The Flower Ornament Scripture
A Translation of the Avatamsaka Sutra
Thomas Cleary
Contents
Introduction
1. The Wonderful Adornments of the Leaders of the Worlds
2. Appearance of the Buddha
3. The Meditation of the Enlightening Being Universally Good
4. The Formation of the Worlds
5. The Flower Bank World
6. Vairocana
7. Names of the Buddha
8. The Four Holy Truths
9. Awakening by Light
10. An Enlightening Being Asks for Clarification
11. Purifying Practice
12. Chief in Goodness
13. Ascent to the Peak of Mount Sumeru
14. Eulogies on Mount Sumeru
15. Ten Abodes
16. Religious Practice
17. The Merit of the Initial Determination for Enlightenment
18. Clarifying Method
19. Ascent to the Palace of the Suyama Heaven
20. Eulogies in the Palace of the Suyama Heaven
21. Ten Practices
22. Ten Inexhaustible Treasuries
23. Ascent to the Palace of the Tushita Heaven
24. Eulogies in the Tushita Palace
25. Ten Dedications
26. The Ten Stages
27. The Ten Concentrations
28. The Ten Superknowledges
29. The Ten Acceptances
30. The Incalculable
31. Life Span
32. Dwelling Places of Enlightening Beings
33. Inconceivable Qualities of Buddhas
34. The Ocean of Physical Marks of the Ten Bodies of Buddha
35. The Qualities of the Buddha's Embellishments and Lights
36. The Practice of Universal Good
37. Manifestation of Buddha
38. Detachment from the World
39. Entry into the Realm of Reality
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Appendix 1: Technical Terminology and Symbolism in The Flower Ornament Scripture
Appendix 2: Amplifications of Book 39
Appendix 3: Commentary on Book 39 by Li Tongxuan
40. Practices and Vows of Samantabhadra Bodhisattva
(Translated on Imperial Command by the Tang Dynasty Tripitaka Master Prajna of Kubha 796-798 CE)
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH LƯỢC GIẢNG
Hán dịch: Tam Tạng Sa môn Thật Xoa Nan Đà, người nước Điền, dịch vào đời Đường.
Giảng thuật: Hòa Thượng Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành Hoa Kỳ, giảng vào năm 1969 tại Phật Giáo Giảng Đường, San Francisco, California)
HT. Thích Trí Tịnh
Giới, Định, Huệ thoát Ta-bà
Tín,
Nguyện, Hạnh sanh Cực Lạc
Lành thay tạng công đức
Có thể đến gặp ta
Phát khởi tâm đại bi
Siêng cầu Vô Thượng Giác.
Ðã phát nguyện rộng lớn
Diệt trừ khổ chúng sanh
Vì khắp các chúng sanh
Tu hành Bồ Tát hạnh.
Nếu có các Bồ Tát
Chẳng nhàm khổ sanh tử
Thời đủ đạo Phổ Hiền
Tất cả không hoại được.
Phước quang, phước oai lực
Phước xứ, phước tịnh hải
Ngươi vì khắp chúng sanh
Nguyện tu Phổ Hiền hạnh.
Ngươi thấy vô biên tế
Mười phương tất cả Phật
Khắp nghe Phật thuyết pháp
Thọ trì chẳng quên mất.
Ngươi ở mười phương cõi
Thấy khắp vô lượng Phật
Thành tựu những nguyện hải
Ðầy đủ Bồ Tát hạnh.
Nếu nhập phương tiện hải
An trụ Phật Bồ đề
Hay theo Ðạo Sư học
Sẽ thành Nhứt thiết trí.
Khắp tất cả quốc độ
Số kiếp như vi trần
Ngươi tu hạnh Phổ Hiền
Thành tựu Bồ đề đạo.
Ở vô lượng cõi nước
Trong vô biên kiếp hải
Ngươi tu hạnh Phổ Hiền
Thành mãn những đại nguyện.
Vô lượng chúng sanh đây
Nghe ngươi nguyện đều mừng
Ðều phát tâm Bồ đề
Nguyện học hạnh Phổ Hiền.
Nói kệ xong, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo Thiện Tài đồng tử
rằng :
Lành thay ! Lành thay ! này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm
Vô thượng Bồ đề, cầu hạnh Bồ Tát.
Này thiện nam tử ! nếu có chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề,
đây là việc rất khó. Ðã có thể phát Bồ đề tâm rồi lại cầu Bồ Tát hạnh, việc này
càng khó gấp bội.
Này thiện nam tử ! Nếu muốn thành tựu Nhứt thiết chủng trí
thời phải quyết định cầu chân thiện tri thức.
Này thiện nam tử ! Cầu thiện tri thức chớ có mỏi lười. Thấy
thiện tri thức chớ có nhàm đủ. Thiện tri thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy
thuận. Nơi thiện xảo phương tiện của thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm.
Phương nam này có một nước tên là Thắng Lạc. Trong nước Thắng
Lạc có tòa núi tên là Diệu Phong. Trên núi đó có một Tý kheo tên là Ðức Vân.
Ngươi nên đến hỏi Tỳ Kheo Ðức Vân : Bồ Tát phải học Bố Tát hạnh thế nào ? Phải
tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải như thế nào để được mau viên mãn hạnh
Phổ Hiền ? Tỳ Kheo Ðức Vân sẽ chỉ bảo cho ngươi.
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
1.- TỲ KHEO ÐỨC VÂN
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được pháp môn "ỨC NIỆM NHỨT THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH GIỚI TRÍ HUỆ QUANG MINH PHỔ KIẾN" này thôi.
Thiện Tài đồng tử nghe xong hớn hở vui mừng, đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rơi lệ từ tạ mà đi qua hướng Nam, đến nước Thắng Lạc, lên núi Diệu Phong. Ở trên núi đó xem ngó tìm kiếp khắp bốn phía, lòng khao khát muốn được gặp TỲ KHEO ÐỨC VÂN. Bảy ngày sau mới được thấy Tỳ Kheo Ðức Vân ở trên ngọn núi khác đi kinh hành chậm rãi.
