ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
53.- PHỔ HIỀN ĐẠI BỒ TÁT
Thiện-Tài tư-duy quán-sát
nhất-tâm nguyện thấy Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát, và muốn thấy Ðại-Thiên thế-giới
vi-trần-số thiện-tri-thức để gần-gũi cung-kính phụng thờ tuân hành giáo-pháp
không chống trái, tăng trưởng xu cầu tất cả trí-huệ, làm rộng biển đại-bi, thêm
mây đại-từ, quán-sát khắp mọi loài sanh lòng hoan-hỷ, an-trụ pháp-môn tịch-tịnh
của Bồ-Tát, duyên khắp tất cả cảnh-giới quảng-đại, học tất cả công-đức quảng
đại của Phật, nhập tất cả tri-kiến quyết định của Phật, thêm pháp trợ-đạo cho
nhất-thiết-trí, khéo tu thâm-tâm của tất cả Bồ-Tát, biết tam-thế Phật thứ đệ
xuất thế, vào biển nhất-thiết-pháp, chuyển xe nhất-thiết-pháp, sanh trong tất
cả thế-gian, nhập nơi tất cả bồ-tát nguyện-hải, trụ tất cả kiếp tu bồ-tát-hạnh,
chiếu rõ tất cả cảnh-giới Như-Lai, trưởng dưỡng chư căn của tất cả Bồ-Tát, được
quang-minh thanh-tịnh của nhất-thiết-trí, chiếu khắp mười phương, trừ hết tôi
tăm chướng-ngại, biết khắp pháp-giới, hiện thân mình khắp tất cả cõi, tất cả
loài, dẹp tất cả chướng, vào khắp vô-ngại, trụ nơi bực pháp-giới bình-đẳng,
quán-sát cảnh-giới giải-thoát của Phổ-Hiền, được nghe danh tự hạnh nguyện của PHỔ HIỀN ĐẠI BỒ TÁT, cũng nghe trợ-đạo,
chánh-đạo, bậc chư địa, phương-tiện-địa, nhập-địa, thắng-tấn-địa, trụ-địa,
tu-tập-địa, cảnh-giới-địa, oai-lực-địa, đồng-trụ khát ngưỡng.
Thiện-Tài muốn thấy
Phổ-Hiền Bồ-Tát, liền ở trước tòa sư-tử của Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai nơi
Kim-Cang-Tạng Bồ-Ðề-Tràng, trên tòa Bửu-Liên-Hoa-Tạng, phát tâm rộng lớn như
hư-không-giới, khởi tâm vô-ngại, bỏ tất cả cõi rời tất cả chấp, tâm vô-ngại đi
trong tất cả pháp vô-ngại, tâm vô-ngại vào khắp tất cả thập phương, tâm
thanh-tịnh vào cảnh-giới của nhất-thiết-trí, tâm minh-liễu quán-sát đạo-tràng
trang-nghiêm, tâm quảng-đại nhập tất cả phật-pháp-hải, tâm châu-biến hóa-độ tất
cả chúng-sanh-giới, tâm vô-lượng tịnh tất cả phật-độ, tâm vô-tận trụ tất cả
kiếp, tâm cứu-cánh xu hướng Như-Lai thập-lực.
Lúc Thiện-Tài phát khởi
những tâm như vậy, do sức thiện-căn của mình, được sức-gia-hộ của tất cả
Như-Lai, do sức đồng thiện-căn của Phổ-Hiền Bồ-Tát, nên Thiện-Tài thấy mười thứ
thoại-tướng, như là:
Thấy tất cả phật-độ
thanh-tịnh, tất cả như-lai thành đẳng-chánh-giác.
Thấy tất cả phật-độ
thanh-tịnh không các ác-đạo.
Thấy tất cả phật-độ
thanh-tịnh nghiêm-sức với những diệu-liên-hoa.
Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh,
tất cả chúng-sanh thân tâm thanh-tịnh.
Thấy tất cả phật-độ
thanh-tịnh, trang-nghiêm với những châu bửu.
Thấy tất cả phật-độ
thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh tướng tốt nghiêm thân.
Thấy tất cả phật-độ
thanh-tịnh, những mây trang-nghiêm che phía trên.
Thấy tất cả phật-độ
thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh mến yêu nhau, giúp ích nhau, chẳng hại nhau.
Thấy tất cả phật-độ
thanh-tịnh, đạo-tràng trang-nghiêm.
Thấy tất cả phật-độ
thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh tâm thường niệm Phật.
Thiện-Tài lại thấy mười
tướng quang-minh, như là:
Thấy bao nhiêu vi-trần của
tất cả thế-giới, trong mỗi mỗi vi-trần xuất-sanh tất cả thế-giới vi-trần-số
phật-quang-minh võng-vân chiếu sáng khắp nơi.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất
sanh tất cả thế-giới vi-trần-số phật quang-minh luân-vân nhiều thứ sắc-tướng
cùng khắp pháp-giới.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất
sanh tất cả thế-giới vi-trần-số phật sắc-tượng bửu-vân cùng khắp pháp-giới.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất
sanh tất cả thế-giới vi-trần-số phật-quang-diệm luân-vân cùng khắp pháp-giới.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất
sanh tất cả thế-giới vi-trần-số những diệu-hương-vân cùng khắp mười phương khen
ngợi tất cả hạnh nguyện đại công-đức-hải của Phổ-Hiền.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất
sanh tất cả thế-giới vi-trấn-số nhựt nguyệt tinh tú vân, đều phóng quang-minh
của Phổ-Hiền Bồ-Tát chiếu khắp pháp-giới.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất
sanh tất cả thế-giới vi-trần-số tất cả chúng-sanh thân sắc tượng vân phóng
phật-quang-minh chiếu khắp pháp-giới.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất
sanh tất cả thế-giới vi-trần-số tất cả phật-sắc-tượng ma-ni-vân cùng khắp
pháp-giới.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất
sanh tất cả thế giới vi-trần-số Bồ-Tát thân sắc-tượng-vân đầy khắp pháp-giới,
khiến tất cả chúng-sanh đều được xuất ly, đều mãn sở-nguyện.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất
sanh tất cả thế-giới vi-trần-số Như-Lai thân sắc-tượng-vân, nói thệ nguyện
quảng đại của tất cả Phật cùng khắp pháp-giới.
Thiện-Tài thấy mười thứ
quang-minh nầy rồi, nghĩ rằng: nay tôi sẽ được thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát thêm lớn
thiện-căn. Thấy tất cả Phật, nơi tất cả Bồ-Tát sanh tri giải quyết định, được
nhất-thiết-trí.
Thiện-Tài nhiếp khắp
thiện-căn, nhứt tâm cầu thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát, khởi đại tinh-tấn tâm không thối
chuyển, liền dùng phổ-nhãn quán-sát mười phương tất cả chư Phật và chúng
Bồ-Tát. Bao nhiêu cảnh-giới đã thấy đều tưởng là đuợc thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Dùng trí-huệ-nhãn quán-sát
phổ-hiền đạo, tâm quảng-đại dường như hư-không, đại-bi kiên-cố như Kim-Cang.
Nguyện tận vị-lai thường được theo Phổ-Hiền, niệm niệm tùy thuận tu
phổ-hiền-hạnh, thành-tựu trí-huệ, nhập như-lai-cảnh, trụ phổ-hiền-địa.
Bấy giờ Thiện-Tài Ðồng-Tử
liền thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát ở trong chúng-hội trước đức Như-Lai, ngồi tòa sư-tử
Bửu-Liên-Hoa, chúng Bồ-Tát vây quanh rất là tôn nghiêm, thế-gian không sánh
được, cảnh-giới trí-huệ vô-lượng vô-biên khó lường khó nghĩ, đồng tam-thế Phật,
tất cả Bồ-Tát không quán-sát được.
Thấy thân Phổ-Hiền, mỗi
mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số quang-minh-vân, khắp pháp-giới
hư-không-giới tất cả thế-giới, trừ diệt tất cả chúng-sanh khổ hoạn, khiến các
Bồ-Tát sanh đại hoan-hỷ.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất
sanh tất cả phật-sát vi-trần-số những sắc-hương-diệm-vân, khắp pháp-giới
hư-không-giới tất cả chư Phật chúng-hội đạo-tràng, để huân tập tất cả.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất
sanh tất cả phật-sát vi-trần-số tạp-hoa-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất
cả chư Phật chúng-hội đạo-tràng mưa những diệu-hoa.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất
sanh tất cả phật-sát vi-trần-số hương thọ vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất
cả chư phật chúng-hội đạo-tràng mưa những diệu hương.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất
sanh tất cả phật-sát vi-trần-số diệu-y vân, khắp pháp-giới hư-không-giới chư
phật chúng-hội đạo tràng mưa những diệu-y.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất
sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bửu-thọ-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất
cả chư phật chúng-hội đạo tràng, mưa ma ni bửu.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất
sanh tất cả phật-sát vi-trần-số sắc-giới thiên-thân-vân sung-mãn pháp-giới,
khen ngợi bồ-đề-tâm.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất
sanh tất cả phật-sát vi-trần-số phạm-thiên thân vân, khuyến thỉnh chư như lai
chuyển diệu pháp luân.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất
sanh tất cả phật-sát vi-trần-số dục-giới thiên vương thân vân, hộ trì pháp-luân
của tất cả như-lai.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông,
trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số tam-thế phật-sát-vân, khắp pháp-giới
hư-không-giới vì các chúng-sanh, những người không chỗ về nương mà làm chỗ về
nương, những người không chỗ che chở mà làm chỗ che chở, những người không chỗ
y-chỉ mà làm chỗ y chỉ.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông,
trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số thanh-tịnh phật-sát-vân
khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư Phật xuất thế trong đó, chúng hội
Bồ-Tát thảy đều sung-mãn.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông,
trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số tịnh bất-tịnh phật-sát-vân
khắp pháp-giới hư-không-giới, khiến tạp nhiễm chúng-sanh đều được thanh-tịnh.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông,
trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bất tịnh-tịnh phật-sát-vân
khắp pháp-giới hư-không-giới, khiến tạp nhiễm chúng-sanh đều được thanh-tịnh.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông,
trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bất-tịnh phật-sát-vân khắp
pháp-giới hư-không-giới, khiến thuần nhiễm chúng-sanh đều được
thanh-tịnh.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông,
trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số chúng-sanh thân-vân khắp pháp-giới
hư-không-giới, tùy sở nghi giáo hóa chúng-sanh đều khiến phát tâm vô-thượng
bồ-đề.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông,
trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bồ-tát thân-vân biến
pháp-giới hư-không-giới tán dương những danh hiệu của chư Phật làm cho
chúng-sanh tăng trưởng thiện-căn.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông,
trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bồ-tát thân-vân khắp
pháp-giới hư-không-giới tất cả phật-sát tuyên dương tất cả chư Phật Bồ-Tát,
những thiện-căn sanh khởi từ khi sơ phát tâm.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông,
trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bồ-tát thân-vân khắp
pháp-giới hư-không-giới, trong mỗi phật-sát nơi tất cả phật-sát tuyên dương tất
cả bồ-tát nguyện-hải và thanh-tịnh diệu-hạnh của Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông,
trong mỗi niệm xuất sanh Phổ-Hiền Bồ-Tát hạnh-vân khiến tâm tất cả chúng-sanh
được mãn túc, tu tập đầy đủ đạo nhất-thiết-trí.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất
sanh tất cả phật-sát vi-trần-số chánh-giác thân-vân, nơi tất cả phật-sát hiện
thành chánh-giác, khiến các Bồ-Tát thêm lớn pháp đại-thừa thành nhất-thiết-trí.
Thiện-Tài thấy cảnh-giới
thần-thông tự-tại của Phổ-Hiền Bồ-Tát như vậy, thân tâm hoan hỉ, hớn hở
vô-lượng.
Lại thấy mỗi mỗi thân
phần, mỗi mỗi lỗ chân lông của Phổ-Hiền đều có Ðại-Thiên thế-giới phong-luân,
thủy-luân, địa-luân, hỏa-luân, đại-hải, giang-hà và những Bửu-Sơn, Tu-Di,
Thiết-vi, thành ấp, cung điện, viên lâm, tất cả xứ của địa-ngục, ngạ-quỷ,
súc-sanh, Diêm-La-Vương, những cung điện của Thiên, Long, Bát-Bộ, nhân và
phi-nhân, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô-Sắc, nhật, nguyệt, tinh-tú, gió, mây, sấm,
chớp, ngày, đêm, tháng, giờ đến năm, kiếp, chư Phật xuất thế, chúng hội
Bồ-Tát, đạo-tràng trang-nghiêm, những sự như vậy đều thấy rõ cả.
Như thấy rõ tại thế-giới
nầy, tất cả thế-giới ở mười phương đều thấy rõ cả.
Như thấy thập phương
thế-giới hiện-tại, tất cả thế-giới tiền-tế hậu-tế cũng thấy như vậy, nhưng vẫn
chẳng tạp loạn nhau.
Như ở chỗ
Tỳ-Lô-Giá-Na-Như-Lai thị-hiện sức thần-thông như vậy, tại Liên-Hoa-Ðức
thế-giới, chỗ của Hiền-Thủ Phật, hiện sức thần-thông cũng như vậy.
Nhẫn đến tại tất cả
thế-giới mười phương, chỗ của tất cả chư Phật Như-Lai, cũng hiện sức thần-thông
như vậy.
Mười phương tất cả
thế-giới trong mỗi mỗi vi-trần đều có pháp-giới chư Phật chúng-hội. Chỗ mỗi đức
Phật, Phổ-Hiền Bồ-Tát ngồi trên tòa Bửu-Liên-Hoa Sư-Tử hiện sức thần-thông cũng
đều như vậy.
Trong thân của mỗi mỗi
Phổ-Hiền đều hiện tất cả cảnh-giới tam-thế, tất cả cõi Phật, tất cả chúng-sanh,
tất cả Phật xuất-hiện, tất cả bồ-tát-chúng, nghe ngôn âm của tất cả chúng-sanh,
ngôn âm của tất cả Phật, pháp-luân của tất cả Như-Lai chuyển. Lại thấy
công-hạnh của tất cả Bồ-Tát, thần-thông du-hí của tất cả Như-Lai.
Thiện-Tài thấy vô-lượng
đại-thần-thông-lực bất-tư-nghì của Phổ-Hiền Bồ-Tát như vậy, liền được mười thứ
trí ba-la-mật. Như là:
Trí ba-la-mật trong mỗi
niệm đều có thể đi khắp tất cả cõi Phật.
Trí ba-la-mật trong mỗi
niệm đều có thể qua đến tất cả chỗ Phật.
Trí ba-la-mật trong mỗi
niệm đều có thể cúng-dường tất cả Như-Lai.
Trí ba-la-mật trong mỗi
niệm ở khắp chỗ của tất cả Như-Lai để nghe pháp và thọ trì.
Trí ba-la-mật trong mỗi
niệm tư-duy pháp-luân của tất cả Như-Lai.
Trí ba-la-mật trong mỗi
niệm biết sự đại thần-thông bất-tư-nghì của tất cả Phật.
Trí ba-la-mật trong mỗi
niệm nói một câu pháp tột thuở vị-lai biện-tài vô-tận.
Trí ba-la-mật trong mỗi
niệm dùng thân bát-nhã quán tất cả pháp.
Trí ba-la-mật trong mỗi
niệm nhập tất cả pháp-giới thiệt-tướng-hải.
Trí ba-la-mật trong mỗi
niệm biết tâm của tất cả chúng-sinh.
Trí ba-la-mật trong mỗi
niệm huệ hạnh của Phổ-Hiền đều hiện-tiền.
Thiện-Tài đã được mười trí
ba-la-mật nầy rồi, Phổ-Hiền Bồ-Tát liền dơ tay hữu xoa đầu Thiện-Tài.
Ðược xoa đầu, Thiện-Tài
liền được tất cả phật-sát vi-trần-số môn tam-muội, mỗi tam-muội lại dùng
phật-sát vi-trần-số tam-muội làm quyến-thuộc.
Mỗi mỗi tam-muội đều thấy
tất cả phật-sát vi-trần-số phật-đại-hải mà từ xưa chưa thấy, tích tập tất cả
phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí trợ-đạo, sanh đủ tất cả phật-sát vi-trần-số
nhất-thiết-trí thượng-diệu-pháp, phát tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí
đại-thệ-nguyện, nhập tất cả phật-sát vi-trần-số đại-nguyện-hải, trụ tất cả
phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí xuất-yếu-đạo, tu tất cả phật-sát vi-trần-số
bồ-tát-hạnh, khởi tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí đại-tinh-tấn, được
tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí tịnh-quang-minh.
Như ở Ta-Bà thế-giới chỗ
của Tỳ-Lô-Giá-Na Phật nầy, Phổ-Hiền Bồ-Tát xoa đầu Thiện-Tài Ðồng-Tử, khắp mười
phương thế-giới, trong mỗi vi-trần nơi những thế-giới ấy, tất cả thế-giới, tất
cả chỗ Phật, Phổ-Hiền Bồ-Tát cũng xoa đầu Thiện-Tài như vậy, những pháp-môn
tam-muội chứng được cũng đồng.
Bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát
bảo Thiện-Tài rằng:
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi
thấy thần-lực của ta chăng?
Thiện-Tài thưa:
Bạch vâng! Những sự thần
thông quảng đại bất-tư-nghì nầy chỉ đức Như-Lai mới biết được.
Phổ-Hiền Bồ-Tát nói.
Nầy Thiện-nam-tử! Thuở
quá-khứ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số kiếp, ta thật hành
bồ-tát-hạnh cầu nhất-thiết-trí. Trong mỗi mỗi kiếp vì muốn thanh-tịnh
bồ-đề-tâm, nên kính thờ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số Phật.
Trong mỗi mỗi kiếp vì tích
tập nhất-thiết-trí phước đức nên thiết lập bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
phật-sát vi-trần-số thí-hội quảng đại, khiến tất cả thế-gian đều nghe biết,
phàm ai đến cầu xin thời đều làm cho họ đầy đủ cả.
Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu
pháp nhất-thiết-trí nên ta đem bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát
vi-trần-số tài vật bố-thí.
Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu
phật-trí, nên ta đem bất-kha-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thành
ấp, tụ lạc, quốc độ, vương vị, thê tử, quyến thuộc, mắt tai mũi lưỡi, thân thịt
tay chân đến cả mạng sống để bố thí.
Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu
nhất-thiết-trí-thủ, nên ta đem bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát
vi-trần-số đầu để bố-thí.
Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu
nhất-thiết-trí, nên ở chỗ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số
Như-Lai, ta cung kính tôn trọng, kính thờ cúng-dường, rồi xuất-gia học đạo,
trong phật-pháp tu hành hộ giáo.
Nầy Thiện-nam-từ! Ta ở
trong những số kiếp như vậy, tự nhớ chưa từng có một niệm chẳng thuận
phật-giáo, chưa từng có một niệm sanh lòng sân hại, cũng chưa từng có một niệm
sanh tâm ngã ngã-sở, tâm mình người sai biệt, tâm xa rời bồ-đề, tâm nhàm mỏi
sanh tử, tâm lười biếng, tâm chướng ngại, tâm mê hoặc. Mà ta chỉ an trụ tâm đại
bồ-đề vô-thượng chẳng thể trở hoại tích tập pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta
trang-nghiêm phật-độ, dùng tâm đại-bi cứu hộ chúng-sanh, giáo-hóa thành-tựu,
cúng-dường chư Phật, thờ thiện-tri-thức, vì cầu chánh-pháp nên hoằng tuyên
hộ-trì, trong thân ngoài vật đều có thể xả tất cả, đến mạng sống cũng không
tiếc.
Nếu dùng thời-gian
kiếp-hải để nói nhơn-duyên đó, kiếp-hải còn có thể hết chớ nhơn duyên đó không
cùng tận.
Nầy Thiện-nam-tử! Trong
pháp-hải của ta, không có một chữ không có một câu, Chẳng phải thí xả ngôi
Chuyển-Luân-Vương mà cầu được. Chẳng phải thí xả tất cả sở-hữu mà cầu được.
Nầy Thiện-nam-tử! Pháp của
ta cầu đều vì cứu hộ tất cả chúng-sanh. Một lòng suy nghĩ mong cho chúng-sanh
đưọc nghe pháp nầy. Nguyện dùng trí-quang chiếu khắp thế-gian. Nguyện vì
chúng-sanh mà khai thị trí xuất-thế-gian. Nguyện cho chúng-sanh đều được an
lạc. Nguyện khắp tán dương những công-đức của chư Phật.
Thuở xưa, nhơn-duyên của
ta như vậy, trong bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số kiếp-hải
nói không hết được.
Nầy Thiện-nam-tử! Vì thế
nên ta dùng sức trợ đạo pháp như vậy, những sức thiện-căn, sức đại chí-nguyện,
sức tu công-đức, sức như thiệt tư-duy tất cả pháp, sức trí-huệ-nhãn, sức
phật-oai-thần, sức đại-từ-bi, sức tịnh-thần-thông, sức thiện-tri-thức như vậy
nên ta được pháp-thân thanh-tịnh tam thế bình-đẳng rốt ráo nầy. Ta lại được
sắc-thân thanh-tịnh vô-thượng siêu các thế-gian, tùy sở thích của tâm
chúng-sanh mà hiện hình vào tất cả cõi khắp tất cả xứ, nơi các thế-giới rộng
hiện thần-thông, làm cho người thấy đều vui mừng.
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi
quan-sát sắc-thân của ta như vậy.
Sắc-thân của ta đây đã
thành-tựu từ vô-biên kiếp hải. Vô-lượng ngàn ức na-do-tha kiếp khó thấy khó
nghe.
Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có
chúng-sanh chưa gieo thiện-căn và gieo ít thiện-căn, Thanh-Văn, Bồ-Tát thời còn
chẳng được nghe danh hiệu của ta huống là thấy được thân ta.
Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có
chúng-sanh được nghe danh hiệu của ta thời không còn thối chuyển nơi vô-thượng
bồ-đề.
Nếu ai hoặc thấy, hoặc
chạm, hoặc rước, hoặc đưa, hoặc tạm theo dõi, nhẫn đến trong mộng được thấy
nghe ta, thời đều cũng được bất thối chuyển cả.
Hoặc có chúng-sanh một
ngày một đêm nhớ nghĩ đến ta thời liền được thành-thục.
Hoặc bảy ngày bảy đêm, nửa
tháng, một tháng, nửa năm, một năm, trăm năm, ngàn năm, một kiếp, trăm kiếp,
nhẫn đến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số kiếp nghĩ nhớ đến ta
mà được thành-thục.
Hoặc một đời, hoặc trăm
đời, nhẫn đến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số đời nghĩ nhớ
đến ta mà thành-thục.
Hoặc thấy ta phóng đại
quang-minh, hoặc thấy ta chấn động cõi Phật, hoặc sanh e sợ, hoặc sanh hoan-hỉ
thảy đều thanh-thục.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta dùng
phật-sát vi-trần-số môn phương-tiện như vậy, làm cho các chúng-sanh chẳng thối
chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.
Nếu có chúng-sanh nào thấy
nghe cõi thanh-tịnh của ta thời tất được sanh trong cõi thanh-tịnh nầy.
Nếu có chúng-sanh nào thấy
nghe thân thanh-tịnh của ta thời tất được sanh trong thân thanh-tịnh của ta.
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi
nên quan-sát thân thanh-tịnh của ta đây.
Thiện-Tài quán-sát
tướng-hảo chi tiết nơi thân Phổ-Hiền Bồ-Tát. Trong mỗi mỗi lỗ lông đều có
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát-hải. Mội mỗi sát-hải đều có chư Phật
xuất thế và chúng-hội Bồ-Tát.
Và lại thấy tất cả sát-hải
đó: những kiến lập, những hình trạng, những trang-nghiêm, những đại-sơn bao
quanh, những sắc mây che trùm hư-không, những Phật Như-Lai xuất thế thuyết
những pháp-luân.
Lại thấy ở trong mỗi mỗi
thế-giới hải, Phổ-Hiền xuất hiện tất cả phật-sát vi-trần-số phật-hóa thân-vân,
cùng khắp thập phương tất cả thế-giới giáo hóa chúng-sanh khiến hướng về
vô-thượng bồ-đề.
Bấy giờ Thiện-Tài lại thấy
tự thân ở trong thân Phổ-Hiền giáo-hóa chúng-sanh trong mười phương tất cả
thế-giới.
Bao nhiêu thiện-căn
trí-huệ quang-minh của Thiện-Tài đã được, khi thân cận phật-sát vi-trần-số chư
thiện-tri-thức, sánh với thiện-căn khi thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát mà được, thời không
bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần trăm ngàn ức,
nhẫn đến không bằng một phần toán-số thí-dụ.
Trong một niệm mà hiện nay
Thiện-Tài nhập sát-hải của chư Phật ở trong một lỗ lông của Phổ-Hiền, sánh với
thời-gian từ sơ phát tâm đến nay đã nhập sát-hải, thời nhiều hơn đến số
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần. Như nơi một lỗ lông, tất cả lỗ
lông cũng đều như vậy.
Trong lỗ lông của Phổ-Hiền
Bồ-Tát, Thiện-Tài bước một bước qua khỏi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát
vi-trần-số thế-giới, đi mãi như vậy tột thuở vi-lai vẫn còn chẳng biết được thứ
đệ sát-hải của trong một lỗ lông, cũng chẳng biết ngằn mé của sát-hải-tạng,
sát-hải sai-biệt, sát-hải phổ-nhập, sát-hải-thành, sát-hải-hoại, sát-hải
trang-nghiêm. Cũng chẳng biết được ngằn mé của phật-hải thứ đệ, phật-hải tạng,
phật-hải sai-biệt, phật-hải phổ nhập, phật-hải sanh, phật-hải-diệt. Cũng chẳng
biết được ngằn mé của bồ-tát-chúng-hải thứ đệ, bồ-tát-chúng-hải tạng, bồ-tát
chúng-hải sai-biệt, bồ-tát chúng-hải phổ nhập, bồ-tát chúng-hải tập, bồ-tát
chúng-hai tán. Cũng chẳng thể biết ngằn mé của trí nhập chúng-sanh-giới, biết
căn chúng sanh, giáo-hóa điều-phục chúng-sanh, chỗ trụ thậm-thâm tự-tại của
Bồ-Tát những địa những đạo của Bồ-Tát nhập.
Nơi sát hải trong lỗ lông
của Phổ-Hiền Bồ-Tát, Thiện-Tài đi như vậy hoặc nơi một cõi trải qua một kiếp,
nhẫn đến hoặc trải qua bất-khả-thuyết bất-khả-thuyệt phật-sát vi-trần-số kiếp
mà đi như vậy.
Cũng chẳng mất nơi đây mà
hiện nơi kia. Mỗi niệm Thiện-Tài cùng khắp vô-biên sát-hải giáo-hóa chúng-sanh
khiến họ hướng về vô-thượng bồ-đề.
Ðương lúc đó, Thiện-Tài
thứ đệ được những hạnh-nguyện-hải của Phổ-Hiền Bồ-Tát, đồng với Phổ-Hiền, đồng
với chư Phật một thân sung-mãn tất cả thế-giới, đồng quốc-độ, đồng hạnh, đồng
chánh-giác, đồng thần-thông, đồng pháp-luân, đồng biện-tài, đồng ngôn từ, đồng
âm thanh, đồng lực vô-úy, đồng phật-sở-trụ, đồng đại từ-bi, bất-tư-nghì
giải-thoát tự-tại đều đồng.
Lúc đó Phổ-Hiền đại Bồ-Tát
liền nói kệ rằng:
Các ngài phải trừ những phiền-não
Nhất tâm bất loạn mà lắng nghe
Tôi nói Như-Lai đủ các độ
Tất cả đạo chân-thiệt giải-thoát.
Xuất thế điều nhu Thắng-Trượng-Phu
Trong lòng thanh-tịnh như hư-không
Hằng phóng trí-nhật đại quang-minh
Khiến khắp quần-sanh diệt si ám.
Như-Lai rất khó được thấy nghe
Vô-lượng ức kiếp nay mới gặp
Như hoa ưu-đàm một lần hiện
Vì thế nên nghe Phật công-đức.
Tùy thuận việc làm của thế-gian
Ví như thuật-sĩ hiện những sự
Chỉ để làm vui lòng chúng-sanh
Chưa từng phân-biệt khởi tưởng niệm.
Chư Bồ-Tát nghe lời kệ
trên đây, tất cả đều khát ngưỡng mong được nghe công-đức chơn-thiệt của đức
Thế-Tôn, đều nghĩ rằng:
Phổ-Hiền Bồ-Tát tu đủ các
hạnh, thể tánh thanh-tịnh, những lời nói ra đều chẳng hư luống, tất cả Như-Lai
đều khen ngợi ngài.
Phổ-Hiền Bồ-Tát công-đức
trí-huệ trang-nghiêm đầy đủ, như hoa sen chẳng dính trần, cấu tam-giới. Ngài
bảo chúng Bồ-Tát rằng:
Các ngài lắng nghe! Nay
tôi muốn nói tướng một giọt trong biển công-đức của Phật.
Phổ-Hiền Bồ-Tát liền nói
kệ rằng:
Phật-trí rộng lớn đồng hư-không
Khắp cùng tất cả tâm chúng-sanh
Ðều rõ thế-gian những vọng-tưởng
Chẳng khởi những phân-biệt sai khác.
Một niệm đều biết pháp tam thế
Cũng rõ tất cả căn chúng-sanh
Ví như nhà ảo-thuật thiện-xảo
Mỗi niệm thị-hiện vô-biên sự.
Tùy tâm chúng-sanh hiện những hạnh
Thuở xưa các nghiệp, sức thệ nguyện
Khiến họ thấy biết đều chẳng đồng
Mà Phật bổn-lai không động niệm.
Hoặc có xứ xứ thấy Phật ngồi
Sung mãn thập phương các thế-giới,
Hoặc có chúng-sanh tâm bất tịnh
Trong vô lượng kiếp chẳng thấy Phật.
Hoặc có tín giải rời kiêu mạn
Phát ý liền được thấy Như Lai,
Hoặc kẻ siểm cuống tâm bất-tịnh
Ức kiếp tìm cầu chẳng thấy Phật.
Hoặc người mọi xứ nghe tiếng Phật
Âm thanh mỹ Diệu làm tâm vui,
Hoặc kẻ trăm ngàn muôn ức kiếp
Vì tâm bất tịnh chẳng được nghe.
Hoặc thấy thanh-tịnh Ðại Bồ-Tát
Ðầy khắp Tam-thiên đại-thiên giới
Ðều đã đầy đủ hạnh Phổ-Hiền
Trong đó Như-Lai nghiễm nhiên tọa.
Hoặc thấy cõi nầy diệu vô-tỷ
Phật vô-lượng kiếp đã nghiêm tịnh
Tỳ-Lô-Giá-Na Tối-Thắng-Tôn
Trong đây đại ngộ thành Chánh-Giác.
Hoặc-thấy Liên-Hoa cõi thắng-diệu
Hiền-Thủ Như-Lai ở trong đó
Vô-lượng Bồ Tát chúng vi-nhiễu
Thảy đều siêng tu hạnh Phổ-Hiền.
Hoặc có thấy Phật Vô-lượng-thọ
Quan Âm Thế-Chí hầu hai bên
Ðều bậc quán-Ðảnh Bổ-xứ cả
Sung mãn mười phương các quốc độ.
Hoặc có thấy cõi Ðại-Thiên nầy
Thanh-tịnh trang-nghiêm như Diệu-Hỉ
A-Súc Như-Lai ngự tại đây
Chúng đại Bồ-Tát bao quanh Phật.
Hoặc thấy Nguyệt-Giác Danh-Xưng Phật
Cùng Kim-Cang-Tràng chư Bồ-Tát
Ở cõi Viên-Cảnh Diệu-Trang-Nghiêm
Khắp đến mười phương các quốc-độ.
Hoặc thấy Nhựt-Tạng Phật Thế-Tôn
Ở cõi thanh-tịnh Thiện-Quang-Minh
Cùng với quán-đảnh chư Bồ-Tát
Sung mãn mười phương mà thuyết pháp.
Hoặc thấy Kim-Cang-Ðại-Diệm Phật
Câu hội với Trí-Tràng Bồ-Tát
Châu hành tất cả cõi quảng đại
Thuyết pháp diệt trừ chúng-sanh-mê.
Mỗi mỗi đầu lông bất-khả-thuyết
Chư Phật tướng hảo ba mươi hai
Bồ-Tát quyến-thuộc đồng vây quanh
Vì độ chúng-sanh luôn thuyết pháp.
Hoặc có xem thấy một lỗ lông
Ðầy đủ cõi trang-nghiêm quảng đại
Vô-luợng Như-Lai đều ở trong
Thanh-tịnh phật-tử đều sung-mãn.
Hoặc có thấy trong một vi-trần
Có đủ hằng-sa Phật quốc-độ
Vô-lượng Bồ-Tát đều sung-mãn
Bất-khả-thuyết kiếp tu các hạnh.
Hoặc có thấy chỗ một đầu lông
Vô-lượng trần-sa những sát-hải
Bao nhiêu nghiệp khởi đều sai khác
Tỳ-Lô-Giá-Na chuyển pháp-luân.
Hoặc thấy thế-giới chẳng thanh-tịnh
Hoặc thấy thanh-tịnh báu làm thành
Như-Lai trụ thọ lâu vô-lượng
Nhẫn đến niết-bàn đều hiện đủ.
Cùng khắp mười phương các thế-giới
Thị hiện nhiều thứ bất-tư-nghì
Tùy các chúng-sanh tâm trí nghiệp
Thảy đều hóa độ khiến thanh-tịnh.
Vô-Thượng Ðạo-Sư như vậy thảy
Sung-mãn thập phương các quốc-độ
Thị-hiện nhiều loại thần-thông-lực
Tôi nói một ít ngài nên nghe.
Hoặc thấy Thích-Ca thành phật-đạo
Ðã trải kiếp số bất-tư-nghì,
Hoặc thấy nay mới làm Bồ-Tát
Mười phương lợi ích các chúng-sanh.
Hoặc người lại thấy Thích Sư-Tử
Cúng-dường chư Phật tu đạo hạnh,
Hoặc thấy Thế-Tôn đủ phước trí
Hiển hiện những sự đại thần-thông.
Hoặc thấy bố-thí, hoặc trì giới,
Hoặc nhẫn, tinh-tấn, hoặc thiền định,
Bát-nhã, phương-tiện, nguyện, lực, trí
Tùy tâm chúng-sanh đều thị-hiện.
Hoặc thấy rốt ráo ba-la-mật
Hoặc thấy an trụ ở các địa
Tổng-trì, tam-muội, thần-thông trí
Như vậy đều hiện đầy đủ cả.
Hoặc hiện tu hành vô-lượng kiếp
Trụ nơi bồ-tát, bậc kham-nhẫn
Hoặc hiện trụ nơi bực bất-thối
Hoặc hiện pháp-thủy rưới trên đầu.
Hoặc hiện thân Phạm, Thích Tứ Vương
Hoặc hiện Sát-Lợi, Bà-La-Môn,
Nhiều loại sắc tướng thân trang-nghiêm
Dường như thuật-sĩ hiện hình tượng.
Hoặc hiện Ðâu-Suất mới giáng thần
Hoặc thấy trong cung thọ dục lạc
Hoặc thấy rời bỏ những vinh hoa
Xuất gia lìa tục đi học đạo.
Hoặc thấy mới sanh, hoặc thấy chết,
Hoặc thấy xuất gia học dị-hạnh
Hoặc thấy ngồi dưới cội Bồ-Ðề
Hàng phục ma-quân thành Chánh-Giác.
Hoặc lại thấy Phật mới niết-bàn
Hoặc thấy dựng tháp khắp thế-gian
Hoặc thấy trong tháp thờ tượng Phật
Vì biết thời cơ hiện như vậy.
Hoặc thấy Như-Lai Vô-Lượng-Thọ
Thọ Phật ký cho chư Bồ-Tát
Mà thành vô-thượng Ðại-Ðạo-Sư
Kế bổ nhậm ở cõi An-Lạc.
Hoặc thấy vô-lượng ngàn ức kiếp
Phật-sự đã xong nhập niết-bàn
Hoặc thấy nay mới thành bồ-đề
Hoặc thấy chánh tu những diệu-hạnh.
Hoặc thấy Như-Lai Thanh-Tịnh Nguyệt
Ở tại Phạm-Thế và Ma-Cung,
Tư-Tại Thiên-Cung, Hóa-Lạc-Cung,
Thị-hiện thần-thông những biến-hóa.
Hoặc thấy ở tại cung Ðâu-Suất
Vô-lượng chư Thiên-đồng vây quanh
Vì họ thuyết pháp cho hoan-hỉ
Chư Thiên phát tâm cúng-dường Phật.
Hoặc thấy ở tại Dạ-Ma Thiên
Ðao-Lợi, Tứ-Thiên, cung Long Thần,
Nơi cung-điện Thiên, Long, Bát-Bộ
Không chỗ nào Phật chẳng hiện thân.
Ở chỗ Nhiên-Ðăng Phật Thế-Tôn
Rải hoa, trải tóc để cúng-dường
Từ đây biết rõ pháp thâm diệu
Hằng dùng đạo nầy độ quần-sanh.
Hoặc người thấy Phật lâu niết-bàn,
Hoặc thấy Phật mới thành bồ-đề,
Hoặc thấy Phật trụ vô-lượng kiếp
Hoặc thấy giây lát liền nhập diệt.
Thân-tướng quang-minh cùng thọ-mạng
Trí-huệ bồ-đề và niết-bàn
Chúng-hội được độ, tiếng oai-nghi
Mỗi mỗi như vậy đều vô-số.
Hoặc hiện thân mình rất rộng lớn
Như núi Tu-Di, Ðại-Bửu Sơn,
Hoặc thấy Phật ngồi chẳng động lay
Sung-mãn vô-biên những thế-giới.
Hoặc thấy viên-quang lượng một tầm
Hoặc thấy ngàn vạn ức do-tuần
Hoặc thấy chiếu khắp vô-lượng cõi
Hoặc thấy sung mãn tất cả cõi.
Hoặc thấy Phật thọ tám mươi năm
Hoặc thấy thọ ngàn muôn ức tuổi
Hoặc thọ bất-khả-tư-nghì kiếp
Như vậy lần lượt bội hơn đây.
Phật-trí thông đạt tịnh vô-ngại
Một niệm biết khắp pháp tam-thế
Ðều từ tâm thức nhơn duyên sanh
Sanh diệt vô-thường không tự-tánh.
Ở trong một cõi thành Chánh-Giác
Ở tất cả cõi cũng đều thành
Tất cả vào một, một vào khắp
Tùy tâm chúng-sanh đều thị-hiện.
Như-Lai trụ nơi đạo vô thượng
Thành-tựu thập-lực, tứ vô-úy
Ðầy đủ trí-huệ không chướng-ngại
Chuyển thập nhị hành chánh pháp-luận.
Biết rõ khổ, tập và diệt, đạo
Phân biệt mười hai pháp nhơn duyên
Pháp, nghĩa, từ, nhạo-thuyết vô-ngại
Dùng biện-tài đây khai diễn rộng.
Các pháp không ngã, không có tướng
Nghiệp tánh chẳng sanh cũng chẳng mật
Tất cả xa lìa như hư-không
Phật dùng phương-tiện để phân biệt.
Như-Lai như vậy chuyển pháp-luân
Chấn khắp mười phương các quốc-độ
Cung-điện núi sông đều động lay
Chúng-sanh hoan-hỉ chẳng kinh sợ.
Phật diễn pháp-âm khắp rộng lớn
Tùy căn chúng-sanh đều khiến hiểu
Ðều khiến phát tâm trừ hoặc cấu
Nhưng Phật chưa từng sanh tâm niệm.
Hoặc nghe Phật diễn thí, giới, nhẫn,
Tấn, định, bát-nhã, phương-tiện, trí,
Hoặc nghe từ, bi và hỉ, xả,
Ngôn từ thuyết pháp đều sai khác.
Hoặc nghe tứ niệm, tứ chánh-cần,
Thần-túc, căn, lực và giác đạo,
Niệm, huệ, thần-thông và chỉ, quán
Vô-lượng phương-tiện những pháp-môn.
Long, Thần, Bát-Bộ, Nhơn, Phi-Nhơn,
Phạm, Thích, Hộ-Thế, các Thiên-Chúng,
Phật dùng nhất âm để thuyết pháp
Chúng-sanh tùy loại đều được hiểu.
Nếu có tham dục, sân và si
Phẩn, phú, xan, tật và kiêu, siểm
Tám muôn bốn ngàn phiền não chướng
Ðều nghe Phật dạy pháp chữa trị.
Nếu chưa tu đủ pháp bạch-tịnh
Khiến họ nghe nói mười giới-hạnh,
Ðã hay bố-thí điều-phục người
Cho nghe tiếng niết-bàn tịch-diệt.
