ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
41.- MA-GIA PHU-NHƠN
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ
biết
“MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT
ĐẠI NGUYỆN-TRÍ HUYỄN” nầy.
Thiện-Tài nhất tâm muốn
đến chỗ MA-GIA PHU-NHƠN, Tức thời
chứng được trí quán phật-cảnh-giới.
Thiện-Tài tự nghĩ rằng:
thiện-tri-thức nầy xa lìa thế-gian an-trụ nơi vô-sở-trụ, siêu quá sáu trần, lìa
tất cả chấp trước, biết đạo vô-ngại, đủ pháp thân thanh-tịnh, dùng nghiệp
như-huyễn mà hiện hóa-thân, dùng trí như-huyễn mà quán thế-gian, dùng nguyện
như-huyễn mà gìn giữ thân Phật. Theo thân ý-thân, không thân sanh diệt, không
thân lai khứ, chẳng phải thân hư thiệt, thân chẳng biến hoại, thân không khởi
tận. Có bao nhiêu tướng đều là thân một tướng, thân rời hai bên, thân không chỗ
tựa nương, thân vô cùng tận, thân như ảnh hiện rời phân biệt. Biết thân như
mộng, như tượng trong gương. Thân như tịnh-nhựt, thân hoá-hiện khắp mười
phương. Thân ở tam thế không đổi khác. Thân chẳng phải thân tâm, dường như
hư-không chỗ đi vô-ngại, siêu thế-gian-nhãn, chỉ tịnh-nhãn của Phổ-Hiền mới
thấy được.
Hạng người như vậy, tôi
làm sao được thân cận để kính thờ cúng-dường, để được cùng ở hầu quán-sát dung
mạo, nghe tiếng nói. Suy nghĩ lời dạy và nhận lãnh.
Bấy giờ có Chủ-Thành-Thần
tên là Bửu-Nhãn, quyến-thuộc vây quanh hiện thân trên không-trung, tay cầm
những bửu-hoa nhiều màu rải trên mình Thiện-Tài mà bảo rằng:
Nầy Thiện-nam-tử! Phải
giữ-gìn tâm-thành, nghĩa là chẳng tham tất cả cảnh-giới.
Phải trang-nghiêm
tâm-thành, nghĩa là chuyên ý xu cầu Phật thập-lực.
Phải tịnh-trị tâm thành,
nghĩa là dứt hẳn bỏn-sẻn, ganh ghét, dua bợ, phỉnh dối.
Phải thanh-lương
tâm-thành, nghĩa là tư-duy thiệt-tánh của tất cả pháp.
Phải tăng-trưởng tâm
thành, nghĩa là làm xong tất cả pháp trợ đạo.
Phải nghiêm-sức tâm-thành,
nghĩa là tạo lập cung-điện thiền-định giải-thoát.
Phải chiếu-diệu tâm-thành,
nghĩa là vào khắp tất cả Phật đạo-tràng nghe lãnh pháp bát-nhã-ba-la-mật.
Phải tăng-ích tâm-thành,
nghĩa là nhiếp khắp tất cả Phật phương-tiện-đạo.
Phải kiên-cố tâm-thành,
nghĩa là hằng siêng tu tập hạnh nguyện Phô-Hiền.
Phải phòng-hộ tâm-thành,
nghĩa là thường chuyên ngăn ngừa ác-hữu và ma-quân.
Phải rỗng suốt tâm-thành,
nghĩa là khai dẫn tất cả ánh sáng phật-trí.
Phải khéo bồi bổ
tâm-thành, nghĩa là nghe lãnh tất cả phật-pháp.
Phải phò trợ tâm-thành,
nghĩa là thâm-tín tất cả phật-công-đức-hải.
Phải quảng đại tâm-thành,
nghĩa là đại-từ đến khắp tất cả thế-gian.
Phải khéo che đậy
tâm-thành, nghĩa là tích tập những thiện-pháp để đậy trên tâm.
Phải rộng-rãi tâm-thành,
nghiẽa là đại-bi thương xót tất cả chúng-sanh.
Phải mở cửa tâm-thành,
nghĩa là đem tất cả sở-hửu tùy nghi bố-thí giúp đỡ.
Phải giữ kín tâm-thành,
nghĩa là phòng những ác-dục chẳng cho vào.
Phải nghiêm-túc tâm-thành,
nghĩa là đuổi những pháp ác chẳng cho ở chung.
Phải quyết định tâm-thành,
nghĩa là tích tập tất cả pháp trợ-đạo hằng không thối chuyển.
Phải an lập tâm-thành,
nghĩa là chánh-niệm cảnh-giới của tam-thế tất cả Như-Lai.
Phải sáng bóng tâm-thành,
nghĩa là thông suốt tất cả những pháp-môn, những duyên-khởi trong khế-kinh của
chư Phật đã tuyên thuyết.
Phải bộ phận tâm-thành,
nghĩa là hiểu thị khắp tất cả chúng-sanh cho họ được thấy đạo nhất-thiết-trí.
Phải trụ-trì tâm-thành,
nghĩa là phát những đại-nguyện-hải của tất cả tam-thế chư Như-Lai.
Phải phú-quý tâm-thành,
nghĩa là chứa nhóm tất cả phước-đức lớn cùng khắp pháp-giới.
Phải làm cho tâm-thành
sáng rõ, nghĩa là biết khắp những pháp căn dục của chúng-sanh.
Phải làm cho tâm-thành
tự-tại, nghĩa là nhiếp khắp tất cả thập phương pháp-giới.
Phải làm cho tâm-thành
thanh-tịnh, nghĩa là chánh-niệm tất cả chư Phật Như-Lai.
Phải biết tự-tánh của
tâm-thành, nghĩa là biết tất cả pháp đều không tự-tánh.
Phải biết tâm-thành như
huyễn, nghĩa là dùng nhất-thiết-trí biết rõ những pháp-tánh.
Nầy Thiện-nam-tử! Ðại
Bồ-Tát nếu có thể tịnh tu tâm-thành như vậy thời có thể tích tập tất cả
thiện-pháp.
Tại sao vậy?
Vì trừ bỏ tất cả những
chướng nạn: những là chướng thấy Phật, chướng nghe pháp, chướng cúng-dường
Như-Lai, chướng nhiếp chúng-sanh, chướng tịnh phật-độ.
Nầy Thiện-nam-tử! Ðại
Bồ-Tát do lìa những chướng nạn như vậy, nếu phát tâm mong cầu thiện-tri-thức,
chẳng cần dùng công-lực, bèn được thấy. Nhẫn đến rốt ráo tất sẽ thành Phật.
Bấy giờ có Thân-Chúng-Thần
tên là Liên-Hoa-Pháp-Ðức và Diệu-Hoa-Quang-Minh, vô-lượng chư thần vây quanh
sau trước, ra khỏi đạo-tràng dừng ở không-trung trước mặt Thiện-Tài dùng
diệu-âm-thanh ca ngợi.
Ma-Gia phu-nhơn, từ bông
tai phóng lưới quang-minh vô-lượng sắc tướng chiếu khắp vô-biên thế-giới mười
phương, cho Thiện-Tài thấy tất cả chư Phật.
Lưới quang-minh đó hữu
nhiễu thế-gian giáp một vòng rồi xoay về chiếu đỉnh đầu Thiện-Tài và vào khắp
lỗ lông trên thân Thiện-Tài.
Liền đó Thiện-Tài chứng
được tịnh-quang-minh-nhãn, vì lìa hẳn tất cả tối ngu-si. Ðược ly-ế-nhãn, vì có
thể rõ tánh của tất cả chúng-sanh. Ðược ly-cấu-nhãn, vì có thể quán tất cả môn
pháp-tánh. Ðược tịnh-huệ-nhãn, vì có thể quán tánh tất cả phật-độ. Ðược
tỳ-lô-giá-na-nhãn, vì thấy pháp-thân-phật. Ðược phổ-quang-minh-nhãn, vì thấy
thân phật bình-đẳng bất-tư-nghì. Ðược vô-ngại-quang-nhãn, vì quán-sát tất cả
sát-hải thành hoại. Ðược phổ-chiếu-nhãn, vì thấy thập phương Phật khởi đại
phương-tiện chuyển chánh-pháp-luân. Ðược phổ-cảnh-giới nhãn, vì thấy vô-lượng
Phật dùng sức tự-tại điều-phục chúng-sanh. Ðược phổ-kiến-nhãn, vì thấy tất cả
cõi chư Phật xuất thế.
Bấy giờ có La-Sát
Quỷ-Vương thủ hộ pháp-đường của Bồ-Tát, tên là Thiện-Nhãn, cùng quyến thuộc một
vạn La-Sát câu hội, ở không trung dùng những hoa đẹp rải trên mình Thiện-Tài mà
nói rằng:
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát
thành tựu mười pháp thời được thân cận chư thiện-trí-thức.
Ðây là mười pháp:
Tâm thanh-tịnh rời những
dua bợ phỉnh dối.
Ðại-bi bình-đẳng nhiếp
khắp chúng-sanh, biết các chúng-sanh không có thiệt.
Xu hướng nhất-thiết-trí
tâm không thối chuyển.
Dùng sức tín-giải vào khắp
tất cả phật đạo tràng.
Ðược tịnh-huệ-nhãn rõ các
pháp tánh.
Ðại-từ bình-đẳng che chở
khắp chúng-sanh.
Dùng trí quang-minh chiếu
rỗng những vọng cảnh.
Dùng mưa cam-lộ xối sanh
tử nóng.
Dùng mắt quảng đại soi
suốt các pháp.
Tâm thường tùy thuận chư
thiện-tri-thức.
Lại nầy Thiện-nam-tử!
Bồ-Tát thành-tựu mười môn tam-muội thời thường hiện thấy chư thiện-tri-thức.
Ðây là mười môn tam-muội:
Thanh-tịnh luân pháp-không
tam-muội.
Quán-sát thập phương hải
tam muội.
Nơi tất cả cảnh-giới chẳng
rời bỏ chẳng tổn giảm tam-muội.
Thấy khắp tất cả Phật xuất
thế tam-muội.
Nhóm tất cả tạng công-đức
tam-muội.
Tâm hằng chẳng bỏ
thiện-tri-thức tam-muội.
Thường thấy tất cả
thiện-tri-thức sanh phật công-đức tam-muội.
Thường chẳng rời tất cả
thiện-tri-thức tam-muội.
Thường cúng-dường tất cả
thiện-tri-thức tam-muội.
Thường không lỗi lầm ở chỗ
tất cả thiện-tri-thức tam-muội.
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát
thành tựu mười môn tam-muội nầy thời thường được thân cận chư thiện-tri-thức.
Lại được môn tam-muội thiện-tri-thức chuyển tất cả phật-pháp-luân. Ðược môn
tam-muội nầy rồi thời đều biết chư Phật thể tánh bình-đẳng, gặp thiện-tri-thức
mọi nơi.
Thiện-Tài ngước nhìn
không-trung mà thưa rằng:
Lành thay, lành thay! Ngài
vì thương xót nhiếp thọ tôi mà phương-tiện dạy cho tôi pháp thấy
thiện-tri-thức.
Xin ngài vì tôi mà chỉ
bảo: thế nào đến chỗ thiện-tri-thức? Tìm thiện-tri-thức ở chỗ nào?
La-Sát-Vương nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi
nên đảnh lễ khắp mười phương để cầu thiện-tri-thức. Nên chánh-niệm tư-duy tất
cả cảnh-giới để cầu thiện-thi-thức. Nên dũng-mãnh tự-tại du hành khắp mười
phương để cầu thiện-tri-thức. Nên quán thân, quán tâm như mộng như ảnh để cẩu
thiện-tri-thức.
Thiện-Tài y lời làm theo,
tức thời thấy đại-bửu-liên-hoa từ đất vọt lên: cộng bằng kim-cang, diệu-bửu làm
tạng, mi-ni làm cánh, quang-minh bửu-vương làm đài, hương báu nhiều màu làm
tua, vô-số lưới báu giăng che phía trên.
Trên đài sen báu ấy có lâu
các đẹp lạ tên là Phổ-Nạp-Thập-Phương-Pháp-Giới-Tạng trang-nghiêm.
Nền bằng kim-cang, ngàn
cột ngay hàng đều bằng ma-ni-bửu. Vách bằng vàng Diêm-Phù-Ðàn. Bốn mặt thòng
những chuỗi ngọc. Thềm bực lan-can trang-nghiêm giáp vòng.
Trong lâu các có tòa như-ý
bửu-liên-hoa nghiêm-sức với những châu báu, bửu-lan bửu-y xen lẫn, bửu-trướng
bửu-võng che phía trên. Những phan lụa báu thòng rủ bốn phía. Gió nhẹ thổi lay
phóng ánh sáng phát âm vang. Trong tràng bửu-hoa tuôn những hoa đẹp. Trong
lục-lạc báu phát âm-thanh tốt. Trong cửa báu thòng những chuỗi ngọc. Trong thân
ma-ni chảy nước thơm. Trong miệng tượng-bửu xuất hiện lưới liên-hoa. Trong
miệng bửu sư-tử thổi mây diệu-hương. Bửu-luân phạm-hình phát tiếng vui dạ-linh,
kim-cang-bửu phát tiếng bồ-tát đại-nguyện. Trong tràng bửu-nguyệt xuất hiện
hình phật-hóa. Tịnh-tạng bửu-vương hiện tam-thế Phật thứ đệ thọ sanh. Nhựt-tạng
ma-ni phóng đại quang-minh chiếu khắp tất cả quốc-độ mười phương. Ma-Ni
bửu-vương phóng quang-minh viên-mãn của tất cả chư Phật. Tỳ-Lô-Giá-Na ma-ni
bửu-vương nổi mây đồ cúng để dâng hiến tất cả chư Phật Như-Lai. Như-ý
châu-vương niệm niệm thị hiện phổ-hiền thần-biến sung-mãn pháp-giới. Tu-di
bửu-vương xuất hiện thiên-cung-điện, trong đây chư thiên-nữ dùng diệu âm ca
tụng công-đức vi-diệu bất-tư-nghì của đức Như-Lai.
Xung quanh bửu-tòa nầy lại
có vô-lượng bửu-tòa. Ma-Gia Phu-Nhơn hiện tịnh-sắc-thân ngồi trên đại bửu-tòa
ấy: những là sắc-thân siêu tam-giới, vì đã thoát tất cả loài hữu-lậu.
Sắc-thân tùy tâm sở-thích,
vì với tất cả thế-gian không chấp trước.
Sắc-thân cùng khắp, vì
bằng số tất cả chúng-sanh.
Sắc-thân không gì sánh
bằng, vì làm cho tất cả chúng-sanh diệt trừ kiến chấp điên đảo.
Sắc-thân vô-lượng thứ, vì
tùy tâm của chúng-sanh mà thị-hiện.
Sắc-thân vô-biên tướng, vì
hiện khắp những hình tướng.
Sắc-thân đối hiện khắp
nơi, vì dùng đại tự-tại để thị-hiện.
Sắc-thân giáo hóa tất cả,
vì tùy nghi mà thị-hiện.
Sắc-thân hằng thi-hiện, vì
tận chúng-sanh-giới mà vẫn vô-tận.
Sắc-thân vô-khứ, vì nơi
tất cả loài vẫn không diệt.
Sắc-thân vô-lai, vì nơi
tất cả thế-gian vẫn không sanh.
Sắc-thân bất-sanh, vì
không sanh khởi.
Sắc-thân bất-diệt vì rời
nghữ ngôn.
Sắc-thân chẳng phải thiệt,
vì được như thiệt.
Sắc-thân chẳng phải hư, vì
tùy thế-gian mà hiện.
Sắc-thân vô-động, vì lìa
hẳn sanh diệt.
Sắc-thân bất hoại, vì
pháp-tánh bất hoại.
Sắc-thân vô-tướng, vì dứt
đường ngôn ngữ.
Sắc-thân một tướng, vì lấy
vô-tướng làm tướng.
Sắc-thân như tượng, vì tùy
tâm ứng-hiện.
Sắc-thân như huyễn, vì
huyễn-trí sanh ra.
Sắc-thân như diệm, vì chỉ
do tưởng mà còn.
