ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
38.- DẠ THẦN ĐẠI NGUYỆN TINH TẤN LỰC CỨU HỘ NHỨT THIẾT CHÚNG SANH
Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT GIÁO HÓA CHÚNG SANH KHIẾN SANH THIỆN CĂN” nầy.
Thiện-Tài đến chỗ DẠ THẦN
ĐẠI NGUYỆN TINH TẤN LỰC CỨU HỘ NHỨT THIẾT CHÚNG SANH. Thấy Dạ-Thần nầy ở
trong đại-chúng ngồi tòa sư-tử Phổ-Hiện-Nhứt-Thiết-Cung-Điện-Ma-Ni-Vương-Tạng.
Lưới ma-ni-bửu che phía trên.
Dạ-Thần nầy hiện thân nhựt nguyệt tinh tú ảnh tượng. Hiện thân
tùy tâm chúng-sanh khiến tất cả đều thấy. Hiện thân đồng hình
tướng
của tất cả chúng-sanh. Hiện thân sắc-tướng-hải rộng lớn
vô-biên. Hiện thân khắp tất cả oai nghi. Hiện thân thị-hiện khắp mười phương.
Hiện thân đều phục khắp tất cả chúng-sanh. Hiện thân vận thần-thông
quảng đại nhanh chóng. Hiện thân lợi ích chúng sanh chẳng dứt.
Hiện thân thường đi trên hư-không để làm lợi ích. Hiện thân đảnh lễ tại chỗ tất
cả Phật. Hiện thân tu tập tất cả thiện-căn. Hiện thân thọ-trì phật-pháp chẳng
quên. Hiện thân thành mãn đại-nguyện bồ-tát. Hiện thân quang-minh sung mãn mười
phương. Hiện thân pháp-đăng khắp dứt tối tăm thế-gian. Hiện thân tịnh-trí biết
pháp như huyễn. Hiện thân pháp-tánh xa lìa trần nhiễm. Hiện thân phổ-trí chiếu
pháp rõ ràng. Hiện thân rốt ráo không khổ không nóng. Hiện thân kiên-cố chẳng
bị ngăn trở phá hoại. Hiện thân phật-lực vô-sở-trụ. Hiện thân vô-phân-biệt ly
nhiễm. Hiện thân pháp-tánh bổn thanh-tịnh.
Thiện-Tài thấy phật-sát vi-trần-số thân sai-biệt như vậy, liền
nhất tâm đảnh lễ mọp đầu giây lâu mới đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng, nơi
thiện-tri-thức phát khởi mười tâm.
Một là nơi thiện-tri-thức sanh tâm đồng với mình, vì làm cho
mình siêng năng làm xong pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí.
Hai là nơi thiện-tri-thức sanh tâm thanh-tịnh tự nghiệp quả,
vì thân cận cúng-dường sanh thiện căn.
Ba là nơi thiện-tri-thức sanh tâm trang-nghiêm bồ-tát-hạnh, vì
khiến tôi có thể mau trang-nghiêm tất cả bồ-tát-hạnh.
Bốn là nơi thiện-tri-thức sanh tâm thành-tựu tất cả phật-pháp,
vì dạy dỗ tôi tu hành đạo hạnh.
Năm là nơi thiện-tri-thức sanh tâm năng sanh, vì có thể sanh
pháp vô-thượng cho tôi.
Sáu là nơi thiện-tri-thức sanh tâm xuất ly, vì khiến tôi tu
hành những hạnh nguyện của Phổ-Hiền Bồ-Tát mà xuất ly.
Bảy là nơi thiện-tri-thức sanh tâm tròn đủ tất cả phước trí,
vì khiến tôi chứa nhóm những pháp lành.
Tám là nơi thiện-tri-thức sanh tâm tăng trưởng, vì khiến tôi
tăng trưởng nhất-thiết-trí.