Nếu người chí kém, không từ mẫn
Nhàm ghét sanh-tử, tụ cầu lìa
Khiến họ nghe nói tam thoát-môn
Cho họ thoát khổ, hưởng tịch-diệt.
Nếu người tự-tánh ít tham dục
Nhàm bỏ ba cõi cầu tịch tịnh
Khiến họ nghe nói các duyên-khởi
Theo độc-giác-thừa để xuất ly.
Nếu người thanh-tịnh tâm quảng-đại
Ðầy đủ thí giới các công-đức
Thân-cận Như-Lai đủ từ bi
Khiến họ nghe tiếng đại-thừa-đạo.
Hoặc có quốc-độ nghe nhất-thừa
Hoặc nhị, hoặc tam, hoặc tứ, ngũ
Như vậy nhẫn đến vô-lượng thừa
Ðều là Như-Lai phương-tiện-lực.
Niết-bàn tịch-tịnh chưa tùng khác,
Trí hạnh thắng liệt có sai khác,
Như hư-không thể tánh là một
Chim bay gần xa tự sai khác.
Phật thể âm-thanh cũng duy nhứt
Phổ biến tất cả cõi hư-không,
Tùy tâm chúng-sanh sai khác nhau
Nên nghe và thấy cũng tự khác.
Do Phật quá-khứ tu công hạnh
Hay theo sở-thích diễn diệu-âm
Không lòng tính nghĩ đây và kia
Ai là đáng nói, ai thời không.
Nơi mặt Như-Lai phóng đại quang
Ðủ số tám muôn bốn ngàn sáng
Pháp-môn Phật nói cũng như vậy
Chiếu khắp thế-giới trừ phiền-não.
Ðầy đủ thanh-tịnh công-đức trí
Mà thường tùy thuận tam thế Phật
Ví như hư-không chẳng nhiễm trước
Vì chúng-sanh nên Phật xuất hiện.
Hiện có sanh lão bệnh tử khổ
Cũng hiện trụ thọ ở thế-gian
Dầu thuận thế-gian hiện như vậy
Thể tánh thanh-tịnh đồng hư-không.
Tất cả quốc-độ vô-lượng biên
Chúng-sanh căn dục cũng vô-lượng
Trí-nhãn Như-Lai đều thấy rõ
Tùy theo cơ nghi dạy phật-đạo.
Cùng khắp hư-không mười phương cõi
Bao nhiêu Trời, Người, trong đại chúng
Theo thân hình họ đều chẳng đồng
Phật hiện thân hình cũng như vậy.
Nếu ở trong đại hội Sa-Môn
Cạo bỏ tóc râu mặc ca-sa
Ðắp y, cầm bát nhiếp các căn
Cho họ hoan-hỷ trừ phiền-não.
Có lúc thân-cận Ba-La-Môn
Vì họ Phật hiện thân gầy ốm
Chống gậy mang bình hằng trong sạch
Ðầy đủ trí-huệ giảng nói giỏi.
Nhả cũ nuốt mới tự no đủ
Hớp gió uống sương không ăn nuốt
Hoặc ngồi hoặc đứng chẳng động lay
Hiện tu khổ-hạnh dẹp ngoại-đạo.
Hoặc trì giới cấm làm thế-sư
Khéo thông phương thuốc các môn luận
Toán số, thiên-văn, địa-lý, tướng
Những điều lành dữ đều biết rõ.
Thâm nhập các thiền và giải-thoát
Tam-muội, thần-thông, trí-huệ, hạnh
Luận bàn, ngâm vịnh và đùa vui
Phương-tiện dẫn họ vào phật-đạo.
Hoặc hiện thượng-phục để nghiêm thân
Ðầu đội mão xinh, che lọng tốt
Binh-chủng trước sau theo hộ vệ
Ra oai hùng mãnh phục Tiểu-Vương.
Hoặc làm quan tòa đoán kiện tụng
Giải quyết thế-pháp đều hay giỏi
Hoặc thưởng hoặc phạt đều công minh
Cho họ tất cả đều vui phục.
Hoặc làm Ðại-Thần chuyên phụ bật
Giỏi dùng chánh-trị an lê-dân
Lợi ích mười phương đều cùng khắp
Tất cả chúng-sanh chẳng rõ biết.
Hoặc làm Túc-Tán Tiểu-quốc-Vương
Hoặc làm Ðại-Ðế Chuyển-Luân-Vương
Khiến các Vương-Tử cùng thể-nữ
Ðều theo chánh-pháp, không ai biết.
Hoặc làm Hộ-Thế Tứ-Thiên-Vương
Thống lãnh Dạ-Xoa, Long-Thần thảy
Vì chúng hội đó mà thuyết pháp
Ðều khiến tất cả đồng vui thích.
Hoặc làm Ðạo-Lợi Ðại-Thiên-Vương
Ở Thiện-Pháp-Ðường, vườn Hoan-Hỉ
Ðầu đội thiên-quan diễn pháp mầu
Chư Thiên ngưỡng mộ chẳng lường được.
Hoặc trụ Dạ-Ma, Ðâu-Suất thiên
Hóa-Lạc, Tự-Tại, cung Ma-Vương
Ngự cung Ma-Ni, điện trân-bửu
Giảng pháp chơn thiệt khiến điều-phục.
Hoặc đến trong chúng hội Phạm-Thiên
Nói tứ-vô-lượng, các thiền định
Cho họ hoan-hỉ, bèn bỏ đi
Không ai biết được tướng qua lại.
Hoặc đến Sắc-Cứu-Cánh thiên-cung
Ðể giảng giác-phần những bửu-hoa
Cùng những vô-lượng thánh-công-đức
Sau đó bỏ đi chẳng ai biết.
Phật-trí vô-ngại thấy khắp nơi
Trong đó tất cả những hàm-thức
Ðều dùng vô-biên phương-tiện môn
Nhiều cách giáo-hóa khiến thành-tựu.
Ví như thuật-sĩ giỏi ảo thuật
Hiện ra các thứ hình tượng huyễn,
Phật hóa chúng-sanh cũng như vậy
Vì họ mà hiện nhiều thân hình.
Ví như trăng sáng giữa hư-không
Thế-gian chúng-sanh thấy tròn khuyết
Tất cả sông ao hiện bóng trăng
Tất cả tinh tú bị khuất sáng.
Như-Lai trí-nguyện hiện thế-gian
Cũng dùng phương-tiện hiện tăng giảm
Tâm-thủy Bồ-Tát hiện bóng Phật
Thanh-Văn, Duyên-Giác khuất quang sắc.
Như trong đại-hải đầy châu báu
Trong sạch không nhơ không hạn lượng
Bao nhiêu chúng-sanh ở bốn châu
Tất cả hiện bóng ở trong biển.
Phật-thân công-đức cũng như vậy
Không nhơ không đục không ngằn mé
Nhẫn đến pháp-giới các chúng-sanh
Không ai chẳng hiện trong thân Phật.
Ví Như mặt nhật phóng quang-minh
Chẳng rời bổn-xứ chiếu mười phương,
Phật-quang chiếu khắp cũng như vậy
Không khứ không lai trừ si tối.
Ví như Long-Vương tuôn mưa lớn
Chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm
Mà mưa cùng khắp đều nhuần thấm
Trừ hết viêm nhiệt được thanh-lương.
Như-Lai pháp-vũ cũng như vậy
Chẳng từ thân tâm Phật phát ra
Mà hay khai ngộ tất cả chúng
Khiến khắp diệt trừ lửa tam độc.
Như-Lai thanh-tịnh diệu-pháp-thân
Tất cả ba cõi không gì sánh
Vì ngoài đường ngôn ngữ thế-gian
Bởi tánh phi-hữu phi-vô vậy.
Dầu không sở-y mà ở khắp,
Dầu đến tất cả mà không đi,
Như vẽ không trung, cảnh trong mộng,
Phải quán thân Phật là như vậy.
Những pháp có, không, trong ba cõi
Chẳng thể ví-dụ cùng Phật được,
Ví như chim muông trong núi rừng
Không nương không-gian mà ở được.
Ðại hải ma-ni vô-lượng màu,
Thân Phật sai khác cũng như vậy,
Như-Lai phi-sắc phi-phi-sắc
Tùy nghi mà hiện, không sở-trụ.
Hư-không, chơn-như và thiệt-tế,
Niết-bàn, pháp-tánh, tịch-diệt thảy
Chỉ có những pháp chơn thiệt nầy
Khả dĩ hiển thị được Như-Lai.
Sát-trần tâm niệm đếm biết được,
Nước trong đại-hải uống hết được,
Hư-không lường được, gió buộc được,
Không thể nói hết công-đức Phật.
Nếu ai nghe biển công-đức nầy
Mà sanh lòng vui mừng xin tin hiểu
Tất sẽ được những công-đức nầy
Thận trọng chớ sanh lòng ngờ vực.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
53.- PHỔ HIỀN ĐẠI BỒ TÁT
Ngày 26 tháng 5 năm 1991
Hôm nay là buổi
thuyết giảng thứ một trăm hai mươi tám về kinh Hoa Nghiêm và cũng là buổi thuyết
giảng thứ mười lăm về Đại Bát Nhã tại chùa này.
Trước hết tôi xin
thông báo là đã nhận được một bức thư từ Việt Nam viết sang nói rằng chùa Vạn Đức,
chùa mà Thượng Tọa Thích Trí Tịnh đang trụ trì, đã nhận được ba trăm đô la của
Ban Hoa Nghiêm chúng ta gửi rồi.
Chúng ta sinh nhằm
thời mạt pháp này. Thời chánh pháp thường kéo dài một ngàn năm trong khi đức Phật
còn sinh thời, nhưng đức Phật Thích Ca chỉ có năm trăm năm chánh pháp thôi. Sau
đó là đến kỳ của chúng ta.
Kinh thường nói rằng,
trong thời chánh pháp, căn cơ người tu rất cao và nhà Phật gọi đó là giải thoát
kiên cố, tức là những vị tu thời ấu căn cơ cao, và lúc nào cũng hướng đến giải
thoát, không chịu ngừng ở giữa đường, vì thế được gọi là “giải thoát
kiên cố.” Kiên cố tức là vững chắc không gì lay chuyển
nỗi. Vì vậy, kinh thường kể, có những vị đến nghe đức Phật giảng pháp lý vi diệu
thì nhiều khi chỉ cần nghe một buổi kinh, hoặc hơn thế nữa, chỉ cần nghe một
câu Phật dạy là đắc quả ngay. Sang đến thời tượng pháp, tức là thời kỳ khoảng độ
vài trăm năm sau tây lịch, thời này căn cơ người tu đã kém đi ít nhiều, nên
không còn được gọi là giải thoát kiên cố nữa mà gọi là thiền định
kiên cố. Tức là những vị này có tu tập, có thiền định, nhưng thường họ chỉ dừng
chân trong thiền định để hướng sự an lạc trong ấy mà không muốn khởi tâm đi lên
nữa. Nên các ngài có thể có được định lực nhưng không tới được giải thoát, đồng
thời chỉ hưởng cái trầm không thú tịch thôi. Đúng như thời kỳ bên Tàu nở ra những
phái thiền, và thiền đốn ngộ. Chừng khoảng một ngàn năm gần đây, đã bước qua thời
kỳ mạt pháp. Thời mạt pháp này kéo dài suốt thời kỳ kiếp giảm, tức còn rất lâu.
Trong thời kỳ này, căn cơ người tu rất kém, phần nhiều cầu quả hữu lậu, đi
chùa, lễ lạy lấy phước, ít chịu tụng kinh và nghe pháp, nên thường không hiểu
giáo lý nhà Phật như thế nào. Trong thời mạt pháp, đức Phật huyền ký đó là thời
đấu tranh kiên cố, giỏi lắm là chỉ đến đa văn kiên cố, và tăng, ni thường hay
phạm giới, nhiều khi không có thời công phu và chỉ thích làm chùa đẹp, thật to,
kinh gọi là tháp tự kiên cố.
Trong thời đấu
tranh này, lúc nào chúng sanh cũng chạy theo vật, luôn luôn thích bạo động, còn
người tu tại gia khá nhất chỉ đến mức đa văn kiên cố thôi, tức là cũng chịu khó
dọc kinh sách Phật giáo, nhưng không tu tập gì mấy, giới thì không giữ nổi bao
nhiêu, lại không thiền định, phần nhiều chỉ đa văn thôi, hiểu kinh mà không thấu
nghĩa lắm, hành trì lại kém. Còn người xuất gia thường chỉ thích làm chùa to,
trong đó có một vị sư nhỏ, lúc nào cũng bận bịu những việc thế sự, nên phần tâm
linh có phần lơ là không ít. Sở dĩ tôi nói như thế chỉ là vì muốn nhắc rằng
chúng ta ngày nay thường phải chọn lựa để tu theo pháp môn nào hợp với căn cơ của
mình. Như ở Việt Nam trong thời Lý, Trần, dân chúng tu theo thiền định nhiều,
và kèm theo tụng chú. Nhưng sau đó khoảng mấy trăm năm, họ lại chuyển sang tịnh
độ và tham bác thêm tụng chú.
Nhân thể mới đây,
có một vài phong trào thiền khuyên ngươi ta không nên tụng kinh và nên bỏ bàn
thờ, vì vậy tôi xin đọc cho quí vị nghe một đoạn luận ngắn. Đoạn luận ngày xưa
này nói rõ rằng, ngay tới những vị A La Hán, là những vị chỉ thuần tu thiền định
mà rồi về sau cũng phải sang tịnh độ. Tôi vẫn thường nói trong ban kinh này, cửa
ải Cực Lạc là một cửa ải ai cũng phải đi qua, dù là đi con đường nào cũng phải
qua đó để có thể lên được vô sanh pháp nhẫn, sau đó mới sẽ thành Phật. Như
trong kinh Hoa Nghiêm có nói rõ rằng có những thế giới tịnh, bất tịnh, thế giới
diệu, thế giới uế v.v…, mà tu hành chính là để vượt khỏi thế giới uế này để
sang thế giới tịnh rồi mới có thể lên cao được. Lên xong rồi lại trở về thế giới
uế để độ sanh.
Nhưng từ xưa đến
nay, chưa có một người nào nói rằng các vị A La Hán rồi cũng phải sang Cực Lạc
cả. Nên hôm nay, tôi muốn đọc cho quý vị nghe đoạn đó. Ngày xưa, khi Phật còn tại
thế, ngài dạy cho các bậc Thanh Văn chỉ một phần rất nhỏ, ngài chỉ nói rằng các
vị Thanh Văn vào Niết Bàn như củi hết, lửa tắt. Nhưng không nói các vị ấy đi
đâu sau khi bỏ báo thân máu thịt này. Và trong kinh Pháp Hoa nói rõ đó chỉ là
Niết Bàn hóa thành thôi.
Vậy thì các vị
Thanh Văn sau khi bỏ báo thân này thì sẽ đi đâu? Và “củi hết, lửa tắt” có
ý nghĩa gì?
Củi hết là tam độc tham, sân, si của các
ngài đã hết. Mầm mống sinh tử không còn, vì thế không phải bị thọ sanh phân đoạn
sanh tử, tuy vào một nơi vắng lặng tạm gọi là Niết Bàn, nhưng không phải là Đại
Niết Bàn Tịch lĩnh của Chư Phật. Vì các ngài còn rất nhiều những biến dịch sanh
tử, và các vị độn căn A La Hán, không hiểu được Diệu Tâm và không chịu tu lên nữa.
Nhưng không vì thế mà có một nơi để các vị ngồi chơi mãi trong ấy, vì vận hành
của pháp giới này bao giờ cũng là phải trở về Diệu Tâm và Nhập pháp giới trọn vẹn.
Nhưng đức Phật đôi với các vị Thanh Văn sinh thời, ngài cũng không nói rõ, mãi
đến khi ngài giảng Pháp Hoa mới nói đó chỉ là Niết Bàn hóa thành mà thôi, rồi ở thời
kỳ Hoa Nghiêm ngài mới nói rõ đến việc “Nhập pháp giới.”
Nay, tôi xin đọc
cho quý vị nghe một đoạn luận nói rằng tất cả các vị A La Hán, sau khi bỏ báo
thân, đều được đức Phật đưa qua biên địa bên Cực Lạc, ngồi trong hoa sen báu được
chư Phật phóng hào quang, gột rửa những ám độn, để có thể phát Tuệ Giác Vô Thượng,
sau đó mới phát bồ đề tâm, vào bồ tát đạo đi đến Phật quả.
Sỡ dĩ tôi phải tìm
tòi từng đoạn kinh, đoạn luận đem ra nói để cho quý vị thêm tín căn sâu chắc về
con đường Tịnh độ, vì đó là con đường giải thoát rốt ráo trong thời mạt pháp
này.
Đây là một đoạn luận
do ngài Narada, một vị tu theo Nam Tông, trích dẫn trong cuốn “Đức
Phật và Phật Pháp” trang 595. Đây chỉ là một đoạn luận nhưng ý kiến rất hợp
với giáo lý đại thừa. Và khẳng định rằng tất cả những người tu hành, dù muốn
hay không cũng phải sang Cực Lạc, mới đắc được Vô Sanh Pháp Nhẫn (Đệ
bát địa Bồ Tát).
ĐOẠN
LUẬN: Những vị đại đệ tử Thanh Văn đã chứng ngộ hai hạng tuệ giác là Thanh Văn
Giác, và Độc Giác, trong khi còn và sau khi thân ngũ uẩn chấm dứt, vẫn còn tâm
sợ sệt…
GIẢNG: Nghĩa là
trong khi còn thân này, vào hữu dư niết bàn, và sau khi mất thân này vào vô dư
niết bàn, thì vẫn còn tâm sợ sệt, vì tam độc chưa tẩy sạch những tập khí cũ.
LUẬN:
Bởi vì các ngài chưa đạt được đại bi và trí huệ cao thượng.
GIẢNG: Tức là các
ngài mới chỉ có tâm từ bi thường, và trí huệ bát nhã theo lối Thanh Văn, nên
tâm vẫn còn rung động, đôi khi còn sợ sệt.
LUẬN:
Do sự chấm dứt sinh lực…
GIẢNG: Chúng ta sở
dĩ thọ sanh làm người hoặc các loài chúng sanh hữu tình khác là do trong tâm
chúng ta có nhiều kiết sử, nhiều tham, sân, si khiến chúng ta phải đi thọ sanh.
Nhưng các vị A La Hán đã diệt hết mầm mống tham sân si rồi nên dứt được phân đoạn
sanh tử, không phải mang thân máu thịt này, không phải thọ sanh làm người hay
làm chưThiên v.v… Nhưng tình trạng này chỉ tạm gọi là vào Niết Bàn Hóa Thành
thôi, vì khi chấm dứt mầm mống ấy, là chỉ chấm dứt được phân đoạn sanh lử, mà
chưa chấm dứt được biến dịch sanh tử.
LUẬN:
Tạo nên bởi những năng lực trong quá khứ, các ngài có thể đắc niết bàn, tuy nhiên
trong thực tế, các vị thánh tiểu thừa chỉ thành tựu một cái gì mường lượng như
niết bàn gọi là Niết Bàn, giống như ánh sáng b| dập tắt.
GIẢNG: Cũng như hồi
nãy tôi nói đến chữ “củi hết, lứa tắt” Củi hết là thân phân đoạn
sanh tử không còn, như ánh sáng bị dập tắt.
LUẬN:
Không còn trở lại tam giới nữa…
GIẢNG: Tức là
không trở lại trong dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Nhưng phải trở lại những
cõi khác vi diệu hơn.
LUẬN:
Nhưng sau kiếp sống trần gian này chư vị A La Hán sẽ tái sanh vào cõi thanh tịnh
nhất, trong cảnh giời hoàn toàn tinh khiết, ở trong một trạng thái xuất thần nhập
hóa, mơ mơ màng màng bên trong những cánh hoa sen…
GIẢNG: Chư Phật
đưa các vị A La Hán sang Biên Địa, nằm trong hoa sen xuất thần nhập hóa mơ
mơ màng mang.
LUẬN:
Sau đó đức Phật A Di Đà cũng như các vị Phật khác giống như vầng thái dương đã
đem các ngài lên gột rửa, cho trí huệ được trong sáng, từ đó chư vị A La Hán tận
lực tiến đến giác ngộ tối thượng và mặc dầu đã đạt được trạng thái giải
thoát (tức là giải thoát tiểu thừa), các ngài hoạt động trong
thế gian hữu vi cũng giống như các ngài đi xuống địa ngục. Rồi tích trữ dần dần
yếu tố cần thiết của đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác, các ngài trở thành đạo sư của
tất cả chúng sanh.
GIẢNG: Đó là hết
đoạn luận. Đây là điểm từ xưa không ai nói tới, mà bên Nam Tông không ai biết đến
Tịnh Độ cả. Còn bên Đại Thừa thì có những người chê bai Tịnh Độ. Nhưng trong
các kinh như Hoa Nghiêm, Quán Vô Lượng Thọ v.v… đều khuyến tấn người cầu vãng
sanh Tịnh Độ.
Tôi dám nói chắc rằng
ở thời mạt pháp và trong cõi uế độ này không ai có thể tu tự lực mà đắc được vô
sanh pháp nhẫn, phải cầu sang Tịnh Độ mới có thể lên đến mức độ ấy. Mà vô sanh
pháp nhẫn chỉ mới là đệ bát địa, phải đi thêm bốn bậc nữa mới lên đến Phật quả.
Tiếp theo đây là
đoạn kinh của Hoa Nghiêm, phẩm thập địa, nói rằng khi một vị Bồ Tát tu hành lên
đến đệ thất địa, Viễn Hành Địa. Viễn hành là đi xa, tức là đi từ cõi uế sang
cõi tịnh thì gọi là “đi xa,” sau đó lại trở về cõi uế để độ
sanh.
Từ sơ địa đến đệ
thất địa, các vị Bồ Tát tu lục độ, nhưng tu với cái tâm hữu công dụng, nghĩa là
nghĩ rằng có mình làm, có người thọ dụng và có quả đắc. Nhưng bắt đầu đến địa
thứ bảy trở lên, các ngài vẫn tu lục ba la một nhưng với tâm vô công dụng hạnh,
làm mà như mình không làm vậy, độ chúng sanh, đồng thời cũng quán chiếu thấy
người độ và kẻ được độ cũng là không, rồi cái hành vi độ cũng không. Và bắt đầu
từ đây, các ngài mới vào chỗ biến hóa không cùng, vi diệu hết sức. Khi tới chỗ
này rồi thì phải “đi xa,” vượt từ cõi uế sang cõi tịnh để đắc vô sanh pháp nhẫn,
được pháp thân Bồ tát, được thân không phải thai sanh, lúc đó sẽ trở lại cõi uế
độ độ sanh.
Tôi xin trích một
đoạn trong Hoa Nghiêm, trang 334 cuốn số bốn.
KINH:
Chư Phật tử, ví như có hai thế giới, một thời tạp nhiễm, một thời thuần tịnh.
GIẢNG: Pháp giới
này chia làm hai, một phần là thế giới thanh tịnh, và một phần là uế độ (như
cõi Ta Bà của chúng ta).
KINH:
Chặng giữa của hai thế giới này khó qua được.
GIẢNG: Từ cõi uế
chuyển sang được cõi tịnh rất khó qua.
KINH:
Chỉ trừ bậc đại Bồ Tát có đại thần thông phương tiện huệ. Chư Phật tử, Bồ Tát ở
các địa cũng như vậy, có tạp nhiễm hạnh, có thanh tịnh hạnh, chăng giữa của hai
hạnh này khó qua được, chỉ trừ đại Bồ Tát có đại nguyện lực phương tiện
trí huệ mới có thể qua được. Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát hỏi: Thưa Phật tử, bảy địa
Bồ Tát này là nhiễm hạnh hay tịnh hạnh?
GIẢNG: Bảy địa Bồ
Tát là từ sơ địa đến thất địa.
KINH:
Kim Cang Tạng Bồ Tát nói, thưa Phật tử, từ sơ địa đến đệ thất địa công hạnh tu
tập đều lìa bỏ nghiệp phiền não, vì hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề vì phần được đạo
bình đẳng, nhưng chưa được gọi là hạnh siêu phiền não. Chư Phật Tử, như Chuyển
Luân Thánh Vương, ngự tượng bửu du hành tứ thiên hạ, biết có người bần cùng khốn
khổ mà không bị lấy những họa hoạn đó, nhưng chưa được gọi là siêu nhân loại. Nếu
bỏ thân Chuyển Luân Vương sanh lên trời Phạm Thiên, ngự Thiên Cung thấy ngàn thế
giới, du hành ngàn thế giới, thị hiện quang minh oai đức của Phạm Thiên mới gọi
là siêu nhân loại.
GIẢNG: Trong đoạn
kinh này ý nói rằng, Bồ Tát tu từ sơ địa đến đệ thất địa chưa phải là pháp thân
Bồ Tát, khi nào thân không còn thi trùng, bệnh tật nữa, thân thọ sanh theo ý muốn,
không cần phải gá vào người đàn bà thì mới gọi là pháp thân Bồ Tát. Muốn có
thân ấy cũng cần phải sang Tịnh Độ, nên trong kinh mới nói có hai thế giới, một
thời tạp nhiễm, như tam giới của chúng ta – (lục giới, sắc giới, vô sắc giới —
thì phải sang bên cõi tịnh độ mới gọi là siêu nhân loại được. Vậy có đại thần
thông phương tiện nguyện lực là phải hiểu lòng đại bi của Chư Phật, hiểu rằng Bồ
Tát càng lên cao bao nhiêu càng phải gần Phật mới có thể gột nổi vô minh vi tế
cuối cùng. Vì trong kinh nói có những vị Bồ Tát đệ thập địa chỉ còn một, hai phần
vô minh vi tế cuối cùng cũng không thể gột nổi mà phải gần Phật mới gột sạch được.
Ở tịnh dộ khác với uế độ một điểm là luôn luôn được thấy Phật, được gần Phật,
còn ở uế độ thì Phật thị hiện xuất sanh khó như hoa Ưu Đàm, bao nhiêu kiếp mới
được gặp Phật một lần, và chưa chắc gì chúng ta có được đủ thiện duyên sanh nhằm
vào thời kỳ Phật thị hiện thọ sanh.
Nhân thể, tôi cũng
muốn nhắc lại một đoạn kinh kháx trong Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh, do ngài Quán
Thế Âm nói, (tôi không mang theo cuốn kinh ấy đi hôm nay). Ngài
nói rằng, từ kiếp lâu xa trước ở cõi đó, ngài được gặp đức Thiên Quang Vương Tịnh
Trụ Như Lai nói bài chú Đại Bi này, lúc bấy giờ ngài mới ở sơ địa, sau khi ngài
nghe xong bài chú ấy thì ngài vượt không biết bao nhiêu kiếp sanh tử (tức là
biến dịch sanh tử) lên đệ bát địa, rồi lừ đó đến nay, ngài luôn luôn ở
những cõi Phật, sanh trong hoa sen, và hóa thân bời bời để độ sanh. Nói như thế
để cho quí vị thấy rằng, người tu hành phải biết rõ về vấn đề biến dịch sanh tử,
muốn diệt trừ biến dịch sanh tử ấy thì phải sang Tịnh Độ mà không có một cách
nào khác.
Vì vậy, tôi lấy
làm thương sót cho những vị nào vì quá say mê thiền mà bài bác Tịnh Độ. Say mê
thiền là quyền của mình, nhưng không nên bài xích Tịnh Độ, vì pháp môn tịnh độ
là chính kim khẩu của chư Phật nói ra. Có vị dùng luận lý thế gian, dùng vọng
thức thô kệch của mình, chứng minh rằng con đường Tịnh Độ là một con đường đưa
đến dị đoan, mê tín, lại còn tuyên bố rằng, đi theo con đường Tịnh Độ là những
người ngu, điều này làm hoang mang cho nhiều người đang tu Tịnh Độ, nhẫn đến có
nhiều vị bỏ ngang không tu theo pháp môn Tịnh Độ nữa. Chính vì vậy, chúng ta cần
phải lên tiếng, vì chúng ta phần đông căn cơ chỉ có thể tu theo pháp môn ấy.
Thiền chỉ là một cái “mode” cho giới trẻ còn say mê, muốn lao
vào một cuộc phiêu lưu kỳ thú, hay thực tế hơn, thì đó là một môn thể thao tinh
thần, tìm một chút an lạc, một chút khỏe khoắn, một chút… thời thượng, mà không
đưa chúng ta tới một bến bờ giải thoát nào. Muốn đạt được sự giải thoát, phải
đi vào thiền kiến tánh thực sự, nhưng căn cơ người đời nay không đủ để đi theo
pháp môn ấy, nhất là những người già. Cộng thêm những vị đại đạo sư rất hiếm
hoi. Nhiều người đời này đi cầu đạo như những con thiêu thân, thấy ngọn lửa nào
có vẻ lấp lánh, quyến rũ là lao vào, cũng có thể họ có được một điều gì nho nhỏ,
nhưng ngược lại cũng có thể họ sẽ bị đốt cháy trong ngọn lửa ấy. Tôi thấy những
người Phật tử đi cầu đạo thường rơi vào trong trường hợp này rất nhiều, kiến thức
về kinh thì mù mịt, không rõ được chân, giả, vị thầy nào cũng thấy dường như
đúng lý, chỉ thích huênh hoang, đắc ý và mong cầu một cách gấp gáp, cộng thêm
tâm lý quần chúng chỉ thích cái gì “thời thượng.” Mỗi một khóa
thiền có cả nam lẫn nữ, lấp nập như ngày hội, rồi nghe một vài điều rất sơ bộ…
Có lẽ đến khi chết vẫn mê loạn không có đến một câu kinh nào để bám víu, cũng
không nhớ đến một hồng danh để niệm nữa. Nên chúng ta là những Phật tử đã đọc tụng
kinh đại thừa, biết một cách khái quát thế nào về kinh, thế nào là Tịnh Độ, thế
nào về con đường tu thiền, cần phải vững tâm, đừng để bị lay động bởi những hào
hoa hư ngụy khi nghe một thiền sinh kể về một vài cảnh giới họ thấy, chưa chắc
gì những cảnh giới đó là một mức chứng đắc nào, mà thường chỉ là cảnh giới ma
mà thôi. (Kinh Lăng Nghiêm cũng dạỵ rất rõ về điểm này.)
HỎI:
Trong kinh Pháp Hoa nói đến Hóa Thành Dụ, nơi đó có phải một nơi như Cực Lạc không?
ĐÁP: Hóa thành dụ
là Niết Bàn của Thanh Văn, không phải là Cực Lạc. Ngày xưa trong mười hai năm đầu,
Phật giảng về Thanh Văn thừa, rồi sau dần dần ngài chuyển sang Đại Thừa. Đến cuối
đời, ngài mới giảng Pháp Hoa, và nói rõ rằng tất cả Niết Bàn tôi dạy các ông
ngày xưa chỉ là Hóa Thành thôi, vì tâm thức các ông còn yếu kém, hạn hẹp nên phải
nêu lên một chỗ cho các ông nghĩ chân thôi, chứ thực ra đó không phải là Niết
Bàn của chư Phật.
Vì vậy, tôi lấy
làm lạ rằng từ xưa những người nói về đạo Phật thường chỉ nói đến giải thoát.
Nhưng trong Kinh đại thừa nói rõ, giải thoát khỏi những phân đoạn sanh tử của
Thanh Văn chỉ mới đi được một phần ba đường, còn mục tiêu tối thượng để thành
Phật là phải nhập pháp giới trọn vẹn. Như trong kinh Hoa Nghiêm, trang 2 và 3,
Phật nói ngài thành Chánh Đẳng Chánh Giác khác hẳn lối nhìn của hàng Thanh Văn.
Vì ngài nhập pháp giới trọn vẹn, không có một bông hoa, một hạt bụi, một chúng
sanh nào mà không ở trong thân ngài, đồng thời khi nhập trọn vẹn như vậy vẫn
không thấy có một pháp nào có cả, phải song chiếu hai mặt vừa Bát Nhã, vừa Đại
Bi như vậy mới được gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác.
HỎI:
Trong thời này có nhiều vị đạo sư tự cho mình là Phật, rồi mở những buổi tập thể
để mở các luân xa, hay truyền tâm ấn. Vậy thì, trên con đường tìm đạo, nhiều
người khó thể phân biệt thế nào là chân, thế nào là giả. Xin ông nói sơ qua làm
thế nào ta có thể phân biệt được?
ĐÁP:
Đó là chỗ nguy hiểm cho những người đi học đạo, vì thời này, tà sư nổi lên như
cát bụi, chân giả khó phân. Nhưng từ tám, chín năm về trước tôi vẫn thường cảnh
giác trong ban kinh này là: Tất cả những người tự nhận là đạo sư, trước hết ta
phải xét xem người ấy có vò ngã hay không, có thích phật tử lễ lạy, cúng dường
nhiều không, thứ hai là người đó có khoe khoang về mình nhiều không? Khi nào ta
thấy vị đạo sư đó thích được cúng dường, được lễ lạy, thì người đó coi như
không dáng tin. Thứ hai, là những vị nào tự nhận mình là hóa thân của ngài Di Lặc, hay
Thượng Đế, Phạm Thiên v.v… cũng đều hỏng. Vì những hóa thân chân thực không bao
giờ nhận mình là gì cả.
Tâm lý Phật tử bây
giờ đương quờ quạng, rất hăng say đi tầm đạo, thì cứ việc đi, chỗ nào cũng có
thể tới, xem họ sinh hoạt thế nào. Nhưng đồng thời, trong khi đi tìm, quí vị
nên lụng kinh, và tụng chú, tuy rằng cái lực lâu tới, (vì tâm lực của
chúng ta còn yếu kém, chưa tương ưng với tâm lực chư Phật) nhưng chắc
chắn chúng ta được sự gia hộ.
Trên con đường tu
hành, nếu chúng ta có bị ốm đau, tật bệnh, hoặc chướng duyên đeo đuổi thì phải
hiểu rằng tất cả những sự đó đều là đền nghiệp của ta từ nhiều kiếp trước, thay
vì phải đọa xuống, thì phải chịu một vài căn bệnh trong đời này. Trong kinh Kim
Cang nói rõ, nếu bị người ta chê cười, hay bệnh hoạn tức là vơi được nghiệp nhiều
lắm. Đừng vội vã với tâm mong cầu, vì không gì có thể giải quyết một cách gấp
gáp được, không bao giờ chỉ tu trong một vài ngày, vài tháng, vài năm mà có thể
có được một quyền năng đội đá, vá trời. Cho dù nếu có phước duyên, gặp được vị
tu hành đạo hạnh cao, có đôi chút thần thông, hay quyền lực họ cũng không bao
giờ nói ra, vì nói ra thì cái quyền lực ấy kém dần đi, càng nói ra nhiều thì thần
thông càng teo nhỏ lại, chỉ trừ khi đó là những thần thông của tụi ma, quỉ cho
thì khi càng nói lại có thể càng tăng lên. Huyền lực chính là do từ công phu tu
tập, cùng thiện căn phước đức của vị đó, nhưng càng nói ra, huyền lực lại càng
kém đi. Vì sao thế? Vì bị vấp vào ngã chấp, nên càng ngày cái ngã ấy càng mài dần
công đức của vị đó nên càng ngày càng kém đi. Ngược lại, những thần thông nho
nhỏ do quỉ cho thì càng nói càng tăng lên, để chiêu dụ những người nhẹ dạ cầu
mong, như vậy chúng ma sẽ có nhiều quyến thuộc. Cũng có thể nó sai sử vị thầy
làm những điều càn bậy, để chơi thôi, đến khi ma quỉ chán rồi bỏ đi thì cả thầy
lẫn trò đều rơi vào pháp luật. Ma đạo và Phật đạo khác nhau như thế. Sở dĩ ma dễ
len vào trong tâm thức người tu hành để quấy phá vì trong lúc tu, tâm thức vị
đó hơi bị rỗng, nếu vị này không khởi tâm tham cầu dâm dục, hay danh vọng, hoặc
lợi dưỡng thì ma không thể xen vào được. Ngược lại, nếu hành giả chỉ cần khởi một
tâm niệm lệch thì lập tức sẽ có một kẽ hở, ma dễ bề xâm nhập vào quây rối người
tu hành, nếu biết thì không phải làm quyến thuộc của ma, nếu không biết sẽ làm
quyến thuộc của chúng và nhiều đời nhiều kiếp phải luân hồi sanh tử, phá đi cái
huệ mạng của mình mà không biết đến đời nào mới ra khỏi.
Ngày xưa, đức Phật
có thể tự xưng ngài là Phật vì ngài có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp
và hiện thần thông độ sanh và có vô lượng thiện thần theo hầu. Còn những người
nào tự vỗ ngực xưng mình là thế này, thế nọ chỉ là những kẻ đi bán ảo tưởng, thời
đại này là thời đại của sự lừa đảo, mà không có một cái nghề gì “phát
tài” và khỏe bằng nghề đạo sư. Những người bị thu hút thường là nhưng
người đàn ông và đàn bà sồn sồn, bắt đầu bước vào tuổi già dễ rơi vào sự cô
đơn, phiền muộn, vì không có việc gì làm, sức khỏe lại kém, con cháu không có mấy
thời giờ đến thăm, nên phải bám theo đám ồn ào ấy để mua một chút ảo tưởng nào
đó, như mua ảo tưởng sẽ được khỏi bệnh, hay được cứu rỗi, hoặc để cảm thấy ấm
áp, bớt cô độc, mà cái giá phải trả cũng không đến nỗi quá đắt, chỉ cần mất vài
chục, vài trăm, hay một hai nghìn tùy theo sức thu hút của vị Tà Sư giáo chủ,
và cái giá đó cũng “thuận mua, vừa bán,” không có gì đáng phàn
nàn.
Phần lớn người đời
nay quá khổ, làm ăn khó, cạnh tranh nhiều, chỗ nào cũng tranh giành để kiếm sống,
nên con người cần phải tìm một bến bờ nào đó, một chỗ để trú chân thì dù có mất
một chút tiền cũng không đáng tiếc. Nhưng họ không nhìn thấy được cái tại hại
sâu xa hơn, vì đó chỉ đưa họ vào con đường đọa, trôi nổi trong đau khổ thêm nhiều
kiếp. Sở dĩ tôi phải nói thế vì sau những vụ tà sư này, sẽ còn rất nhiều những
vụ khác mọc lên như nấm trong tương lai, những trò chơi của yêu ma không bao giờ
hết. Nên ta cần cảnh giác để biết đường con đường nào nên đi…
Nay chúng ta đi
vào phần cuối của Hoa Nghiêm…
Lần trước chúng ta
đến chỗ Thiện Tài đồng tử sau khi quán chiếu rất lâu thì thấy được ngài Phổ Hiền
Bồ Tát lúc đó đang ở ngay trong chúng hội trước đức Như Lai.
Lần trước tôi đã giảng
sau khi Thiện Tài đi chu du về phía Nam thì bây giờ phải trở lại chỗ cũ mới thấy
được chỗ tuyệt đỉnh của con đường tu hành, tức là trở lại chỗ Bồ Đề Đạo Tràng
chỗ đức Phật Thích Ca ngồi mà vị Phổ Hiền Bồ Tát cũng ngồi ngay tại đó. Nhưng nếu
thiện căn chưa chín thì không thể nhìn thấy, cho đến khi nào nhãn lực và đạo lực
chín mùi thì sẽ thấy được ngài. Và trước khi thấy thân ngài, Thiện Tài nhìn thấy
rất nhiều tướng quang minh tạo lập lên thế giới, phần nhiều là những mây quang
minh hiện thành những tinh tú, thành các cõi và cuối cùng là hiện thành những
thân chúng sanh. Dần dần Thiện Tài nhìn thấy được từ một chỗ rất lớn như hư
không xuống dần đến một thân căn thanh tịnh nhỏ bằng một người ngồi là ngài Phổ
Hiền ngay trong chúng hội đạo tràng. Khi nhìn thấy ngài, thì kinh lại không tả
ngài ra sao, mà lại tả tới chỗ cực nhỏ, tức là tả những lỗ chân lông của ngài để
thấy trùng trùng hằng hà sa thế giới. Vì vậy mới gọi là NHẬP PHÁP GIỚI. Tức là
đi từ chỗ rất lớn đến chỗ cực nhỏ, rồi từ những chỗ cực nhỏ như một đóa hoa nở
ra đến chỗ cực lớn.
Nay, xin đi vào
kinh…
KINH:
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử liền thấy Phổ Hiền Bổ Tát ở trong chúng hội trước đức
Như Lai, ngồi tòa sư tử Bửu Liên Hoa, chúng Bồ Tát vây quanh rất là tôn nghiêm,
thế gian không sánh được, cảnh giới trí huệ vô lượng vô biên khó lường khó
nghĩ, đồng tam thế Phật, tất cả Bồ Tát không quán sát được.