Sắc-thân như ảnh, vì tùy
nguyện hiện sanh.
Sắc-thân như mộng, vì tùy
tâm mà hiện.
Sắc-thân pháp-giới, vì
tánh tịnh như hư-không.
Sắc thân đại-bi, vì thường
cứu hộ chúng-sanh.
Sắc-thân vô-ngại, vì niệm
niệm cùng khắp pháp-giới.
Sắc-thân vô-biên, vì tịnh
khắp tất cả chúng-sanh.
Sắc-thân vô-lượng, vì siêu
xuất tất cả ngữ ngôn.
Sắc-thân vô-trụ, vì nguyện
độ tất cả thế-gian.
Sắc-thân vô-xứ, vì hằng
hóa độ chúng-sanh không thôi dứt.
Sắc-thân vô-sanh, vì
huyễn-nguyện làm thành.
Sắc-thân vô-thắng, vì siêu
các thế-gian.
Sắc-thân như-thật, vì
định-tâm hiện ra.
Sắc-thân chẳng sanh, vì
tùy nghiệp của chúng-sanh mà xuất-hiện.
Sắc-thân châu như-ý, vì
khắp thỏa mãn tất cả nguyện cầu của chúng-sanh.
Sắc-thân vô-phân-biệt, vì
chỉ tùy theo chúng-sanh phân-biệt mà khởi.
Sắc-thân rời phân-biệt, vì
tất cả chúng-sanh chẳng biết được.
Sắc-thân vô-tận, vì tận
sanh-tử-tế của các chúng-sanh.
Sắc-thân thanh-tịnh, vì
đồng vô-phân-biệt với Như-Lai.
Thân như vậy chẳng phải
sắc, vì bao nhiêu sắc-tướng như ảnh tượng cả.
Chẳng phải thọ, vì đã diệt
hẳn khổ-thọ của thế-gian.
Chẳng phải tưởng, vì chỉ
tùy theo chúng-sanh tưởng mà hiện.
Chẳng phải hành, vì nương
theo nghiệp như-huyễn mà thành-tựu.
Chẳng phải thức, vì là
nguyện-trí không vô-tánh của Bồ-Tát, vì ngữ ngôn của tất cả chúng-sanh đều dứt,
vì đã thành-tựu thân tịch-diệt.
Bấy giờ Thiện-Tài lại thấy
Ma-Gia Phu-Nhơn tùy theo tâm sở-thích của các chúng-sanh mà hiện sắc-thân siêu
quá tất cả thế-gian.
Những là: hoặc hiện thân
siêu quá thiên-nữ nơi trời Tha-Hóa Tự-Tại, nhẫn đến siêu quá thiên-nữ nơi trời
Tứ-Thiên-Vương.
Hoặc hiện thân siêu quá
Long-Nữ, nhẫn đến siêu quá nhơn-nữ.
Hiện vô-lượng sắc-thân như
vậy để lợi ích chúng-sanh, nhóm họp pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí, hành bình-đẳng
đàn ba-la-mật, đại-bi che khắp tất cả thế-gian, xuất sanh vô-lượng công-đức của
Như-Lai, tu tập tăng trưởng tâm nhất-thiết-trí, quán sát tư duy thật-tánh của
các pháp, được thâm-nhẫn, đủ định-môn, an trụ cảnh-giới tam-muội bình-đẳng,
được Như-Lai định, viên-mãn quang-minh, tiêu cạn biển lớn phiền-não của
chúng-sanh, tâm thường chánh-định chưa từng động loạn, hằng chuyển pháp-luân
thanh-tịnh bất-thối. Khéo biết rõ tất cả phật-pháp, hằng dùng trí-huệ quán pháp
thật-tướng, thấy chư Như-Lai không lòng nhàm, biết tam-thế Phật thứ đệ xuất thế
tam-muội, thấy Phật thường hiện-tiền, thấu rõ Như-Lai xuất hiện nơi đời,
vô-lượng vô-số những đạo thanh-tịnh, đi nơi cảnh-giới hư-không của Phật. Nhiếp
khắp chúng-sanh đều theo tâm họ để giáo-hóa thành-tựu, nhập Phật vô-lượng
thanh-tịnh pháp thân, thành-tựu đại nguyện nghiêm-tịnh phật-độ, rốt ráo điều
phục tất cả chúng-sanh, tâm hằng vào khắp cảnh-giới của chư Phật, xuất sanh bồ
tát tự-tại thần-lực, đã được pháp thân thanh-tịnh vô-nhiễm mà hằng
thị-hiện vô-lượng sắc thân, xô dẹp tất cả ma-lực thành sức đại thiện-căn, xuất
sanh sức chánh-pháp, đầy đủ phật-lực, được sức tự-tại của chư Bồ-Tát, mau tăng
trưởng sức nhất-thiết-trí, được phật-trí-quang chiếu khắp tất cả, biết hết tâm
tánh giải dục sai biệt của vô-lượng chúng-sanh, thân cùng khắp mười phương cõi,
biết rõ tướng thành hoại của các cõi, dùng quảng-đại-nhãn thấy thập-phương-hải,
dùng châu-biến-trí biết tam-thế-haỉ, thân khắp thừa-sự tất cả phật-hải, tâm
hằng nạp thọ tất cả pháp-hải, tu tập tất cả công-đức của Như-Lai, xuất sanh tất
cả trí-huệ của Bồ-Tát, thường thích quán-sát tất cả Bồ-Tát từ sơ-phát-tâm nhẫn
đến thành tựu đạo bồ-tát, thường siêng thủ hộ tất cả chúng-sanh, thường thích
tán dương công-đức của chư Phật, nguyện làm mẹ của tất cả Bồ-Tát.
Thiện-Tài thấy Ma-Gia
Phu-Nhơn hiện diêm-phù-đề vi-trần-số môn phương-tiện như vậy. Ðúng như số thân
của Ma-Gia Phu-Nhơn đã hiện, Thiện-Tài cũng tự hiện bao nhiêu thân ở trước tất
cả Ma-Gia Phu-Nhơn mà cung kính lễ bái.
Tức thời Thiện-Tài chứng
được vô-lượng vô-số môn tam-muội, phân biệt quan-sát tu hành chứng nhập.
Sau khi xuất định,
Thiện-Tài hữu nhiễu Phu-Nhơn và quyến-thuộc của Phu-Nhơn, đứng chắp tay cung
kính thưa rằng:
Bạch Ðại-thánh!
Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát dạy tôi phát tâm vô-thượng bồ-đề, cầu thiện-tri-thức để
thân cận cúng-dường.
Ở chỗ mỗi vị
thiện-tri-thức tôi đều đến kính thờ không bỏ luống, lần lượt đến đây. Xin
Dại-Thánh vì tôi mà dạy bảo Bồ-Tát thế nào học bồ-tát hạnh mà được thành-tựu?
Ma-Gia Phu-Nhơn nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ta đã
thành-tựu môn giải-thoát bồ-tát-đại-nguyện-trí-huyễn, do đây ta thường làm mẹ
của Bồ-Tát.
Nầy Thiện-nam-tử! Như ta ở
tại cung vua Tịnh-Phạn nơi thành Ca-Tỳ-La nầy, từ hông bên hữu sanh Thái-Tử
Tất-Ðạt hiện bất-tư-nghì thần-biến tự-tại.
Như vậy nhẫn đến tận
thế-giới hải nầy, tất cả Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai đều vào thân ta mà thị-hiện
đản-sanh tự-tại thần-biến.
Lại nầy Thiện-nam-tử! Lúc
ta ở cung vua Tịnh-Phạn, lúc Bồ-Tát sắp hạ sanh, ta thấy thân của Bồ-Tát mỗi
mỗi lỗ lông đều phóng quang-minh tên là
Nhất-Thiết-Như-Lai-Thọ-Sanh-Công-Ðức-Luân. Mỗi lỗ lông đều hiện bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết phật sát vi-trần-số Bồ-Tát thọ sanh trang-nghiêm. Những
quang-minh đó thảy đều chiếu khắp tất cả thế-giới, rồi nhập vào đảnh của ta và
khắp các chân lông.
Lại trong quang-minh ấy
hiện khắp tất cả danh-hiệu của Bồ-Tát, cùng thọ-sanh, thần-biến, cung-điện,
quyến-thuộc, ngũ dục tự vui của Bồ-Tát.
Trong quang-minh lại thấy
Bồ-Tát xuất-gia, đến đạo-tràng thành Ðẳng-Chánh-Giác, ngồi tòa sư-tử, Bồ-Tát
vây quanh, các vua chúa cúng-dường, vì đại-chúng mà chuyển pháp-luân.
Lại thấy đức Như-Lai thuở
xưa lúc tu hành bồ-tát-đạo, cung kính cúng-dường chư Phật, phát tâm bồ-đề,
nghiêm-tịnh phật-độ, niêm niệm thị-hiện vô-lượng hóa-thân khắp thập phương
thế-giới, nhẫn đến rốt sau nhập niết-bàn. Tất cả những sự như vậy đều thấy rõ
cả.
Nầy Thiện-nam-tử! Lúc
diệu-quang-minh ấy vào thân của ta, hình lượng của thân ta dầu chẳng hơn trước,
nhưng thật ra thời đã siêu thế-gian.
Tại sao vậy?
Vì lúc đó thân của ta
lượng đồng hư-không, đều có thể dung thọ những cung-điện trang-nghiêm của thập
phương Bồ-Tát thọ sanh.
Lúc Bồ-Tát từ cung trời
Ðâu-Suất sắp giáng thần, có mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng nguyện, đồng
hạnh, đồng thiện-căn, đồng trang nghiêm, đồng giải-thoát, đồng trí-huệ,
trí-lực, pháp-thân, sắc-thân, nhẫn đến phổ-hiền thần-thông hạnh nguyện thảy đều
đồng với Bồ-Tát. Vi-trần-số Bố-Tát nầy cùng vây quanh.
Lại có tám vạn Long-Vương
và tất cả Thế-Chủ thừa cung-điện của mình đều đến cúng-dường.
Bấy giờ Bồ-Tát dùng sức
thần-thông cùng chư Bồ-Tát quyến-thuộc hiện khắp tất cả Ðâu-Suất Thiên-Cung.
Mỗi mỗi Thiên-Cung đều hiện hình tượng thọ sanh trong tất cả Diêm-Phù-Ðề ở thập
phương thế-giới, phương-tiện giáo hóa vô-lượng chúng-sanh, khiến chư Bồ-Tát rời
giải-đãi, không chấp trước.
Lại dùng thần-lực phóng
đại quang-minh chiếu khắp thế-gian phá những tối tăm diệt những khổ não, làm
cho các chúng-sanh đều biết những hành nghiệp đã có từ đời trước, hầu thoát hẳn
ác-đạo.
Lại vì cứu hộ tất cả
chúng-sanh mà hiện ra trước họ, để hiện những thần-biến.
Bồ-Tát đã hiện những sự
kỳ-đặc như vậy rồi cùng quyến-thuộc đến nhập vào thân của ta.
Chư Bồ-Tát ấy ở trong bụng
ta du hành tự-tại: hoặc dùng Ðại-Thiên thế giới làm một bước, nhẫn đến hoặc
dùng bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế giới làm một bước.
Lại trong mỗi niệm, chúng
hội Bồ-Tát ở chỗ chư Phật Như-Lai nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tất cả
thế-giới mười phương, cùng dục-giới sắc-giới chư Thiện-Vương chư Phạm-Vương vì
muốn thấy thần-biến của Bồ-Tát ở trong thai mẹ để cung kính cúng-dường nghe
lãnh chánh pháp nên đều đến vào thân của ta.
Dầu trong bụng của ta đều
có thể dung thọ tất cả chúng-hội như vậy, mà thân ta vẫn không lớn thêm, cũng
chẳng chật hẹp.
Chư Bồ-Tát và chúng-hội
đều tự thấy mình ở đạo-tràng thanh-tịnh nghiêm-sức.
Nầy Thiện-nam-tử! Như
trong Diêm-Phù-Ðề nầy Bồ-Tát thọ sanh, ta làm mẹ, trong tất cả trăm ức
Diêm-Phù-Ðề khắp Ðại-Thiên thế-giới cũng như vậy. Nhưng thân của ta đây bổn lai
không hai, chẳng phải ở một xứ, chẳng phải ở nhiều xứ.
Tại sao vậy?
Vì ta tu môn giải-thoát
bồ-tát đại-nguyện trí-huyễn trang-nghiêm.
Nầy Thiện-nam-tử! Như đức
Thế-Tôn hiện nay, ta làm mẹ của Ngài, bao nhiêu chư Phật thuở xưa ta cũng làm
mẹ như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử! Thuở
xưa, ta từng làm Thần ao sen. Bấy giờ có Bồ-Tát bỗng nhiên hóa sanh nơi
liên-hoa-tạng, ta liền bồng ẵm săn sóc nuôi nấng. Thế-gian gọi ta là mẹ của
Bồ-Tát.
Lại thuở xưa, ta từng làm
Thần bồ-đề-tràng. Bấy giờ có Bồ-Tát bỗng nhiên hóa-sanh trong lòng của ta.
Người đời ấy cũng gọi ta là mẹ của Bồ-Tát.
Nầy Thiện-nam-tử! Có
vô-lượng tối-hậu-thân Bồ-Tát phương-tiện thị-hiện thọ sanh nơi thế-giới nầy, ta
đều làm mẹ của các Ngài.
Nầy Thiện-nam-từ! Như ở
thế-giới Ta-Bà nầy, trong kiếp Hiền, quá khứ đức Câu-Lưu-Tôn Phật, đức
Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni-Phật, đức Ca-Diếp Phật và đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật, hiện nay
thị hiện thọ sanh, ta đều làm mẹ, đời vị-lai, Dị-Lặc Bồ-Tát từ Thiên-Cung
Ðâu-Suất lúc sắp giáng thần phóng đại quang-minh chiếu khắp pháp-giới thị-hiện
thấn-biến thọ sanh cùng chúng Bồ-Tát, ta cũng sẽ lảm mẹ.
