng sanh, biết đời trước của tất cả chúng sanh, biết những kiếp vị lai của tâ’t cả chúng sanh, biết những sự trong đời hiện tại của tất cả chúng sanh, biết những ngôn ngữ âm thanh nhiều loại sai biệt của tất cả chúng sanh… (bỏ một khúc…), biết tất cả sát na la-bà- mâu-hô-lật-da, giờ khắc ngày đêm, biết thứ đệ lưu chuyển trong biển tam thế… Biết tất cả sát na, có nghĩa rằng ngài biết từng tia chớp nháng một, và biết từng đơn vị thời gian rất nhỏ.”

Kinh:

Tại sao vậy? Vì được sức thần thông vô trụ, vô tác.

Giảng:

Thần thông vô trụ vô tác là cao lắm rồi, nhưng ở mức độ này cũng chưa phải là mức độ vô trụ, vô tác của chư Phật đâu, vì chúng ta nên nhớ rằng, lộ trình tu hành của nhà Phật đi theo vòng trôn ốc, nên có những nấc viên dung của nó. ở chỗ vô trụ, vô tác này, nếu so với chư Phật thì vẫn còn thấp mà phải đến chỗ vô trụ, vô tác bất động mới là tuyệt vời, tức là đến chỗ vô trụ, vô tác của chư Phật. Nên vị này, mức độ chỉ ở một nấc nào viên dung của trung đạo song chiếu thôi. Khi một hành giả quán giả, để đi vào trung đạo song chiếu, thì thần thông nở ra như hoa, còn như chỉ quán không thôi, thì hành giả đi được vào thức ấm nông cạn, chưa có thần thông gì mấy. Chúng ta nên biết, đi vào không hải phải đi qua tứ thiền, đến được đệ tứ thiền thì có những thần thông như bặt được hơi thở, ngưng tim đập mà không chết. Nên các vị hành giả khi đã vào đệ tứ thiền rồi thì có được sự tự tại trong việc chết, tỷ dụ như có vị thiền sư chỉ cần thắp một nén hương, vào tứ thiền, bặt hơi thở là đi luôn. Ngoài ra, các ngài còn có thể biến hóa và phóng hào quang được, biến hóa thân mình được ít nhiều, như trên thân ra lửa, dưới thân tuôn nước, có thể biến thân lớn như núi, hoặc biến thân nhỏ lại như hạt cải, nhưng không biến hóa được ngoại vật, và cũng chưa đủ sức để hóa hiện nhiều hóa thân, tức là phân thân vô lượng. Vụ này cần phải vào đại bi, vào trung đạo song chiếu để biến hóa được nhiều… Trở lại kinh, ngài Thiện Trụ nói ta được sức giải thoát thần thông vô trụ, vô tác.

Kinh:

Này thiện nam tử, vì ta được sức thần thông này nên ở giữa hư không hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ẩn, hoặc hiện, hoặc hiện một thân, hoặc hiện nhiều thân, đi xuyên qua tường vách như nơi trong không, ở trên hư không ngồi kiết già qua lại tự tại như chim bay, vào trong đất như xuống nước, đi trên nước như trên đất khắp thân trên dưới đều phát lửa ngọn như đấng lửa lớn. Hoặc có lúc chân động tất cả đại địa, hoặc có lúc lấy tay rờ rẫm mặt nhật, mặt nguyệt, hoặc hiện thân mình cao đến Phạm Cung, hoặc hiện mây hương đốt, hoặc hiện mây bửu diệm v.v… thảy đều rộng lớn dầy khắp hư không mười phương… (bỏ một đoạn…), hoặc trong một niệm qua phương đông một thế giới, hai thế giới, trăm thế giới, ngàn thế giới… bất khả thuyết, bất khả thuyết thế giới…, qua bất khả thuyết, bất khả thuyết phật sát vi trần số thế giới, ta  trước chư Phật Thế Tôn trong tất cả quốc độ đó mà nghe thuyết pháp, ớ chỗ mỗi đức Phật, hiện vô lượng Phật sát vi trần số thân sai khác.