GIẢNG: Khi nào một
vị Bồ Tát nhìn thấy ngài Phổ Hiền thì phải có sức gia trì của ngài, cộng với
nhãn lực với đạo lực lớn của chính hành giả ấy. Còn những vị Bồ tát khác không
nhìn thấy được vì đạo lực của các vị khác kém hơn, không đủ nhãn lực để nhìn thấy
quang minh vi tế ấy. Từ đây trở đi, trong kinh không tả ngài Phổ Hiền Bồ Tát ra
sao, mà lại tả từ lỗ chân lông của ngài. Trong đạo Phật, tu hành là phải hóa-giải-không-
gian-và-thời-gian, nên khị một Bồ Tát trông vào lỗ chân lông của một vị Bồ Tát
lớn mà thấy trong đó có vô lượng thế giới, tức nhiên nhãn lực của vị Bồ Tát ấy
cao siêu lắm rồi.
KINH:
Thấy thân Phổ Hiền mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả thế giới vi trần số quang
minh vân…
GIẢNG: Kinh không
tả hình dáng ngài ra sao, mà chỉ nói đến lỗ lông của ngài tuôn ra không biết
bao nhiêu mây quang minh. Đó là chỉ cho các bậc đã đắc đạo. Đức Thích Ca của
chúng ta cũng vậy, nhưng chúng ta không nhìn thấy mà thôi, ở đây, tôi lại xin
nhắc lại vị thiện tri thức thứ sáu là ngài Hải Tràng Tỳ Kheo, khi Thiện Tài đến
thì thấy ngài ngồi mọp bên đường, nhưng từ trên đỉnh đầu, rồi từ mắt, từ tai, từ
vai, từ bụng, từ đầu gối, nhẫn đến từ gót chân tuôn ra bời bời những hóa thân,
ùn ùn không bao giờ dứt, đó mới gọi là chân đắc đạo giải thoát, là Nhập pháp giới.
KINH:
Khắp pháp giới hư không giới tất cả thế giới, trừ diệt tất cả chúng sanh khổ hoạn,
khiến các Bồ Tát sanh đại hoan hỷ.
GIẢNG: Thấy trong
mỗi lỗ lông của ngài Phổ Hiền đều khởi lên vi trần số mây quang minh bủa khắp
pháp giới chạm đến các chúng sanh diệt trừ những khổ hoạn của họ, như người điếc
nghe được, người mù trông thấy, người câm nói được v.v… tất cả phiền não đều
tiêu dung.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số những sắc hương diệm
vân, khắp pháp giới hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng, để huân
tập tất cả.
GIẢNG: Trong những
lỗ lông ấy đều nổi lên những đám mây đầy màu sắc và những mùi hương rất thơm,
nhưng mùi hương ấy bủa khắp pháp giới để huân tập cho tất cả chúng sanh. Nên
tôi vẫn thường nói, tuy chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi lổm ngổm thế này, nhưng
chúng ta đang được tắm trong quang minh của các ngài mà không hề hay biết, dần
dần nếu biết tu tập, tâm ta sẽ tương ưng với tâm các ngài và ngài sẽ hiện tướng
để viên mãn những nguyện của ta.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả vi trần số tạp hoa vân…
GIẢNG: Mây tuôn ra
và trong những đám mây đó hiện ra rất nhiều hoa. Trong đạo Phật nói đến rất nhiều
loại hoa, mà theo như kinh Hoa nghiêm, ta có thể coi các chúng sanh, và những
hiện tượng cây cỏ, núi sông của pháp giới này là nở trên biển pháp thân đó,
tương tự như một đóa hoa nở ra rồi cụp lại. Tất cả pháp giới nở ra thành thế giới
này và vô lượng thế giới khác, đến khl kiếp hoại thì tất cả rút lại, cụp lại rồi
biến vào chân không. Vì vậy, khoa học không thể hiểu nổi tại sao khi thấy những
tinh hà càng ngày càng chạy xa nhau. Nhưng nếu ta nhìn theo con mắt Phật giáo
thì sẽ thấy rõ, có thể là vì đương lúc đóa hoa pháp giới đang nở ra lớn, thì những
tinh hà chính là cánh hoa, nhụy hoa càng ngày càng nở lớn ra nên càng chạy xa
nhau hơn. Thân căn chúng ta cũng là một đóa hoa nở ra, khi già tàn lụi, thì nó
rụng xuống thành cát bụi và rơi vào chân không.
KINH:
Khắp pháp giới hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng mưa những diệu
hoa.
GIẢNG: Ngài Phổ Hiền
ngồi trong tam muội tịch bất động, mà từ những lỗ chân lông tuôn ra không biết
bao nhiêu thứ quang minh mây, trong đó lại hiện ra những trận mưa hoa nườm nượp
trong hư không. Chúng sanh nào đủ thiện căn đều có thể nhìn thấy những mưa hoa
đó, ngược lại, những người căn cơ còn hạn hẹp như chúng ta không thể nào thấy
được.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số hương thọ vân..
GIẢNG: Trong những
quang minh vân ấy hiện ra những cây quí có hương thơm như cây chiên đàn chẳng hạn.
KINH:
Khắp pháp giới hư không giới tất cả chúng hội đạo tràng mưa những diệu hương…
GIẢNG: Chúng ta là
người trần mắt thịt, nên cái biết về pháp giới này rất hạn hẹp, vì trong hư
không này, mọi hiến chuyển xoay vần rất kỳ ảo,nó thay đổi từng sát na một. Ngay
bây giờ, có thể đang có nhiều thế giới được thành lập, hoặc biến hoại, hay ngay
tại chỗ này, chư Phật đang thuyết pháp, nhiều mưa hoa, mưa hương rơi đầy khắp
hư không, hoặc chúng ta đang sống trong một thân căn của một vị Bồ Tát lớn nào
đó v.v… Vì sáu căn của chúng ta chỉ hoạt động được trong một tần số hay kích
thước hạn hẹp nào đó thôi. Và chúng ta hoàn toàn không hay, không biết. Nên chư
Phật khởi lòng từ bi nói cho chúng ta nghe, vậy mà cũng có rất ít người chịu
tin, chịu hiểu. Thật đáng tiếc!
KINH:
Trong mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật vi trần số diệu y vân, khắp pháp giới
hư không giới chư Phật chúng hội đạo tràng mưa những diệu y.
GIẢNG: Ở đây lại
nói những đám mây quang minh hiện lên những áo vi diệu.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bửu thọ vân…
GIẢNG: Bửu thọ vân
cũng là những mây quang minh hiện ra những cây quý.
KINH:
Khắp pháp giới hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng mưa ma ni bửu.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả Phật sát vi trần số sắc giới thiên thân
vân sung mãn pháp giới khen ngợi bồ đề tâm.
GIẢNG: Ngài Phổ Hiền
vẫn ngồi đấy, nhưng trong mỗi lỗ lông phóng ra rất nhiều những mây quang minh
trong đó hiện tướng dần dần pháp giới. Trên kia, hiện lên những hoa, hương,
cây cỏ,(chúng vô tình), xuống đây thì hiện lên các vị chư
Thiên (chúng hữu tình), sau đó các vị chư Thiên đều khen ngợi
bồ đề tâm.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số Phạm Thiên thân vân,
khuyến thỉnh chư Như Lai chuyển diệu pháp luân.
GIẢNG: Đoạn trên
thì chỉ hiện ra Chư Thiên. Còn ở đoạn này thì hiện ra những Vua trời Phạm
Thiên. Những vị Phạm Thiên thường là những vị vua cõi trời Quang Âm. Trong các
kinh thường kể, khi một vị Phật thành Chánh Đẳng Chánh Giác dưới Bồ Đề Đạo
Tràng ở một cõi nào thì bao giờ một vị Phạm Thiên cũng xuống thỉnh Phật chuyển
pháp luân. Hạnh thỉnh chuyển pháp luân có công đức rất lớn, vì đức Phật có nói
pháp chúng sanh mới thoát được khổ. Và nếu không có các vị Phạm Thiên thỉnh Phật
thuyết pháp thì người đời sau không có kinh để đọc tụng và tu hành. Cũng như
trong mười hạnh nguyện Phổ Hiền ta thường tụng đọc hằng ngày, có một hạnh gọi
là “thỉnh chuyển pháp luân.” Trông thấy đức Phật phải thỉnh
ngài nói pháp, cũng như trông một vị đạo sư, cao tăng, ta nên có hạnh khởi tâm
thỉnh vị đó thuyết pháp, để chúng sanh được nghe pháp.
Trong kinh Đại Bát
Niết Bàn nói rằng, ở những nơi đức Phật giảng kinh,có mấy hạng người kỳ diệu. Hạng
người đầu tiên có công đức lớn là biết thỉnh Phật chuyển pháp luân, người thứ
hai là biết hỏi. Thường đức Phật ít khí vô cớ nói pháp mà không có người hỏi,
vì vậy người khởi tâm thưa hỏi do lòng từ bi thì công đức của vị đó rất lớn.
Như trong những pháp hội, thường những vị đại đệ tử của Phật như ngài A Nan, Xá
Lợi Phất, Tu Bồ Đề v.v… cùng các vị Bồ Tát và Thiên Đế, các ngài hỏi thế không
phải là muốn khoe cái trí hiểu biết của mình đâu, hoặc đôi khi các ngài cũng biết
câu trả lời mà vẫn cứ hỏi, đó chỉ là vì các ngài nghĩ đến chúng sanh đời sau
như chúng ta cần có kinh mà đọc.
Trong đạo tràng,
khi có người hỏi, đáp, chúng ta nên tránh nhất là tâm sân, mạn, dù người kia có
nói trái ý ta cũng không nên khởi lòng sân, vì như thế ta còn chấp ngã rất nặng.
Và theo giáo lý nhà Phật, người hỏi cũng như người đáp, thường ta chỉ nên nói
lên cái kiến giải của mình thôi, chứ không có thái độ bắt ai phải theo cái sự
hiểu biết của mình. Ngay cả đức Phật ngồi thuyết pháp cũng thế, ngài không bao
giờ bắt các vị đệ tử của ngàii nghe ngài đâu, mà lại nói rằng, các ông hãy lắng
nghe cho khéo, nghĩ cho kỹ nếu đúng hãy theo, nên không bao giờ có sự tranh cãi
với thế gian.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số dục giới thiên vương
thân vân, hộ trì pháp luân của tất cả Như Lai.
GIẢNG: Đoạn trên kể
rằng trong những quang minh vân sanh các chưThiên Tử, sanh vị Phạm Thiên, rồi đến
những vị vua trời dục giới như vua Đế Thích ở tầng trời Đao Lợi. Như vậy, nếu
các vị Phạm Thiên thỉnh Phật chuyển pháp luân, thì những vị vua Đế Thích này sẽ
hộ trì pháp luân của Như Lai. Khi đức Phật nói pháp lớn xong, bao giờ cũng có
những vị Tứ Thiên Vương, Vua Đế Thích và rất nhiều vị Dạ Xoa Vương, Quỉ Thần
Vương tuyên thệ sẽ hộ trì kinh. Khi ta đọc tụng kinh nhiều tất nhiên sẽ được sự
hộ trì, nên tôi vẫn nói là, tuy đạo tràng này nhỏ bé, đôi khi thưa thớt người dự,
nhưng có thể có những vị Quỉ Thần và Chư Thiên xuống nghe kinh…
Trong các kinh ngoại
đạo, thì có những vị thần ngoại đạo hộ trì những kinh ấy, còn kinh Phật nói ra,
toàn những vị Thiên Vương, nhất là những vị Tứ Thiên Vương và Quỷ Thần Vương hộ
trì. Trong kinh Hiền Ngu, Phật nói rõ rằng, khi có người tụng chú như Đại Bi,
Bát Nhã hoặc chú Thủ Lăng Nghiêm mà tụng ra thành tiếng, đi ngoài đường, các vị
chư Thiên đi tuần trên trời phải dừng lại mà nghe bài chú ấy. Kinh cũng nói rằng,
một người giữ một giới thì có năm vị quỉ thần đi theo gia hộ, còn giữ năm giới
như người tại gia thì có hai mươi lăm vị quỉ thần đi theo gia hộ. Nhưng nếu tụng
chú Thủ Lăng Nghiêm, thì có tám mươi bốn ngàn đại quỉ thần đi theo gia hộ, ngài
nhắc đi, nhắc lại mấy lần trong kinh như thế. Chúng ta là người tu hành kém,
công phu nhiều khi hay giải đãi, làm sao được sức gia trì? Nên phải nhờ thần lực
của chú, của kinh.
HỎI: Tại
sao lại là con số 84 ngàn mà không phải một con số khác, nhiều hơn haỵ ít hơn chẳng
hạn?
ĐÁP: Trong kinh
thường hay nói đến con số 84 ngàn, như 84 ngàn trần lao, 84 ngàn pháp môn, 84
ngàn các Đạo Quỉ Thần v.v… là chỉ một con số lớn, vô lượng.
PHẬT TỬ:
Tôi có đọc một cuốn sách (xin lỗi đã quên mất tên), có giảng về các đại kiếp, trung kiếp,
tiểu kiếp, không biết một tiểu kiếp là bao nhiêu năm?
ĐÁP: Một
trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp, một đại kiếp gồm bốn trung kiếp. Một vị tu
thiền định vào cõi Trời Vô Sắc Giới thì vị đó có thể thọ tám mươi bốn ngàn kiếp,
ngồi trong thiền định lâng lâng, không có thân chỉ có tâm tưởng thôi. Nhưng đến
khi hết phước báo mà phải bị tụt xuống bình diện thấp của sắc ấm thì bị
đau đớn như có mũi tên đâm vậy.
HỎI:
Trong thế gian nàỵ, có thể có hóa thân Phật không, và có người nào có thể một đời
tu thành Phật được không?
ĐÁP:
Có thể có hóa thân Phật, nhưng khi làm hóa thân không bao giờ được tự nhận mình
là hóa thân của một vị Phật hay vị Bồ Tát. Các ngài có thể hiện làm một kỹ nữ,
hay một vị vua, quan, hoặc một vị ăn mày ghẻ lác v.v…, và những hóa thân ấy,
không có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, mà luật tắc không bao giờ được
nói mình là hóa thân cả, chỉ thị hiện để độ sanh thôi. Nhưng nếu hiện ứng thân
có đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp thì có quyền nói mình là Phật, đồng
thời phải có thần thông tràn đầy thế gian. Còn những người bình thường như
chúng ta không bao giờ có thể tu một đời thành Phật cả, vì sao? Vì như đức Phật
Thích Ca, ngài đã thành Phật trên từng trời sắc cứu cánh rồi, thị hiện xuống trần
thành Phật để độ sanh và khích lệ người. Nên nếu đọc kinh kỹ ta có thể dễ dàng
nhận được tà, chính.
Nay, xin trở lại
kinh.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số tam
thế phật sát vân…
GIẢNG: Ngài Phổ Hiền
vẫn ngồi đây, lỗ chân lông tuôn ra những mây quang minh hóa hiện thành những
cõi Phật. Ai tin được điều này? Vì vậy kinh đại thừa mới khó tin, khó hiểu, khó
vào. Cũng như chúng ta luôn nghĩ rằng cõi này với tất cả chùa đình, bàn ghế,
cây cỏ này v.v… đều do vật chất tạo nên, nhưng trong kinh Duy Ma Cật cũng nói rằng
tất cả các cõi đều là hư không, đều ảnh hiện, hiện lên là đều do thần lực của
chư Phật gia trì và nghiệp lực của chúng sanh chiêu cảm, để chúng minh sinh sống
và tu hành. Vì vậy chúng ta ngồi trong cõi này tức là ngồi trong thân của các
ngài. Nếu chúng tu tin được thì quả là một đều rất hy hữu, phải trồng túc duyên
từ nhiều đời, nhiều kiếp, đến kiếp này mới gặp được kinh đại thừa, hơn thế nữa
lại còn đọc tụng và tin hiểu.
”
Trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số tam thế phật sát vân…” Những mây quang minh ấy không những
hiện những cõi này, mà còn hiện cả các cõi quá khứ và vị lai đều hiện tiền trước
mắt. Quí vị thử nghĩ xem có thể tin nổi không? Nhưng kinh không bao giờ nói lời
hư vọng, chỉ tại mình nghĩ chưa tới mà thôi.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vị trần số thanh
tịnh phật sát vân…
GIẢNG: Những mây
quang minh hiện lên trong lỗ chân lông ấy tạo thành những cõi rất thanh tịnh.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bất tịnh
tịnh phật sát vân, khắp pháp giới hư không giới, khiến tạp nhiễm chúng sanh đều
được thanh tịnh.
GIẢNG: Lúc nào
cũng nói đến cõi tịnh và bất tịnh. Vì vậy, y cứ vào kinh, tôi thiển nghĩ rằng,
tất cả những người tu – dù tu theo thiền tông – trước sau cũng phải sang Tịnh Độ
thì mới đắc được vô sanh pháp nhẫn, mới có đủ tự tại lực, thần thông để độ
sanh.
Trong những kinh
như kinh Đại Bảo Tích, Hoa Nghiêm đều nói đến những chân lý rốt ráo mà không thể
có một cuốn sách thế gian nào nói được như lời kinh.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bất tịnh
phật sát vân, khắp pháp giới hư không giới, khiến thuần nhiễm chúng sanh đều được
thanh tịnh.
GIẢNG: Cõi Ta Bà
chúng ta đang ở là một cõi uế độ trung bình, vì thế nghiệp lực tung hoành tương
đối ít, như mười phần thì bất tịnh khoảng bảy phần, còn ba phần kia là tịnh, vì
chúng ta còn biết tụng kinh, giữ giới v.v… Nhưng có những cõi bất tịnh phật sát
vân thì trong đó chúng sanh thuần nhiễm, bất tịnh hoàn toàn, ở đây, chúng sanh
không bao giờ biết đến kinh là gì, lúc nào cũng chỉ mang cái tâm thích chém giết
nhau. Nhưng chư Phật và chư Đại Bồ Tát cũng phải gia trì ở những nơi đó khiến
những thuần nhiễm chúng sanh đều dần được thanh tịnh. Đủ biết rằng, các ngài
thường có tâm bình đẳng, thương chúng sanh như con đỏ, không một loài nào bị bỏ
rơi, ngược lại, chúng ta cứ ngu si, nghiệp chướng sâu dầy, không chịu tin,
không chịu hiểu, không hành trì đúng mức nên cứ phải trôi lăn trong sáu nẻo
luân hồi. Ví như mặt trời soi sáng khắp nơi, nhưng người mù vẫn không thấy, lỗi
đó không do nơi mặt trời, chỉ tại người mù không nhìn thấy mà thôi.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số chúng
sanh thân vân, khắp pháp giới hư không giới, tùy sở nghi giáo hóa chúng sanh đều
khiến phát tâm vô thượng bồ đề.
GIẢNG: “Vi
trần số chúng sanh thân vân” là những mây quang minh kết thành những
thân chúng sanh (mà không nói là nhiễm hay tịnh?) nhưng các
ngài gia trì cho nhưng chúng sanh ấy dần dần tới chỗ phát tâm vô thượng bồ đề.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bồ tát
thân vân, biến pháp khắp hư không giới tán dương những danh hiệu của chư
Phật làm cho chúng sanh tăng trưởng thiện căn.
GIẢNG: Sau khi
ngài hóa hiện các thứ chúng sanh rồi, lại hóa hiện những vị Bồ Tát để chỉ tán
dương niệm danh hiệu chư Phật thôi (tịnh độ).
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bồ tát
thân vân, khắp pháp giới hư không giới tất cả phật sát tuyên dương tất cả chư
Phật Bồ Tát, những thiện căn sanh khởi từ khi sơ phát tâm.
GIẢNG: Từ lỗ lông
hiện ra những vị Bồ Tát tuyên dương những thiện căn từ khi phát bồ đề tâm. Như
sau khi phát bồ đề tâm thì tu công đức gì, làm những hạnh nguyện gì v.v… để
khuyến khích người tu trên con đường Bồ Tát đạo.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bồ
tát thân vân khắp pháp giới hư không giới, trong mỗi phật sát nơi tất cả phật
sát tuyên dương tất cả bồ tát nguyện hải và thanh tịnh diệu hạnh của Phổ Hiền Bồ
Tát.
GIẢNG: Ở đây
ngài lại nói về những nguyện hải và diệu hạnh.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh Phổ Hiền Bồ Tát hạnh vân, khiến
tâm tât cả chúng sanh được mãn túc, tu tập đầy dủ đạo nhất thiết trí.
GIẢNG: Đủ trí huệ
và phước báo. Trong đoạn kinh này, nói toàn đến những lỗ lông, mà trong mỗi lỗ
lông có vô lượng cõi, vô lượng chư Phật, vô lượng chúng sanh v.v.., tức là ngài
đang giảng cho chúng ta thấy từ một chỗ bé nhất có thể nở ra thành những cõi,
những quốc độ và những thân căn chúng sanh.
HỎI:
Thấỵ trong một lỗ lông những cảnh giới như thế là thấy theo mắt trần, thấy vì
thiền quán, hay thấy bằng cái tâm?
ĐÁP:
Như tôi đã nói nhiều lần, nhục nhãn của chúng ta rất hạn hẹp, chỉ nhìn được một
khúc rất ngắn, nên cái thấy này không phải cái thấy của nhục nhãn đâu. Những vị
tu hành cao, thiện căn và phước trí như ngài Thiện Tài có gần đủ ngũ nhãn rồi,
ngoài nhục nhãn, còn có thiên nhãn, huệ nhãn và pháp nhãn nữa. Cảnh giới này là
ngài nhìn bằng pháp nhãn.
KINH:
Thiện Tài thấy cảnh giới thần thông tự tại của Phổ Hiền Bồ Tát như vậy, thân
tâm hoan hỉ, hớn hở vô lượng.
GIẢNG: Khi chúng
ta tu hành đã khá, có được cơ duyên gần được một vị Bồ Tát lớn, đồng thời các
ngài khởi tâm muốn gia trì cho chúng ta mà hiện những thần thông, thì tự nhiên
trong tâm ta sẽ khởi lên những niềm hoan hỷ, lâng lâng, đồng thời cũng đắc nhiều
thứ tam muội cùng đà la ni. Cũng vậy, Thiện Tài đi gần tới chỗ nhập pháp giới,
nên ngài Phổ Hiền gia trì để nhập sâu hơn nữa.
“Thiện
Tài thấy cảnh giới thần thông tự tại của Phổ Hiền Bồ Tảt..”, tức là ngài hiện mọi thần thông,
vì chư Phật dù không khởi một tâm niệm nào, những vẫn khởi thần thông tràn đầy
thế gian. Nên trong kinh Tâm Địa Quán nói rõ, chư Phật là thần “thông biến
hóa tràn đầy thế gian,” đừng tưởng thế giới là ù lì thế này thôi đâu,
mà tất cả mọi sự, mọi vật đều biến đổi từng sát na một. Trong sự biến hóa vô
cùng vô tận ấy, còn tùy theo cái tâm đập bập bềnh của chúng sanh mà hiện ra, nếu
tâm ta nhạy bén, thanh tịnh, thì tiếp nhận được nhiều, còn tâm ta ù lì kém cỏi,
thì chỉ nhận được rất ít thôi, đó không phải là lòng từ bi của các ngài không
bình đẳng, mà do chính ám chướng sâu dày và nghiệp lực của mỗi chúng sanh không
đồng mà thôi. Như người sanh manh, tuy không nhìn thấy được mặt trời, nhưng vẫn
nhận được đầy đủ sức ấm áp của mặt trời tỏa xuống.
KINH:
Lại thấy mỗi mỗi thân phần, mỗi mỗi lỗ chân lông của Phổ Hiền đều có Đại Thiên
thế giới phong luân, thủy luân, địa luân, hỏa luân, đại hải, giang hà và những
Bửu Sơn, Tu Di, Thiết Vi, thành ấp, cung điện, viên lâm…
GIẢNG: Đoạn kinh
này lại nhắc lại tổng quát cho chúng ta nhớ. Cũng nhắc thêm những chi tiết để
cho chúng ta thấy trong cõi Ta Bà này có những gì.
Trong kinh Hoa
Nghiêm ở phẩm “Thành tựu thế giới,” khi một thế giới
thành tựu, đầu tiên phong luân sẽ khởi lên, rồi đến thủy luân, những dòng nước
xoáy, rồi đến địa luân, sau cùng mới đến hỏa luân, từ đó mới kết tụ tạo thành
những tinh tú, ngân hà, hành tinh và trái đất này, mà trên những hành tinh có
những đại hải, sông ngòi, bửu sơn, núi Tu Di, Thiết Vi, thành ấp, cung điện,
viên lâm, rừng cây, núi đá. Cũng có tất cả trụ xứ của địa ngục, của ngạ quỷ,
súc sanh, Diêm La Vương v.v…
KINH:
Những cung điện của Thiên Long Bát Bộ, nhân và phi nhân…
GIẢNG: Có những trụ
xứ của người, và cũng có những xứ sớ của những loài khác, như trong hư không
này là xứ sở của phi nhơn. Đừng tưởng rằng trong hư không không có chúng sanh,
ngược lại, chỗ nào cũng có đầy dẫy chúng sanh. Trong kinh nói những chi tiết rất
lạ lùng, nói rằng, ở giữa hai thế giới có một khu vực rất đen tối, chúng sinh sống
trong đó không bao giờ nhìn thấy được nhau, nhưng khi đức Phật phóng hào quang,
thì chỗ đó cũng sáng lên, chúng sanh ở nơi đó hốt nhiên mới nhìn thấy nhau, nên
ngạc nhiên kêu lên rằng, không hiểu chúng sanh ở đâu ra nhiều thế? Tất cả những
cung điện, nhơn, phi nhơn, xứ sở đều được dệt bằng quang minh. Tới thế kỷ thứ
21 này, tôi chắc rằng khoa học sẽ chứng minh nhiều điều mà kinh đã nói từ ngàn
xưa rồi.
KINH:
Cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, nhật nguyệt, tinh tú, gió mây, sấm chớp…
GIÁNG: Là nói đến
các vật, tức là những y báo bên ngoài.
KINH:
Ngày, đêm, tháng, năm, giờ, đến năm kiếp, chư Phật xuất thế, chúng hội Bồ Tát,
đạo tràng trang nghiêm, những sự như vậy đều thấy rõ cả.
GIẢNG: Trên kia
nói cung điện, tinh tú v.v… thì chúng ta có thể tưởng tượng rằng, một người có
pháp nhãn có thể nhìn thấy được, còn đây nói đến ngày, đêm, tháng, giờ v.v… là
nói đến thời gian. Nhưng thời gian đối với chúng ta nó không có hình tướng thì
làm sao có thể thẤy được?
HỎI:
XIn lỗi, cho tôi ngắt ngang để hỏi một câu, kẻo chờ đợi lát nữa tôi lại quên mất.
Trong đoạn nàỵ, chắc phải có trí của Như Lai, tức là đến khi thành Phật thÌ ta
mới có thể thấy được như thế, có thể thấy được thời gian. Có đúng chăng?
ĐÁP:
Cũng chưa cần phải thành Phật, nếu chúng ta tu đến đệ bát địa, tức là đến vô
sanh pháp nhẫn, lúc đó bắt đầu chúng ta thấy không gian và thời gian đã hóa giải
rồi, vì vậy mới có thể biến hóa được.
Trong
Hoa Nghiêm, phẩm thứ 33 “Thọ Lương của Như Lai,” có đề cập đến vấn đề thời
gian. Nói rằng, một kiếp ở cõi Ta Bà này, tức là mười sáu triệu năm chỉ bằng một
ngày một đêm ở cõi Cực Lạc, một kiếp ở cõi Cực Lạc, chỉ bằng một ngày một đêm ở
cõi Ca Sa Tràng Như Lai v.v… Như vậy, chúng ta phải hiểu rằng, theo đạo Phật,
thời gian cũng chỉ là vọng tưởng của tâm thức mà thôi, tâm thức càng thanh tịnh
bao nhiêu thì thời gian trôi qua càng lẹ bấy nhiêu. Vì khi tâm thức thanh tịnh,
thì tần số quang minh của tâm thức phát ra rất mau lẹ, rất cao, nên thời gian
như thu ngắn lại, và thọ mạng chúng sanh lại dài ra. Như thọ mạng người nhân thế
kém thọ mạng của chư Thiên nhiều lắm, thọ mạng trung bình của chư Thiên là năm
trăm năm, mỗi một ngày trên trời dục giới dài bằng khoảng một trăm năm dưới
nhân thế, vì tâm thức họ thanh tịnh hơn. Sở dĩ các vị Bồ Tát có thể thấy rõ
ngày, đêm, tháng, giờ, năm, kiếp v.v… của các cõi vì các ngài đo lường mức dộ
thanh tịnh của chúng sanh ở đó, nên khi đem so thời gian giữa các cõi, tịnh uế
thì một kiếp ở cõi này, chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi khác. Các ngài thấy, có
lẽ do tâm ý, không phải do tâm nhãn. Nên nếu không hiểu lý “duy tâm sở hiện”
thì không thể nào chấp nhận dược… Lấy một thí dụ dễ hiểu, một người ngồi thiền
cao, họ có thể ngồi một lần hai, ba ngày, đến khi xuất thiền họ chỉ có cảm giác
là thời gian hai, ba ngày vừa qua chỉ bằng khoảng một bữa ăn thôi, vì tâm thức
người đó thanh tịnh. Ngay chúng ta đấy, chưa có kinh nghiệm gì về thiền quán
hay một cơn định nhỏ nào, nhưng trong một ngày, vì một lý do này đó — đọc được
một đoạn kinh hay, hoặc có một niềm vui nào đưa đến — làm cho tâm thức ta vui vẻ,
nhẹ nhàng thanh thoát.., thì thấy một ngày qua rất nhanh. Ngược lại, nếu ngày
hôm đó, ta gặp một điêu gì buồn rầu, hoặc gặp một tai nạn bất ngờ, làm cho tâm
thức ta buồn rầu ủ rũ thì ngày đi qua một cách rất chậm chạp lê thê.
PHẬT TỬ
(góp ý): Thưa ông, cũng giống như một nhà sinh vật học, khi nghiên cứu đời sống
của một con ong, từ khi con ong nở ra còn là con ngài, rồi thành ong, rồi xây tổ
v.v… tất cả việc làm và suốt đời sống của một con ong, nhà nghiên cứu học nhìn
thấy suốt thời gian kéo dài chỉ khoảng vài tháng hay một năm chẳng hạn. Cũng vậy,
các vị chư Thiên trên trời, nhìn xuống nhân gian chúng mình cũng giống hệt như
thế, không khác!
ĐÁP:
Đúng vậy nên trong kinh nói rất rõ rằng, các vị Chư Thiên nhìn xuống nhân thế,
thấy chúng ta như một lũ giòi sống trong đám phân hôi, vì suốt ngày chúng ta chỉ
có ăn, uống, toàn những thứ bất tịnh, rồi đi tiểu, đi tiêu, rồi khởi tâm tham dục,
ngã mạn, sân hận lăng nhăng. Chúng ta sống trong “môi trường người” quen quá rồi,
nên không biết, không để ý, nhưng chư Thiên thấy chúng ta hôi nhơ, khó thể chịu
nổi. Ngày xưa, khi con người còn thanh tịnh hơn bây giờ, cũng có những trường hợp
chư Thiên sống gần người, càng ngày đất trời càng xa cách, vì nghiệp chúng ta
càng nặng, càng lún sâu vào bùn, nên chư Thiên không chịu nổi phải xa dần. Nên
chúng ta cần luôn nhớ rằng, muốn tu hành phải cầu ra khỏi dục giới trước, và cửa
ải dục giới rất khó qua, vì sự tham dục của chúng sanh rất nặng.
KINH:
Như thấy rõ tại thế giới nầy, tất cả thế giới ở mười phương đều thấy rõ cả.
GIẢNG: Thấy rõ tất
cả thế giới mười phương, đồng Ihời thấy rõ thời gian của từng các cõi, ngày,
tháng, năm, kiếp v.v… ngắn, dài đều biết hết.
KINH:
Như thấy thập phương thế giới hiện tại, tất cả thế giới tiền tế, hậu tế cũng thấy
như vậy, nhưng vẫn chẳng tạp loạn nhau.
GIẢNG: Không những
thấy thập phương thế giới trong hiện tại, mà còn thấy tất cả thế giới ở quá khứ
thế nào, trong tương lai ra sao. Vì khi chúng ta vào được bạch tịnh thức, lúc
đó ta có thể nhìn được tất cả tam tế. Còn chúng ta bây giờ, với tâm thức của
người, chỉ trông được hiện tại, nhớ được quá khứ, vọng tưởng đến vị lai. Nhưng
lên cao hơn như Phật, thì không nhớ tưởng gì cả, mà trông thấy rõ trước mắt, có
thể thấy được trăm ngàn kiếp, vô lượng kiếp về trước, và cũng có thể biết được
vô lượng kiếp về sau. Nhưng không bao giờ các vị cao nói ra, vì sẽ làm rối loạn
luật tắc nhân quả, nghiệp báo. Như ngài Xá Lợi Phất, có thể thấy tám vạn kiếp của
một con chim ngói về thời quá khứ, huống chi là một bậc Đại Giác (Phật). Trong
kinh Hoa Nghiêm bao giờ cũng khẳng định là biết tất cả tiền tế, hậu tế, tất cả
quá khứ, vị lai.
KINH:
Như ở chỗ Tỳ Lô Giá Na Như Lai thị hiện sức thần thông như vậy, tại Liên Hoa thế
giới, chỗ của Hiền Thủ Phật, hiện sức thần thông cũng như vậy.
GIẢNG: Chỗ Tỳ Lô
Giá Na Như Lai chính là cõi Ta Bà này, và đức Thích Ca Mâu Ni cũng chính là đức
Tỳ Lô Giá Na Như Lai, là hiện thân là một vị cổ Phật, nhưng cũng hiện thân là
ngài Thích Ca. Thì thấy cõi Phật Thích Ca này như thế, đồng thời cũng thấy nhiều
cõi khác như Liên Hoa thế giới, là một chỗ hết sức thanh tịnh, còn thanh tịnh
hơn cõi Cực Lạc của đức A Di Đà nhiều, là chỗ của Hiền Thủ Phật hiện sức thần
thông cũng như vậy.
KINH:
Nhẫn đến tại tất cả thế giới mười phương, chỗ của tất cả chư Phật Như Lai, cũng
hiện sức thần thông như vậy.
GIẢNG: Không những
các ngài hiện sức thần thông trong một, hai cõi, mà lại hiện sức thần thông ở tất
cả các cõi mười phương.
KINH:
Mười phương tất cả thế giới, trong mỗi mỗi vi trần đều có pháp giới chư Phật
chúng hội…
GIẢNG: Trong bất cứ
thế giới nào cũng có chúng hội của chư Phật.
KINH:
Chỗ mỗi đức Phật, Phổ Hiền Bồ Tát ngồi trên tòa Bửu Liên Hoa Sư Tử hiện sức thần
thông cũng đều như vậy. Trong thân của mỗi mỗi Phổ Hiền đều hiện tất cả cảnh giới
tam thế, tất cả cõi Phật, tất cả chúng sanh, tất cả Phật xuất hiện, tất cả Bồ
Tát chúng, nghe ngôn âm của tất cả phật, pháp luân của tất cả như Lai chuyển. Lại
thấy công hạnh của tất cả Bồ Tát, thần thông du hí của tất cả Như Lai.
GIẢNG: Đây chính
là Nhập pháp giới trọn vẹn. Sau khi nhìn ngắm tất cả thần thông của ngài Phổ Hiền
rồi thì thâu tóm lại rằng trong thân của mỗi mỗi Phổ Hiền đều hiện tất cả cảnh
giới tam thế, các cảnh giới hiện tại, quá khứ, vị lai đều hiện lên trước mắt,
không có một cõi Phật nào không ở trong thân ngài Phổ Hiền, tất cả chúng sanh
ngọ nguậy lăng xăng đi ngang, đi dọc, cãi nhau, đánh nhau, giết nhau, sân hận,
tham lam, si mê, tà kiến v.v… đều nằm trong thân ngài. Tất cả Phật xuất hiện, tất
cả Bồ Tát chúng, các ngôn âm của tất cả chúng sanh, chúng sanh có những ngôn âm
sai khác từng loài, tiếng người, tiếng quỉ, tiếng của Càn Thát Bà, tiếng của
Long Vương v.v… ngài đều nghe thấy hết, vì tất cả đều ở trong tâm ngài, vì đó
là sự biến hiện của tâm, như thế mới gọi là Phật, như thế mới gọi là NHẬP PHÁP
GIỚI trọn vẹn.
HỎI: Nếu
chỉ một thân của ngài Phổ Hiền đã hiện lên tất cả các thân Phật, thân các vị Bồ
Tát chúng, vậỵ thì trong những vị Phật khác thì sao?
ĐÁP:
Cũng thế, nói một cách rõ hơn là, phàm phu chúng ta cứ chấp có mình, có người,
có tự, có tha. Nhưng trong Phật giáo lại dạy khác. Ngài dạy rằng, tất cả đều
liên quan đến nhau, và CHẬP CHÙNG ẢNH HIỆN. Như tôi với ông, ông ngồi đấy, có
nghĩa rằng ông đang ngồi trong tâm thức của tôi và ngược lại, tôi ngồi đây, tức
là tôi đang ngồi trong tâm thức của ông. Nói một cách bao quát hơn, tôi ngồi
đây, tất cả những vị ngồi nghe pháp trong đạo tràng này, cùng tất cả các cây cỏ,
chùa chiền v.v.., chung quanh tôi đều ở trong tâm thức của tôi. Nhưng đồng thời,
mỗi vị đều có tâm thức của vị đó, nên tôi cũng ở trong tâm thức của các vị. Vậy
thì khi tôi nhìn pháp giới này, nhìn ngôi chùa này, cây cỏ, núi sông, mặt trời,
mặt trăng kia là tôi nhìn theo một trường lực quang minh riêng của tôi, nó là một
thứ thế giới đặc biệt của riêng tôi. Cũng vậy, ông cũng có một trường lực tâm
thức riêng của ông nhìn vào pháp giới này, mà mỗi một tâm thức của mỗi người đều
là một “trung tâm ảnh hiện pháp giới.”Mỗi chúng ta là một ngọn đèn đốt lên, rọi
sáng, tất cả xen lẫn vào nhau, nhưng mỗi một ngọn vẫn đều có những đặc tính
riêng của nó, như đèn dầu hôi, đèn điện, nến, bạch lạp v.v…, dù là loại gì nó
cũng đồng một sự sáng. Chư Phật cũng thế thôi, các ngài nhìn tất cả pháp giới đều
trong thân ngài, những vị Phật khác cũng đều nhìn thấy như thế, tất cả pháp giới
cũng đều hiện trong thân các ngài. Giống như nhiều cái gương, mỗi cái đều óng ảnh
phản chiếu tất cả sự vật chung quanh nó, nếu những cái gương tâm thức ấy trong
sáng phẳng lặng tột bực thì nó soi chiếu lẫn nhau và mọi vật một cách rất trung
thực, ảnh hiện trong nhau trùng trùng, điệp điệp (Chư Phật). Nhưng nếu những tấm
gương tâm thức lồi lôm, méo mó không đều, thì nó cũng vẫn có khả năng ảnh hiện
những sự vật chung quanh, cũng nổi lên trùng trùng điệp điệp, nhưng là những
trùng điệp đầy lồi lõm do những vọng tưởng, vọng tình, nên nó đã tạo thành những
hình ảnh méo mó, lệch lạc, lồi lõm tùy theo nghiệp lực của mỗi loài chúng sanh,
và sự phản ảnh ấy không trung thực (trường hợp của chúng sanh).
HỎI:
Như vậy có phải ngài Phổ Hiền Bồ Tát như là một biểu tượng cho tất cả?
ĐÁP:
Đúng vậy, ngài Phổ Hiền là biểu tượng của một vị sắp đến quả vị Diệu Giác.
Nhưng không phải chỉ biểu tượng “Symbolic,” mà ngài vẫn có thực, có thể hiện
thân độ sanh được.
HỎI:
Đây là chỉ nói đến các vị Bồ Tát, còn các vị A La Hán thì sao?
ĐÁP: Mức
độ A La Hán còn thấp hơn bình diện này rất xa, tâm thức của các ngài chỉ mới đi
được độ một phần ba đoạn đường, thành tựu quản không, chưa ra quản giả và đi
sâu vào trung đạo. Còn ở đây là bờ mé của sắc và không, tâm thức của các ngài
đã đi sâu vào trung đạo, là bờ mé để các vị sắp bước vào Nhập phảp giới trọn vẹn
rồi.
HỎI:
Trong kinh Pháp Hoa, cuối cùng cũng là ngài Phổ Hiền xuất hiện, kinh Hoa Nghiêm
cũng vậy? Đó là một sự tình cờ hay có một ý nghĩa nào khác?
ĐÁP:
Ngài Phổ Hiền tượng trưng cho cái diệu hạnh, phải làm tất cả những diệu hạnh ấy
một cách ba la mật để cuối cùng mới đến được Phật quả. Ngài Phổ Hiền cũng là một
vị Phật, nhưng ngài lại tượng trưng cho diệu hạnh, cũng như ngài Quán Thế Âm tượng
trưng cho Đại Bi. Nhưng cũng phải hiểu rằng, các ngài vừa tượng trưng cho một hạnh,
nguyện nào đó, vừa là Phật.