Chín là nơi thiện-tri-thức sanh tâm đầy đủ tất cả thiện-căn,
vì khiến tôi được viên mãn chí nguyện.
Mười là nơi thiện-tri-thức sanh tâm thành xong lợi ích lớn, vì
khiến tôi tự-tại an trụ tất cả bồ-tát pháp, được thành đạo nhất-thiết-trí, được
thành tất cả phật pháp.
Thiện-Tài phát mười tâm nầy rồi, thời được phật-sát vi-trần-số
đồng hạnh với Dạ-Thần cùng chư Bồ-Tát. Những là :
Đồng niệm, vì tâm thường ghi nhớ thập phương tam thế tất cả
chư Phật.
Đồng huệ, vì phân-biệt quyết rõ tất cả pháp-hải sai-biệt-môn.
Đồng xu hướng, vì có thể chuyển tất cả diệu-pháp-luân của chư
Phật Như-Lai.
Đồng giác ngộ, vì dùng trí khắp hư-không vào khắp tất cả ba
thế-gian.
Đồng căn, vì thành-tựu bồ-tát thanh-tịnh quang-minh
trí-huệ-căn.
Đồng tâm, vì khéo tu tập được công-đức vô-ngại trang-nghiêm
tất cả bồ-tát-đạo.
Đồng cảnh, vì chiếu khắp cảnh sở hành của chư Phật.
Đồng chứng, vì được nhất-thiết-trí chiếu thiệt-tướng-hải
tịnh-quang-minh.
Đồng nghĩa, vì có thể dùng trí-huệ biết tánh chân thiệt của
tất cả pháp.
Đồng dũng-mãnh, vì có thể phá hoại tất cả núi chướng-ngại.
Đồng sắc-thân, vì tùy chúng-sanh tâm mà hiện thân.
Đồng lực, vì cầu nhất-thiết-trí chẳng thối-chuyển.
Đồng vô-úy, vì tâm thanh-tịnh như hư-không.
Đồng tinh-tấn, vì trong vô-lượng kiếp thật hành bồ-tát-hạnh
không mỏi lười.
Đồng biện-tài, vì được pháp vô-ngại trí quang-minh.
Đồng vô-đẳng, vì thân-tướng thanh-tịnh siêu thế-gian.
Đồng ái-ngữ, vì làm cho tất cả chúng-sanh đều hoan-hỉ.
Đồng diệu-âm, vì diễn nói khắp tất cả pháp-môn.
Đồng mãn-âm, vì tất cả chúng-sanh tùy theo loài mà đều hiểu.
Đồng tịnh-đức, vì tu tập công-đức thanh-tịnh của Như-Lai.
Đồng trí-địa, vì lãnh thọ pháp-luân nơi tất cả Phật.
Đồng phạm-hạnh, vì an-trụ cảnh-giới của tất cả Phật.
Đồng đại-từ, vì niệm niệm che khắp tất cả quốc-độ chúng-sanh
hải.
Đồng đại-bi, vì khắp mưa pháp-vũ thấm nhuần tất cả chúng-sanh.
Đồng thân nghiệp, vì dùng phương-tiện hạnh giáo-hóa tất cả
chúng-sanh.
Đồng ngữ-nghiệp, vì dùng tùy loại âm diễn nói tất cả pháp-môn.
Đồng ý-nghiệp, vì nhiếp khắp chúng-sanh để trong cảnh-giới
nhất-thiết-trí.
Đồng trang-nghiêm, vì nghiêm-tịnh tất cả cõi Phật.
Đồng thân-cận, vì có Phật xuất-thế đều gần-gũi.
Đồng khuyến thỉnh, vì thỉnh tất cả phật chuyển pháp-luân.
Đồng cúng-dường, vì thường thích cúng-dường tất cả Phật.
Đồng giáo-hóa, vì điều phục tất cả chúng-sanh.
Đồng quang-minh, vì chiếu rõ tất cả pháp-môn.