Kế đó theo thứ tự, có
Sư-Tử Phật, Pháp-Tràng Phật, Thiện-Nhãn Phật, Tịnh-Hoa Phật, Hoa-Ðức Phật,
Ðề-Xá Phật, Phất-Sa Phật, Thiện-Ý Phật, Kim-Cang Phật, Ly-Cấu Phật,
Nguyệt-Quang Phật, Trì-Cự Phật, Danh-Xưng Phật, Kim-Cang-Thuẩn Phật,
Thanh-Tịnh-Nghĩa Phật, Cám-Thân Phật, Ðáo-Bỉ-Ngạn Phật, Bửu-Diệm-Sơn Phật,
Trì-Minh Phật, Liên-Hoa-Ðức Phật, Danh-Xưng Phật, Vô-Lượng-Công-Ðức Phật,
Tối-Thắng-Ðăng Phật, Trang-Nghiêm-Thân Phật, Thiện-Oai-Nghi Phật, Từ-Ðức Phật,
Vô-Trụ Phật, Ðại-Oai-Quang Phật, Vô-Biên-Âm Phật, Thắng-Oán-Ðịch Phật,
Ly-Nghi-Hoặc Phật, Thanh-Tịnh Phật, Ðại-Quang Phật, Tịnh-Tâm Phật, Vân-Ðức
Phật, Trang-nghiêm-Ðảnh-Kế Phật, Thọ-Vương Phật, Bửu-Ðăng Phật, Hải-Huệ Phật,
Diệu-Bửu Phật, Hoa-Quan Phật, Mãn-Nguyện Phật, Ðại-Tự-Tại Phật, Diệu-Ðức-Vương
Phật, Tối-Tôn-Thắng Phật, Chiên-Ðàn-Vân Phật, Cám-Nhãn Phật, Thắng-Huệ Phật,
Quán-Sát-Huệ Phật, Xí-Thạnh-Vương Phật, Kiên-Cố-Huệ Phật, Tự-Tại-Danh Phật,
Sư-Tử-Vương Phật, Tự-Tại Phật, Tối-Thắng-Ðảnh Phật, Kim-Cang-Trí-Sơn Phật,
Diệu-Ðức-Tạng Phật, Bửu-Võng-Nghiêm-Thân Phật, Thiện-Huệ Phật, Tự-Tại-Thiên
Phật, Ðại-Thiên-Vương Phật, Vô-Y-Ðức Phật, Thiện-Thí Phật, Diệm-Huệ Phật,
Thủy-Thiên Phật, Ðắc-Thượng-Vị Phật, Xuất-Sanh-Vô-Thượng-Công-Ðức Phật,
Tiên-Nhân-Thị-Vệ Phật, Tùy-Thế-Ngữ-Ngôn Phật, Công-Ðức-Tự-Tại-Tràng Phật,
Quang-Tràng Phật, Quán-Thân Phật, Diệu-Thân Phật, Hương-Diệm Phật,
Kim-Cang-Bửu-Nghiêm Phật, Hỉ-Nhãn Phật, Ly-Dục Phật, Cao-Ðại-Thân Phật,
Tài-Thiên Phật, Vô-Thượng-Thiên Phật, Thuận-Tịch-Diệt Phật, Trí-Giác Phật,
Diệt-Tham Phật, Ðại-Diệm-Vương Phật, Tịch-Chư-Hữu Phật, Tỳ-Xá-Khư-Thiên Phật,
Kim-Cang-Sơn Phật, Trí-Diệm-Ðức Phật, An-Ổn Phật, Sư-Tử-Xuất-Hiện Phật,
Viên-Mãn-Thanh-Tịnh Phật, Thanh-Tịnh-Hiền Phật, Ðệ-Nhất-Nghĩa Phật,
Bá-Quang-Minh Phật, Tối-Tăng-Thượng Phật, Thâm-Tự-Tại Phật, Ðại-Ðịa-Vương Phật,
Trang-Nghiêm-Vương Phật, Giải-Thoát Phật, Diệu-Âm Phật, Thù-Thắng Phật, Tự-Tại
Phật, Vô-Thương-Y-Vương Phật, Công-Ðức-Nguyệt Phật, Vô-Ngại-Quang Phật,
Công-Ðức-Tụ Phật, Nguyệt-Hiện Phật, Nhựt-Thiên Phật, Xuất-Chư-Hữu Phật,
Dũng-Mãnh-Danh-Xưng Phật, Quang-Minh-Môn Phật, Ta-La-Vương Phật, Tối-Thắng
Phật, Dược-Vương Phật, Bửu-Thắng Phật, Kim-Cang-Huệ Phật, Vô-Năng-Thắng Phật,
Vô-Năng-Ánh-Tế Phật, Chúng-Hội-Vương Phật, Ðại-Danh-Xưng Phật, Mẫn-Trì Phật,
Vô-Lương-Quang Phật, Ðại-Nguyện-Quang Phật, Pháp-Tự-Tại-Bất-Hư Phật,
Bất-Thối-Ðịa Phật, Tịnh-Thiên Phật, Thiện-Sư Phật, Kiên-Cố-Khổ-Hạnh Phật,
Nhất-Thiết-Thiện-Hữu Phật, Giải-Thoát-Âm Phật, Du-Hí-Vương Phật, Diệt-Tà-Khúc
Phật, Chiêm-Bặc-Tịnh-Quang Phật, Cụ-Chúng-Ðức Phật, Tối-Thắng-Nguyệt Phật,
Chấp-Minh-Cự Phật, Thù Diệu-Thân Phật, Bất-Khả-Thuyết Phật, Tối-Thanh-Tịnh
Phật, Hữu-An-Chúng-Sanh Phật, Vô-Lượng-Quang Phật, Vô-Úy-Âm Phật,
Thủy-Thiên-Ðức Phật, Bất-Ðộng-Huệ-Quang Phật, Hoa-Thắng Phật, Nguyệt-Diêm Phật,
Bất-Thối-Huệ Phật, Ly-Ái Phật, Vô-Trước-Huệ Phật, Tập-Công-Ðức-Uẩn Phật,
Diệt-Ác-Thú Phật, Phổ-Tán-Hoa Phật, Sư-Tử-Hống Phật, Ðệ-Nhất-Nghĩa Phật,
Vô-Ngại-Kiến Phật, Phá-Tha-Quân Phật, Bất-Trước-Tướng Phật, Ly-Phân-Biệt-Hải
Phật, Ðoan-Nghiêm-Hải Phật, Tu-Di-Sơn Phật, Vô-Trước-Trí Phật, Vô-Biên-Toà
Phật, Thanh-Tịnh-Trụ Phật, Tùy-Sư-Hành Phật, Tối-Thượng-Thí Phật, Thường-Nguyệt
Phật, Nhiêu-Ích-Vương Phật, Bất-Ðộng-Tụ Phật, Phổ-Nhiếp-Thọ Phật, Nhiêu-Ích-Huệ
Phật, Trì-Thọ Phật, Vô-Diệt Phật, Cụ-Túc-Danh-Xưng Phật, Ðại-Oai-Lực Phật,
Chủng-Chủng-Sắc-Tướng Phật, Vô-Tướng-Huệ Phật, Bất-Ðộng-Thiên Phật,
Diệu-Ðức-Nan-Tư Phật, Mãn-Nguyệt Phật, Giải-Thoát-Nguyệt Phật, Vô-Thượng-Vương
Phật, Hi-Hữu-Thân Phật, Phạm-Cúng-Dường Phật, Bất-Thuấn Phật, Thuận-Tiên-Cổ
Phật, Tối-Thượng-Nghiệp Phật, Thuận-Pháp-Trí Phật, Vô-Thắng-Thiên Phật,
Bất-Tư-Nghì-Công-Ðức-Quang Phật, Tùy-Pháp-Hành Phật, Vô-Lượng-Hiền Phật,
Phổ-Tùy-Thuận-Tự-Tại Phật, Tối-Tôn-Thiên Phật, nhẫn đến đức Lâu-Chí Như-Lai,
tất cả là một ngàn đức Phật đã và sẽ thành Phật trong Hiền-Kiếp nơi Ta-Bà
thế-giới nầy, ta đều làm mẹ của các Ngài.
Cũng như ở cõi Ðại-Thiên
nầy, vô-lượng thế-giới ở mười phương, trong tất cả kiếp, những bực tu hành hạnh
nguyện Phổ-Hiền để hóa độ chúng-sanh, ta đều tự thấy thân mình làm mẹ của các
Ngài.
Thiện-Tài bạch rằng:
Ðại-Thánh được môn
giải-thoát nầy đến nay là bao nhiêu thời-gian?
Ma-Gia Phu-Nhơn nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Thuở
xưa, quá bất-tư-nghì kiếp số, chẳng phải đạo-nhãn của bực tối-hậu-thân Bồ-Tát
biết được, có kiếp tên là Tịnh-Quang, thế-giới tên là Tu-Di-Ðức, dầu là năm
loài ở lộn lạo, nhưng cõi đó bằng những chất báu thanh-tịnh trang-nghiêm không
có sự nhơ uế xấu xí. Cõi đó có ngàn ức Tứ-Thiên-Hạ. Trong đó có một Tứ-Thiên-Hạ
tên là Sư-Tử-Tràng. Nơi đây có tám mươi ức Vương-Thành. Có một Vương-Thành tên
là Tự-Tại-Tràng, ngự trị bởi Chuyển-Luân-Vương tên là Ðại-Oai-Ðức.
Phía bắc Vương-Thành
Tự-Tại-Tràng, có một đạo-tràng tên là Mãn-Nguyệt-Quang-Minh. Thần đạo-tràng nầy
tên là Từ-Ðức.
Bấy giờ có Bồ-Tát tên là
Ly-Cấu-Tràng ngồi nơi đạo-tràng nầy thành Ðẳng-Chánh-Giác.
Có một ác-ma tên là
Kim-Sắc-Quang cùng quyến thuộc vô-lượng chúng câu hội đến chỗ Bồ-Tát.
Chuyển-Luân-Vương
Ðại-Oai-Ðức đã được bồ-tát thần-thông tự-tại, biến hóa binh chúng đông hơn quân
ma bao vây đạo-tràng. Quân ma sợ hãi tự tan rã. Do đó Bồ-Tát Ly-Cấu-Tràng thành
Vô-Thượng Chánh-Giác.
Thần đạo-tràng thấy sự
việc trên đây, lòng hoan hỉ vô-lượng, với Chuyển-Luân-Vương tưởng là con trai
của mình, đối trước Phật pháp nguyện rằng: Chuyển-Luân-Vương nầy chẳng luận
sanh chỗ nào, nguyện tôi đều làm mẹ của Vương, nhẫn đến đời Vương thành Phật
cũng vậy.
Sau khi phát nguyện, nơi
đạo-tràng ấy, Thần lại từng cúng dường mười na-do-tha đức Phật.
Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa
ấy, Thần đạo-tràng tên Từ-Ðức chính là tiền thân của ta.
Chuyển-Luân-Vương
Ðại-Oai-Ðức là tiền thân của đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai.
Từ lúc ta phát nguyện thuở
xưa ấy, đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai phàm thọ sanh ở xứ nào cõi nào tu bồ-tát hạnh
gieo thiện-căn giáo-hóa chúng-sanh, nhẫn đến thị-hiện tối-hậu-thân, mỗi niệm
khắp tất cả thế-giới, thị-hiện thần-biến bồ-tát thọ sanh, thường làm con trai
của ta, ta thường làm mẹ của Ngài.
Nầy Thiện-nam-tử! Quá-khứ
và hiện-tại thập phương thế-giới, vô-lượng chư Phật lúc sắp thành
Ðẳng-Chánh-Giác, đều từ nơi rốn phóng đại-quang-minh chiếu đến thân ta và
cung-diện của ta ở tối-hâu-thân của các Ngài, ta đều làm mẹ.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết “MÔN GIẢI
THOÁT BỒ TÁT ĐẠI NGUYỆN-TRÍ HUYỄN” nầy.
Như chư đại Bồ-Tát có đủ
tạng đại-bi giáo-hóa chúng-sanh thường không nhàm đủ, dùng sức tự-tại mỗi mỗi
lỗ lông thị-hiện thần-biến của vô lượng chư Phật.
Ta thế nào biết được nói
được công-đức-hạnh ấy.
Nầy Thiện-nam-tử! Ở
thế-giới nầy, nơi Ðao-Lợi-Thiên, có Thiên-Vương tên là Chánh-Niệm. Thiên-Vương
có người con gái tên là Thiện Chủ-Quang.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế
nào học bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-đạo?
Thiện-Tài Ðồng-Tử kỉnh lễ
nơi chân Ma-Gia Phu-Nhơn, hữu nhiễu vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà
đi.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
24 tháng 06, 1990
41.- MA-GIA PHU-NHƠN
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT ĐẠI NGUYỆN-TRÍ HUYỄN” nầy.
Hôm nay là buổi
thuyết giảng thứ 111 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này. Trong lần trước, chúng
tôi đã giảng đến vị thiện tri thức thứ 40, tức là ngài Thích Nữ Cù Ba, ngày xưa
là người vợ Nhân thế thứ hai của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Hôm nay sẽ đi tới bà
mẹ của đức Phật, tức ngài Ma Gia Phu Nhân, vị thiện tri thức thứ 41.
Từ đây trở đi,
Kinh Hoa Nghiêm rất cô đọng, nhưng cũng rất hay. Có những đoạn rất ngắn nhưng rất
khó hiểu. Nên từ kỳ sau trở đi, tôi đề nghị quí vị nên mang theo kinh để dễ
dàng theo dõi từng chữ một, theo được mạch kinh, và nắm được ý chính dễ dàng
hơn.
Các kinh nhà Phật
thường dung thông lẫn nhau, nên chúng ta, trong khi giảng Bát Nhã, vẫn có thể
giảng Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, duy thức, hay Đại Bảo Tích .v.v… được.
Trước khi đi vào
kinh, chúng tôi xin nhắc những điểm chính để quí vị nhớ.
Tất cả giáo lý nhà
Phật, là căn cứ trên diệu tâm, căn cứ trên Chân Tâm Diệu Minh. Vậy thì câu hỏi
đặt ra là:
“Giữa
Bồ Đề Tâm và chân Tâm Diệu Minh khác nhau ra sao?”
Nó cũng là một,
cũng là khác, vì Chân tâm diệu minh là chỉ cái khởi đầu, cái bản giác. Còn
chúng ta là chúng sanh khởi lên từ chân tâm ấy, do một niệm mê mờ vô thủy, hiện
tướng thành chúng sanh và pháp giới này, rồi trôi lăn miên viễn. Nhưng đến một
ngày nào đó, do một túc duyên cũ nào, do sự gia trì của chư Phật, do sự huân tập
của Chân Tâm, ta bỗng khởi lên một niệm muốn trở về giòng suối nguyên sơ của
mình, về chân tâm diệu minh đó. Muốn trở về như thế, hành giả bèn khởi lên cái
Bồ Đề Tâm rất lớn. Bồ Đề Tâm tương tự như một trái đào, một phía mầu hồng, phía
mầu xanh. Bồ đề tâm bao giờ cũng có hai mặt, một mặt là Bát Nhã, mặt là Đại Bi.
Trái đào đó, hành giả nuôi lớn dần lên rồi sẽ thể nhập Chân Tâm Diệu Minh, lúc
đó hành giả sẽ đồng nhất hóa với chân tâm diệu minh và trôi vào biển Diệu Giác
Vô Sở Đắc. Cái chân tâm diệu minh ấy, vừa diệu, vừa minh. Minh là trong sáng
tuyệt vời, khi một hành giả tu hành đến chỗ Bát Nhã thì lúc đó hành giả làm
thâm nhập cái hư minh của mình và cái Minh trong sáng tuyệt vời kia. Còn diệu
là khả năng ghê gớm kỳ diệu của Tâm ấy, nó có thể phan theo các duyên, hóa hiện
tất cả sắc tướng, vì thế gọi là Diệu. Tâm ấy, không những trong sáng gọi là
Minh rồi, đồng thời nó có cái diệu dụng lạ lùng là khởi lên mọi hình tướng
trong pháp giới này, vì thế gọi là kỳ diệu. Phàm phu chúng ta, cũng khởi từ diệu
tâm ấy, nhưng vì một niệm mê mờ vô thủy, ta quên mất cái diệu, không biết rằng
mình có cái khả năng biến hóa kỳ diệu đó, chỉ giữ lại một chút minh, mà minh đó
lại tụt xuống thành hư minh, chứ không phải còn là cái Minh trong sáng tuyệt vời.
Tu hành có nghĩa là phục hồi lại cái Minh và Diệu ấy, vì vậy, giáo lý nhà Phật
là giáo lý của sự biến hóa không lường, không tận, không bao giờ ngừng.
Cái Diệu đó sau sẽ
thành Đại Bi, còn hư minh kia sau sẽ thành Bát Nhã. Vì vậy, người tu hành tiên
quyết là phải có bát nhã và đại bi, còn không thì chỉ là tu theo tà ma ngoại đạo,
không thể nhập vào Chân tâm diệu minh được.
Khi quí vị đọc bất
cứ kinh nào mà thấy thông suốt, không vướng thì quí vị đi đúng đường. Vì vậy,
tôi mới nhấn mạnh đến cái điểm thông suốt ấy.
Đó là điểm cần phải
nhớ. Vì có những vị tu học suốt hai, ba mươi năm, mà chỉ biết nói đến bát nhã
thôi, quên mất tâm đại bi, hay ngược lại, chỉ nói đại bi mà quên nói bát nhã,
thì đó vẫn còn là một điều thiếu sót. Nên tu hành như vậy vẫn chưa đúng với bản
hoài Chư Phật, giống như một người đi bằng hai cái nạng, mà tự vất đi một nạng,
chỉ dơ cao một nạng còn lại, rồi dạy những người khác chỉ đi một nạng, thì suốt
đời đi lệch lạc, loạng quạng mà không đến chỗ tuyệt vời được.
Các vị thiền sư
ngày nay dễ vướng vào ngữ lục nhà thiền, thích nói Bát Nhã quên mặt Đại Bi.
Chính mình quên thì còn đỡ, mà đi dạy người khác một pháp môn còn thiếu sót thì
quả là một sự đáng tiếc.