Khi
chúng ta xuống phố chơi, nhìn thấy mọi cảnh giới, nhà cửa, chùa chiền, phố xá,
người đi như mắc cửi v.v…, ta quán rằng, những thứ đó đều mọc trong tâm mình
ra, tâm ta ảnh ra pháp giới ấy. Đó là lối quán cao nhất trong đạo phật, có thể
gọi là quán như huyễn. Phải có một định lực cao mới có thể ngồi yên trong một
chốn lao xao, ồn ào mà thấy tất cả những thứ đó đều mọc từ trong tâm mình, lúc
đó chúng ta hơi nhập vào pháp giới một chút rồi, tức là thấy chúng sanh ngọ nguậy
trong tâm mình, biết rằng những thứ đó không thật có, đều chỉ là những ảo ảnh,
do từ nhân duyên nhiều kiếp kết tụ, đến kiếp này nở ra như vậy. Ngược lại,
chính chúng ta cũng ở trong tâm các chúng sanh ấy ra. Đó là sự trùng trùng ảnh
hiện của pháp giới này, vì không có một cái gì đơn thuần hay riêng tư độc lập,
mà tất cả đều trùng điệp thẩm thấu liên quan với nhau, nương vào nhau để hiện
lên mà thôi.
HỎI: Với
tâm quán chiếu ở mức độ bao la, đó có giống như bên Duy Thức nói đến chữ “Đại
viên cảnh trí” không?
ĐÁP:
Duy Thức là sự giải thích của con đường hiện tướng đi vào vọng, lại còn hơi chấp
có. Nhưng khi tâm thức lên đường TRỞ VÊ, lặn sâu vào Tàng thức, chuyển thành Bạch
tịnh thức.., thì vào cảnh giới của Hoa Nghiêm. Ngày xưa, sau thời ngài Long Thọ
khoảng hai trăm năm, trong đạo Phật có hai trào lưu: Một là Pháp tướng tông
(Duy Thức), chấp có. Hai là Bát Nhã tông, chấp không. Đệ tử của hai phái đó thường
cãi nhau kịch liệt, vì các vị đều chấp vào con đường của mình, đều có lý giải
riêng, bên nào cũng nghĩ mình là đúng, mà không hiểu rằng cả hai đều dung thông
nhau.
KINH:
Thiện Tài thấy vô lượng đại thần thông lực bất tư nghì của Phổ Hiền Bồ Tát như
vậy, liền được mười thứ trí ba la mật…
GIẢNG: Trong Hoa
Nghiêm nói rõ, Bồ Tát nếu không có thần thông thì không thể nào độ sanh, ở mức
độ thấp, Phật cấm thần thông, vì nếu phô trương thì chỉ làm tăng thêm ngã mạn.
Nhưng lên cao, bắt buộc phải có thần thông để độ sanh. Vì khi một vị Bồ Tát ngồi
thuyết pháp, nếu có một vài loại chúng sanh, như Ma Ba Tuần đến bảo rằng, ông
nói thì tôi thấy cũng hay đây, nhưng ông nói được mười phần thì tôi cũng có thể
nói được tám, chín phần, vậy ông phải hiện thần thông cho tôi xem tôi mới chịu
tin. Vị Bồ Tát này bắt buộc phải hiện thần thông, còn không hiện được thì chỉ
biết có lý mà chưa có sự. Trong các vị Tổ Thiền Tông bên Tây Trúc, các ngài hiện
thần thông rất nhiều, khi tịch diệt bao giờ cũng bay lên không cao bảy cây đa
la, thân chói sáng như mặt trời, trên tuôn lửa, dưới tuôn nước, để cho chúng
sanh ngắm, sau từ từ đáp xuống đất ngồi xếp bằng tròn mà thị tịch.
KINH:
Như là, trí ba la mật trong mỗi niệm đều có thể đi khắp tất cả cõi phật. Trí ba
la mật trong mỗi niệm đều có thể qua đến tất cả cõi Phật. Trí ba la mật trong mỗi
niệm đều có thể cúng dường tất cả Như Lai. Trí ba la mật trong mỗi niệm ở khắp
chỗ của tất cả Như Lai để nghe pháp và thọ trì. Trí ba la mật trong mỗi niệm tư
duy pháp luân của tất cả Như Lai. Trí ba la mật trong mỗi niệm biết sự đại thần
thông bất tư nghì của tất cả Phật. Trí ba la mật trong mỗi niệm nói một câu
pháp tột thuở vị lai biện tài vô tận. Trí ba la mật trong mỗi niệm dùng thân
bát nhã quán tất cả pháp. Trí ba la mật trong mỗi niệm nhập tất cả pháp giới
thiệt tướng hải. Trí ba la mật trong mỗi niệm biết tâm của tất cả chúng sinh.
v.v…
GIẢNG: Khi Bồ Tát
tu lên trên, độ cuối cùng là độ trí.
Tôi xin ngưng ỏ
đây, để dành một ít thì giờ trả lời câu hỏi của một vị Phật tử từ kỳ trước. Đây
là một câu hỏi rất hay, nên tôi muốn đem ra mổ xẻ xem quý vị nào có ý kiến gì
không.
HỎI:
Trong sách có kể lại chuyện ba anh em của ngài Thế Thân cùng tu, và cùng xin
nguyện được lên cõi trời Đâu Xuất sau khi mãn báo thân này. Và có hẹn nhau rằng,
ai chết trước sẽ về báo mộng cho những người còn ở lại. Sau đó,Ngài Sư Tử chết
trước, không thấy về báo mộng, vị thứ hai là ngài Vô Trước (hay Thế Thân gì đó
mà tôi không nhớ rõ), sau khi ngài chết xong khoảng ba năm sau mới về báo mộng.
Ngài kể rằng: “Tôi đã lên cung Đâu Suất vào trong Nội Điện, chỉ được nghe một
thời pháp rồi xuống đây ngay để báo mộng cho em, vậy mà thời gian dưới này đã
trôi qua ba năm trường. Tôi cũng có gặp anh Sư Tử vẫn còn lảng vảng ở Ngoại Viện
vì chỉ thích nghe Thiên nữ đàn hát chứ không vào nghe pháp.” Vậy câu hỏi được đặt
ra là, tại sao trên cung trời ngài Thế Thân chỉ kịp vào trong nội điện, nghe
pháp được một lúc thôi, thì xuống trần đã là ba năm. Vậy thì người trần thế
trong ba năm làm được rất nhiều việc, có thể lấy vợ, sinh con, đi học ra trường,
đi làm v.v…, vậy thì tại sao trên trời lại… kém thế? thời gian quá ngắn, chẳng
kịp làm được việc gì cả? chỉ nghe được một thời pháp mà thôi?
Quí vị nghĩ sao về
câu hỏi này? có ai có ý kiến gì không?
(Trong
đạo tràng xôn xao, mỗi người mỗi ý, có vị giải thích theo khoa học, có vị giải
thích theo tâm thức, có vị dựa trên Phật giáo để giải thích. Người đánh máy chỉ
lấy ra một vài ý kiến sát với đạo Phật nhất mà thôi.)
Ý kiến
của ông Mậu: Theo con mắt Phật giáo, tôi nghĩ rằng trên ấy thời gian và không
gian, có lẽ… không có nhiều, còn dưới này có thời gian và không gian, nên chúng
ta nghĩ rằng thời gian dài ngắn chứ thực ra… không có.
ĐÁP:
Câu trả lời của ông nói cũng hay đấy, nhưng trên trời vẫn có không gian và thời
gian, vì ở mức độ các tầng trời nó chưa được hóa giải, song thời gian và không
gian hơi có khác, vì trên đó nó đã thăng hoa nhiều rồi.
Ý kiến
của anh Xứng: Trên cõi trời, mạng sống chư Thiên rất dài, vì trong kinh nói, ở
tầng trời Tứ Thiên Vương (tức là ở dưới cung trời Đao Lợi), một ngày một dêm bằng
năm mươi năm ở cõi trần gian này, và thọ mạng của các vị trên đó là năm trăm
năm. Nếu làm một con tính thì so với thời gian ở nhân thế chắc khoảng nhiều triệu
năm, nên họ cũng vẫn làm rất nhiều việc, thọ mạng chúng ta chỉ có khoảng bảy
mươi đến tám mươi năm mà thôi, thì ăn thấm gì với cái nhiều trên trời?
ĐÁP:
Ha… ha…, anh trả lời hơi… lệch qua một bên rồi, vì anh không giải đáp đúng vào
câu của người hỏi. Người hỏi có ý chê các vị trên trời, vì chỉ cần cùng một khoảng
thời gian như thế, mà dưới nhân gian chúng ta làm được rất nhiều chuyện, mà
trên trời chỉ có kịp nghe một thời pháp thôi. Nên tôi nghĩ, chắc ông Minh Đạo,
người đặt câu hỏi, chưa lấy làm thỏa mân lắm đâu.
Ý kiến
của cháu Toàn: Theo cháu, cháu chỉ muốn đưa ra một thí dụ nhỏ để quí bác nghĩ
xem có đúng không? Dụ như có hai anh học trò vào lớp học, chỉ ngồi trong lớp
khoảng một tiếng thôi, một anh thì ngồi mơ mộng chỉ nghĩ ngợi lung tung nên chỉ
cần trong một tiếng đồng hồ anh có thể vẽ mộng rất nhiều chuyện, nhưng không có
chuyện nào ra chuyện nào cả. Ngược lại, anh học trò kia, cũng thời gian là một
tiếng, chỉ lo chăm chú làm bài thi. Vậy thì quan niệm thời gian đối VỚI anh học
trò ngồi vẽ mộng rất dài, ngồi mãi mà giờ học không tan, còn đối với anh học
trò kia, vì làm bài chăm chú nên một tiếng trôi qua đối với anh ta trôi qua rất
nhanh. Nên quan niệm thời gian chỉ khác biệt theo cái nhìn của mỗi người. Cũng
vậy, người nhân thế chỉ lo làm những chuyện… tùm lum, không có chuyện nào ra
chuyện nào nên thấy dài, nhưng người trên trời lo thiền định thì lại thấy thời
gian rất ngắn.
ĐÁP:
Theo ý tôi, chú nhỏ này nói có lẽ đúng nhiều nhất, nhưng chưa diễn tả được rõ ý
chính.
Ý kiến
của ông Tâm: vấn đề thời gian ở đây chỉ là thời gian vọng tưởng, nên chúng ta
chấp có thời gian có dài, có ngắn, nhưng thật ra thời gian không phải như vậy.
Nên khi so sánh thời gian thì ta cứ tưởng ta làm được nhiều việc, nhưng rốt cục
chẳng làm ra việc gì chính đáng cả, chỉ ăn với ngủ thôi.
ĐÁP:
Ông Minh Đạo (người đã đặt câu hỏi) nghĩ sao về những câu trả lời của các vị
trong ban kinh? Ông có thỏa mãn về những sự trả lời nào không?
Minh Đạo:
Từ nãy giờ, những câu trả lời không giải thích được thỏa đáng hẳn vào câu hỏi của
tôi. Vì sao? Vì nếu theo như cháu Toàn nói, vấn đề thời gian chỉ là của tâm lý mỗi cá nhân thôi,
vì cùng một giờ, mà tâm lý của mỗi cậu học trò khác nhau. Câu trả lời này, nếu
suy tư sâu xa, thì vẫn… chưa thấy ổn, vì sao thế? Vì cũng cùng một thời gian, ở
nhân thế là ba năm, ở trên cung trời Đâu Suất chỉ ngắn bằng một thời kinh, vậy
tại sao trên trời làm cái gì mà chậm thế? trong khi người nhân gian đã làm được
bao nhiêu chuyện to lớn rồi.
Ý kiến
của Anh Khiêm: Theo tôi nghĩ, nếu đem so sánh loài người chúng ta với các vị
trên trời chỉ giống như những lũ côn trùng so sánh với chúng ta vậy. Như con
phù du chẳng hạn, chỉ cần một ngày là đã xong một đời của nó. Nếu nhìn theo thời
gian vật lý thì như nhau, một ngày của chúng ta, bằng một kiếp của con phù du,
nhưng đứng trên tâm thức thì có khác biệt. Nên tuy chúng ta gọi là làm được nhiều
việc thật, nhưng tâm thức chúng ta chẳng biết gì, còn một bài pháp mà ngài Thế
Thân nghe được trên cung trời, tôi nghĩ (hơi ngập ngừng vì không chắc ý) nó…
nó… vi diệu…, thâm sâu nhiều…
ĐÁP:
So với con giun, con dế, một kiếp của nó chỉ kéo dài độ vài ngày, sinh con đẻ
cái, rồi chết. Trong khi con người, khoảng thời gian vài ngày chẳng làm được gì
cả? như vậy chẳng nhẽ con giun (trùng) hơn người chăng? Ha… ha…, nực cười thay
cho cái vòng luẩn quẩn của pháp giới này. Thử tượng tượng, một đám giun, dế họp
nhau lại,( như chúng ta họp ở đây), vỗ ngực vênh vang cho rằng, loài trùng chúng
tôi còn hơn loài người các ông xa, vì chúng tôi đây, làm được lắm chuyện hơn
các ông nhiều lắm, ha… ha…
…(Cả
pháp hội cười ồ!)…
Nay, tôi xin trả lời
câu hỏi của ông Minh Đạo…
Theo như nhận xét
của tôi về những câu trả lời của các vị trong ban kinh, tôi thấy câu trả lời của
cháu Toàn, ông Tâm và anh Khiêm có nhẽ gần đúng hơn cả. Vì vấn đề là chúng ta
phải phân tích những sự việc, và thế nào là việc? Theo trong kinh vẫn thường dạy,
trên trời ít việc, vui nhiều, khổ ít, duyên lự ít, (duyên lự là lo nghĩ
tùy theo nghiệp duyên), định lự nhiều, (tư lự trong những cơn
định). Còn thế gian thì vui ít, khổ nhiều, duyên lự rất nhiều, lo lắng
nhiều quá, gần như bị nghiệp lực hoàn toàn chi phối, tức là lúc nào cũng phải
lo nghĩ về việc phải làm. Nói một cách khác, “việc” là gì, đều chính do duyên lự
mà ra, phải nghĩ cái này, cái khác, và làm chuyện này, chuyên nọ. Thử nghĩ kỹ,
con người rất nhiều việc, riêng chỉ nói đến thân này thôi cũng đủ kéo ra biết
bao nhiêu việc, như ta phải lo cầy cấy, canh tác, trồng trọt, trồng dâu nuôi tằm,
dệt vải, xây cất v.v… tất cả những việc đó để lo cho con người có một đời sống
tương đối dễ thở, rồi sau đó lại phải nấu cơm, rửa bát v.v…, lớn lên lấy vợ, rồi
sinh con. Mà chuyện tình dục của con người rất… phiền toái, chỉ cần cao hứng một
chút là ra một đứa con,rồi phải nuôi, phải dạy dỗ, đau khổ, hay sung sướng vì
nó v.v… cứ thế, chuyện này tiếp nối chuyện khác không lúc nào ngơi nghỉ. Ngay cả
đến sự giải trí của chúng la cũng phải làm đủ mọi chuyện, từ những đồ chơi giải
trí phải mất công chế tạo, sau đó cũng phải đến chỗ giải trí, như nghe nhạc, nhảy
nhót, đánh bạc, uống rượu v.v… chỉ có một thú giải trí ít tốn tiền và công nhất
là thú đọc sách thôi. Rồi đến khi chết thì đầy sự sợ hãi, có khi bệnh tật kéo
dài nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Tóm lại, chúng ta Rất-nhiều-việc, và
việc của chúng ta là do cái xác thân này, còn duyên lự nhiều, vì hay so đo, chấp
chước nhiều nên thành những việc như thế. Và phải hiểu việc của người và việc của
trời khác nhau thế nào, đằng nào tiến bước nhanh hơn. Ngược lại, trên trời vui
nhiều, khổ ít, không bao giờ phải lao tác mới có cơm ăn, áo mặc, các vị chư
Thiên không cần phải dệt vải để có áo mặc, không cần cầy cấy để có cơm ăn, thức
ăn cứ hiện ra thôi, ăn xong lại biến đi, mà trên đó lại có những thứ cây mọc ra
những loại áo rất đẹp, các chư thiên cứ lấy những áo đó khoác lên người, cung
điện cũng không phải xây cất, sanh ra đã có cũng điện sẵn rồi, khi nghe Phật
nói pháp cũng có thể mang luôn cả cung điện đi theo, (vì nó dính vào
người), suốt ngày chỉ rong chơi trong vườn Hoan Hỉ, chỉ nghe những
thiên nữ múa hát và những cây phát ra tiếng âm nhạc, ngay chuyện tình ái của họ
cũng rất nhẹ nhàng, Thiên Tử và Thiên Nữ chỉ nhìn nhau mỉm cười, không có sự
chung đụng gối chăn, tinh huyết, thì người nữ sẽ thọ thai ngay, cái thai là một
cục bứu mọc trên đầu gối hay ở nách, cái thai ấy rơi xuống thành thiên tử,
không cần phải nuôi nấng gì mà cứ theo thời gian lớn lên thôi, chỉ ăn những thức
ăn trên trời tự nhiên hiện đến, thỉnh thoảng lại đi vào Thiện Pháp Đường, nghe
vua Đế Thích nói pháp về thập thiện, hay vào cung Đâu Suất nghe ngài Di Lặc nói
về Bát Nhã và giảng duy thức. Nhưng chỉ nghe một thời thôi các vị có thể đắc đạo
được ngay, trong khi dưới nhân gian chúng ta cả nghìn bài pháp, hay vài vạn bài
pháp mà chưa thấy đắc được gì cả.
Tóm lại, nhân gian
chúng ta quá dở, tâm quá sức cạn cợt, khổ lụy nhiều, chỉ để cho nghiệp lực tự
do tung hoành, nên chúng ta có đủ các thứ duyên lự đưa đến đủ các việc lăng
nhăng, nhưng không việc nào có thể đưa chúng ta đi lên cả.
Vì vậy, nên dưới
nhân thế trong ba năm, ta có thể đọc ba trăm cuốn sách, nhưng tâm thức chẳng tiến
được mấy tí, ngược lại, càng ngày càng đi vào vọng, càng ngày càng duyên lự nhiều,
càng phiền lụy nhiều. Nhưng các vị chư Thiên chỉ cần nghe một câu pháp, có thể
đi vào bình diện tâm thức sâu hơn, và có thể tiến tu được. Nên mỗi nơi có những
sự việc của nó, và những cái vui hay khổ lụy của riêng nó.
Tôi giải như thế
không biết ông có thỏa mãn được chút nào chăng?
Minh Đạo:
Trước khi đặt câu hỏi, tôi có dẫn chứng một đoạn kinh trong Pháp Hoa, sau khi đức
Phật giảng kinh”Vô Lượng Nghĩa xứ,”ngài nhập vô lượng xứ định để biến tâm thức
của chúng hội thấy được tất cả những sự thành, tựu, hoại, không của pháp giới,
trùng trùng bao nhiêu cõi biến hóa, mà tất cả chúng hội đều thấy rõ. Nếu so với
thời gian của nhân gian để nhìn thấy những dữ kiện ấy phải mất một khoảng thời
gian dài hằng hà sa số kiếp, vậy mà ngài chỉ thu lại bằng thời gian uống xong một
chung trà.
ĐÁP:
Trong trường hợp này lại khác, vì có thần lực của Phật gia trì, nên thời gian
kéo dài hay ngắn vô ngại, tùy tâm ngài khởi lên thế nào chúng hội sẽ thấy như vậy.
Vì thời gian và không gian đối với ngài đã được hóa giải, ngài có thể nhìn thấy
ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) hiện tiền trước mắt, mà thần lực của các
ngài thì vô cùng, ngài có thể gia trì cho một người, nhiều người, một cõi, nhiều
cõi, nhẫn đến hằng hà sa số cõi nhìn thấy không biết bao nhiêu biến chuyển mà
những người được Phật gia trì cho thấy chỉ có cảm giác trải qua một thời gian rất
ngắn. Nhưng ở đây, câu trả lời chỉ nói theo nghiệp riêng của mỗi loài chúng
sanh có mỗi khác, vì tâm thức bất đồng, nên thời gian có mau, có chậm mà thôi.
Cũng vậy, như một con giun (trùng) không thể vênh vang chê loài người làm ít việc,
vì những việc của con giun làm không phải là “việc,” vì mức độ tâm thức của nó
quá thấp, chỉ đi qua một chu kỳ sinh lý thế thôi, mà không có một chu kỳ tâm thức
vi diệu. Và những việc của loài người, con trùng không thể làm được, nên nó
không thể vênh vang vỗ ngực nói hơn người. Cũng vậy, chúng ta cũng không thể tự
cho là hơn các vị chư Thiên cõi trời, vì những việc của chúng ta còn ở trong một
mức độ tâm thức thấp và còn rất thô kệch, chỉ có ăn, uống, ngủ nghỉ và đắm nhiễm
trong dục lạc… Còn người có một tâm thức cao hơn một chút thì cũng biết đọc
sách, nếu chỉ là những sách lăng nhăng của thế gian thì tâm thức càng ngày càng
đục ngầu, làm con đường vọng để cho chúng ta đi xuống, trôi lăn mãi. Trong khi
các vị chư Thiên chỉ nghe một thời pháp tâm thức họ có thể thăng hoa. Nên chúng
ta phải biết nhìn những cứu cảnh kết quả của sự làm việc hơn là so sánh nhiều
hay ít, nói cách khác, ta phải nhìn cái phẩm nhiều hơn cái lượng.
HỎI: Vậy
tại sao bên tiểu thừa khi một vị Tư Đà Hoàn chết đi còn phải trở lại cõi này bảy
lần? Nếu mức độ tâm thức đã đạt đến bực thánh như thế thì còn phải trở lại làm
chi?
ĐÁP:
Đúng, trong kinh có nói các vị Tư Đà Hoàn (nhập lưu, tức là được nhập vào hàng
thánh), còn trở lại dục giới bảy lần, nhưng trong dục giới có cả tầng trời chư
Thiên luôn chứ không phải chỉ có trần gian này. Còn vị Tu Đà hàm chỉ phải trở lại
một lần thôi.
Con
người là ở một mức độ cùng cực (situation limite), nghĩa là nó ở mức độ đi xuống
rất dễ, mà đi lên cũng được, và cũng là một chỗ giằng co giữa thiện và ác, giữa tịnh và uế, giữa thăng
hoa và chìm nổi, giữa đời và đạo v.v… tâm thức con người tương đối cao, đồng thời
phiền lụy cũng rất ghê gớm, nó là một chiến trường khốc liệt nhất, làm cho
chúng ta đọa cũng dễ, hay thăng hoa đi lên cũng được. Bởi vậy nên con giun
(trùng) không thể so sánh với loài người được vì nó chưa lên đến mức độ tâm thức
cao như người. Còn nói đến các vị chư Thiên đã đi qua cái cửa ải khó nhất là cửa
ải loài người rồi, đã đi lên được ít nhiều, tâm thức nhẹ nhàng thanh tịnh hơn
nên dễ chuyển hóa hơn.
HỎI:
Trong kinh có danh từ “sát na” đó là dựa trên cái sát na thời gian ở đâu? trên
trời hay cõi nhân gian này?
ĐÁP: Ở
mỗi nơi, có thời gian và sát na riêng của nó. Như dưới nhân gian, trên trời,
loài côn trùng, một hệ thống thái dương hệ, hay bên cõi Cực Lạc v.v… mỗi một
nơi có một thời gian riêng và sát na của nó, mà cái sát na là chỉ một thời gian
ngắn nhất của mỗi cõi. Nhưng đều tùy theo tâm thức và nghiệp lực của chúng sinh
mà thời gian dài hay ngắn, nên không thể nói sát na ở mọi chỗ đều giống nhau.
Ngày 9 tháng 6 năm 1991
Hôm nay là buổi
thuyết giảng thứ một trăm hai mươi chín về kinh Hoa Nghiêm và đồng thời cũng là
buổi thuyết giảng thứ mười sáu về Đại Bát Nhã tại chùa này.
Trong ban Kinh Hoa
Nghiêm chúng ta từ năm, sáu năm nay, đã có một số người lần lượt ra đi. Bắt đầu
là cụ Giáo Anh, sau đến bà Bách, mới đây là con của anh Đạo, tuy rằng người con
anh này còn rất trẻ. Tôi chắc rằng, trong ban kinh này, những vị lớn tuổi, đôi
khi cũng cảm thấy thấp thỏm về chuyện ra đi ấy, nghĩ rằng mình sắp sửa phải qua
một cái cầu khỉ trơn như mỡ rất khó đi qua. Nhưng riêng tôi, tôi nghĩ rằng, người
tu hành giữ giới thi-la, không trọng thân mạng vì thường dùng con mắt ảo để
quán sát thân mình. Lại nữa, trong kinh có nhắc, những người tu hành theo lối
quán như huyễn, lên đến mức độ cao thì ngay tụi quỷ đi kiếm mình cũng không thể
thấy được. Vì vậy, y cứ vào hai lời kinh trên, tôi mong quí vị nên tập quán huyễn,
vì thực đúng như vậy.
Khi chúng ta còn
bám vào kinh, còn tụng kinh đều, còn tin vào kinh, đôi khi quán huyễn, tôi chắc
rằng mọi sự đến với chúng ta đều nhẹ nhàng và an lạc, ngay cả cái chết có đến
cũng không làm gì được chúng ta cả, cùng lắm là chỉ mất đi cái thân căn này,
nhưng giới căn huệ mạng không bao giờ mất.
Nên tôi thường nhấn
mạnh và nhắc đi nhắc lại nhiều lần về sự “khởi vọng,” về chữ
“vô minh bất giác.” Chắc quí vị đã nghe nhiều nhưng có thể
chưa lý hội được rõ. Vậy thì thế nào là Vô minh bất giác? Vô minh bất
giác là hôi nhiên quên rằng chính mình và pháp giới này, tất cả chúng
sanh, núi non, cây cỏ, trăng sao v.v… đều từ biển diệu tâm ấy hiện ra, không có
một cái gì có thực, nhưng hốt nhiên., bất giác, tương tự như trong biển lớn ấy (diệu
tâm) có một đợt sóng khởi lên, tự tách ra ngoài, rồi quay đầu nhìn lại
biển tâm ấy. Vì vậy tôi hay nhấn mạnh đến tác động soi gương của Diễn Nhã Đạt
Đa trong kinh Lăng Nghiêm, bỗng nhiên tự soi gương vào chính cái tâm mình, và
trong tác động soi gương ấy, làm lóe lên tất cả những mê vọng. Mê vọng thứ nhất
là y báo bên ngoài (tất cả cảnh vật bên ngoài), cứ tưởng là có
thực, và tồn tại độc lập với tâm mình. Mê vọng thứ hai chính là thân căn này lại
tưởng là có thực, vì quay lại tự chiếu soi nên lóe tất cả những mê đồ ảo vọng,
vì tâm ánh ra tất cả những mê vọng ấy và chúng sanh cứ tưởng là thực. Nhưng
trong đạo Phật rất kỵ sự quay lại chiếu soi ấy, như trong kinh Đại Thừa Trang
Nghiêm Bảo Vương, có kể một câu chuyện “không quay đầu lại” rằng:
Có năm trăm người lái buôn ra biển tìm châu báu, giữa đường gặp bọn quỷ La Sát
hóa làm những gái đẹp, đem tất cả về chia nhau để làm chồng. Một hôm vị chủ
thuyền được một quỷ La Sát (không biết vì duyên cớ gì) hồi
tâm, mách anh rằng, đây là hòn đảo của quỷ La Sát ở, không tin, chàng hãy qua bờ
biển bên phía Nam sẽ thấy một chỗ chất toàn xương người. Quả nhiên, khi vị
thương chủ đi về phía ấy thấy núi xương người thật. Lúc đó, có Đức Quán Thế Âm
hóa làm con thần mã ở bờ biển, mách rằng, ngày mai, ngươi hãy gọi tất cả những
người muốn về cố quốc tới đây, ta sẽ đưa các ông về, nhưng với một điều kiện là
không được quay đầu nhìn trở lại… Hôm sau, năm trăm người thương chủ ra biển
theo ngài Quán Thế Âm, (lúc bấy giờ là Thần Mã), khi thần mã sắp
cất cánh bay, tụi quỷ La Sát hiện hình những cô gái đẹp, kêu la thảm thiết, kể
lể bao chuyện mặn nòng thắm thiết với nhau, những người quay đầu lại đều bị rớt
xuống biển, lúc bây giờ tụi quỷ vớt lên ăn thịt hết. Sự “quay đầu lại” có
nghĩa là nhớ tưởng, khi tụi quỷ kêu thì các thương chủ liền nhớ lại những kỷ niệm
cũ, nhớ những phút ái ân hay những thú vui dục lạc, thì lập tức lòng chao động,
vì vậy nên bị rớt trở lại, vì vậy mới bị quỷ ăn thịt hết.
Trong đạo Phật rất
kỵ chuyện quay đầu trở lại, vì khi chúng ta nhìn về quá khứ nhiều quá, nhớ tưởng
lung tung, như những người tỵ nạn chúng ta, cứ hay quay trở về quá khứ, nhớ tưởng
Sàigòn. Đừng có tưởng quê hương thật của chúng ta là Việt Nam đâu, vì chúng ta
đã trải qua rất nhiều kiếp, đi lang thang qua nhiều cõi, nên không có nơi nào
nhất thiết là quê hương của mình cả. Đó chỉ là những nơi mỏi gối chồn chân,
khách tha hương dừng lại trên con đường giang hồ mải chơi, mà quê hương thật của
chúng ta chính là Cực Lạc, là cái Tâm của chính mình, vì nơi nào có nhiều thần
thông nhất, thì nơi đó là quê hương của mình, còn nơi nào nhiều đau khổ, nhiều
kỷ niệm vớ vẩn nhất chỉ là nơi sau này chúng ta sẽ về để độ sanh thôi. Nên
trong đạo Phật có kinh “người biết sống một mình”, có nghĩa là
họ không nhớ tưởng đến quá khứ, không dự tưởng đến tương lai, mà chỉ sống trong
hiện tại với tâm không chao động. Trong kinh Đại Bát Nhã cũng dạy như thế, dạy
rằng, đừng nhớ tưởng phân biệt. Nhớ là nhớ đến quá khứ, tưởng là vọng tưởng đến
cái vị lai, phân biệt là phân biệt các pháp này với pháp khác, nên bị dính vào
những pháp ấy, mà phải chịu những khổ lụy triền miên.
Một ngày nào đó,
khi lâm chung, thần thức chúng ta lìa khỏi xác, lúc đó rất dễ rơi vào sự hoang
mang tiếc nuối, nhớ tưởng kinh khủng, nhớ chồng, nhớ vợ, nhớ những đứa con, những
kỷ niệm, và nhất là nhớ tiếc cái thân mình vừa rời bỏ v.v… thì dễ bị đọa lắm.
Như có một câu chuyện có một vị thương gia giàu có, nhưng tính tình rất hà tiện,
có một hũ vàng dấu dưới gậm giường, đến khi mạng chung, nhưng không nỡ rời hũ
vàng của mình, vì tâm còn tiếc nuối quá, nên quay lại, muốn đầu thai để có một
cái thân, nhưng trong nhà không có ai thụ thai cả, chỉ có một con chó cái đang
có chửa, nên thần thức ông ta chui ngay vào đấy, làm thân chó, cả ngày nằm
trong gậm gường canh giữ hũ vàng ấy. Một hôm đức Phật đến, con chó cứ đứng
trong nhà sủa ra mãi, đức Phật mới nói rõ tiền thân của nó như thế, mọi người
trong nhà mới biết đó là bố mình, vì tiếc của mà phải bị làm thân chó. Nên việc “quay
đầu lại” rất nguy hiểm, nhưng không có nghĩa rằng ta cứ lùi lũi mà đi
một cách vô ơn, bạc nghĩa, ngược lại ta vẫn nhớ đến những ơn ấy, nếu có dịp sẽ
trả ơn nhưng không bị đắm nhiễm trong ấy.
Một câu chuyện thần
thoại thứ hai là chuyện con rắn, mình rất dài, nếu nó chỉ ngang nhiên đi một
cách ung dung không nhớ tưởng thì không sao, nhưng hốt nhiên một ngày nào đó,
nó bỗng quay đầu lại, nhìn thấy thân mình dài quá, tít cùng lại có cái đuôi
ngoe nguẩy. Lúc đó, hốt nhiên khởi vọng, nghĩ rằng cái đuôi ấy không phải là
mình, rồi từ đó Minh đầy những vọng. Cũng như phàm phu chúng ta sống trong pháp
giới này, cứ nghĩ rằng pháp giới này không phải của mình, mà chấp nó là một cái
gì riêng biệt với mình, nhưng trong kinh nói rõ, nó chính là tướng phần, từ
tàng thức ánh ra pháp giới này, còn kiến phần thì hiện ra thân căn chúng ta.
Chúng ta chính là diệu tâm, tự tách ra khỏi sự nhất như ấy, rồi quay lại nhìn,
nên rơi vào sự phân đối.
Lần trước, tôi đã
giảng một phần về điều này, hôm nay tôi muốn đọc cho quí vị nghe một khúc kệ ngắn
trong kinh Lăng Già nói y như vậy, nghĩa là nói đến sự “soi gương.” Kinh
Lăng Già là một bộ kinh rất khó hiểu, danh từ rất cô đọng, vì Phật nói cho các
vị Bồ Tát nghe nên chúng ta đọc chỉ mong hiểu được một phần nào.
KINH: Khi ấy, Phật trùng tuyên nghĩa ấy
nên nói bài kệ sau đây:
Huyễn mộng nước bóng cây.
Tóc xõa và hơi nóng.
GIẢNG: Huyễn mộng
tức là cảnh huyễn, cảnh nào cũng là mộng. Như vừa rồi quí vị tụng một đoạn kinh
Bát Nhã nói rằng, thấy các pháp đó đều như huyễn, nghe các âm thanh như trong mộng.
Nên tôi vẫn nói, khi sống trong đời này, thỉnh thoảng ta giật mình ý thức thấy
rằng tất cả các pháp đều như mộng ảo, thì đó là những giây phút có thể cứu giúp
quí vị rất nhiều, vì nó sẽ giảm bớt đi những đắm say và sa ngã.
“Huyễn
mộng nước bóng cây…” cảnh
giới bên ngoài là huyễn, vì tất cả chỉ là ảnh tượng, là mộng huyễn như “nước
bóng cây…” ví như cây bên bờ sông chiếu xuống nước, thì cảnh giới
chúng ta nhìn thấy cũng y như thế, chỉ là bóng cây dưới nước thôi, không thật
có.
KINH: Tóc xõa và hơi nóng…
GIẢNG: Trong kinh
Lăng Nghiêm có nói một ví dụ như một người bị bệnh đau mắt, nhìn bóng đèn thấy
hoa bóng đèn lòe chung quanh nó, còn người mắt sáng thì không thấy. Chúng sanh
mê cũng tương tự như người bị bệnh đau mắt trông thấy hoa đèn như hoa đốm giữa
hư không. Còn ở đây, ví như “tóc xõa,” tức là cảnh giới giống
như một hình ảnh tóc xõa hiện ra trước mắt, chỉ là một ảnh tượng mà thôi.
Còn “hơi nóng” là khi quí vị đi trên sông vào những buổi trưa
nắng gắt, hơi nóng bốc lên tạo lên nhiều ảnh tượng trên sông, nhưng thực ra thì
không có gì cả.
KINH:
Quán ba cõi như vậy.
Rốt ráo được giải thoát.
GIẢNG: Nếu chúng
ta hay nhớ những thí dụ ấy và quán như huyễn nhiều, thì như tôi vừa nói, ngay
loài quỉ đến muốn bắt cũng không thể thấy. Và quán như vậy là lối quán cao siêu
nhất, nó là trung đạo song chiếu, vừa là giả vừa là không. Ngoài ra, tất cả những
quán khác như quán hơi thở, các ấm, hay quán nhân duyên đều ở mức độ thấp hơn,
vì sao? Vì những thứ quán ấy vẫn còn chấp có trong, có ngoài, vẫn có tự, có
tha, còn vấp trong vòng nhị biên nên không được gọi là “rốt ráo.”
Trong Bát Nhã, ta
thấy có mấy tầng lớp quán chiếu, đầu tiên là quán vô thường, sau quán nhân
duyên, cuối cùng mới đến quán như huyễn, quán như huyễn là lối quán cao nhất,
nhiều công đức nhất.
KINH:
Ví như nai khát nước.
Tâm mê hoặc động chuyển.
GIẢNG: Ví như con
nai khát nước trong rừng sâu không kiếm được nước, bị cái khát rày vò giữa dòng
sống sinh tử, và cái khát nước của nó giống như sự ái dục của chúng sanh đi
trong đêm tối ái dục ấy, lúc nào cũng khao khát mọi thứ, như khát tiền, sắc đẹp,
vinh hoa, tương tự như con nai khát nước vậy. Vì vậy, tâm mê ái dục ấy, nên bị
mê loạn, động chuyển.
KINH:
Tưởng bóng nắng là nước.
Mà thực không có nước.
GIẢNG: Nai chạy
lâu quá khát nên nhìn đằng xa thấy bóng nắng rung rinh nên nhìn ánh lên tưởng
như có nước, kỳ thật chỉ là bóng nắng thôi. Chúng ta đi trên đường giữa trưa trời
nắng cũng thế, nhìn xuống mặt đường phía xa, thấy óng ánh như ướt nước, nhưng kỳ
thực không phải. Chúng ta tâm ái dục mong cầu nhiều, nhìn cái gì cũng lệch lạc
duyên theo tâm ái dục của mình. Nên Phật dạy, tất cả cảnh giới chúng ta thấy
chung quanh, như người, đồ vật, nhà cửa, cây rừng v.v… đều là những ảo ảnh nước
thôi, không thật có, muốn nắm bắt cũng chỉ như nắm bắt hoa đốm giữa hư không.
Mà chúng ta bị đọa làm thân người, súc sanh, ngạ quỉ v.v. đều chỉ vì trong vô
lượng kiếp, không bao giờ chúng ta chịu nhìn vào tâm, mà chỉ nhìn vào vật bên
ngoài, chỉ dùng tâm để hướng ngoại, như nhìn con cái, nhìn vợ, nhà cửa, của cải,
tiền bạc v.v.. mà không bao giờ quay đầu lại nhìn vào tâm cả. Nên thỉnh thoảng
chúng ta nên tập dừng chân lại, không chạy theo vật nữa mà nên nhìn vào tâm
mình, nhìn lâu thì thấy rằng tất cả những vật ngoài kia đều là ảo ảnh nước trên
đường, như hoa đốm giữa hư không, vì đến khi lâm chung, chúng ta không mang
theo được bất cứ một thứ gì, từ vợ,chồng, con cái tiền bạc, của cải, xe cộ v.v…
ngoại trừ cái nghiệp mình đã tạo và phước báo mình đã tu. Ngay đến khi già chết,
chúng ta cũng không thể nhờ được con cháu một điều gì mà có thể đem đến một niềm
an lạc, vì chính chúng nó cũng chỉ là những sản phẩm của cơn mê sảng thôi. Nên
khi chết, hành trang của ta chính là những nghiệp báo ta đã tạo, lúc đó không
thể “hối lộ” được với quỉ thần, vì luật tắc trong giới u
minh rất nghiêm ngặt.
KINH:
Tưởng bóng nắng là nước.
Mà thật không có nước.
Thức chủng tử cũng thế…
GIẢNG: “Thức
chủng tử”, ý ngài muốn nói rằng, tàng thức ta có những chủng tử đó khi
đến thời cơ chín mùi, nó sẽ nở ra và ánh ra ngoài thành những y báo như thế, chứ
không phải thực có, chỉ do đủ duyên thì tâm nở ra thế thôi. Nhìn cảnh giới bên
ngoài lay chuyển, hiện đủ thứ này nọ, động chuyển, thay đổi, có thời gian,
không gian, chính chỉ là từ do tâm “động” ánh ra, do những chủng tử hiện hành
mà ra. Đó là “Thánh ngôn lượng” lời của bậc Đại Giác nói, vì
các ngài đã đi qua những cảnh giới của chúng ta nhiều lắm rồi, các ngài đã vào
đến tàng thức, đến những bình diện rất sâu, nên các ngài thấy rất rõ,rồi nói lại
cho ta biết như vậy.
KINH:
Thức chủng tử cũng thế.
“Động” tâm chuyển thấy cảnh.
GIẢNG: Vì vậy, những
gì tôi giảng ở đạo tràng này không phải tôi nghĩ ra đâu, mà chính là trong kinh
nói như thế, tôi chỉ là người nói lại cho quí vị nghe,còn tin hay không là tùy ở
quí vị. Tin thì tâm thức chúng ta còn có cơ hội tiến lên, không tin thì chỉ cô
phụ chính mình thôi.