Thấy xong, Thiện Tài đồng tử liền đến đảnh lễ chân Tỳ Kheo Ðức Vân, hữu nhiễu ba vòng cung kính đứng trước Ðức Vân mà bạch rằng :
Bạch Ðức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ? Tôi nghe đức Thánh khéo có thể dạy bảo, mong đức Thánh thương xót dạy cho tôi thế nào Bồ Tát được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Ðức Vân Tỳ Kheo bảo Thiện Tài đồng tử rằng :
Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, lại có thể hỏi hạnh của Bồ Tát. Việc như vậy là sự khó trong những sự khó. Những là cầu Bồ Tát hạnh, cầu Bồ Tất cảnh giới, cầu đạo xuất ly của Bồ Tát, cầu đạo thanh tịnh của Bồ Tát, cầu tâm thanh tịnh quảng đại của Bồ Tát, cầu Bồ Tát thành tựu thần thông, cầu Bồ Tát thị hiện môn giải thoát, cầu Bồ Tát thị hiện việc làm tại thế gian, cầu Bồ Tát tùy thuận tâm của chúng sanh, cầu môn sanh tử Niết bàn của Bồ Tát, cầu Bồ Tát quán sát hữu vi vô vi tâm không chấp trước.
Này thiện nam tử ! Ta được sức thắng giải tự tại quyết định, tín nhãn thanh tịnh, trí quang chói sáng, thấy khắp các cảnh giới khỏi tất cả chướng ngại, quán sát khéo léo, phổ nhãn sáng suốt, đủ hạnh thanh tịnh. Qua đến tất cả cõi nước mười phương cung kính cúng dường tất cả chư Phật. Thường nhớ tất cả chư Phật Như Lai. Tổng trì tất cả chánh pháp của chư Phật. Thường thấy tất cả chư Phật mười phương.
Những là thấy phương đông một đức Phật, hai đức Phật, mười đức Phật, trăm đức Phật, ngàn đức Phật, ức đức Phật, trăm ức đức Phật, ngàn ức đức Phật, trăm ngàn ức đức Phật, na do tha ức đức Phật, trăm na do tha ức đức Phật, ngàn na do tha ức đức Phật, trăm ngàn na do tha ức đức Phật, nhẫn đến thấy vô số, vô lượng, vô biên vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết đức Phật. Nhẫn đến thấy chư Phật bằng số vi trần trong Diêm Phù Ðề, bằng số vi trần trong bốn châu thiên hạ, bằng số vi trần trong Tiểu thiên thế giới, bằng số vi trần trong nhị thiên thế giới bằng số vi trần trong Ðại Thiên thế giới, bằng số Phật sát vi trần nhẫn đến thấy chư Phật bằng số bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần.
Như phương đông, chín phương kia cũng đều thấy như vậy.
Chư Phật trong mỗi phương, những sắc tướng, những hình mạo, những thần thông, những du hí, những chúng hội trang nghiêm đạo tràng, những quang minh chiếu sáng vô biên, những quốc độ, những thọ mạng. Tùy những tâm sở nghi của chúng sanh mà chư Phật thị hiện những môn thành Ðẳng Chánh Giác, làm sư tử hống trong đại chúng.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được pháp môn "ỨC NIỆM NHỨT THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH GIỚI TRÍ HUỆ QUANG MINH PHỔ KIẾN" này thôi. Ðâu biết hết được vô biên trí huệ thanh tịnh hạnh môn của đại Bồ Tát. Những là : Trí quang phổ chiếu niệm Phật môn, vì thường thấy tất cả chư Phật quốc độ những cung điện đều trang nghiêm thanh tịnh. Môn làm cho tất cả chúng sanh niệm Phật, vì tùy sở nghi của tâm chúng sanh đều làm cho họ được thấy Phật, tâm họ được thanh tịnh. Môn làm cho an trụ nơi lực niệm Phật, vì làm cho họ nhập vào thập lực của Như Lai. Môn làm cho an trụ nơi pháp niệm Phật, vì thấy vô lượng Phật được nghe pháp. Môn niệm Phật chói sáng các phương, vì đều thấy trong tất cả thế giới chư Phật bình đẳng không sai biệt. Môn niệm Phật vào chỗ bất khả kiến, vì đều thấy trong tất cả cảnh vi tế những sự thần thông tự tại của chư Phật. Môn niệm Phật an trụ trong các kiếp, vì trong tất cả kiếp thường thấy những việc làm không tạm bỏ của chư Phật. Môn niệm Phật an trụ trong tất cả thời gian, vì trong tất cả thời gian thường thấy đức Như Lai gần gủi đồng ở chẳng rời bỏ. Môn niệm Phật an trụ tất cả cõi, vì tất cả quốc độ đều thấy thân Phật vượt hơn tất cả không gì sánh bằng. Môn niệm Phật an trụ tất cả đời, vì tùy tâm sở thìch thấy khắp tam thế chư Phật. Môn niệm Phật an trụ tất cả cảnh, vì ở khắp trong tất cả cảnh giới thấy chư Như Lai thứ đệ xuất hiện. Môn niệm Phật an trụ tịch diệt, vì trong một niệm thấy tất cả cõi, tất cả chư Phật thị hiện Niết bàn. Môn niệm Phật an trụ viễn ly, vì trong một niệm thấy tất cả Phật từ nơi chỗ ở mà ra đi. Môn niệm Phật an trụ quảng đại, vì tâm thường quán sát mỗi thân Phật đầy khắp tất cả pháp giới. Môn niệm Phật an trụ vi tế, vì trong một chân lông có bất khả thuyết Như Lai xuất hiện, đều đến chỗ Phật mà kính thờ. Môn niệm Phật an trụ trang nghiêm, vì trong một niệm thấy tất cả cõi đều có chư Phật thành Ðẳng Chánh Giác hiện thần biến. Môn niệm Phật an trụ năng sự, vì thấy tất cả Phật xuất hiện thế gian, phóng trí huệ quang chuyển diệu pháp luân. Môn niệm Phật trụ tâm tự tại, vì biết tùy theo sở thích của tự tâm, tất cả chư Phật hiện hình tượng. Môn niệm Phật an trụ nơi tự nghiệp, vì biết tùy nghiệp tích tập của chúng sanh mà hiện hình tượng làm cho họ được giác ngộ. Môn niệm Phật an trụ thần biến, vì thấy liên hoa quảng đại của Phật ngự nở xòe khắp pháp giới. Môn niệm Phật an trụ hư không vì quán sát những thân Như Lai trang nghiêm pháp giới hư không giới. Như vậy ta làm sao biết được nói được những công đức hạnh của đại Bồ Tát.