Bây giờ
xin trở về kinh…
Vừa rồi, chúng ta
vừa tụng phẩm kinh về thập địa, đến chỗ đệ cửu địa tức là Thiện Huệ địa, và đệ
thập địa tức là Pháp Vân địa. Ở đây, các vị Bồ Tát luôn luôn chuyên tâm về sự
thuyết pháp, nhưng không phải như người thường thuyết pháp. Các ngài thường ngồi
bất động mà chỉ dùng tâm lực của mình phổ vào những lỗ chân lông để khởi lên những
diệu âm, hoặc phổ vào cỏ cây, dòng nước , núi non v.v.. trong cả một đại thiên
thế giới, để tất cả những thứ đó điều phát ra tiếng pháp, hoặc nói tứ đế, hoặc
nói thập nhị nhân duyên, hay nói về Bồ Tát hạnh v.v… Như vậy, ta thấy rõ rằng tất
cả pháp giới đều chỉ là biến hiện, đều chỉ là do tâm của vị Bồ Tát đó, và tâm ấy
càng cao bao nhiêu lại càng dễ dàng chuyển vật bấy nhiêu. Chúng ta chưa thể vận
dụng cái tâm ấy được, nên vì vậy, cây kia thường chỉ phát ra tiếng xào xạc của
gió thổi, còn một vị Bồ Tát lớn, khi ngài phổ thần lực thì cây cỏ kia cũng phát
ra tiếng pháp… Vì vậy, ở địa thứ chín này, trong kinh có giảng rất nhiều, rất
dài về tứ vô ngại: pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại, và lạc thuyết biện
tài vô ngại. Sang đến đệ thập địa tức là Pháp Vân Địa, chúng ta thấy rằng, vị đại
Bồ Tát đó sắp lên thọ chức vị nên ngài ngồi trên một bông đại bửu liên hoa, (bông
liên hoa ấy tự nhiên được chiêu cảm mà hiện ra), thân cân xứng với
hoa, mà hoa đó thì bao trùm hàng trăm vạn đại thiên thế giới. Vì tâm vị đại Bồ
tát ấy lớn như vậy, tâm ngài bao trùm nhiều đại thiên thế giới, nên ngài mới ngồi
cân xứng trên bông liên hoa. Trong kinh nói rõ rằng, ngài Pháp Vân Bồ Tát đó,
khi các chúng Bồ Tát nghi ngờ thần lực của ngài, thì ngài bèn nhập cơn tam muội
khiến các vị Bồ Tát đều thấy rằng mình đang ngồi trong thân của ngài, vì thân
trùm khắp hư không. Nếu suy nghĩ kỹ cũng thấy dễ hiểu, khi tâm một bậc Bồ Tát nở
lớn ra, thì lúc đó tâm gần như đồng nhất với thân, nên khi ngài mở tâm ngài thật
lớn thì tất cả chúng sanh đều ngồi trong thân ngài cả. Như chúng ta, có một cái
tâm rất thường và hạn hẹp, nhưng khi ta khởi tâm thương sót đứa con, người chồng
hay người vợ, thì tâm ta tự nhiên như bao bọc lấy người ấy, nhưng người đó chưa
ngồi hẳn trong tâm ta được thôi, khi nào ta ngồi đây, mà nhớ đến thương sót những
người chết đói bên Phi Châu, hay ở Việt Nam, có làng suốt tháng chỉ ăn rau má,
nếu chúng ta chỉ nghĩ sơ sơ thôi thì cái tâm ấy chưa ghê gớm lắm, nhưng nghĩ đến
độ phải chảy nước mắt, cảm thấy thương sót thật sự, thì cái tâm của chúng ta
cũng đã bắt đầu nở lớn hơn một chút. Nên thường lúc đầu đọc kinh, chúng ta hay
rơi vào tình trạng ngơ ngác, sau nếu suy nghĩ kỹ thì thấy quả đúng như vậy.
Một điểm nữa mà
tôi cũng xin nhắc lại, được sanh lên cõi trời là sanh trong sắc thân của thọ ấm,
trong khi được vãng sanh qua Cực Lạc là sanh trong sắc thân dệt bằng quang minh
của thức ấm. Vãng sanh lên trời thì gá vào thân một thiên nữ, hoặc gá vào nách,
vào bắp đùi, hay tay v.v… để thọ sanh. Còn như thọ sanh bên Cực Lạc là thọ sanh
gá vào hoa sen, điểm khác biệt là ở chỗ đó. Ở cõi trời, cái tay, cái nách, bắp
đùi v.v… của Thiên nữ vẫn còn hàm chứa vọng tình, vọng tưởng, còn hoa sen thì
hoàn toàn không còn vọng tình vọng tưởng, nên mức độ quang minh tâm thức cao
hơn. Sở dĩ tôi nói về những thứ này, là muốn quí vị hiểu rằng tu hành là chúng
ta phải hiểu và phải tập làm thần linh, phải hiểu những chúng sanh lớn ở mức
trên mình, trước hết là những chư Thiên, họ sinh hoạt thế nào, luyến ái ra sao,
cư xử với nhau thế nào, ăn uống thế nào, đại, tiểu tiện thế nào, cuộc sống thế
nào v.v… rồi trên nữa là những vị Bồ Tát lớn, và nhất là những vị bên Cực Lạc họ
sinh hoạt ra sao? Những điều đó, ta phải hiểu rõ, để mỗi ngày ta suy tư một ít,
dần dần nhập được vào tập quán ấy, khi nhập được tập quán ấy phần nào thì có
nhiều cơ hội được vãng sanh. Hiểu và suy tư như vậy, cái đó giúp cho “quán
lực” của chúng ta, còn về việc niệm Phật là giúp cho “niệm lực” của
ta. Hai cái đó dung thông lẫn nhau, tương trợ nhau thì càng tốt hơn nữa.
Hôm nay, trở về phẩm
nhập pháp giới, tôi xin đi vào vị thiện tri thức thứ 41, tức là ngài Ma Gia Phu
Nhân. Vị thiện trí thức này có thể là một bậc ở Pháp Vân Địa, hay bậc Đẳng
Giác, tên ngài là Ma Gia tiếng Ấn là Maya có nghĩa là Huyễn. Người đàn bà mang
thai chư Phật, để chư Phật có phương tiện hiện ra nơi đời này, bà tên là Huyễn,
cho chúng ta thấy rằng, tất cả các pháp đều là huyễn, bụng của ngài tức là pháp
giới này, mà khi pháp giới huyễn, làm phát hiện ra một nhân vật rất lớn, nhân vật
này cũng là huyễn, dạy chúng sanh huyễn, nhưng khi dạy chúng sanh huyễn đến một
mức độ nào đó, khi đã đi đến tột bờ mé thì cái huyễn ấy chuyển thành thực, lúc
đó chúng sanh sẽ vào được thực tướng. Vì vậy, trong kinh Đại Bát Niết Bàn có dạy: “Tất
cả các pháp đều là hư nhưng có thể được thực.” Cái thực này mới thật
là bền vững, lâu dài, là thường, là an lạc, phi ngã, phi vô ngã, đồng thời rất
tịch tĩnh.
Trong kinh, mọi thứ
danh từ đều có ý nghĩa. Ngài Ma Gia từ vô lượng kiếp phát nguyện xin mang trí
huyễn và cái thân huyễn của mình để mang thai Phật.
Đây, xin quí vị
nghe ngài Thiện Tài đi lần đến gặp Ma Gia phu nhân…
KINH: Thiện
Tài nhất tâm muốn đến chỗ Ma Gia Phu Nhơn, tức thời chứng được trí quán Phật cảnh
giới.
GIẢNG: Lúc bấy giờ đường tu của Thiện Tài
đã cao quá rồi, quán không và quán giả đã thành thục, nên khi nhất tâm khởi một
niệm thì ngài được sự chứng đắc ngay. Nên tức thời chứng được trí quán Phật cảnh
giới. “Trí quản Phật cảnh giới” là gì? Phật cảnh giới là tất cả
những cảnh giới hiện ra ở thế gian này, thí dụ như cái cây cũng là Phật cảnh giới,
nhưng đối với con mắt thịt, ta chỉ cho là cái cây thôi. Còn đối với các ngài,
thì các ngài trông thấy tất cả những quang minh vi tế của nó, ở mức tâm sâu thẳm
và trong đó có vô lượng các cõi, vô lượng Chư Phật thuyết pháp, vô lượng chúng
sanh… Nói một cách nôm na dễ hiểu, lúc bấy giờ ngài Thiện Tài đã có pháp nhãn,
thấy những quang minh hư vô vi tế, thấy ngay những quang minh nơi bờ mé diệu
tâm. Phàm phu chúng ta khi nhìn một vật, như cái bàn chẳng hạn, thì ta chỉ cho
đó là một cái bàn có thể dùng để đọc sách hay để viết, cũng có thể chẻ ra để
làm củi đốt v.v…, nhưng ngược lại, dưới pháp nhãn của các ngài, đó là một tinh
hà gồm vô lượng thiên thể… Nhưng lúc bấy giờ ngài Thiện Tài cũng rất băn khoăn,
vừa đi vừa nghĩ rằng..
KINH: Thiện
Tài tự nghĩ rằng, thiện tri thức này xa lìa thế gian an trú nơi vô sở trụ, siêu
quá sáu trần, lìa tất cả chấp trước…
GIẢNG: Ngài Ma Gia đã xa lìa tất cả thế
gian rồi, “siêu quả sáu trần” (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Tất
cả những thứ ấy đều không dính mắc vào ngài, vì những thứ này là những pháp có
hình tướng, còn cái pháp cuối cùng là “pháp,” đối tượng của ý
thức, thì cái đó nó là “vô biểu sắc,” nó có hình tướng, nhưng
nhục nhãn không nhìn thấy được, mà chỉ có thiên nhãn mới thấy mà thôi. Ngài Ma
Gia đã siêu quá các thứ ấy, mặc dù ngài vẫn nhìn thấy, mà sáu thứ ấy không thể
dính vào ngài.
KINH: Lìa
tất cả những chấp trước…
GIẢNG: Chấp trước có, không, đoạn, thường,
lai, khứ, đồng, dị v.v…
KINH: Biết
đạo vô ngại…
GIẢNG: Biết cái pháp thân đó và khởi diệu
dụng vô ngại, muốn nó nở biến hiện ra sao thì ra, tùy theo tâm niệm của ngài.
Còn chúng ta không có cái gì là “vô ngại” cả, muốn thế này, nó
lại ra thế khác, nên gọi là “lưu ngại.”
KINH: Đủ
pháp thân thanh tịnh, dùng nghiệp như huyễn mà hiện hóa thân…
GIẢNG: Nghiệp đây thực ra không phải là
nghiệp vì nó là huyễn, vì vậy, ngài dùng tâm niệm và thần lực như huyễn của ngài,
trí như huyễn mà hiện các thứ hóa thân. Hóa thân thường hiện là do lòng đại bi
bình đẳng.
KINH: Dùng
trí như huyễn mà quán thế gian…
GIẢNG: Nhìn tất cả thế gian đều thấy là
huyễn mộng cả. Không biết quí vị có những lúc xuất thần không, đôi khi tôi có những
lúc nằm nghỉ, hốt nhiên thấy như chung quanh chẳng có gì cả, mà tất cả chỉ là
những ảnh tượng chiêu cảm khởi lên như vậy thôi, nếu tâm ta chuyển thì ảnh tượng
lại khác đi ngay. Vì những cái đó tương Ưng đúng với nghiệp hiện hành của ta
nên mới thấy như vậy. Hoặc nhiều khi tôi đi xe bus, bỗng nhiên nghe tiếng người
cười nói, lúc ấy tôi có cái cảm giác đó chỉ là một tiếng vang chứ không phải thực
có. Dần dần, đôi lúc nhìn những người thân thuộc của mình, tôi hơi ngơ ngác, thấy
hình như họ hiện lên chứ không phải thực có bằng xương bằng thịt, vì khi còn
nhân duyên thì hiện lên, khi hết lại biến mất…
KINH: Dùng
nguyện như huyễn mà giữ gìn thân Phật…
GIẢNG: Ngài có cái nguyện là: “Từ
đây cho đến tột kiếp vị lai, khi vị Bồ Tất tối hậu thân, thị hiện thọ sanh xuống
nhân gian để thành Phật, tôi xin mang cái thân huyễn này cho các ngài gá vào,” để
người thế gian nghĩ rằng, vị Phật này cũng do một người đàn bà sanh ra rồi tu
được thành Phật thì người thế gian chúng mình cũng có thể tu thành Phật được.
Nên cái huyễn này, nhập vào cái huyễn kia, sinh ra một cái huyễn khác làm ích lợi
độ cho tất cả chúng sanh. Còn chúng ta làm những việc thường không có gì ích lợi
cho ai mấy, ngay cả cái lợi cho chính thân tâm mình cũng không có.
KINH: Theo
thân ý thân…
GIẢNG: Trong tam muội nhạo ý sanh thân,
là thân ấy khởi lên không phải do nghiệp, mà do tâm niệm, do ý của vị đó muốn độ
sanh nên hiện ra thân ấy, gọi là ý sanh thân, thì cũng giống như chữ “theo
thân ý thân” vậy.
KINH: Không
thân sanh diệt…
GIẢNG: Không phải thân do nghiệp, nên
không bị sanh, diệt chi phối.
KINH: Không
thân lai khứ…
GIẢNG: Thân không đến, đi mà chỉ hiện ra
thôi. Lúc đầu nghe những điều này thì cứ thấy nó vương vướng thế nào. Tỷ dụ như
nhìn một đứa con, thấy rõ ràng nó có sinh ra, nó đến với mình, ăn, uống, ngủ,
nghỉ, làm phiền mình, gây cho mình những đau khổ hay sung sướng, tất cả điều đó
đều rất thật. Nhưng nếu quí vị cứ chịu khó suy tư lâu ngày thì thấy, quả đúng
là nó chỉ hiện ra vậy thôi, không có đi có đến đâu, và khi nghiệp hết, tự nhiên
nó bặt đi, tắt mất.
KINH: Chẳng
phải thân như thiệt…
GIẢNG: Thân không phải là hư, cũng chẳng
phải là thật, vì nó chỉ là ảnh tượng chiêu cảm của nghiệp lực.
KINH: Thân
chẳng biến hoại, thân không khởi tận…
GIẢNG: Nó không có khởi, không tận, vì nó
là biến hiện.
KINH: Có
bao nhiêu tướng đều là thân một tướng…
GIẢNG: Ngài Ma Gia có hiện bao nhiêu thân
chăng nữa cũng vẫn là một tướng, tướng đó là cái thân không thân, là pháp thân.
KINH: Thân
rời hai bên…
GIẢNG: Thân rời hai bên là thân rời cả
có, không, đoạn, thường, sanh, diệt, lai, khứ v.v…
KINH: Thân
không chỗ tựa nương…
GIẢNG: Là không nương tựa vào đâu cả… Nếu
suy nghĩ kỹ thấy thật bàng hoàng, như quả đất nặng chình chịch thế này, lềnh bềnh
giữa hư không thì nó nương vào cái gì? không ai tìm ra được là nó nương vào đâu
cả. Khoa học tạm giải thích rằng nó là do sức gravitation, đó
là giả thuyết khoa học do Newton nghĩ ra là có cái này hút cái kia, nhưng cũng
… chưa chắc rốt ráo đúng. Nên khi hiểu rõ về cái tâm mới thây rất lạ. Ngày xưa,
vị Vua hỏi một vị thiền sư rằng: “Mây bay trên trời, mấy nương vào
đâu?” Suy nghĩ lâu sẽ thấy đáp số cuối cùng là: Tất cả những cái hình
tướng đều nương vào cái tâm vô hình cả.
KINH: Biết
thân như mộng, như tượng trong gương…
GIẢNG: Tất cả kinh, chỗ nào cũng nói như
vậy, hiểu được thì hiểu, tin hay không cũng … đành chịu, không có cách gì giải
một cách rõ ràng theo ý thức phân biệt của phàm phu được, vì đó là chỗ bất khả
ngôn thuyết.