Đồng tam-muội, vì biết khắp tất cả tâm chúng-sanh.
Đồng sung mãn cùng khắp, vì dùng sức tự-tại sung mãn tất cả
phật-độ tu những công hạnh.
Đồng trụ xứ, vì an trụ đại thần-thông của chư Bồ-Tát.
Đồng quyến-thuộc, vì tất cả Bồ-Tát đồng ở chung.
Đồng nhập xứ, vì vào khắp chỗ vi-tế của thế-giới.
Đồng tâm lự, vì biết khắp tất cả những Phật-sát.
Đồng qua đến, vì vào khắp tất cả phật-sát-hải.
Đồng phương-tiện, vì đều hiện tất cả những phật-sát.
Đồng siêu-thắng, vì nơi những phật-sát đều vô-tỉ.
Đồng bất-thối, vì vào khắp mười phương không chướng-ngại.
Đồng phá ám, vì được tất cả Phật thành bồ-đề trí đại
quang-minh.
Đồng vô-sanh-nhẫn, vì nhập tất cả phật chúng-hội-hải.
Đồng cùng khắp, vì cung kính cúng-dường chư Như-Lai trong
bất-khả-thuyết cõi khắp tất cả những phật-sát-võng.
Đồng trí chứng, vì biết rõ những pháp-môn-hải.
Đồng tu hành, vì thuận hành tất cả những pháp-môn.
Đồng mong cầu, vì nơi pháp thanh-tịnh rất thích muốn.
Đồng thanh-tịnh, vì họp phật-công-đức mà trang nghiêm thân
khẩu ý.
Đồng diệu-ý, vì trí biết rõ tất cả pháp.
Đồng tinh-tấn, khắp vì nhóm tất cả thiện-căn.
Đồng tịnh-hạnh, vì thành mãn tất cả bồ-tát-hạnh.
Đồng vô-ngại, vì rõ biết tất cả pháp đều vô-tướng.
Đồng thiện-xảo, vì trí tự-tại trong tất cả pháp.
Đồng tùy-lạc, vì tâm chúng-sanh mà hiện cảnh-giới.
Đồng phương-tiện, vì khéo tu tập tất cả điều nên tập.
Đồng hộ-niệm, vì được tất cả Phật hộ-niệm.
Đồng nhập-địa, vì được vào tất cả bồ-tát-địa.
Đồng sở-trụ, vì an-trụ tất cả bồ-tát-vị.
Đồng ký-biệt, vì tất cả chư Phật thọ ký cho.
Đồng tam-muội, vì trong một sát-na vào khắp tất cả môn
tam-muội.
Đồng kiến-lập, vì thị-hiện những phật-sự.
Đồng chánh-niệm, vì chánh-niệm tất cả cảnh giới-môn.
Đồng tu hành, vì tận vị-lai kiếp tu hành bồ-tát-hạnh.
Đồng tịnh-tín, vì rất mến thích vô-lượng trí-huệ của đức
Như-Lai.
Đồng xả-ly, vì diệt trừ tất cả những chướng-ngại.
Đồng trí bất-thối, vì trí-huệ đồng với chư Như-Lai.
Đồng thọ-sanh, vì ứng hiện thành thục các chúng-sanh.
Đồng chỗ an trụ, vì an trụ môn phương-tiện nhứt thiết-trí.
Đồng cảnh-giới, vì nơi pháp-giới cảnh được tự-tại.
Đồng vô-y, vì dứt hẳn tâm sở-y.
Đồng thuyết pháp, vì đã nhập trí bình-đẳng của các pháp.
Đồng siêng tu, thường được chư Phật hộ niệm.
Đồng thần-thông, vì khai ngộ chúng-sanh khiến tu tất cả
bồ-tát-hạnh.
Đồng thần-lực, vì có thể nhập thập phương thế-giới-hải.
Đồng đà-la-ni, vì chiếu khắp tất cả tổng-trì-hải.