Này thiện nam tử ! Phương Nam có một nước tên là Hải Môn, nơi đó có Tỳ Kheo tên là Hải Vân. Ngươi đến hỏi Hải Vân rằng Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ? Hải Vân Tỳ Kheo có thể phân biệt nói nhơn duyên phát khởi thiện căn quảng đại.
Này thiện nam tử ! Hải Vân Tỳ Kheo sẽ làm cho ngươi nhập ngôi trợ đạo quảng đại, sẽ làm cho ngươi sanh sức thiện căn quảng đại, sẽ vì ngươi mà nói nhơn duyên phát tâm Bồ đề, sẽ làm cho ngươi sanh quang minh đại thừa quảng đại, sẽ làm cho ngươi tu ba la mật quảng đại, sẽ làm cho ngươi nhập những hạnh hải quảng đại, sẽ làm cho ngươi viên mãn thệ nguyện quảng đại, sẽ làm cho ngươi tịnh môn trang nghiêm quảng đại, sẽ làm cho ngươi sanh sức từ bi quảng đại.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Ðức Vân Tỳ Kheo, hữu nhiễu quán sát, từ tạ mà đi.
The Sutra says: “For meeting the Buddhas of the ten directions, use the Purple Lotus
The Mantra: Fwo la she ye
The True Words: Nan. Sa la sa la. Wa dz la jya la. Hung pan ja.
The verse:
Kinh nói rằng: “Nếu muốn được diện kiến 10 phương tất cả chư Phật, nên cầu nơi Tay
Thần-chú rằng: Phật Ra Xá Da [40]
Chơn-ngôn rằng: Án-- tát ra tát ra, phạ nhựt-ra ca ra, hồng phấn tra.
Kệ tụng:
Vi diệu nan tư tử liên hoa
Bồ đề tốc chứng giải thoát pháp
Diện kiến thập phương Phật-đà-da
Tùng kim bất lạc lục đạo gia.
[
]
Tỷ-khưu Đức-Vân dạy Thiện-tài Đồng-tử về môn “ỨC-NIỆM NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI TRÍ-HUỆ QUANG-MINH PHỔ-KIẾN”, như thế nào mà gặp được chư Phật ở mười phương tịnh độ?
Lúc đầu, thì Bồ-tát Văn-Thù Sư-lợi dạy cho Thiện-Tài Đồng-Tử “PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM”, tức là chỉ dạy cho Thiện-Tài về phần “TÍN-GIẢI”, mà không dạy về phần “HÀNH-CHỨNG”, KHÔNG DẠY làm thế nào để “NHẬP PHÁP GIỚI.”
Rồi THIỆN TÀI được Bồ-tát Văn-thù giới thiệu theo học với “TỶ-KHƯU ĐỨC VÂN”, rồi Tỷ-khưu Đức-vân giới thiệu tới một vị “Thiện Tri Thức” khác… cho đến sau cùng gặp ”PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT” dạy THIỆN TÀI “PHÁT NGUYỆN VÃNG SANH” VỀ CÕI CỰC LẠC CỦA ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ, thì mới mau “NHẬP PHÁP GIỚI” một cách viên mãn.
Tôi nay hồi hướng các căn lành
Ðể được Phổ Hiền hạnh thù thắng.
Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung
Trừ hết tất cả các chướng ngại
Tận mặt gặp Phật A Di Ðà
Liền được vãng sanh cõi Cực Lạc,
Tôi đã vãng sanh cõi kia rồi
Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này
Cả thảy tròn đủ không thừa thiếu
Lợi lạc tất cả các chúng sanh.
Chúng hội Di Ðà đều thanh tịnh
Tôi từ hoa sen nở sinh ra
Thân thấy đức Phật Vô Lượng Quang
Liền thọ ký tôi đạo Bồ Ðề.
Nhờ đức Phật kia thọ ký rồi
Tôi hóa vô số vạn ức thân
Trí huệ rộng lớn khắp mười phương
Khắp lợi tất cả chúng sanh giới.
Nhẫn đến hư không thế giới tận
Chúng sanh, nghiệp và phiền não tận
Nhưng bốn pháp ấy không cùng tận
Nguyện tôi rốt ráo hằng vô tận
Tại sao “Bồ-tát Văn-thù” không dạy, mà giới thiệu tới “Tỷ-khưu Đức-vân” học Đạo ? Vì bấy giờ, Thiện-tài không thấy rằng gặp Bồ-tát Văn-thù là một chuyện hy-hữu, trong trăm ngàn muôn ức kiếp khó gặp được một lần, nên dù Bồ-tát Văn-thù có dạy, thì Thiện-tài cũng không chứng nhập được.
Cho nên, trước khi lên đường tìm cầu “THIỆN TRI THỨC”, Bồ-tát Văn-thù dặn dò THIỆN-TÀI rằng:
“Thiện tri thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy thuận. Nơi thiện xảo phương tiện của thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm. (Y theo PHÁP không Y theo NGƯỜI)
Lời dạy của “BỒ-TÁT VĂN-THÙ” cũng giống như Phẩm “TỨ-Y” trong “Kinh Đại-Bát Niết-Bàn”:
1) Y theo PHÁP không Y theo NGƯỜI
2) Y theo NGHĨA không Y theo LỜI
3) Y theo TRÍ không Y theo THỨC
4) Y theo KINH LIỄU-NGHĨA không Y theo KINH CHẲNG LIỄU NGHĨA
Phương nam này có một nước tên là Thắng Lạc. Trong nước Thắng Lạc có tòa núi tên là Diệu Phong. Trên núi đó có một Tỳ kheo tên là Ðức Vân. Ngươi nên đến hỏi Tỳ Kheo Ðức Vân : Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải như thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ? Tỳ Kheo Ðức Vân sẽ chỉ bảo cho ngươi.”