KINH: Thân
như tịnh nhật, thân hóa hiện khắp mười phương, thân ở tam thế không đổi khác…
GIẢNG: Tam thế là ba đời, quá khứ, hiện tại,
vị lai, không đổi khác. Những hình tướng theo nhục nhãn của chúng sinh nhìn thấy
nó có đổi khác, nhưng khi dùng Phật nhãn, hoặc pháp nhãn thì sẽ thấy chân tâm
đó, pháp thân ấy không có đổi. Mà sự đổi ấy không phải là do vật đổi, mà chính
là do tâm chúng sanh động nên mới thấy đổi. Con người già đi là do cái tâm giao
động bập bềnh, chấp là có sinh ra, có lớn lên, rồi già đi. Ngay cả những chuyển
biến thời tiết trong thế gian này, như Xuân, hạ, thu, đông v.v… cũng là do tâm
chúng sanh động mà thấy như thế, chính thật mọi sự đều an nhiên tịch tĩnh,
không hề thay đổi. Bí ẩn là ở chỗ đó, đạo Phật không thèm nói gì khác, dù cho
khoa học có đầy đủ những dụng cụ thí nghiệm và săm soi tìm cầu vũ trụ này đến
cái điểm cuối cùng… cũng chỉ là quanh quẩn như con kiến bò trên miệng chén, thỉnh
thoảng khám phá ra được một điều gì thì vội cho là rốt ráo, nhưng vài năm sau lại
thấy nó có vẻ không còn đúng nữa, nên cứ lúc nào cũng quanh quẫn, mà không bao
giờ ra khỏi được vòng luẩn quẩn ấy. Đạo Phật chỉ tuyên bố một câu thôi
là: “Vì cái tâm chúng sanh động, nên pháp giới treo trên đầu một sợi
lông, trên đầu một tâm niệm…”
Mới đây, khoa học
mới tung lên một viễn vọng kính rất lớn, mà các khoa học gia ham hố hung hăng lắm,
chủ quan cho rằng với viễn vọng kính tối tân ấy, người ta có thể nhìn thấy rõ
được những hố đen (black hole) trong không gian, rồi từ đó sẽ
tìm được nguyên nhân của vũ trụ này. Nhưng … khó có thể được. Vì viễn vọng kính
ấy không soi được gì mấy, chỉ có thể nhìn thấy xa hơn một chút thôi, chứ pháp
giới này làm sao có thể soi được hết? Và chỉ có tâm mới soi được hết mà thôi.
Khi tâm một hành giả lên đến Pháp Vân địa, địa thứ mười, ngồi trên bông liên
hoa bao trùm cả pháp giới, trong đó không có một chúng sanh đau khổ nào, không
một tinh hà nào thành, trụ, hoại, không, hoặc không có một tâm niệm hay hạt bụi
nào dấy lên mà vị Bồ Tát ấy không biết, thì lúc bây giờ mới có thể hiểu được
pháp giới trọn vẹn. Chứ còn những viễn vọng kính của khoa học chỉ giúp ta nhìn
xa hơn một chút mà thôi, và những điều ấy vẫn nằm trong vòng vọng thức, vẫn là
những vọng tưởng. Tỷ dụ như trái táo của Newton rớt xuống, với tốc độ mỗi lúc mỗi
gia tăng, thì sau này nó thành định luật mà tất cả khoa-học đều công nhận.
Nhưng định luật ấy chỉ đúng với mức độ chung của vọng tưởng cộng nghiệp của
chúng sanh trong thế giới này thôi, và nếu tất cả tâm chúng sanh trong cõi Ta
Bà này đều chuyển hết, lên cao hơn, thì lúc ấy luật Newton không còn đúng nữa,
vì y báo và chánh báo cũng chuyển theo, và cao hơn.
Ngày xưa, Newton
cho rằng không gian rộng lớn theo bề thẳng tắp, nhưng đến thời kỳ Einstein thì
ông lại bảo rằng, không gian cong và không có gì vượt qua thế tốc độ ánh sáng
được. Ngày nay, khoa học lại nói khác, nói rằng có những vật đi nhanh hơn ánh
sáng. Song khoa học chưa có thể hiểu rằng có một thứ đi nhanh hơn ánh sáng rất
nhiều đó là quang minh của tâm thức.
KINH: Thân ở tam
thế không đổi khác…
GIẢNG: “Thân ở tam thế không đổi
khác” chỉ có một câu nói thôi mà suy nghĩ có thể một kiếp cũng chưa
ra, đại khái có nghĩa rằng, trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lại, thân không
đổi khác.
KINH: Thân
chẳng phải thân tâm, dường như hư không chỗ đi vô ngại, siêu thế gian nhãn, chỉ
tịnh nhãn của Phổ Hiền mới thấy được.
GIẢNG: Phải đến pháp nhãn của bực Phổ Hiền
mới thấy được. Ngài Phổ Hiền gần như Phật rồi.
Sau khi Thiện Tài
vừa đi, vừa suy nghĩ băn khoăn thế, thì có ba vị thần lần lượt hiện ra.
KINH: Hạng
người như vậy, tôi làm sao được thân cận để kính thờ cúng dường (Thiện Tài nghĩ
như vậy), để được cùng ở hầu quán sát dung mạo, nghe tiếng nói, suy nghĩ lời dạy
và nhận lãnh.
GIẢNG: “Quán sát dung mạo” để
tăng trưởng thiện căn, còn cần “nghe tiếng nói” để suy nghĩ đến
lời dạy của các ngài. Trong khi Thiện Tài đương băn khoăn như vậy thì có một vị
chủ Thành Thần hiện ra đầu tiên.
KINH: Bấy
giờ có Chủ Thành Thần tên là Bửu Nhãn, quyến thuộc vây quanh, hiện thân trên
không trung, tay cầm những bửu hoa nhiều màu rải trên mình Thiện Tài mà bảo rằng…
GIẢNG: Có vị Chủ Thành Thần, tức là vị thần
giữ cái thành trì về tâm địa. Vị này tên là Bửu Nhãn, tức là pháp nhãn, ở đoạn
kinh này, nhấn mạnh về vấn đề nhãn lực, cùng đạo lực của mắt. Ngài cầm hoa rải
lên người Thiện Tài, có ý tán thán ca ngợi sự cố gắng tu hành của Thiện Tài.
Sau đó ngài khuyên…
KINH: Này
thiện nam tử, phải giữ gìn tâm thành, nghĩa là chẳng tham tất cả cảnh giới.
GIẢNG: Phải giữ tâm không tham đắm tất cả
những cảnh giới, dù là cảnh giới thế gian hay chư Thiên, hoặc cảnh giới siêu xuất
đến đâu cũng vậy. Vì sao? vì tham đắm là dừng chân ở đó, không thể vượt lên
trên được, không nhập vào biển diệu tâm được.
KINH: Phải
trang nghiêm tâm thành, nghĩa là chuyên ý xu cầu Phật thập lực.
GIẢNG: Lúc nào cũng phải nghĩ đến Phật thập
lực. Cũng như tôi đã nói ở đây nhiều lần, lúc nào cũng phải tư duy, ao ước được
đi dự những hải hội nhiệm mầu, phải nghĩ đến sau này chúng ta sẽ đến mức độ
Chuyển Luân Vương (nếu là một thiện nam) hay Bửu Nữ (tín
nữ), thì trong những lúc thối thất, chán nản vẫn có sức tiến lên. Nên
người tu lúc nào cũng phải nghĩ đến thập lực của Chư Phật, (tức là nhập
pháp giới trọn vẹn) thì dù con đường còn dài xa cần khổ, nhưng chúng
ta vẫn có sức tinh tấn tiến lên.
KINH: Phải
thanh lương tâm thành, nghĩa là tư duy thật tánh của tất cả các pháp.
GIẢNG: Tức là tư duy cái chân như, pháp
thân ấy. Vì chỉ có cái đó làm cho ta sống, và là nguồn gốc làm cho ta tồn tại.
Ngoài ra những gì có hình tướng đều sẽ rơi rớt lả tả như cánh hoa Đào vậy.
KINH: Phải
tăng trưởng tâm thành, nghĩa là làm xong tất cả pháp trợ đạo.
GIẢNG: Tức là tu hết ba mươi bảy phẩm trợ
đạo, có được tinh tấn, niệm, định, huệ, giới, v.v… rút lại vẫn chỉ là Bát Nhã
và Đại Bi.
KINH: Phải
nghiêm sức tâm thành, nghĩa là tạo lập cung điện thiền định giải thoát.
GIẢNG: Tức là phải thiền định, vào những
cơn định lớn, mà những cơn định đó là những cơn định giải thoát, không phải là
thiền định tu tập để cầu một ít sức khỏe, hay thần thông. Những cơn thiền định
đó, trong kinh gọi là những cung điện. Vì khi vào trong thiền định ấy, hành giả
thấy mình như ở trong một cung điện nguy nga, nhiều tự tại lực đồng thời chiêu
cảm y báo trang nghiêm lộng lẫy hơn nhiều.
KINH: Phải
chiếu diệu tâm thành, nghĩa là vào khắp tấi cả Phật đạo tràng
nghe lãnh pháp ba la mật.
GIẢNG: Trong kinh Hoa Nghiêm, khi nói Bát
nhã ba la mật tức là đồng thời có Đại bi.
KINH: Phải
kiên cố tâm thành, nghĩa là hằng siêng tu tập hạnh nguyện Phổ
Hiền. Phải phòng hộ tâm thành, nghĩa là thường chuyên ngăn ngừa ác hữu và ma
quân.
GIẢNG: Phải luôn giữ tâm thành, giữ tâm
luôn luôn niệm niệm ly, đồng thời đầy đủ hạnh nguyện độ sanh. Đoạn này nói cũng
dễ hiểu nên tôi xin đọc lược qua…
KINH: Phải
rỗng suốt tâm thành,… phải bồi bổ tâm thành…, phải phò trợ tâm thành…, phải rộng
rãi tâm thành…, phải mở cửa tâm thành…
GIẢNG: “Phải mở cửa tâm thành…” tâm
không bao giờ bi hạn cuộc bởi cái gì, vì nếu để hạn cuộc thì chỉ mỗi cái đó
thôi còn mất tất cả những thứ khác. Như hạn cuộc vào đồng tiền thì chỉ được đồng
tiền ấy thôi, mà sẽ mất tất cả cái khác, đến lúc cơ duyên hết, thì ngay cả đồng
tiền ấy cũng mất. Hay hạn cuộc vào hư danh, như làm một điều gì tốt mà còn hãnh
diện, vênh vang, nghĩ đến hư danh đã có được do hành động mình làm thì công đức
cũng kém đi, tự nhiên nó hữu hạn, rồi sau nó hết thì chẳng còn gì. Nhưng nếu
tâm không cuộc vào hư danh, làm vì người khác, vì lòng từ bi bình đẳng để độ
sanh, và để trang nghiêm pháp giới, thì công đức lại vô cùng vô tận.
KINH: Phải
biết tâm thành như huyễn, nghĩa là dùng nhất thiết trí biết rõ những pháp tánh.
Này thiện nam tử, đại Bồ Tát do lìa những chướng nạn như vậy, nếu phát tâm mong
cầu thiện tri thức, chẳng cần dùng công lực, bèn được thấy. Nhẫn đến rốt ráo tất
sẽ thành Phật.
GIẢNG: Đó là lời của ngài Chủ Thành Thần
Bửu Nhãn. Tên ngài là muốn nhấn mạnh ở cái mắt. Bây giờ đến vị thần thứ hai, có
hai vị nữa hiện ra, những vị này nhấn mạnh ở cái khác.
KINH: Bấy
giờ có Thân Chúng Thần tên là Liên Hoa Pháp Đức và Diệu Hoa Quang Minh, vô lượng
Chư Thần vây quanh sau trước, ra khỏi đạo tràng dừng ở không trung trước mặt
Thiện Tài dùng diệu âm thanh ca ngợi Ma Gia phu nhơn, từ bông tai phóng lưới
quang minh vô lượng sắc tướng chiếu khắp vô biên thế giới mười phương, cho Thiện
Tài thấy tất cả Chư Phật. Lưới quang minh đó hữu nhiễu thế gian giáp một vòng rồi
xoay về chiếu lên đỉnh đầu Thiện Tài và vào khắp lỗ lông trên thân Thiện Tài.
GIẢNG: Phần nhiều các quang minh mà chư
Phật phóng đến chiếu nơi đầu và vào những lỗ lông. Hai vị Thân Chúng Thần
này (Thân chúng Thần chính tôi cũng không hiểu là gì, nhưng
tôi có đọc một cuốn sách cụ Tuyên Hóa nói rằng thân chúng thần là
vị thần có nhiều thân, thì chúng ta cũng tạm nhận như thế thôi. Hai vị thần
này có vô lượng chư thần vây quanh, các ngài dùng diệu âm thanh ca ngợi Ma Gia
phu nhân, rồi từ bông tai các vị thần ấy phóng ra lưới quang minh chiếu khắp mười
phương thế giới, cho Thiện Tài thấy tất cả Chư Phật. Chỗ này, muốn giảng rõ,
tôi phải giảng qua Lăng Nghiêm một chút. Hai vị Thân Chúng Thần này phóng quang
minh từ tai, muốn nhấn mạnh ở tai. Trong Lăng Nghiêm, Phật dạy, cái tai nó cuốn
lại giống như hình cái lá, còn mắt giống như hạt bồ đào… Cho chúng ta hiểu rằng,
tất cả mọi vật trên đời này đều kết lại bằng nhưng cơn lốc quang minh xoáy tròn
mà thành, từ con ốc nhỏ ngoài bể cho đến giải tinh hà đều đi theo con (lường
xoáy trôn ốc ấy. Gần hơn nữa, thì ngay các căn trong thân chúng ta cũng đều
xoáy lại. Trong sáu căn của ta, cái căn mãnh lợi nhất và vô hình tướng đó là
cái ý thức, còn năm căn kia, có hai căn mãnh lợi đó là cái mắt cái tai. Vì thế,
hai vị thần này nhấn mạnh tới mắt và tai còn mấy căn khác chưa cần nói đến… Tuy
nhiên, khi tu lên cao, cả sáu căn đều không có gì hơn kém,vì tất cả đều dung
thông vô ngại, cũng từ cái diệu tâm ấy mà nở ra. Trở lại hai vị Thân Chúng Thần,
có một điều lạ là hào quang của các ngài từ tai phóng ra, nhập vào đỉnh đầu Thiện
Tài và mở các thứ mắt cho Thiện Tài. Đó là một khối bảo giác viên dung
(chữ của kinh Lăng Nghiêm), có thể tác động vào tai, nhưng chính là
cái mắt được mở ra, vì lên đến mức này, thì các căn đều hỗ dụng… Dùng tai để
nhìn, mắt để nghe…
KINH: Liền
đó Thiện Tài chứng được tịnh quang minh nhãn,… chứng được ly ế nhãn…, chứng được
tịnh huệ nhãn, chứng được tỳ lô giá na nhãn…, chứng được phổ quanh minh nhãn…,
chứng được phổ chiếu nhãn…, chứng được phổ cảnh giới nhãn..,v.v…
GIẢNG: Đại khái Thiện Tài chứng được nhiều
thứ nhãn, nhưng thực ra gom lại cũng không ra ngoài mấy thứ nhãn chính là thiên
nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn. Các vị này dùng quang minh ở tai để tác
động vào Thiện Tài, mà thực ra sức hộ trì này chính là do ngài Ma Gia phu nhơn
gia trì qua các vị Thân chúng Thần này, nên Thiện Tài được nhiều thứ nhãn như
thế… Sau đó, lại còn vị thần nữa nói rất nhiều điều hay, vị này là La Sát Quỉ
Vương.
KINH: Bấy
giờ có La Sát Quỷ Vương thủ hộ pháp đường của Bồ Tát..