Tất cả những sự vật
chúng ta cùng người khác trông thấy, như cây cỏ, núi non, (nhưng không
trông thấy được quỉ), là do tâm ta động nên thấy thế thôi, nếu khi có
những chủng tử nở khác, như ta có những chủng tử thấy quỉ thì nó sẽ nở ra, lúc
bấy giờ ở ngoài sẽ có quỉ hiện đến. Nên hai câu kệ trên đây, tôi cho là rất quan
trọng, nói lên cái cơ cấu căn bản của pháp giới này. “Thức chủng tử
cũng thế. Động tâm chuyển thấy cảnh”. Ngoài kia, ngay cả không gian và
thời gian cũng không có, vì tâm động nên tạo nên không gian và thời gian. Ngoài
kia không có cảnh, chỉ vì diệu tâm ấy rất mầu nhiệm, nên khi ta quay đầu nhìn lại,
thì lóe ra tất cả cảnh giới bên ngoài. Hoài bão của chư Phật chỉ muốn dạy chúng
la có thế này thôi, tất cả kinh Lăng Già chỉ thu tóm trong hai câu này. Vì vậy,
ngày xưa, có ngài Tăng Triệu làm một bộ luận nhỏ, nhưng rất nổi tiếng gọi
là “Vật bất thiên luận.” Vật bất thiên là vật không rời đổi,
không thay đổi. Ý ngài nói rằng, vật không hề thay đổi, như thân căn chúng ta
đây, cây cỏ kia, núi sông kia, không hề lớn, già, chết v.v.. mà chính vì cái
tâm ta chuyển nên ta mới thấy thế. Vì vậy kẻ nào chấp nhận và hiểu ý nghĩa sâu
xa nhiệm mầu ấy, mà trong vòng nhiều năm suy tư mà thấy thấm được những lời
kinh, tôi tin chắc chư Phật phải duỗi tay cứu độ kẻ ấy.
KINH:
Người ngu sanh vọng tưởng.
Như mắt bị bệnh lòa.
Từ đời vô thủy lại.
Nhiếp thọ sanh chấp đắm.
GIẢNG: Chúng sanh
bị bệnh lòa mắt, bị ái dục làm lòa, chấp vào thân, chấp vào cảnh, quên rằng ta
và pháp giới chính là một. Quên mất đi sự nhất như uyên nguyên, tự tách ra để
chấp mình là khác với pháp giới này, rồi nhìn thấy pháp giới với muôn vàn hình
tướng sai biệt, nên suốt ngày chạy theo những vật, không lúc nào ngơi nghỉ, rồi
tham đắm vào đây. Tham từ những miếng thịt, ly rượu, áo đẹp, danh vọng, tham
luyến người nữ kia, người nam nọ v.v… mà không bao giờ biết tham cái tâm cả, vì
thế chúng sanh bị đầy đọa, trôi nổi trong sáu nẻo luân hồi mà không thể ra khỏi
vòng xích sắt ấy. Vì vậy kinh mới nói “nhiếp thọ sanh chấp đắm” vì
nhiếp thọ cảnh giới ấy, vì không hiểu cảnh là huyễn, trông thấy một cái xe hơi
đẹp đâm đắm nhiễm mê say, khởi tâm muốn chiếm hữu cho được, dù phải đi vay nợ,
hay tệ hơn nữa là đi lường gạt người để chiếm hữu cho bằng được. Tôi nhớ hồi
còn trẻ, lúc khoảng độ hai mươi tuổi, trông một bộ quần áo đẹp mê không thể nói
được, suốt đêm nghĩ cách làm thế nào có tiền để mua bộ quần áo, nhưng nếu lúc
đó mà chợt nhớ được cái tâm mình, thì có lẽ chúng ta không còn bị cái đắm nhiễm
vọng tưởng đó điều khiển nữa.
KINH:
Ngôn giáo chỉ giả danh.
Nó cũng không có tướng.
GIẢNG: Trong Bát
Nhã luôn luôn nói tất cả chỉ là danh tự, danh tướng thôi, ý chỉ tất cả sự vật
như cái núi kia, thì chúng ta tưởng cái núi ấy có thật, nhưng không hiểu rằng,
vì chúng ta là người, có những cộng nghiệp tương đương, nên trong tàng thức ánh
ra thành cái núi, những người khác vì cũng có những cộng nghiệp, nên trong tàng
thức riêng của mỗi người đều ánh ra những quang minh kết nên cái núi ấy, nên
cái thấy của tôi, cũng như của quí vị đều giao thoa với nhau để cùng nhìn thấy
như thế. Nhưng với loài chúng sinh khác, có những cộng nghiệp khác, họ không
cho đó là cái núi, mà có thể đi qua núi đá ấy một cách vô ngại. Nên mọi vật
không nhất thiết là một cái gì, rồi ta đặt cho mỗi vật một danh tên, tưởng nó
có thật, kỳ thật nó chỉ là huyễn thôi mà chỉ có danh tự. Vì vậy, Phật mới dạy rằng “ngôn
giáo chỉ giả danh,” nghĩa là tất cả chỉ là huyễn mà chỉ có tên gọi chụp
lên nó thôi. Đây là những điểm khó tin, khó hiểu, khó vào nhất.
KINH: Nó cũng không có tướng…
GIẢNG: Mà tướng của
nó cũng chỉ là tướng huyễn, vì vật kia, sông kia, núi kia v.v… cũng huyễn mộng
thôi. Nên tôi vẫn thường nói ở đây, khi xuống phố trông thấy một người quen đi
giữa đường, sau khi dùng tâm thế gian chào hỏi, thì ta nên dùng cái tâm vi diệu
để quán chiếu người đó chỉ như cái bóng trong tâm ta hiện lên thôi. Khi nghĩ được
như vậy, thì người đó đẹp hay xấu, nam hay nữ, hôi nhơ hay thơm sạch v.v… ta
cũng có một tâm bình đẳng, không đắm nhiễm, không thương, không ghét. Ngay cho
dù họ có chửi vào mặt cũng không giận (điều này làm rất khó, vì cái ngã
của ta rất lớn, còn lớn hơn núi Tu Di nữa, nên vừa nghe câu chửi là ta đã
nổi sân lên rồi), hay ăn cắp tiền của ta cũng không khởi tâm giận họ.
Ngược lại, họ có cho ta tiền hay cung kính lễ bái ta cũng không khởi tâm ngã mạn,
vì biết tất cả chỉ do nhân duyên nở ra thôi.
KINH:
Ở đây khởi vọng tưởng.
Ấm hạnh như mớ tóc.
GIẢNG: Tức là ở tất
cả cảnh huyễn kia do ta khởi vọng tưởng, vì thế các vật “ấm hạnh” giống như mớ
tóc xõa xuống nên người đau mắt nhìn thấy thế.
KINH: Như bức vẽ mộng sự.
GIẢNG: Mộng sự là
cảnh thấy trong mộng. Người họa sĩ chính là cái tâm vẽ lên đủ thứ, và cảnh giới
hiện lên theo nghiệp lực như vậy. Khả năng của tàng thức chúng ta rất ghê gớm
mà không ai biết cả. Đức Phật nói rằng, tất cả vật là do tâm ảnh hiện, ngoài ra
không có gì khác.
KINH: Như thành càn thát bà.
GIẢNG: Những người
đi biển vào đến những vùng chói chang mặt trời, hơi nước bốc lên chập chùng thường
hay làm hiện lên hình dạng giống như những thành phố, nhưng chính thực không
có, nên gọi là thành càn thát bà.
KINH: Như vành lửa, bóng nắng.
GIẢNG: Vành lửa là
khi ta đốt một cây hương xoay tròn người ở xa nhìn thấy một vòng lửa, nhưng
chính thực chỉ là một điểm hương cháy di động thôi (vẫn nói đến cảnh
huyễn).
KINH: Vốn không mà hiện có.
GIẢNG: Chính thực
nó không có gì hết, chỉ hiện ra như vậy thôi. Nên chúng ta phải luôn nhớ chữ hiện
trong kinh.
KINH:
Chúng sanh thường mê chấp.
Thường, vô thường, nhất dị.
GIẢNG: Chúng ta
hay mê chấp, cái vô thường thì chấp là thường, chấp rằng cái này giống cái kia,
hay khác cái kia, chấp có nam, có nữ, có yêu, có ghét v.v.
KINH:
Do vô thỉ lỗi lầm.
Người ngu si vọng chấp.
GIẢNG: Do những tập
khí nhận thức từ vô thỉ của chúng ta nên cứ phải trôi lăn chìm nổi mãi.
KINH: Tịnh nhãn thấy gương sáng.
GIẢNG: Còn những bậc
Đại Bồ Tát và Phật, không bị bệnh mắt lòa, có con mắt thanh tịnh thì thấy pháp
giới như một cái gương sáng, tất cả diệu tâm không có một vật, tuy rằng, nếu
nhìn bằng nhục nhãn, các ngài cũng vẫn nhìn thấy pháp giới núi sông, người vật
y hệt như chúng ta vậy, đồng thời nếu các ngài nhìn bằng huệ nhân thì tất cả
như một tấm gương sáng. Cũng vẫn là câu chuyện soi gương của chàng Diễn Nhã, diễn
tả một người có nhiều vọng nghiệp “soi gương’ nên làm lóe lên
tất cả cảnh giới này. Ngược lại, đối với các ngài đắc đạo, như ngài Huệ Năng
thì nói “Bổn lai vô nhất vật” là vì tất cả chỉ như một cái
gương sáng tròn đầy.
KINH:
Thấy Ma ni bửu tháp.
Trong đó hiện các pháp.
GIẢNG: Những bậc
có đạo lực cao, thì thấy các Ma ni bửu tháp, với những diệu pháp.
KINH: Mà thiệt vô sở hữu.
GIẢNG: Thí dụ như
chúng ta có nguyện thanh tịnh muốn sang Cực Lạc, về sau chín mùi trong tâm thức
ta sẽ ánh lên những cảnh giới của Cực Lạc, tuy cũng là huyễn, nhưng ta cần phải
vào cái huyễn tế đó, sau mới ly huyễn và nhập vào chân không (diệu
tâm).
KINH:
Hết thảy tánh hiển hiện.
Như tranh vẽ hơi nóng.
Hiện đủ các hình sắc,
Như mộng không thật có.
GIẢNG: Trong những
bài kệ kinh Lăng Già, ngài chỉ dạy thu tóm một chữ huyễn thôi.
Tóm lại, chúng ta
nên nhớ đến điểm soi gương, đó chính là tàng thức của mình ánh ra pháp giới,
thân căn này. Tuy tách ra thành hai phần rõ rệt, trong ngoài, nhưng không phải
hai. Vì tất cả pháp giới này đều Nhất Như, đều từ diệu tâm khởi ra, chúng sanh
ngu si, tự tách đôi rồi tự tạo những cảnh huyễn của mình, sau đó bị lạc trong
mê đồ ấy, và khởi lên lất cả những nghiệp vọng luân hồi.
Đấy là hết bài kệ
trong kinh Lăng Già nói về khởi vọng.
Nay ta trở về kinh
Hoa Nghiêm, với ngài Thiện Tài…
Kinh Hoa Nghiêm
cũng dạy chúng ta Nhập Pháp Giới, cũng tương tự như thế. Nhập
Pháp Giới là nhập vào trong tất cả diệu hữu ,tất cả các pháp, nhưng
tâm vẫn vẳng lặng, không thọ một pháp nào, vẫn biết tất cả các pháp đều không
thì lúc đó sẽ đắc được Vô Thượng Chánh Giác. Còn phàm phu chúng ta không phải
là nhập pháp giới, mà là lạc vào mê đồ ảo phố của pháp giới, lạc loài trong đó,
chịu mọi sự gian chuân, thống khổ, vì chúng ta chấp từng pháp một, hoặc chấp
vài chục pháp, vài trăm pháp v.v… rồi tự làm những hàng rào ngăn cách chính
mình với các pháp khác, nên không thể nhập trọn vẹn trong pháp giới. Ngược lại,
Chư Phật nhập vào tất cả pháp nhưng không thọ một pháp nào cả nên mới đến mức
nhập pháp giới trọn vẹn được.
Tôi xin tóm lược
qua những kỳ giảng trước khi đi vào kinh. Khi Thiện Tài gặp ngài Phổ Hiền thì đầu
tiên thấy những thoại tướng mây quang minh, rồi từ những quang minh ấy nở thành
những thân chúng sanh, chư Thiên và các tầng trời, trông thấy bao la mọi cảnh
giới, sau thu nhỏ lại nhìn thấy báo thân ngài Phổ Hiền ngồi trên tòa sen báu gần
đức Phật. Lúc ấy, kinh không tả báo thân của ngài Phổ Hiền, mà tả từng lỗ lông
của ngài, từ những lỗ lông ấy hiện ra vô số những thân vân, bửu vân, hoa vân,
hương vân v.v.., mà mỗi thứ mây ấy kết thành vô lượng cảnh giời, có thứ kết
thành cảnh trời cõi sắc, cõi dục, hay kết thành những thân thiên tử, hay kết
thành những thân chúng sanh v.v… vẫn đi từ chỗ rất nhỏ, đến chỗ rất lớn. Sau
khi Thiện Tài trông ngắm những lỗ lông của ngài Phổ Hiền rồi, thì chỉ riêng sự
nhìn ngắm ấy thôi, Thiện Tài đắc được mười thứ trí ba la mật. Trong đạo phật, tột
cao nhất là cái trí, rồi sau đó biến thành lực. Lực là sức biến hóa, đồng thời
cũng là cái dụng, còn trí là bản thể tạo nên sự biến hóa ấy. Khi Thiện Tài đắc
được mười thứ trí ba la mật là gần đến chỗ tột cùng rồi.
KINH: Trí ba la mật có thể trong mỗi niệm
đi khắp tất cả các cõi Phật.
GIẢNG: Ngài dùng
trí ba la mật mà trong mỗi niệm – một thời gian rất ngắn – có thể đi vào khắp tất
cả cõi Phật, chỉ dùng trí của mình để đi mà không cần mang cả thân này.
KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm đều
có thể qua đến tất cả chỗ Phật.
GIẢNG: Ở đoạn kinh
trên thì chỉ nói đến các cõi Phật thôi, còn đoạn kinh này lại nói đến ngay chỗ
Phật ngự, để cung kính cúng dường. Như vậy, Thiện Tài đã hóa giải được không
gian.
KINH: Trí ba la mật, trong mỗi niệm đều
có thể cúng dường tất cả Như Lai.
GIẢNG: Chỉ dùng
cái trí ấy, hóa hiện đủ các thứ cúng dường, chỗ Phật ở đâu thì Thiện Tài hiện
thân mình đến đó, rồi hiện các đồ cúng dường thành những mây, hoa, hương v.v… để
cúng dường lên chư Như Lai, mà không cần phải dùng đến ngoại vật, mà chỉ dùng
trí để hiện lên vật mà thôi. Tức là trí ấy là sự biến hóa không cùng.
KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm ở khắp
chỗ của tất cả Như Lai để nghe pháp và thọ trì.
GIẢNG: Tới đó nghe
pháp và nhớ mãi không quên. (đắc văn đà ra ni).
KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm tư
duy pháp luân của tất cả Như Lai.
GIẢNG: Trong mỗi
niệm, Thiện Tài tư duy các pháp luân của tất cả Như Lai. Trong đạo phật, pháp của
đức Phật là “pháp luân,” bánh xe pháp, vì giáo lý của Như Lai
tương tự như một cái thiên la võng, không có đầu, không có đuôi, và bánh xe ấy
nói về đạo lý vận hành của pháp giới này. Vì thế gọi là “pháp luân” và
nó cũng không cùng, không tận. Một người đắc đạo cao, chỉ cần một câu, nhẫn đến
một chữ mà có thể diễn giảng mãi cũng được, như ngài Xá Lợi Phất, chỉ cần một
chữ gì đó (tôi cũng quên mất), ngài có thể giảng bảy ngày, bảy đêm
mới xong, vì trí huệ của ngài xoay tròn, đi theo đạo lý vận hành ấy nên nói mãi
cũng không hết.
KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm biết
sự đại thần thông bất tư nghì của tất cả Phật.
GIẢNG: vẫn là biến
hóa.
KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm nói một
câu pháp tột thuở vị lai biện tài vô tận.
GIẢNG: Khi có cái
trí ấy rồi, Thiện Tài nhập vào pháp giới, ngay chỉ một chữ “diệu” thôi,
trong một bông hoa thế nào, trong ngọn cỏ ra sao, hay trong một hạt cát, một
người v.v… tất cả biến hóa thế nào, ngài cũng có biện tài vô tận nói mãi cũng
không hết được nghĩa lý vi diệu của nó.
KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm dùng
thâm bát nhã quán tất cả pháp.
GIẢNG: Tới trí này
rồi, Thiện Tài vừa có Chân Không, vừa có Diệu Hữu, lúc nào cần dùng chân không
đó thì dùng thâm Bát Nhã để quán tất cả các pháp đều huyễn mộng.
KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm nhập
tất cả pháp giới thiệt tướng hải.
GIẢNG: Tất cả pháp
giới đều là không, khi vào đến hiện chân không ấy, đồng thời khởi lên nhập vào
tất cả các pháp mênh mông như đại hải, có thể nhìn rõ từng chi tiết, từng pháp
một mà vẫn thấy chập chùng huyễn mộng, nên gọi là “nhập pháp giới thiệt
tướng hải.”
KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm biết
tâm của tất cả chúng sanh. Trí ba la mật trong mỗi niệm huệ hạnh của Phổ Hiền đều
hiện tiền. Thiện Tài đã được mười trí ha la mật này rồi, Phổ Hiền Bồ Tát liền
dơ tay hữu xoa đầu Thiện Tài…
GIẢNG: Thiện Tài
được hai lần xoa đầu. Ngài Văn Thù và ngài Phổ Hiền. Đến đây, được ngài Phổ Hiền
xoa đầu tức là Thiện Tài đã được sự ấn chứng là nhập vào pháp giới khá sâu. Như
tôi đã nói ở đây, ngài Văn Thù tiêu biểu cho căn bản trí, còn ngài Phổ Hiền
tiêu biểu cho hậu đắc trí. Giống như một xoáy nước nỗi lên trong biển diệu
tâm (căn bản trí) vì mê vọng nên khởi một cuộc hành trình đi
xuống đến chỗ cùng tột của mê đồ từ địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, kiếp người,
thiên v.v… Sau khi đi lang thang khắp mọi nơi, cuối cùng hốt nhiên có một niệm
thủy giác muốn vòng trở về với diệu tâm uyên nguyên ấy gọi là thủy giác. Sau
khi thủy giác đi mãi, làm các hạnh nguyện tu hành,sau cùng thành tựu sai biệt
trí tột cùng cũng tức là hậu đắc trí và đồng như căn bản trí. Nói một cách
khác, cuộc hành trình của chúng sanh là tự mình rời bỏ căn bản trí ấy, tự mình
rời bỏ cái diệu minh, để đi xuống, chỉ giữ lấy cái hư minh, mang cái hư minh ấy,
đi là đà mãi trong mê đồ, đi qua các kiếp, các cõi, đến tột cùng thì một lúc
nào đó, bắt đầu có ý muốn trở về. Và sau khi ngoi ngóp vượt qua năm màn sương
mù của năm ấm, vượt luôn qua thức ấm, thì đến được chỗ sai biệt trí, cũng là hậu
đắc trí, trở về với căn bản trí.
KINH: Được xoa đầu, Thiện Tài liền được
tất cả phật sát vi trần số môn tam muội, mỗi tam muội lại dùng phật sát vi trần
số tam muội làm quyến thuộc.
GIẢNG: Khi Thiện
Tài được xoa đầu có nghĩa là trở về biển diệu tâm, đó là biển của tâm vi tế nhất,
trong đó cụ túc tất cả mọi thứ nên có đủ các tam muội, vì bất cứ tâm tưởng nào
khởi lên cũng đủ sức định lực để trở thành một tam muội. Lúc bấy giờ không có
duyên làm chia chẻ, lệch lạc.
KINH: Mỗi mỗi tam muội đều thấy tất cả
phật sát vi trần số phật đại hải mà từ xưa chưa thấy tích tập tất cả phật sát
vi trần số nhất thiết trí trợ đạo…
GIẢNG: Trong mỗi
tam muội,Thiện Tài lúc đó đã vào được Diệu Tâm, nên có thể thấy được vi trần số
phật sát,những cõi phật mênh mông như biển mà từ xưa Thiện Tài chưa từng thấy.
Muốn vào lần lần được bình diện “tột vi tế” của diệu tâm này, Thiện
Tài cần tích tập tất cả phật sát vi trần số nhất thiết hạnh trí trợ đạo. Tu
hành những gì thì gọi là “Nhất thiết trí trợ đạo” Khi người tu
đao, khác với người tu bình thường là làm bất cứ hạnh nào làm trợ đạo, các ngài
đều hồi hướng nhất thiết trí, không bao giờ các ngài nghĩ đến những chuyện chứng
đắc nhỏ khác, như đắc quả tu đà hoàn, a na hàm, a la hán v.v… mà chỉ nghĩ đến
nhất thiết chủng trí, là chỗ Tri Kiến Phật, và các ngài có thể nhập pháp giới
trọn vẹn. Thí dụ như chúng ta cầu xin về cõi Cực Lạc, sau khi bỏ báo thân này,
thì ta cũng nên cầu rằng, con nguyện xin vô cõi ấy, để đắc được quả nhất thiết
trí này, rồi dùng nhất thiết chủng trí khởi thần thông vô lượng trở lại sanh tử
độ sanh, đó mới đúng với bản hoài của chư Phật. Nên trong đoạn kinh này, lúc
nào cũng nhắc đến nhất thiết chủng trí.
KINH: Sanh đủ tất cả phật sát vi trần số
nhất thiết tri thượng diệu pháp.
GIẢNG: Tức là sanh
đủ tất cả các vi trần số thượng diệu pháp mà hướng về nhất thiết trí.
KINH: Phát tất cả phật sát vi trần số nhất
thiết trí đại thệ nguyện.
GIẢNG: Dù khởi cái
nguyện nào cũng đều hướng đến Phật Tri Kiến, không bao giờ kém hơn. Không phải
như thế là các ngài có lòng tham cầu vị kỷ, vì trong sự mong cầu có sự “tự
tha vô ngại”, và khi tham cầu nhập pháp giới, trở lại cái nhất như
uyên nguyên đó chỉ để độ sanh thôi, và đã xả ly hết ngã rồi.
KINH: Nhập tất cả phật sát vi trần số đại
nguyện hải, trụ tất cả phật sát vi trần số nhất thiết trí xuất yếu đạo, tu tất
cả phật sát vi trần số bồ tát nhất thiết trí đại tinh tấn, được tất cả phật sát
vi trần số nhất thiết trí tịnh quang minh.
GIẢNG: Tu hành những
hạnh để mong có được những quang minh ấy, những pháp xuất yếu đó để tới được đến
nhất thiết chủng trí, tức nhập pháp giới trọn vẹn.
KINH: Như ở Ta Bà thế giới chỗ của Tỳ Lô
Gĩá Na Phật này, Phổ Hiền Bồ Tát xoa đầu Thiện Tài Đồng Tử, khắp mười phương thế
giới, trong mỗi vi trần nơi những thế giới ấy, tất cả thế giới, tất cả chỗ Phật,
Phổ Hiền Bồ Tát cũng xoa đầu Thiện Tài như vậy, những pháp môn tam muội chứng
được cũng đồng.
GIẢNG: Như cõi Ta
Bà thế giới của đức Tỳ Lô Giá Na Phật này, trong kinh không nói của đức Thích
Ca Mâu Ni, vì đức Phật vẫn thường nói ta với ngài Tỳ Lô Giá Na Phật cũng là một,
cũng là khác. Mỗi vị thị hiện cách khác, nhưng đồng là Diệu Tâm cả. Do ảnh hiện
chập chùng của Hoa Tạng, khi ngài Phổ Hiền xoa đầu Thiện Tài thì trong tất cả
các cõi, tất cả các vi trần đều ảnh hiện lên đồng một hình ảnh như thế. Như tôi
vẫn thường nói, chúng ta ngồi đây nghe kinh, thì trong tất cả vi trần các cõi đều
ảnh hiện lên hình ảnh đạo tràng nhỏ bé này, với chúng ta đọc, tụng, nghe giảng
kinh như thế, nhưng vì tâm chúng ta còn lồi lõm, còn đục ngầu, nên ảnh hiện ấy
không rõ, đến khi nào chúng ta lên đến bực của ngài Thiện Tài thì cũng sẽ thấy ảnh
hiện rõ ràng.
Tu hành đến chỗ tột
bờ mé thì hiện ra những trạng thái như vậy, tức là nhìn thấy được tất cả các
cơn lốc quang minh, khởi lên những tầng trời, các thứ thân chúng nanh, rồi sẽ
nhìn thấy báo thân của một vị Phật hay Bồ Tát mà chúng ta mong muốn được nhìn,
như Phật A Di DA, ngài Quán Thế Âm, ngài Phổ Hiềnv.v… rồi nương vào thần lực của
các ngài đưa chúng ta đến chỗ bất thối chuyển, rồi được các ngài thọ ký, tới chỗ
nhập pháp giới trọn vẹn, tức Phật quả.
KINH: Bấy giờ Phổ Hiền Bồ Tát bảo Thiện
Tài rằng, này thiện nam tử, ngươi thấy thần lực của ta chăng?
GIẢNG: Lúc nào
ngài cũng nói đến thần lực. Vì vậy, pháp giới này và thân căn chúng ta chỉ dệt
nên bởi ba thứ lực: Thần lực hải của chư Phật, nguyện lực hải của chư đại Bồ
Tát và nghiệp lực hải của chúng sanh.
KINH: Thiện Tài thưa: Bạch vâng, những sự
thần thông quảng đại bất tư nghì này chỉ đức Như Lai mới biết được.
GIẢNG: Ý Thiện Tài
muốn nói là thần thông quảng đại đó thuộc về Như Lai, mà ngài Phổ Hiền cũng là
một vị Phật, (ngài chỉ thị hiện là Bồ Tát để khiến chúng sanh cảm thấy
gần gũi hơn), vì sự nhập pháp giới này tột cao, bậc thập địa cũng chưa
thể làm nổi. Tôi cũng xin nhắc một điểm là giữa bậc cửu địa Bồ Tát và bậc thập
địa cách nhau rất xa, vì một vị Bồ Tát ở thập địa có thể cái chân, nhấc tay mà
cửu địa Bồ Tát không thể biết nổi. Và những tam muội, những hành xứ, những tâm
tưởng ngài khởi lên thì bậc cửu địa không thể biết nổi. Nên vì vậy, quanh chúng
ta đây, chư Phật hiện thần thông biến hóa tràn đầy và ta đang sống trong ấy,
nhưng cũng không hay, không biết mảy may. Như khi ta đau ốm quá, tự nhiên một
hôm có người mách một thứ thuốc, mang về uống thì thấy đỡ. Tâm lý thường chúng
ta nghĩ đó là do cơ duyên may mắn, gặp người mách thuốc. Nhưng riêng ý tôi, tôi
nghĩ rằng, khi nghiệp chúng ta chuyển biến, nhiều khi các vị thần linh giúp ta
bằng cách này hay cách khác, nhưng thường các ngài không bao giờ hiện ra cho ta
biết, mà chỉ đưa đẩy cơ duyên qua tay người khác đem đến thôi. Cũng như người
đi tàu bị đắm, người ấy khấn ngài Quán Thế Âm thì rất ít khi ngài hiện ra cho
người bị nạn thấy, ngài chỉ dùng cơ duyên như hiện một miếng ván tấp đến cho kẻ
kia níu lấy để trôi vào bờ. Vì nghiệp chướng của ta quá sâu dày, chưa đáng nhìn
thấy hình tướng các ngài, nên chỉ nhận được những duyên do các ngài đẩy đến và
phần đông chúng ta chỉ tưởng là tình cờ, ngẫu nhiên. Nhưng trong pháp giới này
không có sự ngẫu nhiên (hasard). Cũng không có sự quyết
(ljnh (déterminismè). Chỉ có sự tương ưng (correspon- (lancè) giữa
pháp giới và Tâm nở ra mà thôi. Ở trong nở tốt, thì ngoài hiện tướng tốt,
và ngược lại.
KINH: Này thiện nam tử, thuở quá khứ bất
khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số kiếp, ta thật hành bồ tát hạnh cầu
nhất thiết trí. Trong mỗi mỗi kiếp vì muốn thanh tịnh bồ đề tâm, nên kính thờ bất
khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số Phật. Trong mỗi mỗi kiếp vì tích
tập nhất thiết trí phước đức nên thiết lập bất khả thuyết bất khả thuyết phật
sát vi trần số thí hội quảng đại, khiến tất cả thế gian đều nghe biêt, phàm ai
đến cầu xin thời đều làm cho họ đầy đủ cả.
GIẢNG: Trong đoạn
này, ban đầu thì ngài tu hạnh lễ kính chư Phật, sau thì tu theo hạnh bố
thí (đàn ba la mật).
KINH: Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu pháp nhất
thĩết trí nên ta đem bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số tài
vật bố thí.
GIẢNG: Ở đây,
thì ngài bố thí ngoại vật, cho của cải. Ngài kể qua cho Thiện Tài nghe về con
đường bồ tát hạnh của ngài.
KINH: Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu phật
trí, nên ta đem bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số thành ấp, tụ
lạc, quốc độ, vương vị, thê tử, quyến thuộc, mắt tai mũi lưỡi, thân thịt tay
chân đến cả mạng sống để bố thí.
GIẢNG: Đoạn kinh
này, ngài bố thí đến nội vật, ngay cả thân thể mình cũng đem ra bố thí, không
những tu hạnh đó trong một kiếp, mà vô lượng vô số kiếp. Vì phải cho như thế
thì mới thành tựu môn “Như huyễn tam muội”, hiểu thân thể này
cũng là huyễn, mà thật ra không có cái chết, nó chỉ biến hóa từ một thân căn
này qua một thân căn khác. Phàm phu chúng ta sợ hãi không làm được hạnh bố thí
thân căn ấy vì chưa quen, cũng như chưa tin sự biến hóa ấy. Lúc đầu thí thân
thì sợ lắm, nhưng về sau, khi quen rồi, các ngài làm việc ấy rất dễ dàng, kinh
nói rõ rằng, một vị Bồ Tát khi thí thân, thì có pháp hỷ sung sướng như một vị Tỳ
kheo nhập đệ tam thiền vậy.
KINH: Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu nhất thiết
trí thủ, nên ta đem bât khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số đầu để bố
thí. Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu nhất thiết trí, nên ở chỗ bất khả thuyết bất khả
thuyết phật sát vi trần số Như Lai, ta cung kính tôn trọng, kính thờ cúng dường,
rồi xuất gia học đạo, trong phật pháp tu hành hộ giáo.
GIẢNG: Phàm phu
chúng ta cứ tưởng rằng khi tu hành nhất thiết phải đến chùa, thọ giới, mặc áo
sư, và xuất gia v.v… nhưng trong tất cả pháp giới này, “sự-kỳ- diệu-là-cái-gì-cũng-có-thể-có-được”. Kinh
nói rằng, có những cõi tịnh độ, như cõi của ngài Văn Thù Sư Lợi là cõi “Phổ
Kiến Như Lai” tất cả chúng sanh vừa mới sanh ra đã được mặc áo cà sa rồi.
Cũng như chúng ta chỉ thấy có thai sanh thôi, người mẹ sanh ra người con, nên
không hiểu rằng có những kiếp chúng sanh thanh tịnh đến mức độ hóa sanh từ hoa
sen xong, không cần phải đi thọ giới, người vốn là pháp hạnh, được mặc ngay áo
cà sa, (trong Đại Bảo Tích).
KINH: Này thiện nam tử, ta ở trong những
số kiếp như vậy, tự nhớ chưa từng có một niệm chẳng thuận phật giáo, chưa
từng có một niệm sanh lòng sân hại…
GIẢNG: Niệm nào
cũng đều tùy thuận Bồ Đề tâm cả, nhất là không có niệm nào sân hại cả. Trong
kinh Hoa Nghiêm có hai chỗ, ở phẩm thứ ba mươi lăm, ngài Phổ Hiền nhấn mạnh hai
lần về lòng sân. Bồ Tát không bao giờ được khởi lòng sân đối với một vị Bồ Tát
khác, vì lòng sân rất ghê gớm, nó như ngọn lửa có thể đốt hết tất cả những pháp
lành và công đức của mình. Lòng tham thì không đốt căn lành nhiều như lòng sân,
nhưng nó làm cho chúng ta lưu luyến, làm tâm bị nặng nề trần trược, nên không
thể thăng hoa lên được.
KINH: Cũng chưa từng có một niệm sanh
tâm ngã, ngã sở…
GIẢNG: Ngài cũng
không từng có một niệm sanh tâm cái này của mình, cái kia là mình v.v… vì ngài
đã nhập vào diệu tâm ấy, biết rằng, ta và pháp giới này là một, nên không khởi
lên sự sai biệt đôi bên.
KINH: Tâm mình người sai biệt, tâm xa rời
bồ đề, tâm nhàm mỏi sanh tử…
GIẢNG: Cũng không
bao giờ ngài khởi tâm nhàm mỏi sanh tử, vì nếu có tâm nhàm mỏi thì sẽ rơi vào
hàng Thanh Văn, mà không thể tiến xa hơn để độ sanh và Nhập pháp giới trọn vẹn
được.
KINH: Tâm lười biếng, tâm chướng ngại,
tâm mê hoặc…
GIẢNG: Không bao
giờ nên khởi tâm mê hoặc người khác. Nếu một vị đạo sư, hoặc tự xưng mình là một
đạo sư kỳ diệu có nhiều người theo, hoặc muốn nói những chuyện quyến dụ người
khác, làm cho họ nghe mình, muốn họ cúng dường mình thật nhiều, thích được phật
tử khen mình nhiều, hay sai đệ tử đăng báo ca tụng mình v.v… tất cả những điều ấy
đều rơi vào cái “tâm mê hoặc” người khác. Ngược lại, một vị đạo
sư khi nói pháp, chỉ cốt làm thế nào để giữ được tâm trang nghiêm, đừng cầu
gì thì vị đạo sư đó không có tâm mê hoặc.
KINH: Mà ta chỉ an trụ tâm đại bồ đề vô
thượng chẳng thể trở hoại tích tập pháp trợ đạo nhất thiết trí.
GIẢNG: Tu hành bất
cứ con đường nào, mục đích chung chỉ để đến nhất thiết trí thôi. Đấy là ngài Phổ
Hiền nói thế, mặc dù Thiện Tài cũng biết rồi, nhưng ngài cũng vẫn cứ nhắc lại để
kinh lại cho người đời sau noi theo, không nên xen một tâm niệm nào khác làm lạc
tâm bồ đề và tâm cầu nhất thiết trí.
KINH: Này thiện nam tử, ta trang nghiêm
phật độ, dung tâm đại bi cứu hộ chúng sanh, giáo hóa thành tựu, cúng dường chư
Phật, thờ thiện tri thức, vì cầu chánh pháp nên hoằng tuyên hộ trì, trong thân
ngoài vật đều có thể xả tất cả, đến mạng sống cũng không tiếc.
GIẢNG: Trong kinh
Đại Bảo Tích có một vị hỏi Phật rằng, người tu hành trong rừng sâu, thấy những
cọp, beo, lang sói, rắn độc v.v… rất sợ, thì lúc đó phải làm sao? Phật dạy, người
tu hành trong rừng sâu phải coi thân mình như cây cỏ, tường vách, giả dụ như nó
đến ăn cũng chẳng sao. Nên phải hiểu tâm vô úy của người tu hành trong đạo Phật
ở một mức độ rất cao, dù cho hổ đói có đến ăn cũng bố thí bỏ xả thân này không
một niệm luyến tiếc, sợ hãi. Ngày xưa, đọc đến những đoạn kinh Phật dạy như thế,
tôi thấy thật là khủng khiếp và quá sức phi nhơn bản, nhưng dần dần, suy tư nhiều
về những lời kinh, tôi thấy quả đúng như thế, không có thể làm gì khác khôn
ngoan hơn điều Phật dạy, phải coi thân này như cây cỏ, tường vách, “người
giữ thi la không trọng thân mạng, vì dùng con mắt ảo quán sát pháp giới.” Nên
Phật giáo là một tôn giáo đạt tới mức cao độ tâm thức một cách tột cùng, không
có một tôn giáo nào sánh kịp.
HỎI: Ở Việt Nam, cũng có những vị sư mỗi tối
ra ngoài vườn, cởi trần ra để cho muỗi đốt, làm như vậy sẽ có những con muỗi độc
đốt xong rồi truyền bệnh cho vị này, sau đó vị nàỵ có bệnh như sốt rét chẳng hạn,
mà chứng sốt rét có thể lây bệnh cho người khác nữa. Hành động như thế là đúng
hay sai? Bố thí như thế có đúng không?
ĐÁP:
Nói đến việc đúng sai thì phải xét cái tâm của vị ấy. Trong cuốn “Đường về Cực
Lạc” có một vị sư mỗi tối, ngài chui vào bụi, cởi trần cho muỗi đốt, dùng máu của
mình nuôi chúng sanh khác, đó là xả thân để bố thí. Hành động này tôi cho
là đúng.
HỎI: Nhưng còn vấn đề làm lây bệnh cho người
khác thì sao? Nếu làm một hạnh để giúp được một khía cạnh này, thì vô hình
chung ta lại tạo ra một mặt khác hại người.
ĐÁP:
Có thể cũng truyền bệnh cho người khác, nhưng người khác nếu bị lây bệnh cũng
có gì là tuyệt đối quan trọng đâu, vì người ấy cũng được vơi nghiệp đi. Phần
đông chúng ta chưa đến mức độ tâm thức đó đâu, vì trước hết thường nghĩ rằng
mình làm thế bị bệnh thì lôi thôi lắm, đau đớn khổ sở, không tu hành được chẳng
hạn chúng ta không làm được vì tâm thức còn hạn hẹp hòi, còn sợ bệnh tật, có
nghĩa rằng còn chấp ngã, còn quí cái thân xác này, còn cho nó có thực, còn chấp
rằng, có người thọ, có kẻ gây v.v… Nhưng nêu xét theo pháp giới về cả hai khía
cạnh, thì không có gì trên thế gian này quan yếu cả, chỉ là một tuồng biến hóa
thôi. Cùng lắm bệnh nó có thể làm cho chúng ta bỏ thân này, nhưng cái giới thân
huệ mạng của chúng ta đâu có chết, bỏ được thân này, biết đau lại có một thân
khác thanh tịnh hơn, thần thông biến hóa hơn.
Riêng
tôi, tôi cho rằng hạnh bố thí của những vị đó là đúng nhưng ít người có thể làm
nổi. Đó chỉ là một hình thức bố thí xả bỏ thân này thôi mà chúng ta không
làm nổi rồi, hà huống gì nói đến việc cho mắt, mũi, tủy não…
KINH: Nếu dùng thời gian kiếp hải để nói
nhơn duyên đó, kiếp hải còn có thể hết chớ nhơn duyên đó không cùng tận. Này
thiện nam tử, trong pháp hải của ta, không có một chữ, không có một câu…
GIẢNG: Ngài dùng
chữ “pháp hải” là biểu tượng một cái gì bao la mênh mang vô tận,
nhưng trong pháp hải ấy không có một chữ, không có một câu (tức Bát
Nhã).
KINH: Chẳng phải thí xả ngôi Chuyển Luân
Vương mà cầu được. Chẳng phải thí xả tất cả sở hữu mà cầu được.
GIẢNG: Ý ngài muốn
nói, tất cả sự thí xả về tài vật vẫn còn thấp, không thể như thế mà cầu được
pháp ấy.
KINH: Này thiện nam tử, pháp của ta cầu
đều vì cứu hộ tất cả chúng sanh. Một lòng suy nghĩ mong cho chúng sanh được
nghe pháp nầy. Nguyện dùng trí quang chiếu khắp thế gian. Nguyện vì chúng sanh
mà khai thị trí xuất thế gian…
GIẢNG: Tức là xả thí
như thế vẫn chưa đủ mà phải dùng đại bi để cứu độ tất cả chúng sanh, và nhất là
phải có pháp thí.
KINH: Nguyện cho chúng sanh đều được an
lạc. Nguyện khắp tán dương những công đức của chư Phật, thuở xưa, nhơn duyên của
ta như vậy, trong bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số kiếp hải
nói không hết được.
GIẢNG: Hạnh của
ngài là hạnh “hải.” Phổ Hiền hạnh nguyện hải phải làm rất nhiều
kiếp.
KINH: Này thiện nam tử, vì thế nên ta
dùng sức trợ đạo pháp như vậy, những sức thiện căn, sức đại chí nguyện, sức tu
công đức, sức như thiệt tư duy tất cả pháp, sức trí huệ nhãn, sức Phật oai thần,
sức đại từ bi, sức tịnh thần thông, sức thiện tri thức như vậy nên ta được pháp
thân thanh tịnh tam thế bình đẳng rốt ráo này.
GIẢNG: Ngài tu những
hạnh đó nay được pháp thân thanh tịnh bình đẳng rốt ráo như thế, không những được
pháp thân ngài còn được cả báo thân và hóa thân.