Giảng:

Ở đây, chúng ta thấy ngài hiện vô lượng số thân vi trần số sai khác như thế thì đã thấy thần biến rất ghê gớm rồi, nhưng so với chư Phật thì chưa đi đến đâu cả…

Kinh:

Mỗi đức Như Lai, có bao nhiêu lời ta đều thọ trì cả, (tức là ngài đã được văn trì đà la ni), nơi mỗi quôc độ có bao nhiêu sự trang nghiêm ta đều nhớ rõ cả.

Giảng:

Quốc độ đẹp đẽ thế nào thì vị này nhớ rõ cả, mà nói cho cùng, tất cả sự đẹp đẽ trang nghiêm đều nằm trong tàng thức ấy cả, vấn đề là mình phải lọt được vào trong ấy thì sẽ thấy đủ tất cả sự trang nghiêm, và tất cả chín phương kia cũng đều như vậy.

Kinh:

Tất cả chúng sanh trong những thế giới đó ta đều thấy rõ, ta đều thấy rõ tùy theo sự lớn nhỏ thắng liệt khổ vui của họ mà thị hiện đồng thân hình với họ để giáo hóa cho họ được thành tựu… (bỏ một khúc...). Này thiện nam tử, ta chỉ biết pháp môn vô ngại giải thoát mau chóng cúng dường khắp chư Phật thành tựu khắp chúng sanh này.

Giảng:

Vị này, theo quí vị nghĩ ngài dạy pháp môn gì? Ta lại phải trở lại cái tên của ngài, vì chúng ta cũng cần để ý đến những tên, và những ngôn danh trong kinh, luôn luôn mang theo một ý nghĩa cần thiết của nó. Ngài tên là Thiện Trụ, nghĩa là Khéo Trụ. Tức là khéo giữ giữa cái sắc và cái không, giữa Bát Nhã và Đại Bi, tựa như con chim có hai cánh, thì có thể bay xa ngàn dặm được. Đại lược, có khoảng ba, bốn vị đầu dạy cho Thiện Tài những nét chính, còn những vị sau thì chỉ thi triển thần biến, như những bông hoa lạ nở trong pháp giới này mà thôi. Nên phải giữ cái tâm thật khéo mà không nghiêng về bên nào cả. “Khéo khéo lúc dụng tâm, khéo khéo không tâm dụng” là vì vậy, theo như ngài Huyền Giác nói. Đó là một kỹ thuật dụng tâm rất cao siêu mà chúng ta phải cặm cụi nghĩ mãi mới thấy được ít chút sự mầu nhiệm. Nên chúng ta phải khéo dụng tâm, lúc nào cũng nhìn cảnh giới như “hoa trong gương, trăng đáy nước” thôi, và như vậy, ta có thể giữ được tâm ở trung đạo, giữa Bát Nhã và Đại Bi, giữ giữa sắc và không. Tỷ dụ như đối với một người bạn, một người vợ, hay một người con, chúng ta sẽ không bị tình nhiễm bao vây nhiều nữa, dù vậy ta vẫn làm tất cả những lo lắng cần thiết cho người đó để độ sanh. Quán tâm như vậy lâu dài, thì ngay cả đối với những người không thân thiết, ta cũng có thể nhiệt tình giúp họ được, còn như nếu ta coi một người quá thắm thiết thì ta sẽ thiếu Bát Nhã, như vậy tâm vẫn bị lệch, không phải là thiện trụ. Nên bí quyết là phải quán như huyễn, hoặc hoa trong gương, trăng đáy nước, hoặc quán như điện chớp (flash) mà thôi. Theo tôi nghĩ, quán như vậy, thì có thể quán bất cứ nơi đâu, ngay lúc đi chơi ta cũng quán được, không cứ phải ngồi ngay ngắn tham thiền mới quán được. Và có lẽ, ngài Thiện Trụ luôn luôn quán chiếu như thế mới có được nhiều thần thông lực.


Comments

Popular posts from this blog