GIẢNG: Pháp đường của Bồ Tát chính là
pháp đường của ngài Ma Gia phu nhơn, thủ hộ bằng vị La Sát Quỉ vương. Nên trong
kinh Duy Ma Cật cũng nói rằng, nhiều vị Quỉ Vương là những Đại Bồ Tát thị hiện
thọ sanh để hộ trì, hay để làm cho chúng sanh kinh sợ, có khi thị hiện quỉ
vương để đến xin người tu hạnh bố thí, như xin đầu, mắt, tủy, não v.v.. Những
người đến xin những thứ ấy phần nhiều là vị quỉ vương cả, họ xin để thử xem hạnh
bố thí của người tu hành đã được viên mãn, tròn đầy hay chưa. Còn người thường
không ai đi xin cái đầu cả. Nên khi nào quí vị tu hành đến mức có người đến xin
tay, chân, mắt, đầu v.v.. thì lúc đó, quí vị đã vào mức độ khá cao rồi, mà nếu
quí vị tinh tấn dám bước một bước nữa, tức là cho không lo sợ, không tiếc nuối,
lúc đó quí vị sẽ có thể đắc một vài tam muội, hoặc đi sâu vào thức tâm thêm một
nấc nữa. Đạo Phật, nhiều khi Phật dạy bằng những lời nói rất từ ái, nhưng những
hạnh làm đôi khi rất khủng khiếp, khốc liệt, phải bỏ đầu, tay, mắt, vợ, con
v.v… tất cả đều phải ly hết, ly vọng tình, vọng tưởng, ngay cả cái ngã cũng phải
ly thì mới lên đến mức độ tuyệt vời được, mà khi ly được hết thì lại sẽ được tất
cả. Sở dĩ chúng ta hay sợ hãi là vì những tập khí cũ của minh tích lũy từ vô lượng
kiếp, mà không thể một ngày, một năm, vài năm nhẫn đến vài kiếp hay vài chục kiếp
mà có thể xóa nổi.
KINH: Bấy
giờ có La Sát Quỉ Vương thủ hộ pháp đường của Bồ Tát tên là Thiện Nhãn.
GIẢNG: Lúc nào cũng nói đến chuyện phải mở
con mắt của mình ra. Nên tên ngài là Thiện Nhãn.
KINH: Cùng
quyến thuộc một vạn La Sát câu hội, ở không trung dùng những
hoa đẹp rải lên mình Thiện Tài mà nói rằng, này thiện nam tử, Bồ Tát thành tựu
mười pháp thời được thân cận chư thiện tri thức. Đây là mười pháp: Tâm thanh tịnh
rời những dua bợ phỉnh dối.
GIẢNG: Rời những dua bợ phỉnh dối là tỷ dụ
những cảnh sắc, hương của các pháp, như cái sắc này trông đẹp lắm nhưng chính
nó là thứ ảnh tượng dua bợ phỉnh dối, nó cho ta một ảo tưởng đẹp đẽ, để ta trôi
lăn theo nó, nên phải tỉnh thức để ly, tóm lại, tất cả vẫn là “niệm niệm
ly” thôi. Rồi sau trong mười pháp này, ngài dạy đến các hương, vị v.v…
cuối cùng lên đến cái ý. Ngay cả một lời khen ngợi cũng thế, đó chỉ như một tiếng
vang mà thôi, đừng nên dính mắc, vì tất cả những thứ đó chỉ khiến ta trôi lăn
trong sinh tử. Ngược lại, một câu chửi cũng vậy, nếu ta khởi tâm sân hận, thì
nó cũng đưa ta vào trôi lăn sinh tử, nên chúng ta phải lìa cả hai bên.
KINH: Đại
bi bình đẳng nhiếp khắp chúng sanh, biết các chúng sanh không có thiệt.
GIẢNG: Lúc nào cũng phải có tâm đại bi
bình đẳng, nhưng đồng thời vẫn hiểu rằng chúng sanh không thật có (huyễn), như
trong kinh Kim Cang Phật dạy, phải độ tất cả mà vẫn biết rằng tất cả người độ,
kẻ được độ và hành vi độ sanh đều chỉ là huyễn hóa.
KINH: Xu
hướng nhất thiết trí tâm không thối chuyển. Dùng sức tín giải vào khắp tất cả
phật đạo tràng.
GIẢNG: (vẫn là vị La Sát Vương khuyên Thiện
Tài làm mười pháp để được thân cận thiện tri thức). “Dùng sức tín giải
vào khắp tất cả Phật đạo tràng.” Tỷ dụ như đạo tràng nhỏ bé này, chúng
ta đương tụng và giảng Hoa Nghiêm, mà lúc này, trong mọi cõi, cũng có thể ngay
tại đây, Chư Phật vẫn đương giảng Hoa Nghiêm mà chúng ta không hay biết, vì các
căn nhãn, nhĩ của chúng ta quá thô kệch. Nhưng bây giờ, chúng ta đã có lòng tin
đối với những câu kinh Hoa Nghiêm, nên có thể được giải đôi chút, tức là ta đã
dùng “sức tín giải” để đi sâu vào đạo tràng Hoa Nghiêm. Nơi
nào có người nói, tụ họp nhau để tụng kinh thì nơi đó chính là đạo tràng, và
khi vào đạo tràng này, chúng ta có tín, có giải. Khi nào sức tín giải cao hơn nữa
thì có thể ta dùng thần thông để đi vào đạo tràng mầu nhiệm thật sự mà các chư
Phật thường ngồi diễn nói. Sở dĩ chúng ta chưa thấy, không nghe, không hay,
không biết những đạo tràng mầu nhiệm, một là vì còn vướng cái thân này, cái mắt
này, không nhìn được quang minh vi tế, nên chỉ có thể dùng sức tín giải để vào
đạo tràng thô kệch của Hoa Nghiêm ở đây mà thôi. Nhưng như thế cũng không phải
là không có công đức, các công đức đọc tụng kinh ở đạo tràng nhỏ bé này, chính
nó sẽ đưa chúng ta đến những hải hội nhiệm mầu ở những kiếp vị lai.
HỎI:
Trong kinh luôn nói rằng Phật khai thị, dịch nôm na ra tiếng Việt là mở mắt.
Khai thị tri kiến Phật, thì cũng tri (biết), cũng kiến (thấy). Còn trong đoạn
kinh này chỉ nhấn mạnh về cái nhãn mà thôi, tức là cái nhãn rất thù thắng.
Nhưng sao trong kinh Lăng Nghiêm lại nói nhãn căn chỉ có 800 công đức mà nhĩ
căn được đến 1200 công đức?
ĐÁP:
Không những trong kinh Lăng Nghiêm nói mà cả trong Pháp Hoa cũng có nói rằng, mắt
được 800 công đức, tai thì 1200, mũi được 800, lưỡi 1200, thân 800, và cuối
cùng là ý được 1200 công đức. Tại sao lại có những sự khác biệt thế, vì mắt chỉ
có nhìn thấy được đằng trước hoặc một ít hai bên thôi, không nhìn thấy được đằng
sau, (nếu ta không xoay người lại), còn tai thì dung thông hơn, có thể nghe được
bốn phương, tám hướng không ngăn ngại. Ý cũng như vậy, nên công năng và
công đức được nhiều hơn. Phần này tôi đã giảng qua nhiều lần rồi, nếu quí vị
hào muốn tìm hiểu thêm nên giở Lăng Nghiêm mà đọc vì Phật dạy rất rõ trong đó.
HỎI:
Nhưng có phải lên một tầng lớp cao hơn thì nhãn căn lại viên thông không?
ĐÁP:
Tùy từng người, thông thường thì nhĩ căn viên thông dễ hơn, vì nó gần tâm hơn.
Tuy nhiên, nhãn căn không phải nó không có những khả năng ghê gớm đâu, chỉ là
vì nó thường hay đưa chúng ta vào vọng, vì dùng mắt là để chạy theo ngoại vật,
còn nhĩ căn có thể nghe vào trong được. Còn lưỡi được 1200 công đức là vì nó có
thể nói pháp được, còn cái ý thì ghê gớm hơn nhiều, nó là “công vi thủ, tội vi
khôi,”công cũng nhất, mà tội cũng nhất. Đi sâu vào tàng thức rất dễ mà đắm vào
vọng cũng không ai hơn được. Còn nhãn căn, nghiệp dĩ phần lớn chỉ dong duổi
theo sáu trần, nên hay đưa chúng ta vào vọng. Khi trông thấy màu sắc lung linh,
chúng sanh hay khởi tâm ưa thích, không biết rằng nó chỉ là ảo huyễn thôi.
KINH: Đại
từ bình đẳng che chở khắp chúng sanh. Dùng trí quang minh chiếu rỗng những vọng
cảnh.
GIẢNG: Bao
giờ câu trên cũng nói vổ từ tằm (đại bi), câu sau lại nhắc ngay bát nhã, phải
dùng trí quang minh để chiếu rỗng những vọng cảnh. Những vị La Sát này lại nhấn
mạnh ở chỗ tâm thường tùy thuận chư thiện tri thức.
KINH: Lại
này thiện nam tử, Bồ Tát thành tựu mười môn tam muội thời thường hiện thấy chư
thiện tri thức. Đây là mười môn tam muội: Thanh tịnh luân pháp không tam muội…
GIẢNG: Đại khái có nhiều thứ tam muội liền
thường thấy thiện tri thức lắm, tôi xin đọc lược…
KINH: …Thấy
khắp tất cả Phật xuất thế tam muội, …tâm hằng chẳng bỏ thiện tri thức tam muội…
GIẢNG: Trong kinh đặt nặng sự quan trọng
về thiện tri thức, vì các vị thiện tri thức trong kinh này lớn quá, các ngài có
thể gia trì cho chúng ta rất nhiều.
KINH: Này
thiện nam tử, Bồ Tát thành tựu mười môn tam muội này thời thường được thân cận
chư thiện tri thức. Lại được môn tam muội thiện tri thức chuyển tất cả Phật
pháp luân. Được môn tam muội này rồi thời đều biết chư Phật thể tánh bình đẳng,
gặp thiện tri thức mọi nơi.
(bỏ một đoạn
kinh…)
La Sát
vương nói, này thiện nam tử, ngươi nên đảnh lễ khắp mười phương để cầu thiện
tri thức. Nên chánh niệm tư duy tất cả cảnh giới để cầu thiện tri thức. Nên
dũng mãnh tự tại du hành khắp mười phương dể cầu thiện tri thức. Nên quán thân,
quán tâm như mộng, như ảnh để cầu thiện tri thức.
GIẢNG: Đoạn này, vị La Sát Vương nói rất
hay, tôi xin nhắc lại để giảng từng câu một. “Ngươi nên đảnh lễ khắp mười
phương để cầu thiện tri thức,” cầu thiện tri thức tức là ta muốn tìm
thấy, nhìn thấy cái hình ảnh tuyệt vời hiện lên từ diệu tâm ấy, tất cả mọi cảnh
giới như cây, cỏ, núi, sông chúng sanh, hữu tình, vô tình v.v… đều hiện lên từ
cái tâm ấy. Chúng ta vì là phàm phu nên chỉ nhìn thấy nó là đá, là sông v.v..,
còn các bậc tu hành cao, các ngài nghe được tiếng của sông, của từng cái lá.
Như trong “Câu chuyện của dòng sông,” Herman Hess nói con sông
ấy là sư phụ của người lái đò ngộ đạo. Nhưng trong kinh thì còn tả cao hơn nhiều,
nhìn đâu cũng thấy đó là sự khởi lên của diệu tâm ấy.
Khi ta lặn sâu vào
tâm thì tự nhiên có sự đáp ứng, nên vị thiện tri thức sẽ hiện ra gặp gỡ, vì vậy
phương nào cũng có thể có thiện tri thức được cả. Tuy vậy, chúng ta cũng phải
đi hết chân trời góc bể để tìm cầu thiện tri thức, để làm chín thiện căn làm
chín cái tâm ấy, khi tâm tương ưng thì thiện tri thức sẽ tự hiện đến. “Nên
chánh niệm tư duy tất cả cảnh giới đề cầu thiện tri thức.” Chánh niệm ớ
mức dộ thấp như giư hơi thớ ra, thở vào, biết được rằng hơi thở này là hơi thở
ra, hơi thở này là hơi thở vào, hay cao hơn nữa là suy nghĩ về tứ đế: khổ, tập,
diệt, đạo v.v… đều là chánh niệm. Nhưng chánh niệm cao siêu nhất là phải nhớ tưởng
duy tâm sở hiện, tức là quán huyễn, nhìn bất cứ cảnh gì, người nào, việc gì v.v…
xảy đến cho ta đều thấy là huyễn mộng, do nghiệp chiêu cảm. Đến khi chết, ta vẫn
nhớ được điều này thì chắc chắn sẽ được vãng sanh. “Nên dũng mãnh tự tại
du hành khắp mười phương để cầu thiện tri thức.” Dũng mãnh tự tại để
khiến tâm ta vô úy, cho tâm ngày càng tăng trưởng thiện căn, để có thể tương
ưng với sự hiện ra của thiện tri thức. “Nên quản thân, quản tâm, như mộng,
như ảnh để cầu thiện tri thức.” Coi thân tâm mình như huyễn mộng vậy,
nếu cần phải xả thí cũng phải xả thí. Như trong phẩm nhập pháp giới lúc Thiện
Tài đến gặp Thắng Nhiệt Bà La Môn, vị này bảo Thiện Tài nhảy vào núi lửa đao
kia đi, Thiện Tài cũng nhảy, nhưng đến khi nhảy xuống, lại không chết, ngược lại
Thiện Tài đắc ngay mấy môn tam muội… Nhưng đối với chúng ta, vấn đề là chúng ta
có … dám nhảy hay không? vì lòng sợ hãi và cái ngã của chúng ta quá sâu dày,
kiên cố, trải qua từ vô lượng vô số kiếp, nó kết lại thành một cái núi rất lớn,
còn to hơn núi Tu Di nữa thì việc xả thân mạng là một điều … rất khó. Nhưng
trong cuốn “Đường về Cực Lạc,” có mấy vị sư Tàu cũng lạ lắm, vị
này tu hăng quá, một ngày kia, lên một ngọn núi nhảy xuống tự bỏ báo thân này để
xin vãng sanh qua Cực Lạc, nhưng lại không chết (có lẽ núi ấy cũng …không lấy
gì làm cao lắm) nhưng vị dám nhảy cũng là hay lắm rồi.
Thực ra, chúng ta
chưa vào sâu được thiền định, chứ nếu vào được rồi và nhìn thấy rõ nhịp điệu
sinh hoạt tồn tại lâu dài của thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm… thì lúc đó ta sẽ không
sợ cái chết của xác thân nữa.
KINH: Thiện
Tài y lời làm theo.
GIẢNG: Y lời làm theo là lúc nào cũng
chánh niệm duy tâm sở hiện, đồng thời phải coi thân mình như mộng, như ảnh. Ở
đây, sự quán chiếu của Thiện Tài cũng cao quá rồi, chắc đến lúc này, ngài đã đến
địa thứ sáu, hoặc thứ bảy rồi.
KINH: Tức
thời thấy Đại Bửu Liên Hoa từ đất vọt lên: cọng bằng kim cang, diệu bửu làm
tàng, ma ni làm cánh, quang minh bửu vương làm đài, hương báu nhiều màu làm
tua, vô số lưới báu giăng che phía trên.
GIẢNG: Sau khi Thiện Tài tuân theo lời dạy
của vị La Sát Vương tức thời liền thấy một bông đại bửu liên hoa từ dưới đất vọt
lên. Chúng ta cũng nên nhớ lại là ở vị thiện tri thức thứ hai tức là ngài Hải
Vân ngồi mười hai năm ở bờ bể, chỉ quán có biển thôi, nghĩ rằng có cái nào rộng
hơn và sâu hơn cái bể này không? Có cái nào kỳ diệu hơn biển này không? Sau mười
hai năm (tức là một chu kỳ viên mãn nào đó) thì tự nhiên dưới
bể vọt lên một đóa sen lớn, tức là pháp giới này. Thì trong đoạn kinh này cũng
vậy, từ đất vọt lên, tức từ tâm địa của mình nở ra. Tất cả mọi vật trong pháp
giới vọt lên cũng như bông hoa, mà gốc của nó là Mạt Na Thức, khởi lên cái ý thức
thành thân cây, chẽ năm cành là năm căn, (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân), còn tâm
sở của nó đều là hoa, lá. Phải quán chiếu như vậy mới có thể hiểu rõ duy thức.