Thiện Tài đồng tử nghe xong hớn hở vui mừng, đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rơi lệ từ tạ mà đi qua hướng Nam, đến nước Thắng Lạc, lên núi Diệu Phong. Ở trên núi đó xem ngó tìm kiếm khắp bốn phía, lòng khao khát muốn được gặp Tỳ-Kheo Ðức-Vân. Bảy ngày sau mới được thấy T ỳ Kheo Ðức Vân ở trên ngọn núi khác đi kinh hành chậm rãi.
BÀI HỌC THỨ 1: DẠY “NHỚ NIỆM THIỆN TRI THỨC” trong 7 ngày.
Tỷ-khưu Đức-vân dạy Thiện-tài về môn “NHỚ NIỆM THIỆN TRI THỨC”, cũng giống như pháp “TRÌ DANH HIỆU PHẬT”, trong KINH A-DI-ĐÀ , làm cho Thiện-tài có “TÂM” mong cầu muốn gặp được Thiện-Tri-Thức, nên trong 7 ngày nhớ niệm, khát ngưỡng mong gặp Tỷ-khưu Đức-vân, nên được nhất Tâm, như chỉ được sự nhất tâm mà thôi, vì còn thấy mình ở núi bên nầy, Tỷ-khưu Đức-vân ở núi bên kia (còn năng niệm sở niệm)
Như phương đông, chín phương kia cũng đều thấy như vậy.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được pháp môn "ức niệm Nhứt thiết chư Phật cảnh giới trí huệ quang minh phổ kiến" này thôi.
BÀI HỌC THỨ 2 :
DẠY “ỨC-NIỆM NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI TRÍ-HUỆ QUANG-MINH PHỔ-KIẾN”
Khi niệm một vị Phật nào đó tới “không còn năng niệm sở niệm”, thì thấy được TẤT CẢ CHƯ PHẬT HIỆN Ở TRONG “PHỔ-QUANG MINH TRÍ” SÁT-NA TẾ TAM MUỘI , rồi “Qúy-vị” có khả năng hóa hiện vô-lượng thân, ở trước vô-lượng chư Phật ở 10 phương đồng thời niệm Phật. Vì Thường niệm tất cả chư Phật Như Lai, nên Thường thấy tất cả chư Phật ở mười phương Tịnh-độ.
Đây gọi là “ỨC-NIỆM NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI TRÍ-HUỆ QUANG-MINH PHỔ-KIẾN”. Còn gọi là: “PHỔ-QUANG MINH TRÍ” SÁT-NA TẾ TAM MUỘI.”
Cảnh giới nầy, cũng giống như LỄ PHẬT “không còn năng lễ sở lễ”.
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
Tóm lại, nếu “Qúy-vị” tu Tử Liên Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp, không còn năng niện sở niệm, thì gặp được chư Phật ở 10 phương “TỊNH ĐỘ” làm “THIỆN TRI THỨC”.
VÌ gặp được 10 phương chư Phật làm “ THIỆN TRI THỨC” , nên được pháp Giải-thoát không thể nghĩ bàn, mau chứng qủa Bồ-đề của Phật, rồi mới “TỰ-TẠI” vào Lục-đạo để cứu độ tất cả Chúng-sanh “MÀ KHÔNG BỊ THOÁI CHUYỂN”, hoặc “THUẬN” hoặc “NGHỊCH” tùy ý của “QÚY-VỊ”.
Kệ tụng:
Vi diệu nan tư tử liên hoa
Bồ đề tốc chứng giải thoát pháp
Diện kiến thập phương Phật-đà-da
Tùng kim bất lạc lục đạo gia.
40) Phật Ra Xá Da
Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúi vị trì tụng câu chú Phật Ra Xá Da , thì BỔN-THÂN ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ sẽ “XUẤT HIỆN”, đây là thầy của BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM, giúp cho Qúi vị khi bỏ BÁO THÂN nầy, được VÃNG SANH về cõi Cực-lạc của NGÀI, thành “PHÁP VƯƠNG TỬ”.
BỔN-THÂN ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ
( Thường TRÌ “TỬ-LIÊN-HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, làm cho Qúi vị sớm trở thành PHÁP VƯƠNG TỬ (Con của đấng PHÁP VƯƠNG.)
Và ngược lại nếu “QÚI VỊ” Thường TRÌ “TỬ-LIÊN-HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Qúi vị là “HÓA THÂN” của ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ, nghĩa là cũng đạt được như Ngài vậy.)
Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG “TỬ-LIÊN-HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì ĐỨC PHẬT A-DI-DÀ sẽ “XUẤT HIỆN”, đây là THẦY của Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM. Ngài theo “BỔN-NGUYỆN”, tiếp dẫn Qúi vị VÃNG SANH VỀ CỰC LẠC, CHỨNG LÊN 3 ĐỊA VỊ BẤT THOÁI (TAM BỐI) là: Niệm bất thối, Hành bất thối, Vị bất thối. niệm bất thối là chẳng thối tâm bồ đề, hành bất thối là tinh tấn tu hành, vị bất thối là chẳng thối lùi về hàng nhị thừa. Bồ Tát có ba thứ bất thối này, mà dũng mãnh hướng về trước, cho nên gọi là “BẤT THỐI TRỤ.”
TỪ ĐỊA VỊ TAM BẤT THOÁI, LẦN LẦN TU CHỨNG LÊN QỦA-VỊ DIỆU-GIÁC CỦA CHƯ PHẬT. TỨC LÀ CẢNH GIỚI “THƯỜNG TỊCH-QUANG TỊNH ĐỘ.”
Quang, thọ khó suy lường
Sáng lặng khắp mười phương!
Thế Tôn Vô Lượng Quang
Cha lành cõi Liên Bang.
Thần lực chẳng tư nghì
Sống lâu A tăng kỳ,
A Di Đà Như Lai
Tiếp dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh
Công đức lạ trang nghiêm
Nơi tất cả quần sanh
Vượt lên ngôi Bất Thối
Mười phương hằng sa Phật
Đều ngợi khen Vô Lượng
Cho nên nay chúng con
“Nguyện sanh về An Dưỡng”.