KINH: Ta lại được sắc thân thanh tịnh vô
thượng siêu các thế gian, tùy sở thích tâm của chúng sanh mà hiện hình vào tất
cả cõi khắp tất cả xứ, nơi các thế giới rộng hiện thần thông, làm cho người thấy
đều vui mừng.
GIẢNG: Ngài kể rằng,
khi vào được biển thần lực hải đó rồi (pháp thân), đồng thời
ngài lại có sức đại bi, hiện tất cả các thân tùy theo các loài để độ sanh (hóa
thân).
KINH: Này thiện nam tử, ngươi quan sát sắc
thân của ta như vậy.
GIẢNG: Pháp thân
chưa nói đến, chỉ nói đến sắc thân thôi, sắc thân này là thân thanh tịnh vô thượng
siêu các thế gian.
KINH: Sắc thân của ta đây đã thành tựu từ
vô biên kiếp hải. Vô lượng ngàn ức na do tha kiếp khó thấy khó nghe. Này thiện
nam tử, nếu có chúng sanh chưa gieo thiện căn và gieo ít thiện căn, Thanh Văn,
Bồ Tát thời còn chẳng được nghe danh hiệu của ta huống là thấy được thân ta.
GIẢNG: Ngài nói thế,
xong ngài lại bảo Thiện Tài đi vào sắc thân của ngài, vào từng lỗ chân lông
ngài.
KINH: Này thiện nam tử, nếu có chúng
sanh được nghe danh hiệu của ta thời không còn thối chuyển nơi vô thượng bồ đề.
Nếu ai hoặc thấy, hoặc chạm, hoặc rước, hoặc đưa, hoặc tạm theo dõi, nhẫn đến
trong mộng được thấy nghe ta, thời đều cũng được bất thối chuyển.
Hoặc có chúng sanh một ngày, một đêm nhớ
nghĩ đến ta thời liền được thành thục. Hoặc bảy ngày, bảy đêm, nửa tháng, một
tháng, nửa năm, một năm, trăm năm, ngàn năm, một kiếp, trăm kiếp, nhẫn đến bất
khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số kiếp nghĩ nhớ đến ta mà được
thành thục.
GIẢNG: Có người chỉ
cần nghĩ nhớ đến ngài một ngày một đêm đã được thành thục bất thối chuyển,
nhưng cũng có người lâu hơn, có thể bảy ngày, bảy đêm, một tháng một năm, nhiều
năm, nhiều kiếp nghĩ nhớ đến ngài mới được thành thục.
KINH: Hoặc thấy ta phóng đại quang minh,
hoặc thấy ta chấn động cõi Phật, hoặc sanh e sợ, hoặc sanh hoan hỷ thảy đều
thành thục.
GIẢNG: Khi ngài
phóng đại quang minh và thấy ngài chấn động cõi Phật, thì dù cho tâm ngươi sanh
e sợ, hay sanh tâm hoan hỷ, nghĩa là duyên nào cũng tốt cho người ấy cả. Vì thế,
trong đạo Phật kỵ nhất là hạng người thờ ơ, không theo, không chống. Tốt nhất
là người tin thuận theo, tốt nhì là người chống đối, tỷ dụ như Việt Cộng, nhưng
đó là một “cơ duyên nghịch,” vì sau khi xuống địa ngục xong,
lên làm người lần lần sẽ gặp được các bậc thiện tri thức hay gặp Phật. Còn những
người cứ lờ dờ, chẳng tu hành, chẳng nghe kinh, chẳng tin, cũng chẳng chống đó
là hạng người bết nhất. Trở lại đoạn kinh này, những vị nào thấy những quang
minh phóng ra của ngài Phổ Hiền, hoặc phát sợ hãi khi tất cả cõi phật chấn động,
hoặc phát tâm vui mừng khấp khởi, hai hạng người này đều được độ cả. Trong kinh
Mật Tông có nói một thí dụ về điểm này, ví như một người đi vào rừng Chiên Đàn
lấy cây chiên đàn về cúng Phật là tốt nhất rồi, nhưng cũng có loại người vào đó
đập phá lung tung, đến khi người ấy về tuy bị tội đập phá rừng chiên đàn, nhưng
trên người vẫn thoảng có mùi hương chiên đàn, nên cũng vẫn được lợi ích. Duy
còn một loại người không hề ghé chân qua rừng chiên đàn ấy, thờ ơ thì đó là loại
người đáng thương nhất, họ sống bập bềnh, mù mịt trong pháp giới này, vì mùi
hương chiên đàn (ví như pháp vị của Chư Phật), không thể thấm
vào thân tâm của họ được. Lại một thí dụ khác, là có một vị tỳ kheo ni, vào
trong cung vua khuyên các cung phi đi tu, các cô này bảo rằng, chúng tôi đi tu
làm sao được, vì chúng tôi còn trẻ đẹp, yêu đời, đi tu thế nào cũng phạm giới.
Vị tỳ kheo ni lại bảo, thì các vị cứ tu đi, rồi cứ… phạm giới đi, sau khi bị đọa
địa ngục rồi lên sẽ có cơ duyên gặp Phật, lúc đó sẽ được ngài điểm hóa rồi có
thể tinh tân tu hành. Đó là một cách gieo những chủng tử lành cho nhiều đời sau
vậy.
Còn chuyện “chấn
động cõi phật” trong kinh, điểm này cũng có rất nhiều người hỏi, tại
sao kinh bảo thế giới chấn động sáu cách mà ta chẳng thấy gì cả, cỉ thỉnh thoảng
thấy động đất làm sợ muốn chết! Nhưng chắc sự chấn động trên bình diện tâm thức
vi tế hơn, người phàm phu chúng ta không hay biết, phải những bậc tu hành cao họ
mới cảm thấy điều đó, có lẽ sự chấn động trong tầng lớp thọ ấm, tưởng ấm hay
hành ấm gì đó mà chúng ta không biết chắc được.
KINH: …(Bỏ một đoạn)… Nếu
có chúng sanh nào thấy nghe cõi thanh tịnh của ta thời tất được sanh trong cõi
thanh tịnh này. Nếu có chúng sanh nào thấy nghe thân thanh tịnh của ta thời tất
được sanh trong thân thanh tịnh của ta…
GIẢNG: Trong kinh
Hoa Nghiêm luôn luôn nói đến cõi tịnh và bất tịnh, nên ta phải hiểu rằng chân
lý của Tinh Độ rất rõ rệt. Nếu người nào chê bai Tịnh Độ là vẫn chưa hoàn toàn
hiểu kinh, vì cả bộ kinh thường nhắc đốn cõi tịnh, uế luôn. Mà tu hành thì phải
đi từ cõi uế đến cõi tịnh, đâu có thể chê bai tha lực được.
Ở đây, ngài Phổ Hiền
nói cõi thanh tịnh và thân thanh tịnh của ngài cũng là một. Như cõi Cực Lạc,
chúng ta coi như là thân của đức A Di Đà hay cõi của ngài cũng được. Vì thế tôi
vẫn nói, chúng ta ngồi đây là đang ngồi trong thân của ngài Quán Thế Âm vậy.
KINH: Này thiện nam tử, ngươi nên quan
sát thân thanh tịnh của ta đây. Thiện Tài quán sát tướng hảo chi tiết nơi
thân Phổ Hiền Bồ Tát. Trong mỗi mỗi lỗ lông đều có bất khả thuyết bất khả thuyết
phật sát hải. Mỗi mỗi sát hải đều có chư Phật xuất thế và chúng hội Bồ Tát.
GIẢNG: Ở đây
ngài Phổ Hiền nói rằng, khi trước Thiện Tài quan sát chưa được kỹ lắm, nay nên
đi vào từng lỗ lông xem sao.
KINH: Và lại thấy tất cả sát hải đó: những
kiến lập…
GIẢNG: Trong kinh,
đôi khi ta gặp chữ “kiến lập” có nghĩa là tạo dựng. Cũng như
trong kinh Lăng Già, chúng ta hay gặp chữ “kiến lập” và chữ “phỉ
báng.” Kiến lập tức là khẳng định, còn phỉ báng là phủ định, (đó là
những chữ khó của kinh Lăng Già). Còn ở đây là kiến lập, là thành lập
các cõi.
KINH: Những hình trạng, những trang
nghiêm, những đại sơn bao quanh, những sắc mây che trùm hư không, những Phật
Như Lai xuất thế thuyết những pháp luân.
GIẢNG: Bao giờ
cũng nói đến “pháp luân,” bánh xe pháp.
KINH: Lại thấy ở trong mỗi mỗi thế giới
hải, Phổ Hiền xuất hiện tất cả phật sát vi trần số phật hóa thân vân, cùng khắp
thập phương tất cả thế giới giáo hóa chúng sanh khiến hướng về vô thượng bồ đề.
GIẢNG: Tất cả đều
là những đám mây hào quang xoáy tròn hữu nhiễu tạo thành những thân đó.
KINH: Bây giờ Thiện Tài lại thấy tự thân
ở trong thân Phổ Hiền giáo hóa chúng sanh trong mười phương tất cả thế giới.
GIẢNG: Lúc bấy giờ,
Thiện Tài tự thấy thân mình nhập vào thân ngài Phổ Hiền, vì thân ngài Phổ Hiền
tức là pháp giới. Thực tình, kinh Hoa Nghiêm không có cách gì có thể giảng rõ
được, chỉ có thể gượng giảng tạm thôi, vì tất cả vấn đề đều là sự chập chùng thần
lực của Diệu Tâm, nếu chưa đi sâu vào tâm thức, chúng ta chỉ có thể nương theo
kinh tưởng tưởng gượng thế thôi, chứ không thể giảng rõ được.
KINH: Bao nhiêu thiện căn trí huệ quang
minh của Thiện Tài đã được, khi thân cận phật sát vi trần số chư thiện tri thức,
sánh với thiện căn khi thấy Phổ Hiền Bồ tát mà được, thời không bằng một phần
trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần trăm ngàn ức, nhẫnn đến không
bằng một phần toán số ví dụ.
GIẢNG: Từ trước đến
nay, trong kinh nói Thiện Tài gặp năm mươi ba vị thiện tri thức, đó chỉ là những
ví dụ điển hình thôi, nhưng thực ra Thiện Tài đi gặp vô lượng vị, nhưng tất cả
thiện căn Thiện Tài đắc được trong cuộc hành trình đi gặp các vị thiện tri thức
này, nếu so với thiện căn khi gặp ngài Phổ Hiền Bồ Tát thì không bằng một phần
trăm, một phần ngàn…, nhẫn đến một phần toán số ví dụ. Tại sao lại được công đức
ghê gớm thế khi gặp ngài Phổ Hiền? Thiện Tài tu hành không biết bao nhiêu hằng
hà sa na do tha kiếp, gặp không biết bao nhiêu vị thiện tri thức, tích lũy những
thiện căn, nhưng tất cả thiện căn ấy, vẫn không bằng thiện căn khi được gặp
ngài Phổ Hiền, vì trong đạo Phật, lúc nào cũng chú trọng về cái phẩm, khi lên đến
tột bờ mé thì cái phẩm nó biến hóa rất nhiều, nó tăng cấp số nhân với một con số
không thể nghĩ bàn, vì ngài Phổ Hiền là chặng đường tột cuối của tâm thức cao độ,
nên vì vậy, thiện căn tích lũy nhiều vô cùng tận.
Nên vì vậy, tôi vẫn
thường nói ở đây, ví như một ngôi chùa có năm trăm ngàn Phật tử, chỉ đến lễ lạy
cầu phước báo hữu lậu, hay làm những phật sự thông thường, kinh kệ thì mù mịt,
chỉ lễ lạy, cầu siêu, cầu an, cầu gia nghiệp làm ăn phát đạt v.v… không bằng một
ngôi chùa có chỉ độ hai, ba chục phật tử trong đó có vài người hiểu kinh và
phát bồ đề tâm. (Đó là kinh nói, không phải tôi nghỉ ra đâu). Vì
trong vài người ấy, sau này sẽ thành Phật độ chúng sanh, còn tất cả năm trăm
ngàn người kia chỉ lăng xăng, trôi nổi lên lên, xuống xuống trong sáu nẻo luân
hồi, không bao giờ thành Phật, cũng chẳng giúp ích được cho một người nào đi
vào con được phật đạo và phát bồ đề tâm.
KINH: Trong một niệm mà hiện nay Thiện
Tài nhập sát hải của chư Phật ở trong một lỗ lông của Phổ Hiền, sánh với thời
gian từ sơ phát tâm đến nay đã nhập sát hải, thời nhiều hơn đến số bất khả thuyết
bất khả thuyết phật sát vi trần. Như nơi một lỗ lông, tất cả lỗ lông cũng đều
như vậy.
GIẢNG: Câu này
cũng y như câu trên. Trong một niệm, Thiện Tài nhập vào một lỗ lông của ngài Phổ
Hiền, tức là nhập vào tâm thức tột cao để nhập vào pháp giới, thì niệm ấy, sánh
với thời gian mới bắt đầu phát tâm bồ đề đến lúc gần nhập pháp hải, niệm này
còn dài hơn lất cả các a tăng kỳ kiếp, vì thời gian là như vậy. Khi tâm càng
thanh tịnh bao nhiêu thì thời gian càng chóng vánh bấy nhiêu, còn thời gian đục
ngầu phía dưới thì dài lê thê hơn nhiều. Như trong phẩm Thọ Lượng Như Lai có
nói một kiếp ở cõi Ta Bà này (mười sáu triệu năm), chỉ bằng một
ngày một đêm ở cõi Cực Lạc. Vì tâm thánh chúng bên ấy thanh tịnh hơn tâm chúng
ta nhiều. Vì vậy, khi Thiện Tài nhập vào lỗ lông của ngài Phổ Hiền thì tâm ngài
thanh tịnh tột bực, nên chỉ cần ngài khởi một niệm, vẫn có thể dài hằng hà sa số
kiếp ở những sát độ khác. Ngược lại, có thể thu ngắn nhiều kiếp thành một sát
na.
KINH: Trong lỗ lông của Phổ Hiền Bồ Tát,
Thiện Tài bước một bước qua khỏi bất khả thuyết, bất khả thuyết phật sát vi trần
số thế giới, đi mãi như vậy tột thuở vị lai vẫn còn chẳng biết được thứ đệ sát
hải của trong một lỗ lông, cũng chẳng biết ngằn mé của sát hải tạng, sát hải
sai biệt, sát hải phổ nhập, sát hải thành, sát hải hoại, sát hải trang nghiêm.
Cũng chẳng biết được ngằn mé của Phật hải thứ đệ, Phật hải tạng, Phật hải sai
biệt, Phật hải phổ nhập, Phật hải sanh, Phật hải diệt. Cũng chẳng biết được ngằn
mé của Bổ Tát chúng hải thứ đệ, Bổ Tát chúng hải tạng, Bồ Tát chúng hải sai biệt,
Bổ Tát chúng hải phổ nhập, Bồ Tát chúng hải tập, Bồ Tát chúng hải tán. Cũng chẳng
thể biết ngằn mé của trí nhập chúng sanh giới, biết căn chúng sanh, giáo hóa điều
phục chúng sanh, chỗ trụ thậm thâm tự tại của Bồ Tát những địa, những đạo của Bồ
Tát nhập.
GIẢNG: Đọc những
câu kinh này, có thể nói rằng ta bị đè bẹp tan hoang, vì sự mường tượng về tâm
ý ghê gớm quá. Đại ý đoạn kinh này nói rằng, trong lỗ lông của ngài Phổ Hiền,
tuy gọi là “lỗ lông’ mà nó cũng chính là pháp giới. Vì thế,
Thiện Tài ở trong một lỗ lông ấy chỉ cần bước một bước đã qua bất khả thuyết, bất
khả thuyết phật sát vi trần số thế giới. Đi mãi không biết bao nhiêu kiếp, đến
tột thuở vị lai cũng không bao giờ hết, không thấy được ngằn mé, thứ đệ của
pháp giới đó. Vì lúc đó tâm Thiện Tài vẫn còn động chuyển theo sức Đại Bi vô niệm,
nên pháp giới vẫn vô tận. Ngược lại, ngài chỉ cần khởi một tâm niệm Bát Nhã
lên, thì tất cả pháp giới ấy sẽ không còn, sẽ tắt đi và trở thành hữu tận.
Phàm phu chúng ta
vì tâm luôn luôn động nên pháp giới trở thành “không ngằn mé,” và
tâm ta động niệm theo sự thô kệch nhất của tham, sân, si. Ngược lại, chư Phật
và chư Đại Bồ Tát động niệm theo Đại Bi bình đẳng để độ sanh, nên pháp giới
cũng không ngằn mé,do Đại Bi Vô Niệm.
Trong lỗ lông của
ngài Phổ Hiền, có thể nói không gian và thời gian đều bị hóa giải, không còn nhất
định dài hay ngắn nữa. Một sát na có thể kéo dài cả nhiều kiếp, ngược lại,hằng
hà sa số kiếp có thể thu ngắn vào một sát na, tùy tâm thức của các ngài khởi
tâm niệm đại bi hay bát nhã. Vì vậy, Thiện Tài có thể bước một bước qua khỏi vi
trần số thế giới mà không biết được ngằn mé.
PHẬT TỬ: Tôi vào kinh Hoa Nghiêm cũng nhờ nhưng
câu kinh khó như thế này, khó quá! tuy không hiếu, nhưng trong tâm vẫn cứ ngờ
ngờ thấỵ hay..
ĐÁP:
Đúng, nhiều đoạn trong kinh, có thể đè bẹp người đọc như bị ngạt thở, như thấy
bàng hoàng, đảo lộn. Khi đọc kinh, dù không hiểu mà cảm thấy “ngờ ngợ” hay, tức
là người có nhiều túc duyên với đại thừa.
Ông
nên đọc cuốn kinh “Đại thừa trang nghiêm bảo vương”cũng nói riêng về những lỗ
lông của ngài Quán Thế Ấm Bồ Tát. Trong kinh, Phật nói đến mức hóa giải luôn về
không, thời gian.
Tôi xin đọc lại
cho quí vị nghe đoạn kinh vừa đọc, không phải nghe để hiểu, (vì lời
kinh khó quá), mà nghe để thấy được sự mênh mang sâu thẳm trong lời
kinh…
KINH: Trong mỗi lỗ lông của Phổ Hiền Bồ
Tát, Thiện Tài bước một bước qua khỏi bất khả thuyết, bất khả thuyết phật sát
vi trần số thế giới, đi mãi như vậy tột thuở vị lai vẫn còn chẳng biết được thứ
đệ sát hải của trong một lỗ lông, cũng chẳng biết ngằn mé của sát hải tạng, sát
hải sai biệt, sát hải phổ nhập, sát hải thành, sát hải hoại, sát hải trang
nghiêm. Cũng chẳng biết được ngằn mé của Phật hải thứ đệ, Phật hải tạng, Phật hải
sai biệt, Phật hải phổ nhập, Phật hải sanh, Phật hải diệt. Cũng chẳng biết ngằn
mé của Bồ Tát chúng hải thứ độ, Bồ Tát chúng hải tạng, Bồ Tát chúng hải
sai biệt, Bồ Tát chúng hải phổ nhập, Bồ Tát chúng hải tập, Bồ Tát chúng hải
tán…
GIẢNG: Những “thế-giới-hải-tập” thế
nào? Và “Thế-giới-hải-tán” ra sao? Cũng như trong kinh Bát
Nhã có phẩm “Tập, tán.” Khi các vi trần tụ tập lại thành
thế giới, rồi các vi trần ấy tán ra thành hư không. Nên Phật dạy, đừng tưởng
các cõi ấy đều thực có, mà chỉ do các vi trần tập hợp mà thành, vì vậy ngài nói
rằng: “Vi trần chỉ tạm gọi là vi trần, cõi tạm gọi là cõi…” và
ngay cái thân này cũng chỉ là cái pháp tích tập của những vi tế bào. Vì vậy,
khi những tế bào ấy đến lúc trở về không thì nó lại tán ra, nên không cách gì
giữ được xác thân trường tồn mãi được, vì pháp giới vận hành phải như vậy.
KINH: Cũng chẳng thể biết ngằn mé của trí
nhập chúng sanh giới, biết căn sanh, chỗ trụ thậm thâm tự tại của Bồ Tát những
địa, những đại của Bồ Tát nhập.
Nơi sát hải trong lỗ lông của Phổ Hiền Bồ
Tát, Thiện Tài đi như vậy hoặc nơi một cõi trải qua một kiếp, nhẫn đến hoặc trải
qua bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số kiếp mà đi như vậy.
Cũng chẳng mất nơi đây mà hiện nơi kia.
Mỗi niệm Thiện Tài cùng khắp vô biên sát hải giáo hóa chúng sanh khiến họ hướng
về vô thượng bồ đề.
Đương lúc đó, Thiện Tài thứ đệ được những
hạnh nguyện hải của Phổ Hiền Bồ Tát, đồng với Phổ Hiền, đồng với chư Phật một
thân sung mãn tất cả thế giới…
GIẢNG:Thân ngài đầy
khắp pháp giới tức là nhập giới.
KINH: Đồng quốc độ, đồng hạnh, đồng chánh giác, đồng thần thông, đồng pháp luân, đồng biện tài, đồng ngôn từ, đồng âm thanh, đồng lực vô úy, đồng phật sở trụ, đồng đại từ bi, bất tư nghì giải thoát tự tại đều đồng…
Tôi xin ngừng nơi
đây. Quí vị nào có cần hỏi gì không? Chỉ còn một bài kệ của ngài Phổ Hiền, xin
để kỳ sau sẽ giảng tiếp.
Ngày 7 tháng 7 năm 1991
Hôm nay, chúng ta
đi vào bài kệ cuối của Hoa Nghiêm. Trong bài kệ này, ngài Phổ Hiền nói rằng:
— Tất cả thế gian
này đều là vọng tưởng, Và chư Phật vì lòng đại bi bình đẳng hiện đủ các thứ
thân để độ chúng sinh. Vì vậy, dù là một hòn đá trước cửa nhà, trông có vẻ vô
nghĩa, ù lỳ, nhưng cũng là sự hiện tướng của pháp thân đó.
KINH:
Đương lúc đó, Thiện Tài thứ đệ được những hạnh nguyện hải của Phổ Hiền Bồ Tát,
đồng với Phổ Hiền, đồng với chư Phật một thân sung mãn tất cả thế giới…..
GIẢNG: Ngài Phổ Hiền
tu đến mức độ đó thì thân ngài lớn đồng với thân chư Phật, sung mãn cả pháp giới,
tức là nhập pháp giới trọn vẹn, không có một cọng cây, một cái lá, một đóa hoa,
một vi trần nào…, mà không có tâm và thân của ngài phổ vào.
KINH:
Đồng quốc độ, đồng hạnh, đồng chánh giác, đồng thần thông, đồng pháp luân, đồng
biện tài, đồng ngôn từ, đồng âm thanh, đồng lực vô úy, đồng Phật sở trụ, đồng đại
từ bi, bất tư nghì giải thoát tự tại đều đồng.
GIẢNG: Ngài Phổ Hiền
đến bậc này là bậc Đẳng giác vào Diệu giác.
KINH:
Lúc đó Phổ Hiền đại Bồ Tát liền nói kệ rằng:
Các
ngài phải trừ những phiền não
Nhất tâm bất loạn mà lắng nghe
Tôi nói Như Lai đủ các độ…
GIẢNG: Đủ các độ
là tất cả phật sát độ.
KINH:
Tất cả
đạo chân thật giải thoát
Xuất thế điều nhu Thắng Trượng Phu
GIẢNG: Trong phẩm
thứ mười hai, phẩm Hiền Thủ, ngài Hiền Thủ cũng nói đến công đức của chư Phật, ở
đây ngài Phổ Hiền thu tóm lại tất cả. Tại sao lại phải nói đến công đức của chư
Phật? Vì nếu không có chư Phật thì thế gian này không thể tồn tại một sát na nếu
không nương vào thần lực hải của chư Phật. Như quí vị đã biết, trong phẩm Thành
tựu thế giới, thế giới này được tạo dựng bằng ba thứ lực: Nghiệp lực hải của
chúng sanh, nguyện lực hải của chư Đại Bồ Tát và thần lực hải của chư Phật.
Nghiệp lực của chúng sanh phải nương vào thần lực và nguyện lực thì mới tạo lập
thế gian được, và chỉ cần chư Phật rút đi thần lực trong một sát na thôi, thì tất
cả thế gian này sẽ tan tành không còn lại một cái gì. Vì vậy, kinh nói đến công
đức của chư Phật là gìn giữ thế gian này. Nhưng trong kinh Lăng Già lại nói rằng,
thế gian này nở ra từ A-lại-da thức của chúng sanh, và khi a-lại-da thức được gạn
lọc đến chỗ tột cao thì trở thành Bạch tịnh thức, tức là thành thần lực hải của
chư Phật. Vì vậy, Phật và chúng sanh cũng không phải là một, không phải là
khác. Nên ngài Phổ Hiền nói rằng: “Tất cả đạo chân thật giải thoát. Xuất
thế điều nhu Thắng Trượng Phu.” Thắng Trượng Phu là chư Phật. Trong
kinh thường dùng những chữ như: Thắng Trượng Phu, Tối Thắng Tôn…, để chỉ cho
chư Phật. Còn một vị Bồ Tát tu đến mức độ cao thì gọi là Tối Thắng Tử, người
con tối thắng, hay Phật tử tối thắng.
KINH:
Trong
lòng thanh tịnh như hư không
Hằng phóng trí nhật đại quang minh
Khiến khắp quần sanh diệt si ám…
GIẢNG: Lúc nào các
ngài cũng phóng quang minh diệt si ám cho chúng ta mà ta không hề hay biết.
KINH:
Như
Lai rất khó được thấy nghe
Vô lượng ức kiếp nay mới gặp
Như hoa Ưu Đàm một lần hiện
Vì thế nên nghe Phật công đức…
GIẢNG: Công đức
này là công đức trưởng dưỡng những thiện căn của chúng sanh.
KINH:
Tùy
thuận việc làm của thế gian
Ví như thuật sĩ hiện những sự
Chỉ để làm vui lòng chúng sanh
Chưa từng phân biệt khởi tưởng niệm.
GIẢNG: Khi Phật
phóng quang minh khởi tất cả những sắc tướng độ chúng sanh, nhưng tâm niệm ngài
vẫn vô niệm. Giống như một nhà thuận sĩ (nhà ảo thuật), hiện tất
cả mọi sắc tướng mà tâm không chấp. Trong kinh Đại Bảo Tích cũng nói chư Phật
là nhà Đại Ảo Sư tạo nên thế gian để độ chúng sanh. Nên thế gian này chỉ là một
tuồng huyễn hóa, do một đại ảo SƯ bày ở ngã ba đường. Nhưng phải hiện thế để
vui lòng chúng sanh, khiến tăng trưởng lòng tin mà tu hành mới ra khỏi được lưới
ấy. Sau khi ngài Phổ Hiền nói như vậy, chư Bồ Tát nghe xong bài kệ ấy, đều cũng
khởi lòng khát ngưỡng, mà nghĩ rằng, ngài Phổ Hiền Bồ Tát đã đủ các hạnh rồi,
nay ngài nói đến công đức của chư Phật, ta phải nghe cho kỹ.
KINH:
Phổ Hiền Bồ Tát công đức trí huệ trang nghiêm đầy đủ, như hoa sen chẳng dính trần
cấu tam giới. Ngài bảo chúng Bồ Tát rằng: “Các ngài hãỵ lắng nghe, naỵ
tôi muốn nói tướng một giọt trong biển công đức của Phật.”
GIẢNG: Ngài nói và
ngài dùng chữ “một giọt công đức,” chứ ngài không nói đến cả
biển công đức ấy, vì tất cả lời nói đều hữu hạn, chỉ nói được phần nào mà không
thể nói đến chỗ như như tịch tĩnh, lồng lộng khôn cùng. Nhưng dù chỉ nói một giọt
thôi, cũng đủ lắm rồi, vì giọt nước trong biển ấy vẫn mang đủ những khí vị của
nước biển.
KINH:
Phổ Hiền nói kệ rằng:
Phật
trí rộng lớn đồng hư không
Khắp cùng tất cả tâm chúng sanh
Đều rõ thế gian những vọng tưởng.
GIÁNG: Những kiến
chấp của phàm phu chúng ta, của Thanh Văn của ngoại đạo v.v… đều chĩ là những vọng
tưởng.
KINH:
Chẳng
khởi những phân biệt sai khác…
Một niệm đều biết pháp tam thế
Cũng rõ tất cả căn chúng sanh
Ví như nhà ảo thuật thiện xảo
Mỗi niệm thị hiện vô biên sự
Tùy tâm chúng sanh hiện những hạnh
Thuở xưa các nghiệp, sức thệ nguyện
Khiến họ thấy, biết đều chẳng đồng
Mà Phật bổn lai không động niệm
Hoặc có xứ xứ thấy Phật ngồi
Sung mãn thập phương các thế giới
Hoặc có chúng sanh tâm bất tịnh
Trong vô lượng kiếp chẳng thấy Phật
GIẢNG: Ở đây
ngài nói đến các loại căn cơ chúng sanh. Những người tu hành cao, có tín giải
thì sẽ thấy xứ xứ đều có Phật sung mãn thập phương thế giới. Trái lại,những
chúng sanh tâm ý bất tịnh, không tin, không chịu tu hành, thì trong vô lượng kiếp
cũng không thể thấy Phật được, vì không cảm thì không có ứng.
KINH:
Hoặc
có tín giải rời kiêu mạn
Phát ý liền được thấy Như Lai
GIẢNG: Chúng sanh
nào có tín giải, tâm lại thanh tịnh không kiêu mạn, thì người đó chỉ cần phát
ý (khởi niệm) là thấy được Như Lai. Như nếu chúng ta có lòng
tin sâu chắc, tâm ý lại thanh tịnh, thì chỉ cần một niệm mong được thấy đức A
Di Đà thì ngài sẽ hiện đến.
KINH:
Hoặc kẻ
siểm cuống tâm bất tịnh,
Ức kiếp tìm cầu chẳng thấy Phật
GIẢNG: Những kẻ
nào tâm còn bất tịnh thì trăm ngàn ức kiếp có tìm cầu hoài cũng không thấy được
Phật.
KINH:
Hoặc
người mọi xứ nghe tiếng Phật
Âm thanh mỹ diệu làm tâm vui
Hoặc kẻ trăm ngàn muôn ức kiếp
Vì tâm bất tịnh chẳng được nghe
Hoặc thấy thanh tịnh đại Bồ Tát
Đầy khắp tam thiên đại thiên giới
Đều đã đầy đủ hạnh Phổ Hiền
Trong đó Như Lai nghiễm nhiên tọa
GIẢNG: Những vị tu
hành cao, tâm ý thanh tịnh, luôn luôn thấy được Như Lai.
KINH:
Hoặc
thấy cõi nầy diệu vô tỷ
Phật vô lượng kiếp đã nghiêm tịnh
GIẢNG: “Diệu
vô tỷ,” là diệu trang nghiêm không thể so sánh được. Trong kinh Duy Ma
Cật, ngài Xá Lợi Phất nghĩ rằng, không biết tại sao cõi Ta Bà của đức Thích Ca
xấu xí thế. Liền đó Phật Thích Ca chỉ cần lấy chân ấn đất thì ngài Xá Lợi Phất
thấy cõi Ta Bà thanh tịnh ngay. Đủ biết sở dĩ ta thấy đầy hầm hố, chông gai, chỉ
là vì nghiệp của chúng ta quá nặng nề, nhưng nếu tâm thức ta thanh tịnh thì cõi
Ta Bà này trở thành tịnh độ.
KINH:
Tỳ Lô
Giá Na Tối Thắng Tôn
GIẢNG: “Tối
Thắng Tôn” là tên gọi của chư Phật.
KINH:
Trong
đây đại ngộ thành chánh giác
Hoặc thấy Liên Hoa cõi thắng diệu
Hiền Thủ Như Lai ở trong đó.
GIẢNG: Đoạn kinh
này ngài nói về cõi tịnh độ của ngài Liên Hoa Hiền Thủ, còn thanh tịnh hơn cõi
của đức A Di Đà nhiều lắm. Kinh Hoa Nghiêm có dạy rất rõ về các từng lớp thanh
tịnh của các cõi tịnh độ, sự thanh tịnh tột cùng là cõi tịnh độ Liên Hoa, ở
đó,những đại Bồ Tát như ngài Phổ Hiền ngồi đầy khắp trong hoa sen. Cõi Cực Lạc
của Đức A Di Đà vẫn còn có hàng Thanh Văn và phàm phu, còn phải nghe pháp để đắc
cái này, cái nọ. Nhưng sở dĩ chúng ta cầu vãng sanh Cực Lạc íà vì căn cơ chúng
ta chỉ có được từng đó thôi, thứ nữa cõi ây gần chúng ta hơn và có nhiều tầng lớp
để chúng ta có thể dần dần tu lên nữa. Còn những cõi tịnh độ kia thì cao quá,
căn cơ chúng ta không thể với nổi. Và trong kinh thì lúc nào cũng nói trùng
trùng những cõi tịnh và uế, và nói rất rõ. Ây vậy mà vẫn còn có những vị tu
hành vẫn bài bác tịnh độ và không chịu tin, lại còn chê những người tu theo
pháp môn tịnh độ là những người ngu xuẩn, chỉ dành cho những bà già nhà quê. Đó
là một điều sai lầm và đáng tiếc!
KINH:
Vô lượng
Bồ Tát chúng vi nhiễu
Thảy đều siêng tu hạnh Phổ Hiền
Hoặc có thấy Phật Vô Lượng Thọ
(tức là ngài A Di Đà)
Quán Âm, Thế Chí hầu hai bên
Đều bậc quán đảnh bổ xứ cả
Sung mãn mười phương các quôc độ.
GIẢNG: Trong đoạn
kinh này, ngài lại tả sự thanh tịnh bên cõi Cực Lạc của đức A Di Đà, có ngài
Quán Âm và ngài Thế Chí hầu hai bên.
KINH:
Hoặc
có thấy cõi đại thiên này
Thanh tịnh trang nghiêm như Diệu Hỷ
A Súc Như Lai ngự tại đây
Chúng đại Bồ Tát bao quanh Phật
GIẢNG: Ở phương
tây có đức A Di Đà. Phương đông có đức Diệu Hỷ Như Lai. Trong kinh Đại Bảo Tích
có nói rõ các vị Phật bốn phương. Nhưng thường thường chúng ta xin vãng sanh Cực
Lạc vì ngài A Di Đà có túc duyên lớn với chúng ta, ngài phát thệ bốn mươi tám
nguyện lớn để độ chúng sanh. Thứ nữa nước Cực Lạc cũng gần hơn những cõi thanh
tịnh khác. Vì vậy, nên Phật khuyên chúng ta nên cầu xin vãng sanh Cực Lạc.
KINH:
Hoặc
thấy Nguyệt Giác Danh xưng Phật
Cùng Kim Cang Tràng chư Bồ Tát
Ở cõi Viên Cảnh diệu trang nghiêm
Khắp đến mười phương các quốc độ
GIẢNG: Đây cũng là
một cõi tịnh độ lớn.
KINH:
Hoặc
thấy Nhựt Tạng Phật Thế Tôn
Ở cõi thanh tịnh Thiện Quang Minh
Cùng với quán đảnh chư Bồ Tát.
Sung mãn mười phương mà thuyết pháp.
GIẢNG: Có những
cõi mà chúng Bồ Tát đều là nhứt sanh bổ xứ, có những cõi đều có những vị quán đảnh. (Những
vị quán đảnh này đều là đệ thập địa Bồ Tát).
KINH:
Hoặc
thấy Kim Cang Đại Diệm Phật
Câu hội với Trí Tràng Bồ Tát
Châu hành tất cả cõi quảng đại
Thuyết pháp diệt trừ chúng sanh mê.
GIẢNG: Ngài giảng
nói toàn những cõi tịnh độ.
KINH:
Mỗi mỗi
đầu lông bất khả thuyết
Chư Phật tướng hảo ba mươi hai
Bồ Tát quyến thuộc đồng vây quanh
Vì độ chúng sanh luôn thuyết pháp.
GIẢNG: Trên kia,
ngài nói đến các cõi tịnh độ lớn, còn ở đoạn kinh này ngài nhắc lại rằng trong
những lỗ lông có vô lượng cõi. Đủ biết rằng, khi tâm thức lên đến mực độ ấy thì
không gian bị hóa giải, không còn có cái lớn, bé như con mắt phàm nữa. Như lúc
đầu, Thiện Tài mong cầu thấy ngài Phổ Hiền mà chỉ thấy các tinh vân, tinh tú,
nhật, nguyệt v.v.., sau đó mới nhìn thấy ngài Phổ Hiền ngồi cạnh đức Phật Thích
Ca trong bồ đề đạo tràng.
Lúc ấy, kinh lại
không tả ngài Phổ Hiền hình dáng ra sao theo lối mắt nhìn của chúng ta mà chỉ
mô tả ngay vào lỗ lông của ngài, từ mỗi lỗ lông cổ trăm vạn thân vân, mỗi thân
vân lại khởi lên tạo thành những tinh tú, nhật, nguyệt, hoặc cõi này, cõi khác
v.v… ở đây, cũng như thế, nói đến những cõi tịnh độ: “Mỗi mỗi đầu lông
bất khả thuyết…”
KINH:
Hoặc
có xem thấy một lỗ lông
Đầy đủ cõi trang nghiêm quảng đại
Vô lượng Như Lai đều ở trong
Thanh tịnh phật tử đều sung mãn
Hoặc có thấy trong một vi trần
Có đủ hằng sa Phật quốc độ
Vô lượng Bồ Tát đều sung mãn
Bất khả thuyết kiếp tu các hạnh
Hoặc có thấy chỗ một đầu lông
Vô lượng trần sa những sát hải
Bao nhiêu nghiệp khởi đều sai khác
Tỳ Lô Giá Na chuyển pháp luân.
GIẢNG: Trên kia,
phần nhiều kể những cõi tịnh. Còn đến đoạn kinh tiếp theo đây ngài lại kể những
cõi uế.
KINH:
Hoặc
thấy thế giới chẳng thanh tịnh
Hoặc thấy thanh tịnh báu làm thành
Như Lai trụ thọ lâu vô lượng.
GIẢNG: Ở đây,
ngài chỉ nói một câu có thế giới uế thôi, sau đó lại nói đến những thế giới
thanh tịnh.
KINH:
Nhẫn đến
Niết Bàn đều hiện đủ
Cùng khắp mười phương khắp thế giới
Thị hiện nhiều thứ bất tư nghì
Tùy các chúng sanh tâm trí nghiệp
Thảy đều hóa độ khiến thanh tịnh
Vô Thượng Đạo Sư như vậy thảy
Sung mãn thập phương các quốc độ
Thị hiện nhiều loại thần thông lực
Tôi nói một ít ngài nên nghe.
GIẢNG: Trong đoạn
kinh này có điều lạ là ngài chỉ nói một câu “hoặc thấy thế giới chẳng
thanh tịnh,” sau đó ngài lại nói đến những thế giới thanh tịnh ngay.
Có lẽ là vì trong phẩm “Hoa tạng thế giới thành tựu” ngài đã tả
về những uế độ nhiều rồi, nên ở đây, khi một hành giả tu đến mức gần cuối cùng
thì ngài thường nói đến cõi thanh tịnh nhiều hơn. Nếu ta đọc lại kinh Hoa
Nghiêm sẽ thấy rằng, ở chỗ nào ngài cũng hay nói đến những cõi tịnh, uế. Vì thế,
không thể nào không tin là có cõi tịnh độ được. Vì như thế mới hợp lý. Tu hành
là gì? Là chúng ta tu từ cõi uế sang cõi tịnh. Nhưng nếu ta cứ khăng khăng, bướng
bỉnh mà cho rằng, “không cần sang tịnh độ” thì đó chính là tự
cô phụ mình vậy. Rồi khi sang được cõi tịnh, tu hành đắc đạo lại trở lại cõi uế
độ sanh. Muốn nhưthế, trước hết ta phải ra khỏi dục giới đã.
KINH:
Hoặc
thấy Thích Ca thành Phật đạo
Đã trải kiếp số bất tư nghì
Hoặc thấy nay mới làm Bồ Tát
Mười phương lợi ích các chúng sanh.
GIẢNG: Ở đây,
chúng ta phải trở lại phẩm “Thọ lượng Như Lai” trong kinh Pháp
Hoa. Trong đó Phật nói ngài thành đạo từ lâu xa lắm, hoặc nói bây giờ ngài mới
thành đạo là tùy theo mức độ tâm thức từng loài chúng sanh nhìn. Nếu chúng sanh
nhìn với tâm nhãn cao, sẽ thấy Phật thành Phật từ rất lâu xa về quá khứ, nhưng
với con mắt thịt đương thời của phàm phu chúng ta thì sẽ thấy, ngài mới thành
Phật khoảng hai ngàn năm trăm năm trước. Thường thường, các ngài thị hiện như vậy
để chúng sanh nghĩ rằng: “Thì ra, vị Phật ấy là một Thái Tử, giống như
những người thường, cũng có vợ, con. Sau đi tu thành Phật được, thì ta đây tu một
thời gian cũng có thể thành Phật được.” Đó là phương tiện thiện xảo của
các ngài thị hiện để độ sanh.