Vì vậy, tôi vẫn thường nói rằng pháp giới mọc lên như một bông hoa vậy, từ con
kiến, con giun, hòn đá, loài người v.v… đều là bông hoa, vì từ “tâm địa” đó
mọc lên. Như trong kinh Đại Bảo Tích nói, khi một bào thai bắt đầu thành lập,
có bao nhiêu phong luân nổi lên, cũng giống như ở ngoài, khi vũ trụ hiện lên
thì cũng có bao nhiêu phong luân nổi lên. Nói một cách dễ hiểu, nghĩa là sự
thành lập một thân căn cũng tương tự như sự thành lập pháp giới này vậy. Khi
phong luân nổi lên, nó xoáy tròn lại, các thứ tinh minh tụ lại ở giữa trở thành
bông hoa nở ra. Nên ta phải nhớ một điều, kinh Hoa Nghiêm là kinh của quang
minh và diệu âm, của những bông hoa, khi nở ra, lúc cụp lại, lúc nở ra thành chữ “hồng” cụp
lại thành chữ “úm.”
KINH: Trên
đài sen báu ấy có lâu các đẹp lạ tên là Phổ Nạp Thập Phương Pháp giới tạng trang
nghiêm.
GIẢNG: Vẫn là pháp giới này thôi, vì nếu
ta có pháp nhãn thì pháp giới này chỗ nào cũng là lâu các, cái nào cũng đẹp,
cũng trang nghiêm. Như bông tuyết, nếu soi kính hiển vi ta sẽ thấy sự cấu thành
của nó rất đẹp, phải có bàn tay mỹ thuật lắm mới có thể tạo ra được. Một thí dụ
khác như chiếc lá cây chẳng hạn, bình thường ai cũng trông thấy nó rất tầm thường,
nhưng nếu ta dùng một máy ảnh đặc biệt để chụp, ta sẽ thấy nó cũng phát ra một
thứ hào quang riêng của nó. Và ngay cả chúng ta đây, nhiều khi ta thấy mình hôi
nhơ, hỉ mũi, rót rãi, đi đại tiện, tiểu tiện v.v… nhưng nếu rọi kỹ thì thấy
toàn hào quang cả. Nên tùy theo mắt nhìn mà thấy đẹp hay xấu, thanh tịnh hay
hôi nhơ.
Nay chúng ta trở về
kinh. Lâu các của ngài Ma Gia phu nhơn đẹp lạ lùng…
KINH: Trong
lâu các có tòa như ý bửu liên hoa nghiêm sức với những châu báu..
GIẢNG: Lúc nào kinh cũng ví đến những
châu báu, vì nó kết dệt toàn bằng quang minh. Quang minh của tàng thức sơ năng
biến.
KINH: Xung
quanh bửu tòa này lại có vô lượng bửu tòa. Ma Gia phu nhơn hiện tịnh sắc thân
ngồi trên đại bửu tòa ấy: những là sắc thân siêu tam giới, vì đã thoát tất cả
loài hữu lậu.
GIẢNG: Sắc thân của Ma Gia Phu Nhơn dệt bằng
những quang minh rất vi tế, ra ngoài tam giới, vì những quang minh cõi trần
gian này không thể dệt nên được sắc thân ấy. Ngay quang minh của cõi sắc và cõi
vô sắc cũng không thể dệt nổi vì quang minh đó quá vi diệu, nó thuộc về thức ấm
vi diệu, đồng thời thức ấm ấy cũng gột rất nhiều vọng rồi và gần thành Bạch Tịnh
Thức. Muốn hiểu mức độ của sắc thân phải y cứ vào ngũ ấm mới thấy rõ. Biết rõ
nó là kiên cố vọng tưởng (sắc ấm), là hư minh (thọ ấm), là
dung thông (tưởng ấm), là u uẩn (hành ấm) hay là hư vô vi tế (thức
ấm), rồi trong hư vô vi tế ấy phải gột thêm cái phần vọng, chỉ còn lại
phần chân thì mới lặn sâu vào đến đáy tầng của thức ấm được. Ở đây, kinh chỉ
nói tạm là sắc thân của ngài Ma Gia là siêu tam giới, chứ sau này còn nói đến
những sắc thân ghê gớm hơn nữa.
KINH: Sắc
thân tùy tâm sở thích, vì với tất cả thế gian không chấp trước.
GIẢNG: Sắc thân ngài “đối hiện” ra,
tùy tâm sở thích của chúng sanh, chúng sanh nếu thích thân Phạm Thiên thì ngài
hiện thân Phạm Thiên, thích thân Thiên Nữ, thì hiện thân thiên nữ, thân Cung Nữ,
thân Trưởng Giả, thân Bà La Môn, Thân Phi Nhơn v.v… ngài đều hiện ra tùy theo sở
thích của chúng sanh. Trong tất cả các thân đó ngài không chấp trước, không
nghĩ rằng thân nào hơn thân nào, vì thân nào cũng chẳng thiệt, chẳng hư..
KINH: Sắc
thân cùng khắp vì bằng số tất cả chúng sạnh..
GIẢNG: Ở đây, kinh tả ngài có thể hóa hiện
sắc thân bời bời bằng số tất cả chúng sanh. Sau khi hiện những sắc thân này rồi,
nhưng đồng thời, nhờ sức gia trì, ngài Thiện Tài cũng hiện đủ những sắc thân
cùng khắp như thế để đối diện với sắc thân của Ma Gia phu nhơn. Tôi xin đọc lược
các sắc thân, chúng ta nên theo dõi những danh từ trong kinh…
KINH: Sắc
thân không gì sánh bằng vì làm cho chúng sanh diệt trừ kiến chấp điên đảo.
GIẢNG: Sắc thân của các ngài, chúng ta chỉ
cần nhìn thôi, bao nhiêu kiến chấp về biên kiến, về không kiến, ngã kiến, thường
kiến, đoạn kiến v.v… đều tiêu trừ, không thể áp dụng vào sắc thân này được.
KINH: Sắc
thân vô lượng thứ, vì tùy tâm của chúng sanh mà thị hiện…
GIẢNG: Cũng vậy, tâm chúng sanh mong sắc
thân thế nào ngài hiện sắc thân như thế. Thí dụ như chúng sanh kia không thích
sắc thân nào cả, mà chỉ sợ những vị thần dữ dội, ngài lại hiện vị thần dữ dội ấy,
để điều phục cho họ đi vào đường lành thôi.
KINH: …Sắc
thân đối hiện khắp nơi, vì tùy nghi mà thị hiện.
GIẢNG: Trong kinh dùng chữ “đối
hiện” là đứng trước chúng sanh ấy, thì hiện sắc thân ấy, cho dù có độ
mấy ngàn chúng sanh thì ngài cũng hiện làm sao cho mọi chúng sanh đều trông thấy
sắc tướng họ thích. Đó gọi là “đại phương tiện thiện xảo độ sanh.” Nên
trong kinh luôn nói rằng, khi Phật nói pháp, chúng sanh nào cũng tưởng là Phật
nói riêng cho mình, vì sự “đối hiện” ấy, tâm chúng sanh như
cái gương, như thế nào thì ngài hiện đúng y như vậy.
KINH: Sắc
thân giáo hóa tất cả, vì tùy nghi mà thị hiện. Sắc thân hằng thị hiện, vì tận
chúng sanh giới mà vẫn vô tận.
GIẢNG: Sắc thân lúc nào cũng thị hiện. “Tận
chúng sanh giới mà vẫn vô tận” không thể nói sắc thân là tận hay vô tận
được, vì là hiện ra. Cũng như pháp giới này, không thể nói nó là tận hay vô tận,
vì nó là biến hiện. Sắc thân của ngài cũng thế, luôn biến hiện, hằng thị hiện
nên không thể nói là tận hay vô tận được. Vì sao? Vì nếu nói tận thì không được
vì ngài còn hiện nhiều hình tướng, còn nói là vô tận cũng không được vì khi
chúng sanh bặt niệm, không động niệm thì ngài cũng không hiện thân.
KINH: Sắc
thân vô khứ, sắc thân vô lai…
GIẢNG: Vì nó không đến, không đi…
KINH: Sắc
thân bất sanh, bất diệt…
GIẢNG: Cũng vậy thôi…
KINH: Sắc
thân chẳng thiệt, vì được như thiệt…
GIẢNG: Trong kinh nhiều khi dạy một cách
rất ẩn mật, như trong kinh Đại Niết Bàn Phật dạy: ” Tất cả cảc pháp đều
là hư nhưng có thể được thiệt.” Câu dạy trên của ngài Ma Gia cũng như
vậy, tuy là sắc thân chẳng phải thiệt, nhưng khi độ sanh thì vẫn độ được, đồng
thời sau này người được độ ấy sẽ đến được đạo bồ đề, nên nó là được như thiệt.
Nói thế này, tôi biết quí vị cũng … chưa hiểu rõ đâu, vì nó quanh co như rồng rắn
lên mây vậy, nhưng ngoài ra, khó có một lối diễn giảng nào có thể dễ hiểu hơn,
quí vị nên về phải suy tư thêm may ra mới hiểu được ít phần.
KINH: Sắc
thân chẳng phải hư vì tùy thế gian mà hiện.
GIẢNG: Sắc thân không phải hư vì đó là một
sắc thân ngài hiện lên để lợi ích chúng sanh, khiến chúng sanh khởi tâm yêu mến
đó mà tu hành nên nó không phải là hư.
KINH: Sắc
thân vô động vì lìa sanh diệt, sắc thân bất hoại vì sắc tánh bất hoại, sắc thân
vô tướng vì dứt đường ngôn ngữ…
GIẢNG: Sắc thân đó không thể dùng ngôn ngữ
nào tả nổi, vì quang minh vi tế quá. Lời nói chỉ là một ngôn ngữ hữu hạn, không
thể dùng sự hữu hạn để tả cái vô hạn được. Nên trong kinh hay nói đến chữ “bất
khả thuyết” là vậy.
KINH: Sắc
thân một tướng vì lấy vô tướng làm tướng.
GIẢNG: Tất cả các hình tướng này, có vô
vàn hình tướng khác nhau, nhưng lên đến rốt cùng thì chỉ có một tướng thôi, là
không, là vô tướng, từ tâm khởi lên, chứ thật ra nó chẳng có gì cả.
KINH: Sắc
thân như tượng vì tùy tâm ứng hiện, sắc thân như huyễn vì huyễn trí sanh ra. Sắc
thân như diệm vì chỉ do tưởng mà còn.
GIẢNG: Diệm là ánh sáng mặt trời buổi chiều
chiếu xuống đường loang loáng làm ta có cảm tưởng mặt đường ướt nước, đó chỉ là
do sự tưởng của ta mà ra. Như khi ta trông đám bụi hào quang kia, từ vô lượng
kiếp tưởng nó là người, nhưng đó chỉ là nghiệp duyên biến hiện, khi nào hết
nghiệp duyên thì lại biến đi, chứ nó không cố định là gì cả. Cũng như ngay
trong giờ phút này, chúng ta đang ngồi trong thân một Bồ Tát lớn, nhưng vì mắt
mình thấp kém quá không hay biết gì, còn các vị thần linh lớn thì biết đó là
thân Bồ Tát.
KINH: Sắc
thân như ảnh, vì tùy nguyện hiện sanh. Sắc thân như mộng, vì tùy tâm mà hiện, sắc
thân pháp giới, vì tánh tịnh như hư không.
GIẢNG: “Sắc thân pháp giới” là
cái sắc thân đó bao trùm pháp giới, nhập pháp giới.
KINH: Sắc
thân đại bi vì thường cứu hộ chúng sanh. Sắc thân vô ngại vì niệm niệm cùng khắp
pháp giới.
GIẢNG: Sắc thân đó vô ngại vì niệm niệm
đi cùng khắp pháp giới.
KINH: Sắc
thân vô biện, sắc thân vô lượng…, sắc thân vô trụ…, sắc thân vô xứ…, sắc thân
vô sanh vì huyễn nguyện làm thành.
GIẢNG: Như sắc thân của ngài Ma Gia không
thể nói có sanh, có diệt được, mà do sức huyễn của nguyện làm thành.
KINH: Sắc
thân như thật, vì định tâm hiện ra.
GIẢNG: Nhưng tuy gọi là huyễn vẫn là như
thật, vì do định lực và nguyện lực của ngài hiện ra, sở dĩ có thể nói là như thật
vì nó có thể độ sanh, nhưng nó vẫn không phải thiệt thật, vẫn là ảnh tượng huyễn.
KINH: Sắc
thân chẳng sanh vì tùy nghiệp của chúng sanh mà xuất hiện.
GIẢNG: Tức là “đối hiện.”
KINH: Sắc
thân châu như ý vì khắp thỏa mãn tất cả nguyện cầu của chúng sanh.
GIẢNG: Sắc thân châu như ý là mỗi người
nhìn thấy một cách, tùy theo ý chúng sanh mà biến hiện. Hạt châu như ý đó để ở
giữa thì tất cả chúng sanh ở chung mà nhìn thấy hạt châu theo sở cầu của riêng
mình.
KINH: Sắc
thân vô phân biệt, vì chỉ tùy theo chúng sanh phân biệt mà khởi…. Thân như vậy
chẳng phải sắc, vì bao nhiêu sắc tướng như ảnh tượng cả.
GIẢNG: Thân đó chẳng phải sắc vì nó là ảnh
tượng và đồng thời nó là diệu hữu, không lưu ngại, nên không thể gọi là sắc.
KINH: Sắc
thân đó chẳng phải thọ, vì đã diệt hẳn khổ thọ của thế gian.
GIẢNG: Cái sắc thân ấy không dệt bằng thọ
ấm, vì nó không có thọ lạc, không có thọ khổ. (Cũng như trong kinh thường
hay nói các pháp không thọ, mà mình vẫn nhận pháp ấy, nhưng không khởi vọng
tình, nên gọi là pháp không thọ). Nhưng vẫn có thể trừ thọ khổ cho thế
gian.
KINH: Chẳng
phải tưởng, vì tùy theo chúng sanh tưởng mà hiện.
GIẢNG: Sắc thân đó cũng không dệt nên bằng
tưởng ấm, mà chỉ tùy theo chúng sanh tưởng thế nào thì hiện ra như vậy.
KINH: Chẳng
phải hành vì nương theo nghiệp như huyễn mà thành tựu.
GIẢNG: Mà sắc thân đó cũng không dệt nên
bởi hành ấm vì nương theo trí như huyễn mà thành tựu. Nếu nó là hành ấm thực
thì nó phải có ngã, còn nó không có ngã, nó chỉ là huyễn, nó nương theo nguyện
lực và sức huyễn của nguyện lực đó mà thành.
KINH: Chẳng
phải thức vì nguyện trí không vô tánh của Bồ Tát, vì ngữ ngôn của tất cả chúng
sanh đều dứt, vì đã thành tựu thân tịch diệt.
GIẢNG: Sắc thân đó cũng không phải là thức
ấm vì trong thức ấm của chúng sanh có cả chân lẫn vọng, mà thân diệu sắc của
ngài Ma Gia đã diệt hết vọng, chỉ còn chân thôi, vì vậy nó cao hơn thức ấm.
Tôi xin nhắc lại một
chìa khóa căn bản: đó là ngũ ấm giảng nói trong Lăng Nghiêm. Phải hiểu rõ ngũ ấm
thì mới biết con đường tiến tu từng thứ bậc đi lên của người tu hành, còn không
thì mù mịt, không biết rõ được.
KINH: Bấy
giờ Thiện Tài lại thấy Ma Gia phu nhơn tùy theo tâm sở thích của các chúng sanh
mà hiện sắc thân siêu quá tất cả thế gian. Những là, hoặc hiện thân siêu quá
thiên nữ nơi trời Tha Hóa Tự Tại, nhẫn đến siêu quá thiên nữ nơi trời Tứ Thiên
Vương. Hoặc hiện thân siêu quá Long Nữ, nhẫn đến siêu quá Nhơn nữ. Hiện vô lượng
sắc thân như vậy để lợi ích chúng sanh.
GIẢNG: Ngài hiện bời bời sắc thân như vậy,
tùy loại hiện thân để làm lợi ích chúng sanh.
KINH: Nhóm
họp pháp trợ đạo nhất thiết trí hành bình đẳng đàn ba la mật…
GIẢNG: Hiện sắc thân tu đàn ba la mật, tu
nhẫn ba la mật, hiện tất cả những sắc thân ấy rồi, thân nào cũng thị hiện tu
hành để độ sanh.