Đồng pháp bí-mật, vì biết rõ diệu-pháp-môn trong tất cả
tu-đa-la.
Đồng pháp thậm thâm, vì hiểu tất cả pháp như hư-không.
Đồng quang-minh, vì chiếu khắp tất cả thế-giới.
Đồng ưa thích, vì tùy tâm chúng-sanh mà khai-thị khiến họ
hoan-hỉ.
Đồng chấn động, vì các chúng-sanh hiện thần-thông-lực động
khắp tất cả cõi mười phương.
Đồng chẳng luống uổng, vì thấy nghe nghĩ nhớ đều làm cho tâm
được điều phục.
Đồng xuất ly, vì đầy đủ tất cả những đại-nguyện-hải, thành tựu
mười trí-lực của Như-Lai.
Thiện-Tài đồng-tử quán-sát Chủ-Dạ-Thần
Đại-Nguyện-Tinh-Tấn-Lực-Cứu-Hộ-Nhất-Thiết-Chúng-Sanh, Phát khởi mười tâm
thanh-tịnh, được phật-sát vi-trần-số đồng bồ-tát-hạnh như vậy, tâm càng
thanh-tịnh hơn, trịch vai áo phía hữu, đảnh lễ chắp tay nói kệ rằng :
Tôi phát
ý kiên-cố
Chí cầu
vô-thượng-giác
Nay nơi
thiện-tri-thức
Khởi tâm
là chính mình.
Bởi thấy
thiện-tri-thức
Họp
vô-tận pháp lành
Diệt trừ
những tội nhơ
Thành tựu
quả bồ-đề.
Tôi thấy
thiện-tri-thức
Tâm
công-đức trang-nghiêm
Tận trần
kiếp vị-lai
Siêng tu
đạo bồ-tát.
Tôi nhớ
thiện-tri-thức
Nhiếp thọ
lợi ích tôi
Vì tôi mà
thị hiện
Giáo-pháp
chánh chơn thiệt.
Đóng bít
các ác-thú
Mở bày
đường nhơn thiên
Cũng chỉ
đường đại-trí
Của chư
Phật đã thành.
Tôi nghĩ
thiện-tri-thức
Là
phật-công-đức-tạng
Niệm niệm
hay xuất sanh
Biển
hư-không công-đức.
Cho tôi
ba-la-mật
Thêm tôi
phước vô-tận
Lớn tôi
tịnh công-đức
Khiến tôi
đội mão phật.
Tôi nghĩ
thiện-tri-thức
Hay mãn
đạo phật-trí,
Thệ
nguyện thường y-chỉ
Viện-mãn
pháp bạch tịnh.
Tôi do
những sự nầy
Công-đức
điều đầy đủ
Vì khắp
các chúng-sanh
Nói đạo
nhất-thiết-trí.
Đức Thánh
là thầy tôi
Cho tôi
pháp vô-thượng
Vô-lượng
vô-số kiếp
Chẳng báo
được ơn ngài.
Nói kệ xong, Thiện-Tài thưa rằng :
Bạch Đại-Thánh ! Xin vì tôi mà nói môn giải-thoát nầy tên là
gì ? Ngài phát tâm đã được bao lâu ? Chừng nào ngài sẽ chứng vô-thượng bồ-đề ?
Dạ-Thần nói :
Nầy thiện-nam-tử ! Môn giải-thoát nầy gọi là giáo-hóa chúng
sanh khiến sanh thiện-căn.