KINH:
Hoặc
người lại thấy Thích Sư Tử
(Thích Sư Tử cũng là một vị Phật)
Cúng dường chư Phật tu đạo hạnh
Hoặc thấy Thế tôn đủ phước trí
Hiển hiện những sự đại thần thông
Hoặc thấy bố thí, hoặc trì giới
Hoặc nhẫn, tinh tấn, hoặc thiền định
Bát nhã, phương tiện, nguyện, lực, trí
Tùy tâm chúng sanh đều thị hiện.
GIẢNG: Ở mỗi
cõi, tùy theo chúng sanh chấp trước cái gì, thích gì, ngài hiện ra như vậy. Nếu
có chúng sanh chấp mình là người tu hành, thì ngài hiện thân người tu hành
thành đạo. Nhưng nếu trong các cõi như sắc cứu cánh, là một cõi tâm thức chúng
sanh đã cao rồi, thì ngài lại nói thẳng rằng ngài đã đắc đạo từ vô lượng kiếp,
và trong cõi đó ngài lại thị hiện thành Phật nhưng dưới một hình thức khác.
Nhân đây, tôi cũng
xin nói qua về con đường tu chứng của chúng ta ra sao. Ban đầu chúng ta tu hành
là phát bồ đề tâm, làm những hạnh lành và tất cả đều hồi hướng Cực Lạc, sang đó
để đắc được năm thứ tam muội. Sau đó lên được mức Vô sanh pháp nhẫn (đệ bát
địa) và được chư Phật thọ ký. Lúc đó, có thể ta sẽ ở luôn đây để
tu hành, hoặc có thể ta có những hạnh nguyện trở về những cõi uế để độ sanh mà
không bị nhiễm, vì lúc đó ta đã ở mức vô sanh pháp nhẫn rồi, và sắc thân lúc đó
không còn là thai sanh máu mủ nữa mà là “pháp thân đại sĩ.” Sau
đó, trải qua nhiều kiếp tu hành về các hạnh “ba la mật,” đến
khi vào đến đệ thập địa thì lúc đó Đại Bồ Tát ấy sẽ lên cung trời sắc Cứu
Cánh (như trong kinh Tâm Địa Quán hay Lăng Già dạy thế). Lúc
đó, Đại Bồ Tát sắp nhận sự quán đảnh của Chư Phật, ngài ngồi trên một bông đại
bửu liên hoa, phóng hào quang khắp thập phương thế giới, các chư Bồ Tát từ các
nơi vân tập về để dự lễ thọ chức của vị Đại Bồ Tát này, lúc đó ngài đã gần đồng
như Phật.
Sau khi thọ lễ
quán đảnh, ngài có thể vẫn ở trên đó, tu dần đến Đẳng giác và Diệu giác, hoặc
ngài có thể thị hiện xuống nhân thế để độ sanh. Khi ấy, ngài sẽ xuống cõi trời
Đâu Suất như ngài Di Lặc, ngồi đó, chờ thời tiết chín mùi, chờ cõi nhân thế, và
tâm thức của chúng sanh chín mùi, đáng được gặp một vị Phật. Rồi chọn xem gia
đình, quyến thuộc nào đáng được mang thai Phật, thường là gia đình được chọn đều
đã theo ngài tu hành nhiều kiếp rồi, và nhất là người đàn bà mang thai Phật đều
là bậc đại Bồ Tát lớn có nguyện mang thai Phật, như ngài Ma Gia thị hiện xuống
trần để cho ngài gá vào. Nhưng người trần gian lại cứ tưởng rằng ngài cũng là
thai sanh như họ. Ngài làm những việc đó, tìm những quyến thuộc của mình, đồng
thời cùng những vị đệ tử của ngài từ nhiều kiếp để cùng xuống trần như một chùm
nho vậy. Như ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, đi vào ngoại đạo, hoặc ngài Ca Diếp
đi tu thờ thần lửa v.v…
Chư Phật không bao
giờ đản sanh mà không có rất nhiều quyến thuộc đi theo. Từ chư thiên cõi sắc và
cõi vô sắc đều đi theo hộ trì và nghe pháp. Ngay khi ngài nhập thai, các vị chư
Thiên và Đại Bồ Tát cũng vẫn ở nơi bụng ngài Ma Gia để nghe pháp, đồng thời tất
cả những vị có cơ duyên đều cũng thọ sanh cùng thời với ngài. Vì vậy, những người
vợ của đức Thích Ca như Da-Du-Đà-La và Thích-Nữ-Cù-Ba chỉ xuống thị hiện làm vợ
ngài thôi. Thực ra các ngài đều là những bậc tu hành lớn. Bà Cù-Ba là một vị đại
Bồ Tát địa thứ mười. Còn bà Da Du Đà La với Phật chắc đã nhiều kiếp làm vợ chồng
rồi, có thể các ngài làm chồng vợ với nhau đến năm trăm kiếp, (như ngài A
Nan và Ma Đăng Già), lúc bấy giờ thì chuyển tình đời sang tình đạo,
cùng nhau đi trong sanh tử mà không bị sanh tử làm đắm nhiễm. Trong kinh kể những
mốì tình như thế rất nhiều, như trong kinh Hoa Nghiêm cũng vậy, có vị Bửu Nữ Cụ
Túc Diệu Đức và Thái Tử Đại Quang (nếu tôi nhớ tên ngài không lầm) cũng
thế. Nên phải hiểu rằng, có những cặp nam nữ, có duyên với nhau từ nhiều kiếp,
cùng làm vợ chồng, rồi đến một lúc nào đó thì tình đời chuyển thành tình đạo,
sau đó hai người cùng lên cao, những vọng tưởng sẽ trở thành Bát Nhã, vọng tình
sẽ trở thành Đại Bi, lên đến tột bờ mé thì cùng nhập lại để vào Niết Bàn tịch
tĩnh của chư Phật. Nên sự chuyển biến từ tình đời sang tình đạo đều được chuyển
theo hình xoáy trôn ô’c, vọng tình sau trở thành đại bi, vọng tưởng trở thành
bát nhã.
Trên đây là con đường
tu chứng mà ta cần phải biết qua, và cần phải cầu xin vãng sanh Cực Lạc, cốt nhất
là để đắc “Vô sanh nhẫn,” tức là đệ bát địa. Ở địa này, hành
giả đã được mức độ bất thối chuyển, đã có ngũ thông, và nhiều tam muội, tự tại
lực, lúc đó hành giả có thể thong dong đi xuống trần thế độ sanh, xuống đây, có
thể làm đủ hạnh, như lấy vợ, sinh con, làm đủ nghề thế gian mà không bị nhiễm đắm,
vì lúc đó hành giả đã là pháp thân bồ tát rồi. Làm những hạnh độ sanh đủ lục ba
la mật rồi, lúc đó hành giả lên cõi trời sắc cứu cánh, vào đệ thập địa, rồi
thành Phật. Hay xuống cung Đâu Suất, nhìn xuống nhân gian chọn nơi thọ sanh và
thị hiện thành Chánh Giác. Đó là lịch trình tu chứng của một vị Bồ Tát. Nên
chúng ta phải đọc nhiều kinh rồi nối lại mới có thể hiểu rõ.
Như chuyện thành
Phật ở trời sắc cứu cánh là lộ trình mà trong kinh Tâm Địa Quán đã dạy rõ, mà
trong kinh Lăng Già cũng nhắc lại điều ấy. Khi ngài Đại Huệ hỏi đức Phật rằng:
Tại sao không thành Phật ở tầng trời sắc Cứu cánh mà lại thành Phật ở nhân
gian? Nhưng chính ra, các ngài thành Phật ở trời sắc cứu cánh, còn xuống nhân
gian chỉ là thị hiện thành Phật mà thôi. Mỗi kinh, nói từng phần một, vì Phật
thuyết pháp là tùy theo người hỏi mà trả lời, nên khi ta đọc kinh, ta phải biết
nối lại từ đoạn này đến đoạn kia, như những ngọn hải đăng lập lòe trên biển
sương mù, khi biết nối lại rồi thì tất cả các kinh đều thông suốt lẫn nhau mà
không hề mâu thuẫn cả. Sở dĩ đôi khi đọc kinh ta thấy như có sự mâu thuẫn vì
không hiểu kinh và không biết cách nối mà thôi.
Trong bộ Đại Trí độ
luận, ngài Long Thọ nói rất kỹ về thế nào là Bồ Tát vị, thế nào là đắc vô sanh
pháp nhẫn, thế nào là bất thối chuyển, có bao nhiêu thứ thọ ký v.v… tất cả những
thứ ấy, chúng ta phải hiểu qua. Theo ý tôi, nếu vị nào tu học đại thừa cẩn thận,
phải đọc bộ Đại trí độ luận (do cụ Thích Trung Quán dịch), giảng
về Đại Bát Nhã.
Nay trở lại ngài
Thiện Tài.
KINH:
Hoặc
hiện tu hành vô lượng kiếp
Trụ nơi Bồ tát, bậc kham nhẫn
Hoặc hiện trụ nơi bực bất thối
Hoặc hiện pháp thủy rưới trên đầu…
GIẢNG: ”
Pháp thủy rưới trên đầu..” là lễ quán đảnh.
KINH:
Hoặc
hiện thân Phạm, Thích, Tứ Vương…
GIẢNG: Thân Phạm
là thân Phạm Thiên. Thích là thân trời Đế Thích. Tứ Vương là thân Tứ Thiên
Vương.
KINH:
Hoặc
hiện Sát Lợi, Bà La Môn…
GIẢNG: Sát Lợi là
thân Sát Đế Lợi. Bà La Môn là thân các vị Bà La Môn ngoại đạo.
KINH:
Nhiều
loại sắc tướng thân trang nghiêm
Dường như thuật sĩ hiện hình tượng…
GIẢNG: Riêng bài kệ
này đã dùng ba lần chữ “thuật sĩ.” Tôi đã đọc cho quí vị nghe
một đoạn trong kinh Đại Bảo Tích nơi phẩm “Đại ảo sư Bạt Đà La” ở đạo
tràng này rồi, trong đó Phật tự nhận mình là một Đại Ảo Sư. Nên sự quán chiếu về
ảo rất quan trọng, ta nên thực hành sự quán chiếu ấy, vì không có gì lợi hơn và
khi quán lâu, những ý tưởng đó sẽ thấm dần vào chúng ta,rồi đi đâu, thấy cảnh
giới gì cũng thấy chẳng thật, chẳng hư, tất cả chỉ là một tuồng huyễn ảo, dần dần
nó sẽ trừ được nhiều thứ phiền não và hệ lụy. Đến khi quán chiếu ngay cái thân
ta cũng là ảo thì ở mức độ này, ta cũng có thể đối phó ít nhiều với bệnh tật được
rồi, có thể sẽ không còn cảm thấy đau đớn mấy đỗi, và khi tâm thức chuyển dần
lên cao thì bệnh tật không còn có thể móc vào ta được nữa.
KINH:
Hoặc
hiện Đâu Suất mới giáng thần
Hoặc hiện trong cung thọ dục lạc.
GIẢNG: Các ngài
có thể thị hiện thọ đủ những dục lạc của thế gian, như ăn uống, ngủ nghỉ và
ngay cả đến vấn đề nam nữ v.v.., nhưng vẫn không nhiễm đắm.
KINH:
Hoặc
thấy rời bỏ những vinh hoa.
Xuất gia lìa tục đi học đạo
Hoặc thấy mới sanh hoặc thấy chết
Hoặc thấy xuất gia học dị hạnh.
GIẢNG: Tất cả những
gì gọi là “dị” có nghĩa là ngoại đạo, và các ngài thị hiện đi
vào ngoại đạo để học, nhưng chính thật để chỉ cho ngoại đạo biết rằng, con đường
tu của họ vẫn chưa đến mực giải thoát rốt ráo. Còn tất cả chúng sanh chưa hiểu
đạo thì gọi lá “dị tánh”.
KINH:
Hoặc
thấy ngồi dưới cội Bồ Đề
Hàng phục ma quân thành chánh giác
Hoặc lại thấy Phật mới Niết Bàn
Hoặc thấy dựng tháp khắp thế gian
Hoặc thấy trong tháp thờ tượng Phật
Vì biết thời cơ hiện như vậy
Hoặc thấy Như Lai Vô Lượng Thọ
Phật thọ ký cho chư Bồ Tát
Mà thành vô thượng Đại Đạo Sư
Kế bổ nhậm ở cõi An Lạc
Hoặc thấy vô lượng ngàn ức kiếp
Phật sự đã xong nhập Niết Bàn.
GIẢNG: Trong tất cả
các đức Phật, riêng có ngài Đa Bảo là ngài không thuyết pháp, sau khi thành
Chánh giác ngài nhập Niết Bàn ngay, và ngài để lại toàn thân sá lợi, thì đó
cũng là một cách thuyết pháp. Còn đức Thích Ca để toái thân sá lợi (sá lợi
nát ra từng viên một).
KINH:
Hoặc
thấy nay mới thành bồ đề
Hoặc thấy chánh tu những diệu hạnh
Hoặc thấy Như Lai Thanh Tịnh Nguyệt
Ở tại Phạm Thế và Ma Cung.
GIẢNG: Đức Như Lai
ở trên trời Phạm thế và ngay cả cung điện của Ma nữa.
KINH:
Tự Tại
thiên Cung, Hóa Lạc Cung
Thị hiện thần thông những biến hóa.
GIẢNG: Lúc nào
kinh cũng nói sự biến hóa.
KINH:
Hoặc
thấy ở tại cung Đâu Suất
Vô lượng chư Thiên đồng vây quanh
Vì họ thuyết pháp cho hoan hỉ
Chư Thiên phát tâm cúng dường Phật
Hoặc thấy ở tại Dạ Ma Thiên
Đao Lợi, Tứ Thiên, cung Long Thần
Nơi cung điện Thiên, Long, Bát Bộ
Không chỗ nào Phật chẳng hiện thân.
GIẢNG: Ở chỗ nào
Phật cũng hiện thân. Ngay ở đây ngài cũng hiện thân mà chúng ta không nhìn nổi.
Nếu có một vị tu hành cao, ngồi tụng kinh với tâm thanh tịnh, tụng độ ba ngày
vào được định thì sẽ thấy Phật đang ngồi thuyết pháp. Vì thế, chúng ta cần ý thức
rằng chung quanh đây đều bao bọc bởi thế giới vô hình, rất ghê gớm, chỉ cần có
cơ hội là những lực vô hình có thể lọt vào được thân tâm ta rồi. Thí dụ như người
tu, chỉ cần khởi một tâm kiêu mạn, hay tâm tham dục thì ma lợi dụng ngay kẽ hở
đó để hại được họ rồi, vì vậy có rất nhiều trường hợp bị ma nhập, nhưng thế
gian không muốn nói đến mà cứ lờ đi. Ngược lại, nếu hành giả ấy không có tâm
kiêu mạn, tham dục hay mong cầu sự chứng đắc nào, thì chư Phật lại hiện ra đối
trước người ấy. Nên ta lúc nào cũng phải ý thức đến thế giới vô hình. Thí dụ
như ta làm một việc nào mà nghĩ rằng không có ai biết cả, nhưng các vị quì thần
đều biết hết, nghĩ như thế sẽ bớt đi những ý nghĩ cuồng ngông vô ý thức.
KINH:
Ở chỗ
Nhiên Đăng Phật Thế Tôn
Rải hoa, trải tóc để cúng dường
Từ đây biết rõ pháp thâm diệu
Hằng dùng đạo này độ quần sanh.
GIÁNG: Đoạn kinh
này nhắc lại một thuở quá khứ của đức Phật Thích Ca cúng dường Phật Nhiên Đăng.
Lúc đó ngài là một vị Bà La Môn tên Mê Già, đi cúng dường ngài Nhiên Đăng, gặp
cô con gái cầm hoa, hai người rủ nhau cùng mang hoa này cúng dường Phật. Sau
khi ngài rải hoa, ngài lại trải tóc, và trải cái áo da hưu xấu của mình để đức
Phật dẵm lên. Khi Phật dẵm lên chiếc áo ấy, ngài Mê Già đắc ngay vô sanh pháp
nhẫn, bay lên hư không nói kệ tán thán Phật Nhiên Đăng. Nên chúng ta phải có
lòng tin sâu chắc, tin chắc rằng, nếu có tu hành thì sẽ có ngày chứng đắc, như
trong mây câu kệ cuối cùng ngài Phổ Hiền dạy…
KINH:
Nếu ai
nghe biển công đức này
Mà sanh lòng vui mừng tin hiểu
Tất sẽ được những công đức này
Thận trọng chớ sanh lòng ngờ vực.
GIẢNG: Ngài Phổ Hiền
dặn dò chúng ta thế, vì biết phàm phu chúng ta hay khởi tâm nghi ngờ lắm. Không
nên khởi tâm nghi như vậy, phải tin chắc rằng một ngày kia, đức Phật sẽ dẵm lên
lưng ta, đắc ngay được vô sanh pháp nhẫn, bay lên hư không cao bảy cây đa la
nói kệ tán thán đức Phật. Chắc chắn sẽ như thế! Nên ta phải có lòng tin và sự
chuyên cần, đừng nhìn vào vật nhiều quá, vì khi nhìn vào vật nhiều sẽ là những
cơ duyên làm ta bị lùi lại mất vài ngày, vài năm, nhẫn đến vài kiếp trên con đường
tu chứng của ta. Hãy quay trở lại nhìn vào tâm, lúc đầu có thể chúng ta sẽ ngơ
ngác, sau quen dần, lúc đó sẽ nhìn thấy được nhiều điều kỳ diệu.
KINH:
Hằng
dùng đạo này độ quần sanh
Hoặc người thấy Phật lâu Niết Bàn
Hoặc thấy Phật mới thành bồ đề
Hoặc thấy Phật trụ vô lượng kiếp
Hoặc thấy giây lát liền nhập diệt
Thân tướng quang minh cùng thọ mạng
Trí huệ bồ đề và Niết Bàn.
Chúng hội được độ tiếng oai nghi
Mỗi mỗi như vậy đều vô số
Hoặc hiện thân mình rất rộng lớn
Như núi Tu Di đại bửu sơn
Hoặc thấy Phật ngồi chẳng động la
Sung mãn vô biên những thế giới.
GIẢNG: Ngài có thể
hiện ra như một hạt bụi, mà cũng có thể ngài ngồi kiết già, thân choán cả hư
không.
KINH:
Hoặc thấy viên quang lượng một tầm…
GIẢNG: Tức là thân
ngài phóng quang minh ra khoảng một tầm. Tại sao chư Phật và đức Thích Ca chỉ
hiện quang minh một tầm thôi, trong khi ngài có thể hiện hào quang sáng chói mọi
cõi nước? Vì với chúng sanh như chúng ta nếu ngài phóng hào quang lộng lẫy chói
sáng quá ta sẽ khởi tâm sợ hãi, hơn nữa nghiệp chúng sanh chỉ đáng được như thế
thôi, nên ngài chĩ hiện một tầm thôi. Nhưng nếu một vị Bồ Tát cần phải hiện mười
tầm thì lúc đó ngài sẽ hiện mười tầm hay hơn nữa.
KINH:
Hoặc thấy ngàn vạn ức do tuần…
GIẢNG: Hoặc ngài
có thể phóng quang minh xa đến ngàn vạn ức do tuần. (Mỗi một do tuần
khoảng bốn mươi dặm).
KINH:
Hoặc
thấy chiếu khắp vô lượng cõi.
Hoặc thấy sung mãn tất cả cõi.
Hoặc thấy Phật thọ 80 năm (như Phật Thích Ca)
Hoặc thấy thọ ngàn muôn ức tuổi.
GIẢNG: Tùy theo thời
tiết và căn cơ của chúng sanh thì thọ mạng của chư Phật cũng thế. Thí dụ như
trong một cõi nào, thọ mạng chúng sanh lên đến tám ngàn tuổi thì ngài cũng thị
hiện thọ mạng dài như thế.
KINH:
Hoặc thọ bất khả tư nghì kiếp…
GIẢNG: Vì tất cả
chỉ là biến hóa của tâm, mọi sự đều có thể biến hóa ra được. Nhưng chúng ta lại
không biết được điều đó, suốt mấy chục năm sống, chỉ nhìn thấy những việc rất hữu
hạn, và tin chắc vào những điều mắt thấy, tai nghe ấy. Như cứ tin chắc rằng,
người thì phải chui từ bào thai ra mà không bao giờ nghĩ rằng có những trường hợp
hóa sanh, hoặc nghĩ rằng phải đi làm mới có tiền, phải ăn cơm, ăn thịt mới thấy
no, mà không biết rằng có những loài chúng sanh ăn bằng nhiều loại khác nhau,
như chỉ cần suy tư cũng no (tư thực), hay chỉ cần ngửi mùi
hương (xúc thực), và tuyệt nhiên không bao giờ hiểu rằng, thức
có thể nuôi sống thọ mạng được (thức thực). Khi chúng ta hết
được những tham dục thì sẽ được thọ sanh trong hoa sen, hay trong bông soài.
Những Phật tử tu
theo tịnh độ, thường tu theo hai cách. Thứ nhất là tu niệm Phật cho đến khi nhất
tâm bất loạn. Nhưng lối niệm Phật này rất khó, vì phải giữ sao cho tâm thật yên
tịnh, nhưng ngoài ra, chúng ta cũng có thể tu theo pháp môn “tán môn,” tức
là niệm Phật một ít, suy nghĩ về kinh một ít. Nhất là hiểu được tất cả thế gian
này đều là huyễn ảo, kể cả ngài A Di Đà và cõi Cực Lạc, thì có thể có hy vọng
vãng sanh. Hiểu được điểm then chốt ấy (về chữ ảo) chúng ta sẽ
bớt đi rất nhiều phiền não, bớt được nhiều tham dục, sân, si, và đồng thời trưởng
dưỡng được lòng từ bi bình đẳng.
KINH:
Hoặc
thọ bất khả tư nghì kiếp
Như vậy lần lượt bội hơn đây
Phật trí thông đạt tịnh vô ngại
Một niệm biết khắp pháp tam thế.
GIẢNG: Như tôi vẫn
nói đến vấn đề thời gian. Chúng ta luôn thấy có quá khứ, hiện tại, vị lai.
Nhưng chư Phật chỉ cần một niệm là có thể thấy tam thế hiện tiền (hiện
ra trước mắt), từ vô lượng kiếp về trước, nhẫn đến vô lượng kiếp về
sau.
KINH:
Một niệm
biết khắp pháp tam thế
Đều từ tâm thức nhơn duyên sanh
Sanh diệt vô thường không tự tánh.
GIẢNG: Đoạn này giảng
cũng giống như kinh Lăng Nghiêm, trong kinh nói “tâm ảnh ra sắc.” Còn
kinh Lăng Già lại nói tất cả từ do tâm ánh ra, từ A-lại-da thức phát khởi lên,
ánh ra thành sắc. Khi thọ sanh, chủng tử nở ra cái gì, lập tức ta sẽ lọt vào cảnh
giới y báo ở ngoài đúng y như thế. Như một người có những chủng tử nhiều phước
đức, nhiều trí huệ nở ra, thì lập tức thần thức sanh vào một y báo rất tốt, vào
một gia đình quyền quý, chung quanh đều bằng vàng ngọc, lưu ly. Ngược lại, nếu
những chủng tử ngu si, ít trí huệ, không có phước đức hay thiện căn, thì thần
thức ấy sẽ chui vào một gia đình bần cùng, hèn kém, không biết Phật, pháp,
tăng. Vì vậy trong kinh có câu: “Các chúng sanh đều là những người
nghèo cùng.” Nghèo cùng về thiện căn, về phước đức, và trí huệ. Dù rằng
có thể được làm vua có nhiều tiền bạc, nhưng cái tiền ấy chỉ đem lại một ít vật
chất trong kiếp này thôi, rất hữu hạn. Còn cái từ bi và trí huệ thì đi qua nhiều
kiếp tiêu xài cũng không hết. Vì vậy, giữa tiền bạc, của cải và trí huệ, từ bi
ta nên chọn cái trí huệ và từ bi ấy.
KÍNH:
Tất cả
vào một, một vào khắp
Tùy tâm chúng sanh đều thị hiện.
GIẢNG: Trong đạo
Phật, ta luôn luôn nên nhớ chữ “tùy tâm.” Vì có thân căn đẹp,
xấu thế nào, bị đui mù, hay những y báo bên ngoài, những quyến thuộc, bố, mẹ, vợ
con, sang trọng hay nghèo hèn v.v… đều tùy ở tâm thanh tịnh hay nhơ uế. Tâm ta
thế nào thì cuộc đời đãi ngộ đúng y như vậy, hiện ra như vậy.
HỎI:
Lúc nãy ông có nói rằng, tùy theo phước đức và trí huệ của mình thì sẽ sanh gia
đình giàu có, còn kém phúc thì sanh vào nhà bần hàn. Thì tại sao có những trường
hợp người ta sanh vào nhà bần hàn sau làm thủ tướng, tể tướng, hay làm quan lớn,
hoặc làm thương gia giàu có? Nếu nói rằng một người rất ít phước, rất ít trí huệ
phải sanh vào nhà bần cùng thì tại sao sau này họ lại được nhiều cơ duyên sung
sướng như thế?
ĐÁP:
Quí vị nghĩ sao về câu hỏi này? Khi một thần thức sắp thọ sanh, trong a lại da
thức của người ấy có những chủng tử nợ nần, hay những chủng tử ít thiện căn nở
ra trước nên phải chui vào nhà bần hàn đã, sau những chủng tử thiện, hay phước
đức nở ra sau, nên cuộc đời của họ biến chuyển theo phước đức ấy. Đó là vấn đề
thời tiết, căn cơ chín mùi ra sao thì sẽ như vậy, không phải tất cả những chủng
tử đều nở tóe ra cùng một lúc được. Nói về nghiệp lực thì thật trùng trùng, đan
nhau chằng chịt, chỉ có tuệ giác của Phật mới có thể nhìn thấy hết.
HỎI: Nếu
nói về nghiệp lực, thì một người kiếp trước phải tích đức nhiều, nếu kiếp này
vì còn rơi rớt những chủng tử xấu, hay còn nợ nần nhiều người thì phải chui vào
nhà bần cùng để trả nợ, cũng có nghĩa rằng, đó cũng là do nghiệp xấu của kiếp
trước chi phối, như vậy cũng là kém rồi.
ĐÁP:
Tâm thức của chúng sanh là một tiến trình triển chuyển luôn luôn. Nó không phải
là một cái gì cố định, ù lỳ. Nói cách khác, không phải người sanh trong nhà khá
giả phải nhất định là phước đức hoàn toàn, vì trong a lại da thức, từ nhiều kiếp
nó huân tập tất cả những chủng tử, từ những chủng tử tốt, xấu, phước đức, bất hạnh
v.v… mà không chừa một loại chủng tử nào. Đến khi đi thọ sanh, những chủng tử
nào nở trước thì y báo tương ưng sẽ hiện ra. Vì vậy, trong đạo phật, cũng có tướng
số, có thiên văn và đủ mọi thứ, vì Phật pháp chính là thế gian pháp. Nhưng đừng
bị vấp vào đó để cản trở con đường tu hành của mình, vì khi ta bị vấp vào những
cái tử vi, quẻ số, tiên đoán những hên sui trong tương lai, lúc đó tâm ta sẽ bận
bịu suốt ngày về những thứ ấy, rồi quên mất mục đích chính của mình là trở về
Tâm, tìm cầu sự giải thoát.
Trong bộ Đại Trí Độ
luận kể một câu chuyện rằng:
Có một vị tu sĩ khổ
hạnh tu trong một khu rừng, mỗi ngày ra suối tắm và giặt quần áo mà thỉnh thoảng
trong quần áo ấy, nhiều khi vị tu sĩ bị mộng tinh nên những tinh khí rơi rớt ra
trong khi giặt, sau đó có một con hưu cái đến uống nước ấy, sau đó thọ
thai. (Ta phải hiểu rằng, không nên xét nhãn quan về pháp giới này một
cách hạn hẹp, gần gần, vì có nhiều kiếp xa xôi về trước có sự thọ thai, hay
sinh nở cũng rất lạ.) Đến thời kỳ sanh con, hưu cái trở lại nơi nó thụ
thai kêu la thảm thiết rồi sanh ra một đứa bé, sau đó nó bỏ đi. Vị tu sĩ nghe
tiếng kêu la, chạy ra thấy một đứa bé nằm trên phiến đá, thương tình ông mang về
nuôi. Thằng bé lớn lên rất thông minh, nhưng nó lại mang hai cái chân hưu, sau
rất giỏi về thiên văn, rồi gặp được Phật xin xuất gia, và đắc quả A la
hán. Một hôm, hai thầy trò đi đến một vùng làng mạc vào một buổi chiều,
cả hai ngồi xuống một ven rừng nghỉ chân, vị tỳ kheo chân hưu nhìn tinh tú một
hồi và nói rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, thật là nguy, con xem tinh tú và biết rằng
xứ Ma Gia Đà này sẽ bị mưa liền trong mười hai năm trời, tất cả mùa màng đều hỏng,
tật bệnh, đói kém xảy ra khắp nơi, sẽ có rất nhiều người chết.” Đức Phật
không nói gì, ngài chỉ ngồi im lặng một lúc, sau đó ngài bảo: “Bây giờ
ông thử coi lại tinh tú xem sao?” Vị Tỳ kheo chân hưu coi lại bảo với
Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, lạ quá, con coi lại thì các tinh tú đã chuyển
đường hướng vận hành, mưa chỉ còn lại có bảy ngày thôi.” Thì ra, chính
Phật đã dùng thần lực chuyển tất cả đường đi của tinh tú, đồng thời ngài phải
gánh cái nghiệp mười hai năm đói kém cho dân chúng miền đó.
Đó là về thiên
văn, tướng số trong đạo phật. Trong Đại Bảo Tích cũng có kể một câu chuyện, một
vị tu sĩ tu trong núi Tuyết Sơn mấy chục năm ròng rã, lúc nghe Phật đi ngang
qua miền ấy, ông ta bèn xuống núi gặp Phật để tranh luận với ngài, ông ta hỏi
Phật rằng: “Ngài là ai? Ngài có biết về pháp môn Tinh tú học không?” Phật
ngồi im một hồi rồi bảo rằng: “Cái đó tôi có thể biết được, nhưng ông
tu về tinh tú mấy chục năm nay, cũng tốt đấy, nhưng những thứ đó chỉ làm cho
ông thêm bận tâm mà không đưa ông đến được sự giải thoát nào, ông phải nên nhớ
trong đời này, cái may, sự rủi đều không quan trọng, cái quan trọng nhất là làm
sao cho tâm ta thanh tịnh, an nhiên.”
Trong cuộc đời
chúng ta, ai cũng chỉ thích sự may mắn mà không bao giờ chấp nhận sự rủi ro,
nhưng tất cả những thứ ấy chỉ là những cặp đối đãi do vọng tưởng tạo thành,
không có gì là chắc thực cả. Vì khi cái may nó đến thì âm đức lại kém đi, còn gặp
cảnh rủi ro thì nghiệp vơi đi, thì có gì cần và quan trọng đâu, tất cả đó chỉ
là do nghiệp tắc nhân quả mà thành. Thí dụ như một người giỏi về bói toán hay
tướng số, suốt ngày ngồi trong nhà, có một con chim khách bay qua hót lên ba tiếng,
ông vội vã ngồi bấm độn xem số mạng ấy thế nào. Rồi cả ngày chỉ bận rộn vào ba
cái hào, cái quẻ, tất nhiên tâm lúc nào cũng bận, thì làm sao có trí huệ, làm
sao tâm được thanh tịnh, yên vui? Vì vậy, một số người tu hành, đến một mức nào
đó, hiểu về pháp giới được một ít, cho là đủ, suốt ngày bận bịu với những thứ ấy,
không biết rằng tất cả những thứ đó chỉ là sự biến hiện của tâm, chỉ dạy những
thứ đó, mà quên mất Tâm. Muốn biết được tất cả phải buông bỏ mọi nhân duyên,
càng buông thì tâm càng lớn, đến tột bờ mé, nhập vào pháp giới với tâm là một.
Đó mới chính là bản hoài của chư Phật.
Nên trong đạo Phật,
nho, y, lý, số v.v… đều có, nhưng đó chỉ là những biện pháp tạm thời ở một
mức độ tu chứng nào đó thôi, nếu còn chấp và đó thì chỉ làm bận tâm hành giả,
mà không đưa hành giả đến được cái tâm như như bất động được.
Ngày 21 tháng 7 năm 1991
Hôm nay là buổi
thuyết giảng thứ một trăm ba mươi mốt về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này, đồng thời
cũng là buổi thuyết giảng thứ mười tám của Đại Bát Nhã. Nhưng trước khi vào
kinh, chúng tôi muốn thông báo cho quí vị mấy điểm. Tới ngày mùng 7 tháng 8,
trong ban kinh này có bốn người, tôi, ông Minh Đạo, ông Đính và bà Định làm một
cuộc hành hương sang Ngũ Đài Sơn. Chúng tôi có làm một bản khấn nguyện, (cũng
như trước kia chúng ta có làm một bản khấn nguyện ở núi Linh Thứu vậy), nếu
quí vị nào có muốn ký tên, cùng khấn nguyện thì xin ký vào đây.
Trong đời mạt pháp
này, chúng ta tu hành thực ra không được tinh tấn lắm, vì nghiệp chướng còn sâu
dày, phước đức cạn mỏng, nên đôi khi muốn dâng những sớ ngay ở các Thánh địa nhờ
chư Phật và chư Đại Bồ Tát gia hộ. Theo tôi biết, ở núi Linh Thứu có ngài Mật
Tích Kim Cang Bồ Tát mà chúng ta có thể nương về được. Còn ở Ngũ Đài Sơn
có ngài Thanh Lương, là một vị tổ của tông Hoa Nghiêm và trên đó lại còn có đức
Văn Thù hay hiện thân. Tôi xin đọc bản khấn nguyện như sau:
Nam mô
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam mô Thanh Lương Hoa Nghiêm Bồ Tát.
Chúng
con là những Phật tử trong ban Hoa Nghiêm tại chùa Trúc Lâm Yên Tử, vùng Santa
Ana, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Xin kính cẩn đề trình bản khấn này. Cầu xin
cho thế giới được an bình, bớt thiên tai và chiến tranh, cầu xin gia bị cho
chúng con, đọc tụng và giảng nói bộ kinh Đại Bát Nhã ba la mật đa. Lấy công đức
hồi hướng cho tất cả để làm tư lương vãng sanh Tịnh Độ.
Bản khấn nguyện chỉ
có thế, lát nữa, sau buổi giảng, vị nào muốn ký tên vào bản khấn nguyện này xin
ghi vào.
***
Nay ta trở lại
kinh…
Vừa rồi chúng ta tụng
một phẩm Bát Nhã, trong đó Phật dạy rằng, mỗi khi có người tụng, hay giảng nói
Bát Nhã ba la mật đa tâm kinh thì vô lượng chư Thiên tới nghe. Vì thế, chúng ta
phải cố gắng mà tụng, đừng khởi tâm giải đãi, lấy công đức đó hồi hướng cho tất
cả làm tư lương vãng sanh Cực Lạc.
Trong kinh lại nói
thêm rằng, khi vô lượng chư Thiên tới nghe, thường thường có hào quang, nhưng mắt
ta kém cỏi nên không nhìn thấy, và có mùi hương lạ, nhưng dĩ nhiên chúng ta
cũng không ngửi thấy. Nhưng khi các vị chưThiên đến thì các tiểu quỷ phải đi xa
ngay.
Về kinh Hoa
Nghiêm, chúng ta giảng đã gần xong, nên trước khi giảng nốt nửa bài kệ ấy, tôi
xin giảng qua một ít về Bát Nhã.
Chúng ta đang ở
trong giai đoạn tiền bát nhã, tức là giai đoạn chuẩn bị để đi vào kinh thôi.
Trong Bát Nhã có ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất
là Văn tự bát nhã. Văn tự, là trong một, hai kỳ nữa chúng ta sẽ
đi vào những lời kinh xem ngài dạy thế nào, ngài nói những gì là vô sỡ đắc, các
gì là vô sở hữu v.v…, chúng ta sẽ được nghe những lối lập luận của ngài Tu Bồ Đề,
Xá Lợi Phất như thế nào. Thực ra, trong kinh, Phật nói rất ít, để cho mấy vị đại
đệ tử nương vào thần lực của Phật luân phiên giảng nói về Bát Nhã. Thường là
ngài Tu Bồ Đề, Xá Lợi Phất, Phú Lâu Na, Thiên Đế (Ngọc Hoàng Thượng Đê) luân
phiên nhau nói. Vì vậy, các chư thiên tề tựu rất đông. Chúng ta khởi sự đi vào
kinh cho quen dần lời kinh, vì lời kinh lúc nào cũng nói đến chữ “ly”,đến mức độ
sau này đọc không còn thấy vướng nữa, lúc đó tâm đã hơi thuần thục rồi, kinh gọi
là “nhu nhuyễn.” Đó là giai đoạn văn tự bát nhã.
Giai đoạn thứ hai,
là chúng ta có thể học tại chùa này, hoặc khi về nhà, hay ở bất cứ nơi chốn
nào, tùy tâm thức mỗi người, ta phải tu tập “Quán chiếu bát nhã.” Vậy
thế nào là Quán chiếu bát nhã? Thường thường trong kinh dạy, đầu
tiên là ta phải quán vô thường, mọi sự mọi vật đều vô thường
biến đổi, không có cái gì là thường còn mãi mãi cả. Thứ hai, lên cao hơn một bậc
là ta phải quán lý nhân duyên, thấy tất cả các pháp đều là những
nhân duyên hội tụ lại, như thân căn này nó không thực có, chỉ là sự hội tụ của
vô số tế bào, hộ trùng kết thành thân căn này, đến khi những con hộ trùng và
các tế bào ấy hết duyên nghiệp, thì nó tách rời ra, mỗi đứa đi một đàng, đứa đi
ngược, đứa đi xuôi, lúc đó ta sẽ mất đi cái thân này, vì thế gọi là không. Mà tất
cả các pháp đều như thế, thân căn chúng ta, bàn này, ghế kia, chùa chiền v.v… đều
là do vô lượng những nhân duyên hội tụ lại, kết lại do những nghiệp cũ, khi kết
lại đúng thời gian thì nghiệp lực giữ nó lại, làm thành hiện hữu một thời tiết
dài, ngắn nào đó, khi hết nghiệp thì tự nhiên nó rũ ra, thì cái pháp ấy không
còn nữa. Thứ ba, chúng ta quán lên cao nữa là quán theo lối như huyễn. Rồi thứ
tư là hành giả sẽ quán đến chỗ như như tịch tĩnh, trạm nhiên tịch chiếu, đó
chính là cái tâm của mình. Đó là giai đoạn quán chiếu bát nhã. Thì
tùy mỗi người, sau khi đọc kinh, thấy ta hợp với lối quán chiếu nào nhất thì
hành theo lối ấy, thích quán theo lối nhân duyên, hay như huyễn, hoặc tu tâm từ
v.v… thì làm theo thế ấy. Riêng tôi, tôi chọn cái quán nhưhuyễn. Như tôi đã thường
nói nhiều lần ở đây, lối quán chiếu này, theo tôi dễ thực hiện hơn cả. Như khi
ta đi chơi ngoài phố, đến công viên, trông thấy một cái cây mọc lên, ta quán
chiếu rằng cái cây đó cũng mọc trong tâm của ta mà ra cả. Hoặc trông một chiếc
lá lắt lay, rung động, ta nghĩ rằng, cái tâm ấy cũng đang lắt lay rung động vậy.
Hay ta xuống phố, vào trong khu Phúc Lộc Thọ ngồi ăn, thấy lao xao chung quanh
những người nào ăn, nào uống, nào trẻ con chơi nghịch, người lớn cười đùa, đôi
khi cãi vả ồn ào, mà lúc đó ta vẫn giữ được tâm bình lặng và quán chiếu rằng: Tất
cả những thứ đó đều “hiện-trong-tâm mình, chứ không- phải-ngoài-tâm”.
Hay những lần ra biển chơi, trông thấy nước bao la trùng trùng, nhiều khi khỏi
tâm sợ hãi, nhưng rồi cũng phải quán rằng, tất cả cũng đều nổi lên trong tâm
mình mà thôi. Vì trong kinh Lăng Nghiêm dạy rằng, tất cả sơn hà đại địa của vũ
trụ này đều nổi lên trong tâm tương tự như áng mây xanh trên bầu trời. Lối quán
chiếu này đi đâu, làm gì, cũng đều làm được cả, đồng thời chúng ta cũng có thể
mỗi ngày đề khởi tâm Từ khoảng mười lăm hay ba mươi phút. Đề
khởi tâm Từ để làm gì? Để cho tâm ta mềm lại, nhu nhuyễn hơn,
vì tâm ta bây giờ rất thô tháo, cứng ngắc, vì từ nhiều kiếp nó chỉ thích chạy
theo ngoại vật, vì nó chấp ngã một cách kiên cố, người nào nói chạm đến mà
không hợp ý là ta nổi sân lên ngay. Đó là tâm thô, không có mềm mại. Nên ta phải
đề khởi tâm từ mới làm bớt đi được tham, sân, si, ngã mạn…, lúc đó mới có thể
đi sâu vào vô thức.