KINH:…
Thiện Tài thấy Ma Gia phu nhơn hiện diêm phù đề vi trần số môn phương tiện như
vậy…
GIẢNG: Tức là hiện diêm phù đề vi trần số
thân như vậy để độ sanh. “Diêm Phù Đề” là châu chúng ta đang ở,
tức trái đất, và trong đó có bao nhiêu vi trần thì ngài Ma Gia hiện ngần ấy
thân như vậy.
KINH: Đúng
như số thân của Ma Gia phu nhơn đã hiện, Thiện Tài cũng tự hiện bao nhiều thân ở
trước tất cả Ma Gia phu nhơn mà cung kính lễ bái.
GIẢNG: Lúc này con đường tu chứng của
ngài Thiện Tài đã cao lắm rồi, đồng thời được sức gia trì, nên ngài có thể hiện
vi trần số thân bằng với số thân của Ma Gia phu nhơn mà cung kính lễ bái. Cũng
như trong phẩm cuối cùng của Hoa nghiêm, phẩm “mười nguyện Phổ Hiền” cũng
dạy như vậy. Tuy bây giờ chúng ta chưa hiện thân được như vậy, nhưng ta nên tập
quán chiếu là trong pháp giới, từ chỗ nhỏ nhất như hạt bụi, đến chỗ lớn nhất
như các cõi, chỗ nào có Chư Phật thì ta phải dùng tâm tưởng, nghĩ rằng ta hiện
thân trước vị Phật ấy để cúng dường. Riêng việc quán đó, công đức đã vô lượng rồi.
Tất cả những công đức đều do tâm mà ra, mà nếu tâm tư không chấp trước, không cầu
mong thì công đức lại càng vô hạn. Tại sao thế? Vì khi không chấp trước cầu
mong, thì tâm ấy an nhiên, tịch tĩnh.
KINH: Tức
thời Thiện Tài chứng được vô lượng vô số tam muội, phân biệt quán sát tu hành
chứng nhập. Sau khi xuất định, Thiện Tài hữu nhiễu phu nhơn và quyến thuộc của
phu nhơn. Đứng chắp tay cung kính thưa rằng. Bạch đại thánh, Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát dạy tôi phát tâm vô thượng bồ đề, cầu thiện tri thức để thân cận cúng dường.
Ở chỗ mỗi vị thiện tri thức tôi đều kính thờ không bỏ luống, lần lượt đến
đây. Xin Đại Thánh vì tôi mà dạy bảo Bồ Tát thế nào học bồ tát hạnh mà được
thành tựu.
Ma Gia
phu nhơn nói. Này thiện nam tử, ta đã thành tựu môn giải thoát bồ tát đại nguyện
trí huyễn, do đây ta thường làm mẹ của Bồ Tát.
GIẢNG: Ngài Ma Gia phu nhơn tu pháp môn
như huyễn mà chỉ nguyện rằng, từ đây cho đến tột vị lai tế, khi nào có vị Bồ
Tát tối hậu thân xuống Bồ Đề Đạo Tràng ở nơi nào đó, thị hiện đản sanh làm Phật,
thì ngài xin làm mẹ của chư vị đó.
KINH: Này
thiện nam tử, như ta ở tại cung vua Tịnh Phạn nơi thành Ca Tỳ
La này, từ hông bên hữu sanh Thái Tử Tất Đạt Đa hiện bất tư nghì thần biến tự tại.
Như vậy nhẫn đến tận thế giới hải này, tất cả Tỳ Lô Giá Na Như Lai đều vào thân
ta mà thị hiện đản sanh tự tại thần biến.
GIẢNG: Tất cả các vị Phật tột đến kiếp vị
lai đều gá vào thân ngài mà thị hiện đản sanh.
KINH: Lại
này thiện nam tử, lúc ta ở cung vua Tịnh Phạn, lúc Bồ Tát sắp hạ sanh, ta thấy
thân của Bồ Tát mỗi mỗi lỗ lông đều phóng quang minh tên là Nhất Thiết Như Lai
Thọ Sanh Công Đức Luân.
GIẢNG: Trong mỗi mỗi lỗ lộng những quang
minh xoáy tròn từ thân Bồ Tát phóng ra.
KINH: Mỗi
mỗi lỗ lông đều hiện bất khả thuyết, bất khả thuyết phật sát vi trần số Bồ Tát
thọ sanh trang nghiêm. Những quang minh đó thảy đều chiếu khắp tất cả thế giới,
rồi nhập vào đảnh của ta và vào khắp các chân lông…
GIẢNG: Tôi xin nhắc quí vị phần này, và
phần của ngài Cù Ba là hai, với bộ kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương nói về
đức Quan Thế Âm, luôn luôn nói về lỗ lông. Có những lỗ lông tên là “sái
cam lồ,” hoặc nhiều tên khác, lỗ lông nào cũng phóng quang minh, thì
ra, theo tôi nghĩ, tất cả mỗi thân hình đều kết bằng vô lượng cơn lốc xoáy trôn
ốc để tạo thành những lỗ lông ấy. Trong thân căn chúng ta, có rất nhiều lỗ
lông, mà mỗi lỗ lông là một cái “cửa” ra vào của tiều vũ trụ
bên trong (thân căn) và đại vũ trụ bên ngoài. Thường thường những quang minh
nhóm họp xoáy theo đường vòng trôn ốc thành một lỗ lông.
Khi vị Bồ Tát
Thích Ca Mâu Ni vào thân ngài Ma Gia, theo như trong kinh bên Thanh Văn thừa,
nói ngài Ma Gia Phu Nhơn nằm mộng thấy một con voi trắng đi vào. Nhưng nếu nhìn
với con mắt pháp nhãn, cao hơn, thì thấy vô lượng những lớp quang minh xuất
sanh từ thân của đức Thích Ca Mâu Ni, chiếu khắp các nơi, trụ vào đảnh đầu, và
chui vào từng lỗ chân lông của ngài Ma Gia phu nhơn. Và sự diễn nói một sự việc
rất nhiều mức độ, từ thấp đến cao. Nên khi đọc kinh, nhiều khi ta hay bị bàng
hoàng, thấy kinh có vẻ hay, nhưng lại chưa hiểu rõ nó hay ở chỗ nào. Và người đọc
cần suy tư lâu ngày mới mong vỡ ra được đôi chút.
KINH: Lại
trong quang minh ấy hiện khắp tất cả danh hiệu của Bồ Tát, cùng thọ sanh, thần
biến, cung điện, quyến thuộc, ngũ dục tự vui của Bồ Tát. Trong quang minh lại
thấy Bồ Tát xuất gia, đến đạo tràng thành Đẳng Chánh Giác, ngồi tòa sư tử, Bồ
Tát vây quanh, các vua chúa cúng dường, vì dại chúng mà chuyển pháp luân.
GIẢNG: Lúc bấy giờ, trong quang minh hiện
tất cả tam thế từ khi xuất thai cho đến khi thành Chánh Giác và chuyển pháp
luân.
KINH: Này
thiện nam tử, lúc diệu quang minh ấy vào thân ta, hình lượng của thân ta dầu chẳng
hơn trước, nhưng thật ra thời đã siêu thế gian. Tại sao vậy? Vì lúc đó thân của
ta lượng đồng như hư không, đều có thể dung thọ những cung điện trang nghiêm của
thập phương Bồ Tát thọ sanh. Lúc Bồ Tát từ cung trời Đâu Xuất sắp giáng thần,
có mười Phật sát vi trần số đồng nguyện, đồng hạnh, đồng thiện căn, đồng trang nghiêm,
đồng giải thoát, đồng trí huệ, trí lực, pháp thân, nhẫn đến Phổ Hiền thần thông
hạnh nguyện thảy đều đồng với Bồ Tát. Vi trần số Bồ Tát này cùng vây quanh.
GIẢNG: Lúc bấy giờ, trong thân ngài Ma
Gia, các vị Bồ Tát có thể bước một bước đi qua vô lượng vô số cõi, bất khả thuyết,
bất khả thuyết cõi, trong đó vẫn thuyết pháp. Vì vậy, thân ngài lúc đó đồng như
hư không dung chứa tất cả vô ngại.
KINH: Chư
Bồ Tát ấy ở trong bụng ta du hành tự tại: hoặc dùng Đại Thiên Thế Giới làm một
bước, nhẫn đến hoặc dùng bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số thế
giới làm một bước. Lại trong mỗi niệm, chúng hội Bồ Tát ở chỗ Chư Phật Như Lai
nơi bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới mười phương, cùng dục giới, sắc giới
Chư Thiên Vương, chư Phạm vương vì muốn thấy thần biến của Bồ Tát ở trong thai
mẹ để cung kính cúng dường nghe lãnh chánh pháp, nên đều đến vào thân của ta. Dầu
trong bụng ta đều có thể dung thọ tất cả chúng hội như vậy, mà thân ta vẫn
không lớn thêm, cũng chẳng chật hẹp.
GIẢNG: Khi Đức Phật vào bụng ngài Ma Gia
thì tất cả Chư Bồ Tát cũng vào trong ấy để nghe ngài thuyết pháp, và hiện thần
biến thế nào.
KINH: Vì
ta tu môn giải thoát bồ tát đại nguyện trí huyễn trang nghiêm. Này thiện nam tử,
như đức Thế Tôn hiện nay, ta làm mẹ của Ngài, bao nhiêu chư Phật thuở xưa ta
cũng làm mẹ như vậy. Này thiện nam tử, thuở xưa, ta từng làm thần ao sen. Bấy
giờ có Bồ Tát bỗng nhiên hóa sanh nơi Liên Hoa Tạng, ta liền bồng ẵm, săn sóc
nuôi nâng. Thế gian gọi ta là mẹ của Bồ Tát.
GIẢNG: Thuở đó ngài làm thần ao sen,
trong ao sen có vị Bồ Tát hóa sanh, do nhân duyên nhiều kiếp nên trông thấy thì
cảm thấy trìu mến, thương sót ngay. Sau đó ngài liền ẵm vị Bồ Tát, từ đó về
sau, ngài khởi tâm nghĩ muốn làm mẹ của các Bồ Tát. Ở điểm này, chúng ta nên biết
rằng, có những thời mà đức Phật hóa sanh trong hoa sen ở nhân gian, chứ không
phải cứ lúc nào cũng phải gá thai sanh đâu. Tại sao trong thời này, các ngài
không hóa sanh? Hãy nghe trong kinh kể …
KINH: Thuở
xưa, ta từng làm thần ao sen. Bấy giờ có Bồ Tát hóa sanh nơi Liên Hoa Tạng, ta
liền bồng ẵm săn sóc nuôi nấng. Thế gian gọi ta là mẹ của Bồ Tát. Lại thuở xưa,
ta từng là thần Bồ Đề Tràng. Bấy giờ có Bồ Tát bỗng nhiên hóa sanh trong lòng của
ta. Người đời ấy cũng gọi ta là mẹ của Bồ Tát. Này thiện nam tử, có vô lượng tối
hậu thân Bồ Tát phương tiện thị hiện thọ sanh nơi thế giới này, ta đều làm mẹ của
các ngài…
GIẢNG: Cách đây 2500 năm, đức Phật thị hiện
thọ sanh, gá vào ngài Ma Gia, để cho những người nhân thế nghĩ rằng, vị Phật đó
do người đàn bà sanh ra, tu thành Phật được, thì chúng ta cũng do người đàn bà
sanh ra cũng có thể tu thành Phật được. Vì thời này, phước đức cạn mỏng, chỉ co
thai sanh thôi. Còn những thời trước, phước đức lớn hơn, người toàn hóa sanh,
thì các ngài cũng tùy thuận theo nhân gian mà hóa sanh.
KINH: Này
thiện nam tử, như ở trong thế giới Ta Bà này, trong Hiền kiếp…
GIẢNG: Hiền kiếp là kiếp này của chúng
ta, còn Trang nghiêm kiếp là kiếp ở quá khứ, kiếp vị lai gọi là tinh tú kiếp.
Trong hiền kiếp này, đã có bốn vị Phật ra đời rồi, tức là ngài Câu Lưu Tôn,
ngài Câu Na Hàm, ngài Ca Diếp và ngài Thích Ca Mâu Ni. Trong hiền kiếp này, ta
đang ở trung kiếp trụ này mới có bốn đức Phật thị hiện nơi đời thôi, mà trong
trung kiếp trụ này mới đến tiểu kiếp thứ chín. Hiền Kiếp là một đại kiếp. Đại
kiếp gồm bốn trung kiếp là Thành, Trụ, Hoại, Không. Mỗi trung kiếp gồm hai mươi
tiểu kiếp, mà một tiểu kiếp dài khoảng mười sáu triệu năm. chúng ta đang ở
trung kiếp trụ của Hiền Kiếp. Trong một trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp, mà
chúng ta đang ở tiểu kiếp thứ chín, và ngài Di Lặc sẽ xuống trần vào tiểu kiếp
thứ mười. Đó là những điều cần phải nhớ.
KINH: Như
ở thế giới Ta Bà này, trong Hiền Kiếp, quá khứ đức Câu Lưu Tôn Phật, Đức Câu Na
Hàm Mâu Ni Phật, Đức Ca Diếp Phật, và Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, hiện nay thị hiện
thọ sanh, ta đều làm mẹ, đời vị lai, Di Lặc Bồ Tát từ thiên cung Đâu Suất lúc sắp
giáng thần phóng đại quang minh chiếu khắp pháp giới thị hiện thần biến thị hiện
thọ sanh cùng chúng Bồ Tát, ta cũng sẽ làm mẹ.
GIẢNG: Sau đó ngài kể một lô các vị Phật,
ở đây, tôi xin nhắc rằng, kiếp thứ chín này, chúng ta chỉ có bốn vị Phật ra đời
thôi, kiếp thứ mười có một vị Phật là ngài Di Lặc, rồi sau đó bẵng đi mấy tiểu
kiếp không có Phật, cho đến kiếp thứ mười lăm có 994 vị Phật ra đời. Đến kiếp
thứ hai mươi thì có một vị Phật cuối cùng ra đời đó là ngài Lâu Chí. Tất cả những
vị Phật đó thị hiện ra đời thì ngài Ma Gia đều làm mẹ của các ngài.
KINH: Thiện
Tài bạch rằng, Đại Thánh được môn giải thoát này đến nay đã bao nhiêu thời
gian?
Ma Gia
phu nhơn nói, này thiện nam tử, thuở xưa quá bất tư nghì kiếp số, chẳng phải đạo
nhãn của bực tối hậu thân Bồ Tát biết được.
GIẢNG: “Bất tư nghì kiếp số” mà
dùng đạo nhãn của bậc tối hậu thân Bồ Tát còn chưa biết được, đủ thấy rằng ở mức
độ này rất sâu. Có kiếp tên là Tịnh Quang, thế giới tên là Tu Di Đức, năm loài
lộn lạo ở chung, trong đó có một vương thành, cai tri bởi chuyển Luân
Vương tên là Đại Oai Đức.
KINH: Phía
Bắc Vương thành Tự Tại Tràng, có một đạo tràng tên là Mãn Nguyệt Quang
Minh. Thần đạo tràng này tên là Từ Đức.
GIẢNG: Vị thần Từ Đức này đứng trên đạo
tràng nhìn mãi. Lúc đó, trong đạo tràng có một vị Bồ Tát tối hậu thân sắp thành
Phật, nhưng có một con ác ma tên là Kim Sắc Quang tới phá, nhưng vị Phật không
dùng thần lực để đuổi, mà chính vua Chuyển Luân Vương lại dùng thần lực của
mình để xua ác ma. Lúc đó, vị đạo tràng thần là Tự Đức, trông thấy vua đẹp đẽ
quá, khởi tâm mến thích hành động của vua Chuyển luân ấy, và nghĩ rằng người đó
là con trai của bà. Từ đó về sau, ngài có nguyện hoài hoài làm mẹ của các vị Phật.
Còn vua Chuyển luân ấy sau tu dần thành Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Đó là lời kể
của ngài Ma Gia phu nhơn.
Comments
Post a Comment