Niệm Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm
Kệ tụng :
Quán Âm sư chủ A-Di-Đà
Tứ thập bát nguyện hóa Ta-bà
Tam bối cửu phẩm sanh Cực-lạc
Thủy lưu phong động diễn MA-HA
KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”
HT. THIỀN-TÂM Dịch ra VIỆT-VĂN
KỆ TỤNG
HT. TUYÊN-HÓA Kệ-tụng
ĐẠI PHƯƠNG-QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH
Nhập Bất-Tư-Nghị Giải-Thoát Cảnh-Giới
Thứ Bốn Mươi
TỤNG PHẨM NHẬP BẤT TƯ NGHỊ GIẢI THOÁT CẢNH GIỚI PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN
(Đời Đường, người nước Kế-Tân, Tam-tạng SA-MÔN BÁT-NHÃ vưng chiếu dịch ra văn Hán)
Nguyên Ngụy, Bắc Thiên Trúc,
Tam Tạng Pháp sư Bồ Đề Lưu Chi dịch ra Hoa văn
Việt dịch: HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM
KINH ĐẠI THÔNG PHƯƠNG QUẢNG SÁM HỐI
DIỆT TỘI TRANG NGHIÊM THÀNH PHẬT
QUYỂN THƯỢNG
Danh Hiệu Chư Phật Đời Quá Khứ
Danh Hiệu Chư Phật Đời Hiện Tại
Danh Hiệu Mười Hai Phần Kinh và Các Ba La Mật
Danh Hiệu Chư Bồ Tát Ma Ha Tát
THẬP NHỊ DANH NHƯ LAI LỄ SÁM DIỆT TỘI
Ngày Rằm Tháng 4 Âm Lịch , PHẬT LỊCH 2566
( Tức Ngày 15/5/2022, DƯƠNG LỊCH )
Ý Nghĩa Cao Cả Trong Sự Xuất Gia
Tìm Ðạo Của Ðức Phật
Những chiến sĩ chiến thắng quân địch ở ngoài chiến trường, thường được ca tụng là anh hùng. Càng chiến thắng được nhiều quân địch càng được hoan hô là anh hùng cái thế. Nhưng những kẻ anh hùng cái thế ấy, như Nã Phá Luân, Thành Cát Tư Hãn, Xê Ða, liệu có thắng được chính mình?
Cho nên thắng người đã khó mà thắng mình lại khó hơn. Ðức Phật đã thắng cả ngoại cảnh lẫn nội tâm, đã thắng được giặc Ma Vương của Dục Vọng. Ðức Phật thật xứng đáng với danh hiệu Ðại Hùng Ðại Lực.
Ngài không phải vì quyền lời riêng mình mà chiến đấu. Ngài chiến đấu vì tình thương. Mà tình thương ở đây cũng không phải chỉ nhằm tình thương trong phạm vi hẹp hòi của gia đình: thương cha mẹ, vợ con, bạn bè. Tình thương ở đây là tình thương chúng sanh, tất cả sự sống trên cõi đời. Tình thương ấy nó rộng sâu như trời bể, thiết tha như tình mẹ thương con. Ðức Phật thật xứng đáng với danh hiệu Đại Từ Ðại Bi.
Vì tình thương ấy, Ngài đã hoan hỷ lìa bỏ ngôi báu cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, đàn hay múa đẹp, mùi ngon vị lạ để sống một đời kham khổ, đạm bạc, thiếu thốn, giữa rừng thiêng nước độc. Một khi mà rời bỏ thứ mà người đời cho là quý báu nói trên, Ngài không một phút giây nào hối tiếc, muốn quay về để hưởng thụ lại. Bằng cớ là Ma Vương đã sai con gái mình giả làm nàng Gia Du đến kêu gọi van xin Ngài trở về cung, mà Ngài không một chút bận tâm thối chuyển. Ngài xứng đáng với danh hiệu là Ðại Hỷ Ðại Xả.
Cho nên ngày nay, mỗi khi xưng tán danh hiệu Ngài, chúng sanh không thể không suy ngẫm cái ý nghĩa sâu sắc và đúng đắn mà người đời từ xưa đến nay đã tôn xưng Ngài là Ðại Hùng, Ðại Lực, Ðại Từ, Ðại Bi, Ðại Hỷ, Ðại Xả.
LƯỢC SỬ ÐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI MP3
(từ Giáng sanh đến Thành đạo)
Sa môn THÍCH THIỆN HOA
NAM-MÔ
Ðại Hùng, Ðại Lực, Ðại Từ, Ðại Bi, Ðại Hỷ, Ðại Xả
BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT
Kinh Phật dạy người thường tu phép sám hối, để kỳ cho dứt hết vô minh, thành đạo Bồ đề. Cho nên, đức Di Lặc tuy đến ngôi Đẳng giác, còn phải ngày đêm sáu thời lễ mười phương Phật, để cầu vô minh hết sạch, tròn chứng pháp thân, huống nữa là hạng phàm phu nghiệp lực sâu nặng ư?
Nếu không biết hổ thẹn, sám hối, tuy bản tánh đồng với chư Phật, nhưng bị hoặc nghiệp che lấp, không thể hiển hiện, ví như tấm gương báu lâu đời, chẳng những không ánh sáng mà thể gương cũng bị khuất mất.
Nếu biết gương sẵn tánh sáng, gia công lau chùi mãi, ánh sáng lần phát cho đến khi rực rỡ cùng cực, thành ra một vật rất quí trong đời.
Nên biết ánh sáng ấy sẵn có, không phải lau chùi mà được, nếu được thì lau đá gạch cũng ưng chói sáng. Lại phải biết gương tuy sẵn đủ ánh sáng, nhưng nếu không lau chùi thì cũng không thể chói sáng được. Tâm tánh chúng sanh cũng thế, tuy đồng với Phật, nhưng nếu chẳng đổi dữ làm lành, bỏ trần hiệp giác, thì tánh đức sẵn đủ đó không thể lộ bày.