Vì vậy, trong kinh
Pháp Hoa, có ngài Thường Bất Khinh, gặp ai cũng lạy. Đó chính là vì ngài quán
cái tâm ấy, trông người kia xấu xí, tật nguyền, nhưng ngài biết được người ấy
cũng có phật tánh trong tâm, cũng từ một biển diệu tâm mà ra, nên lễ lạy chính
là lễ lạy cái tâm ấy, cái Phật tánh ấy.
Giai đoạn thứ ba
là giai đoạn “chứng nhập”. Chứng nhập thì ghê gớm quá, chúng
ta chưa cần phải nói đến, vì chưa ai đến mức độ đó cả.
Nhưng hôm nay, tôi
muốn nêu lên một vấn đề, có lẽ vấn đề này nhiều người đã nghe qua, nhưng
chưa có thì giờ hoặc có dịp để suy nghĩ kỹ. Trong đạo Phật có hai chữ mà chúng
ta luôn luôn nghe nhắc tới, nhưng có thể chúng ta chưa hiểu rõ, mà hai chữ này
rất cần hiểu rõ để sau này biết được trình độ tu chứng của chính mình và những
người khác. Chữ thứ nhất là chữ “NGỘ,” chữ thứ nhì là chữ “GIÁC.” Vậy thì thế
nào là ngộ, và thế nào là giác? Trong kinh Pháp Hoa nói đến bốn chữ: KHAI,
THỊ, NGỘ, NHẬP, thì chỉ có chữ ngộ mà không có chữ giác, vậy
chữ giác trong bốn chữ này là chữ nào?
Chữ “giác” chính
là chữ “nhập.”
PHẬT TỬ:
Nếu theo như lời ông giảng, tôi nghĩ như vậy chữ “ngộ” là chỉ cho con đường mới
chớm hiểu về pháp giới. Còn chữ “Giác” là… chắc là phải hiểu sâu lắm rồi, có phải
chăng?
ĐÁP: Đức
Phật ngài là bậc giác ngộ. Nhưng thường chúng ta gọi ngài là bậc Đại Giác mà
không dùng chữ ngộ. Và ngài Thiện Tài đồng tử mà chúng ta đang học, thì ta lại
gọi là bậc Đại Ngộ hay bậc Đại Giác? Theo ý tôi, kinh Hoa Nghiêm là kinh của nhập
pháp giới, ít khi dùng chữ ngộ…
HỎI: Vậỵ
xin hỏi, ngộ là gì?
ĐÁP:
Ngộ là nhận ra.
HỎI:
À…, hóa ra chữ ngộ chỉ có nghĩa là “mới gặp thấy” thôi, chữ ngộ còn kém chữ “đắc,”
vì theo như tôi suy luận, chữ đắc nó sâu xa hơn, có phải không?
ĐÁP: Đắc
là một danh từ gọi chung. Thí dụ một hành giả đắc được một quả vị thấp nào đó
cũng gọi là đắc, hoặc một quả cao nào đó cũng gọi là đắc. Trở lại chữ ngộ, nó
không có nghĩa là “gặp gỡ” đâu, mà nó có nghĩa là “nhận ra.” Khi một hành giả
tu đến mức nhận ra cái tâm của mình thì gọi là “liễu ngộ” đến khi vào được lớp
ngoài của tàng thức sơ năng biến, tức là chớm bước vào không hải thì gọi là “đại
ngộ,” nhưng nếu hành giả không dừng ở bờ mé ấy mà lặn sâu xuống đáy, đến chỗ tột
không, khởi lên tất cả những giả hữu để độ sanh thì đó mới gọi là giác và đại
giác. Vậy thì, các vị Bồ Tát là những bậc đã vào được đến tàng thức rồi, nhưng
còn tùy theo mức độ nông, sâu. Trong con đường lặn sâu vào tàng thức, cũng có
nhiều giai đoạn, khi vượt một phần thì gọi là “tương tợ giác” (ngờ ngợ biết được
pháp giới), sâu hơn nữa thì gọi là “phần giác” (biết được một phần pháp giới),
và lặn đến tột đáy tàng thức ấy thì gọi là “đại giác” (biết được toàn thể pháp
giới, hay nhập pháp giới trọn vẹn)
Quý vị phải nhớ rõ
con đường đi vào tâm thức bằng những danh từ này: Liễu ngộ, chứng ngộ,
tương tợ giác, phần giác và đại giác. Nên ngài Thiện
Tài trong Hoa Nghiêm không thể gọi là ngộ được mà đến đoạn cuối, lúc ngài gặp
ngài Phổ Hiền thì ở mức độ gần như Đại Giác rồi. Hơn nữa, có thể nói tất cả những
nhân vật trong Hoa Nghiêm ta cũng không thể dùng chữ ngộ được, vì các ngài toàn
là những bậc ở mức độ phần giác hay đại giác cả.
Vậy thì những vị
nào hay dùng chữ ngộ nhất? Đó là những vị tu thiền. Như tông pháp của Thiền đốn
ngộ chẳng hạn. Nhưng hai mươi tám tổ sư thiền bên Ấn (Tây độ) là
những vị thiền sư rất cao, mà không bao giờ các ngài tự nhận mình giác hay tự
nhận mình là Phật cả. Còn nói về năm vị tổ thiền đầu tiên bên Trung Hoa (Đông
độ), là những ngài Đạt Ma, Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín và Hoằng Nhẫn
cũng không bao giờ nói về mình, không tự cho mình là những bậc đại giác. Tôi
cho rằng các vị như Hoằng Nhẫn, Hám Sơn và Hư Vân các ngài không phân biệt tông
với giáo. Ngài Hám Sơn và ngài Hư Vân cũng niệm Phật. Riêng có ngài Hoằng Nhẫn,
ngài viết cuốn sách “Tối thượng thừa luận” thì ngài nói một
câu rất khiêm tốn, không bao giờ khoe mình, vì trong trang cuối của cuốn sách,
ngài nói với Phật rằng: “Con viết bộ luận tối thượng thừa này, là con y văn,
nhận nghĩa, chứ không phải là do sự chứng đắc.” Từ ngài Huệ Năng trở về
sau, thiền Đông độ đi vào một khúc rẽ. Thứ nhất là các ngài có vẻ Trung Hoa hóa
vấn đề thiền, đồng thời đưa đến bát nhã, nhưng bát nhã đã đượm mầu sắc vô vi của
Lão, Trang, về sau, lại xiển dương những thứ đó thành những công án và thường
thường các ngài chỉ nhấn mạnh chữ “ngộ” thôi. Vì các ngài lập luận rằng, các
thiền khác của nhà Phật gọi là “Như Lai thiền” thì các ngài
không theo những lốì thiền ấy, mà lại theo Tổ sư thiền, mà
Tổ SƯ thiền bắt nguồn từ điển tích “Niêm hoa vi tiếu,” tức là
khi đức Phật ngồi ở Linh Sơn, đưa cành hoa lên ngài Ca Diếp hiểu được ý
Phật nên mỉm cười. Có nghĩa là “lấy tâm truyền tâm.” về sau, các vị thiền
sư Đông độ đưa cái đó lên, và cho rằng TỔ sư thiền hơn Như
Lai thiền. Điều đó, tôi nghĩ chưa hẳn là đúng. Lại còn nói rằng, Như
Lai thiền được dạy trong các kinh, còn riêng Tổ sư thiền thì
không có trong các kinh, chỉ lấy “tâm truyền tâm” mà thôi. Thí
dụ như trong Hoa Nghiêm, có một lối thiền gọi là “Quán pháp giới,” mà
ngài Đỗ Thuận và ngài Thanh Lương chủ trương, nhưng lối thiền ấy, sau này không
có mấy người theo, vì không mấy người đọc nổi Hoa Nghiêm. Đồng thời lại có kinh
Lăng Nghiêm đưa ra phép quán “Như huyễn tam ma đề” phép quán
này có ba giai đoạn: không, giả và trung. Trước hết đi vào
không hải, đó là lịch trình mà hành giả phải đi qua sắc ấm, qua các cảm
giác (thọ ấm), rồi vượt qua những tâm tưởng (tưởng ấm), hóa
giải tất cả những thứ đó, rồi qua hành ấm chấp ngã, hóa giải luôn cái ngã ấy, rồi
đi vào thức ấm sơ năng biến. Lúc đó, hành giả đã bắt đầu đi vào biển tàng thức
lung linh kỳ diệu, cái không hải của tâm thức. Trong lúc quán chiếu đi vào
không hải, khi vào được tàng thức sơ năng biến, hành giả không được dừng lại ở
đó. Thường những vị đã vào được tàng thức sơ năng biến là tương đương gần như một
vị A La Hán, đã đi qua được tứ thiền, tứ không định, rồi qua luôn diệt thọ tưởng
định để vào tàng thức sơ năng biến. Vào trong đó rồi, các ngài gột nốt những
phiền não chướng để thành quả A La Hán. Còn những vị tu theo pháp môn Tịnh Độ
thì theo hạnh nguyện sẽ thây đức A Di Đà. Ta nên nhớ rằng tất cả con đường tu tập
thiền hay tịnh, đều phải đi vào tàng thức sơ năng biến, dù là thiền đốn ngộ,
nghi tình, công án hay thiền theo lối Thiên Thai v.v… cũng phải đi vào tàng thức
sơ năng biến ấy. Nhưng phương tiện dùng thì khác nhau. Đây cũng chính là con đường
quán chiếu bát nhã.
Nay, tôi xin đơn
giản hóa và tóm lược lại cho quí vị nắm được những ý chính. Trong nhà thiền, đại
khái là có một pháp môn là “Như Lai thiền” dạy trong các kinh, và một
phương pháp khác là “Thiền đốn ngộ,” Tổ sư thiền mà bây giờ có nhiều
người theo học, phương pháp thiền đốn ngộ này là bất lập văn tự, không quan tâm
đến kinh sách nhiều. Nay, ta nói đến Như Lai Thiền trước, xem
sự khác biệt như thế nào.
Các vị Bồ Tát tu tập
đi vào không hải, vào được đến đó thì phải LẶN SÂU XUỐNG để khởi lên những cái
giả độ sanh và trung quán song chiếu để thành Phật. Còn các vị Thanh Văn thì đầu
tiên các ngài tu tứ niệm xứ, sau đó đến 37 phẩm trợ đạo, rồi tu tứ thiền, vào bốn
không định bằng cách quán tứ đế và thập nhị nhân duyên để vào được diệt tưởng định,
sau đó rồi sẽ vào được không hải. Không hải ở đây là cái rỗng không của tâm thức,
nhưng các vị Thanh Văn chỉ mới chớm bước vào không hải thôi, chưa lặn sâu. Ở đây,
các ngài ngồi quán chiếu để tiêu dung đi tất cả phiền não chướng như: Tham,
sân, si rồi thành quả A La Hấn, dứt được phân đoạn sanh tử, không phải thọ sanh
trở lại nữa.
Còn thiền của đại
thừa thì có những ngành thiền nào? Như bên Trung Hoa, có một ngành thiền tạm gọi
là Hoa Nghiêm thiền. Tổ của ngành này là ngài Đỗ Thuận và
Thanh Lương, nhưng rất tiếc ngày nay không còn được truyền thừa nữa, vì lúc đầu,
các vị trí thức bên Tầu theo Hoa Nghiêm rất nhiều, nhưng sau thấy quá khó, kinh
lại dài gần năm ngàn trang tụng mãi không hết, nên càng ngày càng thưa dần. Và
còn có một ngành thiền khác bên Trung Hoa, đi khá đúng như trong kinh đó là
ngành thiền Thiên Thai, do ngài Huệ Tư và Trí Giả Đại Sư ở núi
Thiên Thai lập nên. Các vị tổ này cũng đồng thời với ngài Huệ Năng bên thiền đốn
ngộ. Trong ngành này, Tổ Thiên Thai cũng lập theo lốì không, giả, trung, và nói
đến “nhất tâm tam quán.” Trước hết phải quán không, đi vào bát
nhã, sau quán giả để đi vào đại bi, sau đó là “không-giả” song
quán. Trong con đường thiền định của ngành này, ta thấy đi đúng như trong kinh.
Vì trong Lăng Nghiêm cũng nói rằng, có ba giai đoạn tu “như huyễn tam
ma đề” là: Samatha (không quán), Sa-ma-bát-đề (giả
quán) và thiền na (trung đạo song chiếu). Nhưng bên ngành thiền
đốn ngộ lại đưa ra một lối lập luận khác, tuyên bố rằng, không cần phải lập văn
tự, chỉ cần “trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật.” Vậy thì
câu “kiến tánh thành Phật” là câu mà chúng ta cần phải xét kỹ.
Thực ra, các vị Tổ thiền sau ngài Huệ Năng chỉ nhận mình là ngộ, đâu dám nói đến
chữ “giả.” Đủ biết rằng, những giai đoạn của ngành tu thiền đốn ngộ, thí dụ như
hành giả đề khởi nghi tình, hay quán thoại đầu để đi vào không hải, mà vào đến
đó cũng chưa xong chuyện, (chứ đừng nói đến chuyện thành Phật), vì
chính trong nhà thiền, cũng có một chữ gọi là “bảo nhậm.” Bảo
nhậm có nghĩa là khi một hành giả mới lọt vào không hải thì phải “bảo
nhậm” cái kiến tánh đó, vì cái đó chỉ là một sự “thoáng nhìn
thấy” (glimpse) không hải của tâm, chưa đến được mức độ nhìn thấy thường
trực. Vì vậy, phải vào rừng sâu, tu 30 năm để bảo nhậm cái đó. Nói một cách dể
hiểu, hành giả phải tập sông không lìa tánh, giữ cái tánh đó thường trực hiện hữu,
sau đó mới đi vào quán giả. Nên các vị thiền Trung Hoa, thường hay nói một cách
phóng khoáng, và tuyên bố câu “kiến tánh thành Phật”. Nhưng thực
ra, từ kiến tánh đến thành Phật là cả một đoạn đường dài xa cần khổ, vì kiến
tánh chỉ mới thành tựu được không quán, (một phần ba đường tu) mà
các ngài còn phải đi nốt con đường giả quán và trung đạo song chiếu. Mà trong
hai phần ba đoạn đường cuối cùng này, giả quán và trung đạo song chiếu, phải đạt
nhiều thần thông biến hóa thì mới tới được mục đích tối hậu. Một điều nữa cần để
ý, các vị thiền sư Trung Hoa ít có vị nào có thần thông, nếu có người hỏi đến
thần thông thì các ngài lại bác, chỉ nói rằng ta kiến tánh diệu dụng vô cùng mà
không cần thần thông. Nhưng chính trong kinh Hoa Nghiêm dạy, phải có thần thông
mới độ sanh được. Nên tôi nghĩ rằng, các vị bên thiền đốn ngộ, sau này ăn nói một
cách quá bát nhã, phóng khoáng, cứ nói vô trụ, vô tâm, kiến tánh thành Phật
v.v… như chuyện kiến tánh là thành Phật rất dễ, nên gieo lại nhiều sự ngộ nhận
cho người đời sau. Các ngài quên rằng, tập khí của một chúng hữu tình rất sâu
xa ghê gớm, vì nhiều khi một hành giả đã trừ được những tâm niệm thô, lúc đó
tâm đã được tĩnh lặng đôi chút, nhưng ở trong, tập khí biến dịch sanh tử còn
nhiều. Chẳng cần phải tìm đâu xa, ta cứ xét chính mình cũng biết ngay. Lúc ta đọc
kinh, hay giảng một bài pháp, thì lúc đó ta có vẻ từ bi, tự tại lắm, có vẻ
không lấy gì tham, sân nhiều. Nhưng nếu có một người nào dè bỉu, chê bai thì
lúc đó tập khí lại nổi lên ầm ầm, chẳng có gì là từ bi,tự tại. Hơn nữa, tập khí
chấp ngã rất kiên cố, đừng tưởng chỉ cần một sớm, một chiều, một vài tháng, một
vài năm mà có thể tiêu trừ được. Vì vậy, trong Thiền đốn ngộ, chuyện kiến tánh
là chỉ giai đoạn “mới-chớm-vào-không-hải” thôi, còn hai phần
ba con đường phải đi. Nên sau khi kiến tánh rồi, cần phải đi vào rừng sâu, tu ba
mươi năm để bảo nhậm cái đó, cho kiến tánh ấy không bị lu mờ. Và chính Tổ Đạt
Ma cũng dạy tu theo lối quán không, trung,giả, bằng cớ là câu chuyện của ngài
Huệ Khả đến cầu pháp mà tôi đã kể một lần ở đây rồi. Khi Tổ Đạt
Ma hỏi ông đến đây đề cầu gì? “Thưa thầy, con chỉ xin thầy an tâm cho
con”. “Vậy ông đưa cái tâm đây ta an cho”. Lúc đó Huệ Khả đứng suy
nghĩ một lúc, thấy rằng cái thân này không phải là tâm, lên đến những cảm giác
phù du hư ảo cũng không phải là tâm, lên đến những tâm tưởng cũng chỉ là những
vọng tâm, không phải là chân tâm, rồi lên đến cái ngã cũng không thấy có nữa,
nên thưa rằng: “Con không thấy tâm ở đâu cả. “Vậy là ta đã an tâm cho
ông rồi đó”. Tức là ngài đã đưa ngài Huệ Khả vào nơi không hải, thành
tựu giai đoạn không quán. Tu một ít lâu nữa, thì ngài Huệ Khả lại trình lên Tổ
Đạt Ma rằng: “Thưa thầy, con đã buông bỏ muôn duyên rồi,” buông
bỏ muôn duyên tức là ngài Huệ Khả đang bơi lội trong không hải ấy, không còn một
duyên gì vướng ngại nữa. Lúc đó, Tổ Đạt Ma bèn dặn rằng: “Cẩn thận, chớ
rơi vào đoạn diệt, hãy đi vào diệu hữu.” Ý nói rằng, ông đã vào được
không hải đó rồi, nhưng đừng trụ vào cái không ấy, mà khởi giả quán để đi vào
diệu hữu. Nên ta thấy rõ, từ sau ngài Huệ Năng, các vị thiền sư Trung Hoa rơi
vào cái đà mê say, muốn Trung Hoa hóa ngành Thiền đốn ngộ, đồng thời nhuộm thêm
mầu sắc vô vi của Lão, Trang. Nên các ngài ít nhắc tới quán giả và quán trung
mà chỉ nói đến phép đi vào kiến tánh thôi, tức là đi vào không hải. Do đó, các
vị thiền sư không bao giờ gọi là giác mà chỉ gọi là ngộ thôi.
Còn tu theo lối Tịnh
Độ của chúng ta thì sao? Thì thấy rõ rằng, lối tu tịnh độ chẳng có gì kém thiền,
hơn thế nữa, cũng có thể gọi là “Đốn-ngộ-trực-chỉ.” Vì khi ta
chuyên tâm niệm Phật vào đến niệm Phật tam muội, đó cũng là con đường đi vào
không hải, lọt vào đó thì bên thiền tông sẽ kiến tánh, còn Tịnh Độ sẽ thấy được
đức A Di Đà. Một đằng là phi thần hóa (thiền),một đằng là thần hóa (Tịnh
Độ). Một hành giả tu Tịnh Độ sẽ thấy được đức A Di Đà khi vào không hải
ấy. Nhưng lúc chết, ta có thể thấy được ngài là vì bất cứ ai chết cũng phải có
một lúc thần thức được rút lên lọt vào không hải ấy, đó là một cơ hội tự nhiên
mà ta có thể thừa dịp để được giải thoát dễ dàng. Phương pháp Tịnh Độ có điểm rất hợp
cho thời mạt pháp là người tu có thể tu theo cách “tán môn” cũng
có thể được vãng sanh, mà không cần phải niệm đến mức nhất tâm bất loạn. Thứ nữa,
theo như bên Mật Tông của Tây Tạng dạy, thì mỗi người khi chết đều có một cơ hội
tự nhiên để được giải thoát. Có hai cơ hội tự nhiên con người có thể được giải
thoát. Cơ hội thứ nhất là trong kiếp hoại, khi thế giới này băng hoại đi, lúc
đó tự nhiên trên trời có tiếng nói: “Các chúng sanh nào ở dục giới sẽ
lên sơ thiền”. Rồi có những cơn phong luân đưa chúng sanh lên sơ thiền, nhị
thiền, tam thiền, tứ thiền. Đó cũng gọi là “Đốn,” tức là biến
thể. Cơ hội thứ hai là khi chết, (theo như trong Mật tông Tây Tạng) thần
thức bị rút lên trên, qua bình diện sắc ấm, qua thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và lọt
vào tàng thức sơ năng biến. Vào đến đó thì tùy theo mức độ thanh tịnh của người
chết, có người chỉ trụ trong đó một giây, có người trụ được một, hai giờ, nhẫn
đến vài ngày. Lúc đó, nếu người nào có sự tập luyện, biết niệm Phật, biết quán
như huyễn, sẽ có thể nắm ngay cơ hội ây.
Tâm thức chúng ta
luôn luôn phân tán, lúc nghĩ thế này, sau lại nghĩ thế khác. Nhưng trong thiền
tông, hành giả dùng định lực để cột tâm lại bằng cách “đề khởi nghi
tình.” Vì pháp tu nào cũng là “nhất niệm vi mật hiện tiền an
trụ tịch tĩnh,” bên Tịnh Độ niệm Phật cũng thế, nhưng bên tịnh độ có rất
nhiều cái lợi như tôi đã nói hồi nãy. Bây giờ ta hãy trở lại bên thiền tông với
những công án, và đề khởi nghi tình. Vậy thì đề khởi nghi tình là như thế nào?
Thường thường thiền sinh hay quán những công án như sau: “Niệm Phật là
ai?” “Vô,” hay “Muôn pháp qui về một, thì cái một ấy qui về
đâu?” v.v…, còn có rất nhiều công án khác, mà các vị thiền sư tùy theo
căn cơ của thiền sinh mà đặt thêm ra. Nhưng công án thông dụng nhất có lẽ
là “Niệm Phật là ai ?” Ai khởi lên câu niệm Phật ấy ? Có phải
là Ông Nguyễn? Bà A? Có phải là cái thân của tôi không? Nói tóm lại, phải quán
chữ “AI” đó, mà chữ “ai” ấy chính là quán cái tâm của ta vậy.
Như thế, thiền sinh luôn quán chữ “Ai” ấy, suốt ngày, đi, đứng
nằm ngồi đều nghĩ đến nó, đến mức độ không còn thấy mình đi, đứng, nằm, ngồi,
nhẫn đến không thấy được cảnh giới chung quanh. Chỉ nhớ một chữ “Ai,” tức
là nhớ đến cái tâm đó. Dần dần, trải qua độ vài tháng, vài năm, như ngài Mông
Sơn mang chữ “Ai” quán trong mười tám hôm thì ngài lọt được vào tàng thức, có vị
phải quán đến mấy chục năm, có vị chỉ quán trong vòng vài ngày, vài tháng thì sẽ
lọt được vào tàng thức, có nghĩa là, cái dùi của vị đó chọc thủng được lớp sắc ấm,
thọ ấm, tưởng ấm, ngã ấm (hành ấm), phá tan cái ngã đó rồi mới
chui vào thức ấm. Vì vậy, phần lớn các vị thiền sư không có vị nào có thần
thông, vì muốn có thần thông phải đi xa hơn vào quán giả và quán trung. Chỉ có
mấy vị như ngài Phổ Hóa, Tịnh Chiếu là có thể chết tự tại thôi, mà không có thọ
sanh tự tại, đồng thời không có thần thông.
HỎI:
Xin ông định nghĩa chữ thần thông là gì? Ngay cả khoa học bây giờ cũng có thần
thông vậy, như nếu một người có máy quay phim, đi đến một nước ở bên kia trái đất,
quay những quang cảnh mà ở đây ta không thể thấy, rồi đem về đây quay lại, thì
đó cũng gọi là thần thông. Hay người tu có một chút định, có thể cầm đá hóa
vàng cũng gọi là thần thông. Theo tôi, khi người ta không chứng minh được một
điều gì, và nhất là không làm được, thì người ta cho rằng đó là thần thông. Nếu
vậy, khoa học càng ngày càng tiến bộ thì khoa học cũng có rất nhiều thần thông
hay sao?
ĐÁP:
Những thần thông như chỉ đá hóa vàng, kinh Phật gọi đó là những thần thông của
thiên ma ngoại đạo, chưa ăn thua gì với thần thông của chư Phật và chư Đại Bồ
Tát, vì tất cả đều tùy vào mức độ nông sâu của tâm thức. Vả lại, ngoại đạo còn
nhiều mong cầu và chấp Ngã. Còn cái gọi là “thần thông” của khoa học lại còn
kém hơn nữa, vì khoa học phải trụ vào bình diện sắc ấm để làm nên thần thông,
ví dụ như máy ảnh (là một thí dụ ông vừa nêu ra), xe hơi, máy bay, điện thoại
v.v… đều làm từ sự xắp xếp những chất rất thô kệch của sắc ấm. Còn trong tâm
thì chấp Ngã, chấp vật, nên đem theo nhiều đấu tranh, hệ lụy và phiền não. Còn
thần thông của đạo Phật như những thần thông trong kinh Hoa Nghiêm hay kinh Duy
Ma Cật. Ngài Duy Ma ngồi một chỗ như người thợ gốm, vươn cánh tay kéo tất cả
cõi Bất Động đến cõi Ta Bà để độ sanh. Hay chư Phật hóa hiện ra thành nhiều cõi
tùy theo nghiệp duyên cho chúng sanh nương về. Như cõi Cực Lạc là do đức A Di
Đà hóa hiện ra vậy. Nói tóm lại, thần thông thuộc về quán giả (từ bi). Bát Nhã
thuộc về quán không (trí huệ), đó là lối song chiếu cũa các ngài, như con thoi
thiện thệ qua lại không bao giờ ngừng nghỉ.
HỎI:
Xin ông cho biết sự khác biệt giữa Thông Thiên Học của Bà La Môn giáo và đạo Phật
khác nhau thế nào?
ĐÁP:
Ngày xưa, trước khi tôi vào đạo Phật, tôi đã bị lạc năm, bảy năm đọc sách Thông
thiên học. Về sau, tôi bị một ấn tượng rất mạnh là Bà La Môn giáo nói rằng,
một người Bà La Môn thì vĩnh viễn là Bà La Môn mà không thể xuống làm súc sanh,
vì thần ngã bất biến. Ngược lại, đạo Phật lại bảo thần ngã không phải bất biến,
nó là một “trường lực luôn luôn biến chuyển,” khi một dẫn nghiệp mạnh, nó sẽ dẫn
thần thức đi vào cảnh giới ấy. Đạo Phật lại nói sau khi chết, thần thức chỉ trải
qua bốn mươi chín ngày làm thân trung ấm, sau đó đi thọ sanh. Còn Thông thiên học
nói giữa hai kiếp có khi cách nhau hơn một ngàn năm. Ngược lại, đạo Phật nói rõ
không nhất định một người sẽ mãi mãi làm người, súc sanh mãi mãi là súc sanh,
mà còn tùy theo nghiệp duyên dẫn dắt. sở dĩ đức Phật nói như thế vì nhãn lực
(thiên nhãn thông) của ngài rất rộng lớn, trùm khắp tam thế ba đời, hơn hẳn các
tôn giáo khác. Các vị Bà La Môn chỉ nhìn được một khúc nên thấy sao nói vậy
thôi. Riêng tôi nghĩ, những trường hợp người chết bị đọa làm sâu bọ rất khó,
nhưng trường hợp bị đọa làm súc sanh có thể xảy ra, vì nhiều khi trước khi chết,
tâm người chết nổi lên những cuồng vọng của tâm thức súc sanh thì sẽ bị đọa và
súc sanh. Đừng nói đâu xa, đôi lúc trong tâm thức ta hay nổi lên những cuồng vọng
rất giống súc sanh, tham ăn, tham dục, bỏn xẻn, sân si, tật đố v.v… ở một mức
cao độ thì đó là những tâm niệm của súc sanh, ngạ quỉ, nếu chết đúng lúc tâm thức
có những thứ đó nổi lên thì chắc sẽ bị đọa.
KINH: …(Bỏ một đoạn)…
Nếu
người thanh tịnh tâm quảng đại
Đầy đủ thí giới các công đức
Thân cận Như Lai đủ từ bi
Khiến họ nghe tiếng đại thừa đạo
Hoặc có quốc độ nghe nhất thừa
Hoặc nhị, hoặc tam, hoặc tứ, ngũ
Như vậy nhẫn đến vô lượng thừa
Đều là Như Lai phương tiện lực
Niết Bàn tịch tịnh chưa từng khác
Trí hạnh thắng liệt có sai khác
Như hư không thể tánh là một.
Chim bay gần, xa tự sai khác.
GIẢNG: Ý ngài muốn
nói rằng, thực tại cuối cùng là Như Như. Niết Bàn tịch tĩnh chưa từng sai khác.
Nhưng sở dĩ có tất cả các pháp, tất cả các thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa,
Bồ Tát thừa, cùng những mức độ tu chứng v.v… là vì do tâm còn phân biệt nên mới
có sự sai khác, và tùy theo căn cơ của chúng sanh. Nên tất cả pháp không thực
có.
KINH:
Phật
thể âm thanh cũng duy nhất
Phổ biến tất cả cõi hư không
Tùy tâm chúng sanh sai khác nhau
Nên nghe và thấy cũng tự khác.
GIẢNG: Chúng ta
nên nhớ thế giới này chỉ là ảnh hiện trùng trùng. Đừng tưởng rằng cái chùa này,
cái cây ngoài sân chùa, cái núi v.v… phải nhất định là những thứ đó, mà vì
chúng ta cùng một cộng nghiệp nên cùng trông thấy như nhau, nên đặt danh xưng,
cho rằng cái này gọi là chùa, núi, sông, cây cỏ v.v… Nói tóm lại, tất cả vũ trụ
này là một trường biến hiện, tùy theo tâm thức mỗi loài chúng sanh mà ánh ra
thôi, mà loài khác sẽ trông thấy khác.
KINH:
Do Phật
quá khứ tu công hạnh
Hay theo sở thích diễn diệu âm
Không lòng tính nghĩ đây và kia
Ai là đáng nói, ai thời không
Nơi mặt Như Lai phóng đại quang
Đủ số tám muôn bốn ngàn sáng
Pháp môn Phật nói cũng như vậy
Chiếu khắp thế giới trừ phiền não
Đầy đủ thanh tịnh công đức trí
Mà thường tùy thuận tam thế Phật
Ví như hư không chẳng nhiễm trước
Vì chúng sanh nên Phật xuất hiện
Hiện có sanh, lão, bệnh, tử, khổ
Cũng hiện trụ thọ ở thế gian
Dầu thuận thế gian hiện như vậy.
Thể tánh thanh tịnh đồng hư không.
GIẢNG: Trong kinh
nói rằng các chư Phật và các quốc độ, và cõi Cực Lạc cũng vậy, các ngài hiện
lên để hóa độ chúng sanh, mà thực ra không có gì nhất định cả. Ta chỉ cần nghĩ
điều ấy khoảng vài ngày, vài tháng, vài năm, nhẫn đến vài chục năm, đến khi điều
ấy thấm vào tâm thì lúc đó ta sẽ có được chút huệ nhãn, dù mang nghiệp nặng chư
Phật cũng duỗi lòng cứu vớt. Vì tin được điều đó là rất khó.
HỎI:
Lâu nay, ông thường giảng, tất cả những gì ở ngoài thế gian đều mọc từ trong
tâm ra. Chữ “mọc” trong tâm ra có nghĩa thế nào? Xin ông giảng rõ hơn một chút.
Vì theo như ai cũng đều thấy rõ, những vật ở ngoài đều do nhiều thứ tạo thành,
ví như cái cây, cần phải có đất, có nước, có ánh sáng, có người vun sới v.v…
Còn cái tâm, theo tôi hiểu, nó giống như một lăng kính để chiếu vào những đối
tượng ấy (cảnh y báo bên ngoài), tùy theo nghiệp riêng của mỗi loài chúng sanh
mà có sai khác, chứ không phải từ trong tâm này chui ra làm thành. Không biết
tôi hiểu như vậy có đúng chăng?
ĐÁP:
Muốn giải thích được rõ ràng, nay ta phải trở về với duy thức học. Trên tột bờ
mé của biển tâm nó là một biển sáng ngời, không có một chút vọng nào,một vật
nào,đó là Tâm của Phật, là biển uyên nguyên Như Như Tịch Tĩnh. Còn tàng thức của
chúng sanh thì nó có một nửa chân, một nửa vọng. Tàng thức ấy tiếp tục đi xuống
một bình diện thô kệch hơn là Mạt na thức. Do vọng tưởng phân biệt, Ngã và Phi
Ngã, nó bị phân đôi. Một đằng là tướng phần, đi ra ngoài, một là kiến phần, ở
trong. Kiến phần tượng trưng cho tâm thức trong thân chúng sanh, còn tướng phần
di ra ngoài thành vũ trụ thế giới này, nhưng tất cả đều lưu xuất từ nơi biển diệu
tâm ấy. Nên tôi mới nói là nó “mọc ra”, mọc ra từ tàng thức ấy. Nhưng chúng
sanh ngu si, say mê, chấp trước nhiều mặt, thích cái này thì cho là của ta,
ghét cái nọ thì lại cho là không phải của ta, mà không biết rằng tất cả cũng từ
một biển tâm ấy mà ra… Nói rõ hơn, thì cây mọc từ đất, đất mọc từ hư không, hư
không mọc từ thức luân, mà thức luân chính là cái “bóng mờ” của biển tâm ấy.
HÓI:
Như vậy, trong tàng thức nó vẫn có cả kiến phần và tướng phần. Vì trong duy thức
học nói rằng, Mạt na thức lấy cái kiến phần của A lại da thức chấp làm ngã. Vậy
thì tất cả những thức đi vào vọng, từ mạt na thức trở xuống, hình như nó đều có
tướng phần và kiến phần cả?
ĐÁP:
Đúng vậy. Nhưng ở A lại da thức, tướng phần và kiến phần chưa hiện rõ rệt, nó rất
vi diệu, gần như một, nó dễ trực nhận. Chỗ đó là bờ mé mịt mùng, không có
mấy ai giải được rõ ràng, vì ngôn từ hạn hẹp, không thể nghĩ bàn được, chỉ biết
và chấp nhận như thế thôi. Nên khi tôi nói cái cây ấy nó mọc từ trong tâm, tức
là do nhân duyên từ nhiều kiếp, bây giờ nó hiện tướng ra như thế.
PHẬT TỬ:
Tại vì ông cứ nói vắn tắt “nó mọc từ tâm ra” nên khi người nghe thấy rất “vấp”
và khó chịu. Nhưng bây giờ ông giảng rõ ra từ tàng thức thì có vẻ dễ chấp nhận
hơn.
ĐÁP:
Ông nói như thế cũng rất đúng, vì tùy theo tâm thức của mỗi người nhìn vào một
vấn đề như thế nào. Nhưng đối với riêng tôi, tôi thích dùng những chữ “mọc” hay
chữ “nở,” vì những chữ ấy nó đưa tôi đi sâu vào tàng thức, để thâm nhận được cảnh
giới nó chỉ từ tâm mình hiện ra.
KINH:
Giảng
pháp chơn thiệt khiến điều phục
Hoặc đến trong chúng hội Phạm Thiên
Nói tứ vô lượng các thiền định.
Cho họ hoan hỉ bèn bỏ đi.
GIẢNG: Các đại Bồ
Tát và chư Phật hiện lên như thế, nói pháp xong, hay làm xong một vài Phật sự rồi
bỏ đi.
KINH:
Không
ai biết được tướng qua lại
Hoặc đến sắc Cứu Cánh thiên cung
Để giảng giác phần những bửu hoa
Cùng những vô lượng thánh công đức
Sau đó bỏ đi chẳng ai biết
Phật trí vô ngại thấy khắp nơi
Trong đó tất cả những hàm thức
Đều dùng vô biên phương tiện môn
Nhiều cách giáo hóa khiến thành tựu
Ví như thuật sĩ giỏi ảo thuật
Hiện ra các thứ hình tượng huyễn
Phật hóa chúng sanh cũng như vậy
Vì họ mà hiện nhiều thân hình
Ví như trăng sáng giữa hư không
Thế gian chúng sanh thấy tròn, khuyết
Tất cả sông, ao hiện ánh trăng
Tất cả tinh tú khuất ánh sáng
Như Lai trí nguyện hiện thế gian
Cũng dùng phương tiện hiện tăng giảm
Tâm thủy Bồ Tát hiện bóng Phật
Thanh Văn, Duyên Giác khuất quang sắc
Như trong đại hải đầy châu báu
Trong sạch không nhơ, không hạn lượng.
GIẢNG (xúc
động): Những câu kệ lạ lùng bất khả ngôn thuyết. Khó giải nói được.
Nói không được, nói không được…
KINH:
Bao
nhiêu chúng sanh ở bốn châu
Tất cả hiện bóng ở trong biển
Phật thân công đức cũng như vậy
Không nhơ, không đục, không ngằn mé
Nhẫn đến pháp giới các chúng sanh
Không-ai-chẳng-hiện-trong-thân-Phật.
GIẢNG: Chúng ta ngồi
đây là đương hiện trong pháp thân Phật mà không hề hay biết. Hiện trong thân Phật
Thích Ca, hay ngài Quán Thế Âm, tùy theo vị nào ta chọn.
KINH:
Ví như
mặt nhựt phóng quang minh
Chẳng rời bổn xứ chiếu mười phương
Phật quang chiếu khắp cũng như vậy
Không khứ, không lai, trừ si tối
Ví như Long Vương tuôn mưa lớn
Chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm
Mà mưa cùng khắp đều nhuần thâm
Trừ hết viêm nhiệt được thanh lương.
GIẢNG: Khi Long
Vương tuôn mưa không phải từ thân hay từ tâm ngài, nhưng chữ “tâm” này
ý nói là vọng tâm suy nghĩ của ngài. Mà chính từ cái tâm lực, có những nguyện
như vậy, khi ngài quán chiếu đến những nguyện ấy thì tự nhiên có mưa lớn.
KINH:
Như
Lai pháp vũ cũng như vậy
Chẳng từ thân tâm Phật phát ra
Mà hay khai ngộ tất cả chúng
Khiến khắp diệt trừ lửa tam độc
Như Lai thanh tịnh diệu pháp thân
Tất cả ba cõi không gì sánh.
GIẢNG: Pháp thân của
chư Như Lai, pháp thân tịch tĩnh, ngoài ngôn ngữ. Không một ngôn ngữ, ý niệm
nào có thể nói được, nó ngoài cái hữu và vô.
KINH:
Dầu
không sở y mà ở khắp.
Dầu đến tất cả mà không đi
Như vẽ không trung, cảnh trong mộng
Phải quán thân Phật là như vậy
Những pháp có, không, trong ba cõi
Chẳng thể ví dụ cùng Phật được
Ví như chim muông trong núi rừng
Không nương không gian mà ở được
Đại hải ma ni vô lượng mầu
Thân Phật sai khác cũng như vậy
Như Lai phi sắc, phi phi sắc
Tùy nghi mà hiện, không sở trụ
Hư không, chân như và thiệt tế
Niết bàn, pháp tánh, tịch diệt thảy
Chỉ có những pháp chân thật này
Khả dĩ hiển thị được Như Lai
Sát trần tâm niệm đếm biết được
Nước trong đại hải uống hết được
Hư không lường được, gió buộc được
Không thể nói hết công đức Phật
Nếu ai nghe biển công đức này
Mà sanh lòng vui mừng tin, hiểu
Tất sẽ được những công đức này
Thận trọng chớ sanh lòng ngờ vực…
GIẢNG: Đây là đoạn
kệ cuối cùng của ngài Phổ Hiền trong Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới. Những ai
nghe được biển biến hóa không cùng của chư Phật, mà sanh lòng kính tin, không ngờ
vực, thì người đó trong một kiếp vị lai sẽ được mặc áo hào quang, đi dự những hải
hội nhiệm mầu. Chúng ta, trong ban kinh này, tôi có thể nói chắc thế nào cũng sẽ
đi đến mức đó, chỉ có nhanh (một, hai kiếp), hay chậm (nhiều
kiếp) mà thôi.
Tới đây, ta chấm dứt
phẩm nhập pháp giới, đồng thời cũng bơi qua được biển Hoa Nghiêm. Kỳ sau, chúng
ta sẽ cố gắng dành vài năm bơi qua biển Bát Nhã. Biển này khó hơn, vì nó trừu
tượng hơn, vì nó đi sâu vào Không. Nên ta phải hết sức kiên nhẫn, dù có ốm đau,
bệnh tật cũng cố bơi qua.
Comments
Post a Comment