Đem tâm thức sẵn đủ tánh Phật đó tạo nên nghiệp khổ nhiều kiếp đắm chìm, cũng như nhà tối có chứa của báu, đã không dùng được lại bị tổn thương, há chẳng đau tiếc lắm ư?
(Thơ Đáp Cho Cư Sĩ Đặng Bá Thành)
Lá Thư Tịnh Độ
Như khi xưa có một Phật tử căn tánh ngu tối, song thường kính niệm đức Quán Thế Âm. Một đêm nằm mơ thấy Bồ Tát đến bảo nên thường tham cứu bài kệ sau đây, lâu ngày sẽ được khai ngộ:
Đại trí phát nơi tâm
Nơi tâm chỗ nào tìm?
Thành tựu tất cả nghĩa
Không cổ cũng không kim!
NIỆM PHẬT THẬP YẾU
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
PHẦN TỰA
KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT NHƯ-Ý GIẢNG GIẢI
Vào đêm RẰM, ngày 15/5/1989 Âm lịch (nhằm ngày KỶ DẬU, tháng CANH NGỌ, năm KỶ TỴ), sau thời khóa, HT THÍCH THIỀN-TÂM bỗng ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là ẨN-TU NGẪU VỊNH.
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN
III. PHẦN LƯU-THÔNG
TABLE OF CONTENTS
PART ONE: THE SUTRA
THE VAST, GREAT, PERFECT, FULL, UNIMPEDED,
GREAT COMPASSION HEART DHARANI
THOUSAND-HANDED, THOUSAND-EYED
BODHISATTVA WHO REGARDS THE WORLD’S SOUNDS
with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
COMMENTARY :
Concerning the Great Compassion Mantra and the Forty-two Hands and Eyes, someone asked, “How did the Bodhisattva Who Regards the World’s Sounds get a thousand hands and eyes ?”
The Bodhisattva has great awesome virtue and spiritual penetrations. His thousand eyes came from cultivation of the Great Compassion Dharma, which obtains the forty-two Hands. Cultivating them succeed he thereby gained a thousand hands and eyes. Which he looks to see what trouble people have and pull out of suffering. Cultivating the Forty-two Hands and Eyes perfection, he became complete with a thousand Hands and Eyes.
No matter who you are, if you meet the Great Compassion Dharma and cultivate the Forty-two Hands and Eyes will obtain a thousand hands and eyes, just like the Bodhisattva.
Dharmas of seeking refers to the Forty-two Hands and Eyes mention above. There are actually more then thousand, but we are just mentioning them in general.
Liên quan đến Chú Đại Bi và Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn Ấn Pháp, có người hỏi: “Làm thế nào mà Bồ Tát Quán Thế Âm có được ngàn Tay ngàn Mắt?”
Hòa Thượng Tuyên Hóa trả lời rằng: “Vị Bồ tát đó có đại Uy Đức và Thần Thông không thể nghĩ bàn được . Ngàn Tay ngàn Mắt của Ngài là do trì Chú Đại Bi và 42 Thủ Nhãn Ấn Pháp. Khi thành tựu PHÁP nầy, thì có được ngàn Tay ngàn Mắt. Ngàn Mắt để Quán xem sự khổ nạn của chúng sanh và ngàn Tay để cứu độ họ mau thoát khỏi mọi khổ đau. Tu viên mãn Bốn mươi hai Tay Mắt, thì sẽ thành tựu ngàn Tay ngàn Mắt.
BẤT LUẬN QUÝ VỊ LÀ AI, nếu tu theo Pháp Đại Bi và 42 Tay Mắt của Bồ Tát Quán Thế Âm trong KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI, thì sẽ có được NGÀN TAY NGÀN MẮT giống như BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM vậy”.
Những việc có thể mong cầu, được đề cập trong 42 Tay Mắt ở trên, thật ra có hơn ngàn việc, như ở đây chỉ nói ít phần mà thôi.
KINH VĂN :
Khi ấy Nhựt Quang Bồ Tát vì người thọ trì Đại Bi Tâm đà ra ni nói đại thần chú để ủng hộ rằng:
COMMENTARY:
Those who do not understand the Buddhadharma think that SUNLIGHT BODHISATTVA is the sun itself, but this is not the case. He is a Bodhisattva named “Sunlight Bodhisattva.” Although reciters of the Great Compassion Mantra already have many Dharma protectors guarding them, the Mantra was spoken specifically to protect those who recite it.
Những Người không hiểu Phật Pháp cho rằng Nhựt Quang Bồ Tát chính là Mặt Trời, nhưng thật ra không phải như vậy. Ngài là một vị Bồ Tát có Tên gọi là “Nhựt Quang Bồ Tát ”. Mặc dù những người trì tụng Chú Đại Bi đã có rất nhiều vị Hộ Pháp nói CHUNG, nhưng “Nhựt Quang Bồ Tát” đặc biệt ủng hộ người trì Chú Đại Bi là nói RIÊNG.
KINH VĂN :
NAM MÔ NHỰT-QUANG BIẾN CHIẾU BỒ TÁT (3 LẦN)
MA-HA-TÁT (1 LẦN)
Nhựt-Quang Bồ-tát Đà-ra-ni
Nam mô Bột-đà cù na mê.
Nam mô Đạt-mạ mạc ha đê.
Nam mô Tăng-già đa dạ nê.
Để chỉ bộ tất tát đốt chiêm nạp mạ.
(3 LẦN, Tụng 1 LẦN lạy 1 LẠY)
COMMENTARY:
The first three sentences are to take refuge with the Triple Jewel. The last sentence calls in all the Dharma protectors to guard the reciter.
Ba câu đầu là QUY Y TAM BẢO. Câu cuối là kêu gọi tất cả vị HỘ PHÁP ủng hộ người thọ trì Đại Bi Tâm đà ra ni.
KINH VĂN :
Nhựt Quang Bồ Tát bạch Phật:
- “ Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này diệt được tất cả tội, cũng đuổi được ma và trừ thiên tai.
COMMENTARY:
Your offense Karma is eradicated, you avoid deviant demons, and all disasters such as hurricanes, floods, and earthquakes.
Tụng Chú Đại BI, thì Tội nghiệp của Quý vị được diệt; cũng tránh được tà Ma và tất cả tai nạn như gió Bão, nước Lụt, Động đất …
KINH VĂN :
Nếu kẻ nào tụng chú này một biến, lễ Phật một lạy, mỗi ngày chia ra làm 3 thời tụng chú lễ Phật như thế, trong đời vị lai tùy theo chỗ thọ thân, thường được tướng mạo xinh đẹp, được QUẢ BÁO ĐÁNG VUI MỪNG.
Nguyệt Quang Bồ Tát cũng vì HÀNH NHƠN mà nói đà ra ni để ủng hộ rằng:
NAM MÔ NGUYỆT-QUANG BIẾN CHIẾU BỒ TÁT (3 LẦN)
MA-HA-TÁT (1 LẦN)
Nguyệt-Quang Bồ-tát Đà-ra-ni
Thâm đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế ô đô tra. Thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhã tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sá-phạ hạ.
(5 LẦN)
COMMENTARY:
THE RETRIBUTION OF DELIGHT means that you will like your appearance and those who see you will also find you likeable.
PRACTITIONERS are those who recite and hold the Great Compassion Mantra. They should certainly recite and these two Mantras for increased power.
ĐƯỢC QUẢ BÁO ĐÁNG VUI MỪNG có nghĩa là Qúy vị thường được Tướng Mạo Xinh Đẹp và những ai trông thấy cũng rất dễ mến.
NGƯỜI THỰC HÀNH là Người trì tụng Chú Đại Bi, cũng phải kiêm thêm hai Thần Chú này để Tăng Hiệu Lực.
KINH VĂN :
Nguyệt Quang Bồ Tát lại bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này 5 biến, rồi lấy chỉ ngũ sắc xe thành sợi niệt, gia trì chú vào, buộc tréo nơi tay, chú này do 40 hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra, nay tôi cũng nói để vì các hành nhơn mà làm duyên ủng hộ. Chú này có công năng trừ tất cả chướng nạn, tất cả bịnh ác, xa lìa tất cả sự sợ hãi.
COMMENTARY:
Recite the Moonlight Bodhisattva Dharani FIVE TIMES over five colored threads and tie them around the part of your body that is in pain.
THIS MANTRA HAS BEEN SPOKEN BY BUDDHAS OF THE PAST TO THE NUMBER OF SAND GRAINS IN FORTY GANGES RIVERS. I am now speaking it in order to afford protection to those who recite and hold the Great Compassion Mantra, and to eradicate their karmic obstacles, hardships, and painful illnesses, for one who recites the Mantra can get rid of all evil sickness.
I also speak the Mantra in order to bring about the realization of all good Dharmas and to cause reciters to remain distant from all fear and trembling. The Mantra’s power is great indeed.
Học thuộc lòng “Nguyệt-Quang Bồ tát Đà Ra Ni” trước, rồi tụng NĂM LẦN xong, lấy chỉ 5 màu xe thành sợi niệt, gia trì chú vào; buộc tréo nơi Tay hay chổ bị đau của Qúy vị.
Gia Trì Chú Vào : là dùng Tay kiết ấn ba lần búng vào phía trên sợi niệt ngũ sắc hoặc Thổi ba luồng không khí vào phía trên sợi niệt ngũ sắc.
CHÚ NÀY DO 40 HẰNG SA CHƯ PHẬT ĐỜI QUÁ KHỨ ĐÃ NÓI RA, nay Tôi cũng nói để bảo hộ cho những ai trì tụng “Chú Đại Bi”, được tiêu trừ tất cả Nghiệp Chướng, Tai nạn và Bệnh tật khổ đau. Lại nữa, Hành Nhơn trì tụng Chú này thì sẽ không bị các bịnh NAN Y khó trị.
Tôi lại muốn làm tăng trưởng tất cả Thiện Pháp; khiến cho những người trì tụng được xa lìa tất cả Ác Pháp, Tâm không còn sự Sợ hãi và Bất an. Hiệu Lực của “Nguyệt-Quang Bồ tát Đà Ra Ni” thực sự rất rộng lớn.
PART TWO : THE MANTRA
https://tangthuphathoc.net/dai-bi-chu-giang-giai-ban-dich-cua-thich-nhuan-chau/
ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI
MAHAKARUNA DHARANI
Hòa-Thuợng THÍCH-THIỀN-TÂM dịch từ PHẠM-VĂN ra VIỆT-VĂN
Tỳ-kheo-ni thích nữ PHƯƠNG-LIÊN (TỤNG - YOUTUBE)
1. The As-You-Will Pearl Hand and Eye
MARA MARA (MA RA MA RA) [25]
2. The Lariat Hand and Eye
PRANILA (BỜ RA NI LA) [62]
3. The Jeweled Bowl Hand and Eye
HULU HULU SHRI ( HU LU HU LU SÍ RI) [42]
4. The Jeweled Sword Hand and Eye
TRISA RANA (TRI SA RA NA) [50]
5. The Vajra Hand and Eye
CHAKRA ASTAYA (SẮT KỜ RA, A SÍT TA DA) [68]
6. The Vajra Pestle Hand and Eye
SARA SARA (SA RA SA RA) [43]
7. The Bestowing Fearlessness Hand and Eye
NILAKANTÉ PANTALAYA (NI LA KANH TÊ BANH TA LA DA) [72]
8. The Sun Essence Mani Hand and Eye
SHVARAYA (SOA VA RA DA) [32]
9. The Moon Essence Mani Hand and Eye
DHURU DHURU (ĐU RU ĐU RU) [28]
10. The Jeweled Bow Hand and Eye
BASHÁ BHASNIN (BA SA PHA SÍ NIN) [39]
11. The Jeweled arrow Hand and Eye
BHAYA MANE (PHA DA MA NÊ) [51]
12. The Willow Branch Hand and Eye
MUDHILI (MUÝT ĐI LI) [35]
13. The White Whisk Hand and Eye
MÀMÀ (MẠ MẠ) [34]
14. The hu Bottle Hand and Eye
NILAKANSTA (NI LA KANH SÍ TA) [49]
15. The Shield Hand and Eye
BHASHIYATI (PHA SI DA TI) [28]
16. The Ax Hand and Eye
SHRISINHAMUKHAYA (SÍT RI SIN HA MUÝT KHA DA) [64]
17. The Jade Ring Hand and Eye
HULU HULU PRA (HU LU HU LU BỜ RA) [41]
18. The White Lotus Hand and Eye
GHAMAIN (GÀ MĂN) [27]
19. The Blue Lotus Hand and Eye
RIDHAYU (RÍT ĐÀ DU) [26]
20. The Jeweled Mirror Hand and Eye
SHINA SHINA (SI NA SI NA) [37]
21. The Purple Lotus Hand and Eye
BHARASHÁYA (PHA RA SÁ DA) [40]
22. The Jewel-chest Hand and Eye
SITAYAYE (SI TA DA DÊ) [57]
SHVARAYA (SOA VA RA DA) [58]
23. The Five-colored Cloud Hand and Eye
MASHI MASHI (MA SI MA SI) [26]
24. The Kundi Hand and Eye
DHARA DHARA (ĐA RA ĐA RA) [30]
25. The Red Lotus Hand and Eye
PADMAKÉSTAYA (PÁT ĐƠ MẠ KÊ SÍT TA DA) [70]
26. The Jeweled Halberd Hand and Eye
MAHA BHASHIYATI (MA HA PHA SI DA TI) [29]
27. The Jeweled Conch Hand and Eye
GURU GURU (GU RU GU RU) [27]
28. The Skull Bone Staff Hand and Eye
EHY EHY (Ê HY Ê HY) [36]
29. The Recitation Beads Hand and Eye
BALASHÁRI (BA LA SÁ RI) [38]
30. The Jeweled Bell Hand and Eye
JÁLA JÁLA (JÁ LA JÁ LA) [33]
31. The Jeweled Seal Hand and Eye
SABHO SABHO (SA PHÔ SA PHÔ) [24]
32. The Corpse Iron Hook Hand and Eye
DHIRINI (ĐI RI NI) [31]
33. The Pewter Staff Hand and Eye
MAITRIYÉ (MÉT TRI DÊ) [48]
34. The Joined Palms Hand and Eye
SIRI SIRI (SI RI SI RI) [44]
35. The Transformation Buddha on the Palm Hand and Eye
ALASHIN (A LA SIN) [38]
36. The Transformation Palace Hand and Eye
BHÀMARA (PHẠ MA RA) [34]
37. The Jeweled Sutra Hand and Eye
SITAYA. SVAHA.
MAHA SITAYA. SVAHA. (MA HA SI TA DA. SÓA HA.) [55-56]
38. The Non-retreating Gold Wheel Hand and Eye
BUDDHÀYA (BUÝT ĐÀ DA) [46]
39. The Transformation Buddha Atop the Crown Hand and Eye
BUDHÀYA (BỒ ĐÀ DA)
40. The Grape Hand and Eye
ASTAYA (A SÍT TA DA) [66]
41. The Sweet Dew Hand and Eye
SURU SURU (SU RU SU RU) [45]
42. The Uniting and Holding Thousand Arms Hand and Eye
MOPHOLISHAN KARAYA (MÔ PHÔ LI SĂN, KA RA DA) [74]
ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI XUẤT TƯỢNG
42 Thủ Nhãn Ấn-Pháp
Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp
Bảo-Bát Thủ Nhãn Ấn Pháp
Hồ-Bình Thủ Nhãn Ấn Pháp
15. The Shield Hand and Eye
Bàng-Bài Thủ Nhãn Ấn Pháp
http://www.drbachinese.org/online_reading/sf_others/DaBeiJou/page64.htm
64. Tất Ra Tăng A Mục Khê Da
Hóa hiện Dược Vương đại bồ tát
Trừ “ÔN” diệt “DỊCH” cứu hằng sa
Phổ lịnh hữu tình ly tật khổ
Cam lộ biến sái hàm thức nha
NAM-MÔ DƯỢC-VƯƠNG BỒ-TÁT (3 LẦN)
MA-HA-TÁT (1 LẦN)
Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Sáu
(1 LẦN)
Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]
Án-- vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.
[
ÔN là bệnh truyền nhiễm.
DỊCH là bệnh lây cho mọi người.
CHO NÊN, NẾU QÚI VỊ MUỐN DIỆT TRỪ BỊNH ÔN DỊCH THÌ PHẢI TRÌ TỤNG
“Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp”
]
17. The Jade Ring Hand and Eye
Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp
18. The White Lotus Hand and Eye
Bạch-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
19. The Blue Lotus Hand and Eye
Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
20. The Jeweled Mirror Hand and Eye
Bảo-Kính Thủ Nhãn Ấn Pháp
21. The Purple Lotus Hand and Eye
Tử-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
24. The Kundi Hand and Eye
Quân-Trì Thủ Nhãn Ấn Pháp
25. The Red Lotus Hand and Eye
Hồng-Liên Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
26. The Jeweled Halberd Hand and Eye
Bảo-KíchThủ Nhãn Ấn Pháp
27. The Jeweled Conch Hand and Eye
Bảo-LoaThủ Nhãn Ấn Pháp
28. The Skull Bone Staff Hand and Eye
Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp
29. The Recitation Beads Hand and Eye
Sổ-ChâuThủ Nhãn Ấn Pháp
30. The Jeweled Bell Hand and Eye
Bảo-ĐạcThủ Nhãn Ấn Pháp
31. The Jeweled Seal Hand and Eye
Bảo-Ấn Thủ Nhãn Ấn Pháp
32. The Chu Shih Iron Hook Hand and Eye
Cu-Thi-Thiết-Câu Thủ Nhãn Ấn Pháp
36. The Transformation Palace Hand and Eye
Hóa-Cung-ĐiệnThủ Nhãn Ấn Pháp
37. The Jeweled Sutra Hand and Eye
Bảo-Kinh Thủ Nhãn Ấn Pháp
38. The Non-retreating Gold Wheel Hand and Eye
Bất-Thối Kim-Luân Thủ Nhãn Ấn Pháp
Comments
Post a Comment