Vì ta thành-tựu môn giải-thoát nầy nên ngộ tất cả pháp tự-tánh
bình-đẳng, vào nơi tánh chơn-thiệt của các pháp, chứng pháp vô-y, bỏ rời
thế-gian, đều biết các pháp sắc tướng sai biệt, cũng có thể thấu rõ tánh của
xanh vàng đỏ trắng đều chẳng thiệt. Vẫn vô sai-biệt mà hằng thị-hiện vô-lượng
sắc thân những là :
Nhiều loại sắc-thân, chẳng phải một sắc-thân, vô-biên
sắc-thân, sắc-thân, thanh-tịnh, sắc-thân tất cả trang-nghiêm, sắc-thân thấy
khắp, sắc-thân đồng tất cả chúng-sanh, sắc-thân hiện trước khắp tất cả
chúng-sanh, sắc-thân quang-minh chiếu khắp, sắc-thân thấy không nhàm, sắc-thân
tướng hảo thanh-tịnh, sắc-thân chói sáng rời lìa những ác tướng, sắc-thân
thị-hiện đại dũng-mãnh, sắc-thân rất khó được, sắc-thân tất cả thế-gian không
che chướng được, sắc-thân tất cả thế-gain đồng tán dương vô-tận, sắc-thân
niệm-niệm thường quán sát, sắc-thân thị-hiện các thứ mây, sắc-thân nhiều loài
hình mạo và hiển sắc, sắc-thân hiện vô-lượng sức tự-tại, sắc-thân
diệu-quang-minh, sắc-thân tất cả tịnh diệu trang-nghiêm, sắc-thân tùy thuận
thành thục tất cả chúng-sanh, sắc-thân tùy tâm mình thích hiện-tiền điều-phục,
sắc-thân không chướng-ngại khắp chói sáng, sắc-thân thanh-không trược-uế,
sắc-thân đầy đủ trang-nghiêm không hư-hoại, sắc-thân quang minh bất-tư-nghì pháp
phương-tiện, tất cả sắc-thân không gì chói khuất được, sắc-thân không tối phá
được tất cả tối, sắc-thân họp tất cả pháp bạch-tịnh, sắc-thân biển công-đức đại
thế-lực, sắc-thân do nhơn-hạnh cung-kính thuở quá-khứ mà sanh, sắc-thân do tâm
thanh-tịnh như hư-không sanh ra, sắc-thân tối-thắng quảng-đại, sắc-thân vô-đoạn
vô tận, sắc-thân biển quang-minh, sắc-thân nơi tất cả thế-gian đều bình-đẳng
không y-tựa, sắc-thân khắp mười phương vô-ngại, sắc-thân niệm niệm hiện những
sắc-tướng-hải, sắc-thân tăng-trưởng tâm hoan-hỉ của tất cả chúng-sanh, sắc-thân
nhiếp thú chúng-sanh-hải, sắc-thân nơi mỗi lỗ lông diễn nói công-đức-hải của
tất cả Phật, sắc-thân làm thanh-tịnh dục-giải-hải của tất cả chúng-sanh,
sắc-thân quyết rõ tất cả pháp-nghĩa, sắc-thân không chướng-ngại khắp soi sáng,
sắc-thân thanh-tịnh sáng suốt khắp hư-không, sắc-thân phóng tịnh quang-minh
quảng đại, sắc-thân chiếu hiện pháp vô-cấu, sắc-thân vô-tỉ, sắc-thân sai-biệt
trang-nghiêm, sắc-thân chiếu khắp mười phương, sắc-thân tùy thời thị-hiện ứng
chúng-sanh, sắc-thân tịch-tịnh, sắc-thân diệt tất cả phiền-não, sắc-thân
phước-điền của tất cả chúng-sanh, sắc-thân tất cả chúng-sanh thấy chẳng luống
uổng, sắc-thân sức trí-huệ dũng-mãnh, cùng khắp vô-ngại, sắc-thân diệu-vân hiện
khắp thế-gian đều nhờ lợi ích, sắc-thân đầy đủ biển đại-từ, sắc-thân
đại-phước-đức bửu-sơn-vương, sắc-thân phóng quang-minh chiếu khắp tất cả loài ở
thế-gian, sắc-thân đại-trí-huệ thanh-tịnh, sắc-thân sanh chánh-niệm cho
chúng-sanh, sắc-thân tất cả bửu-quang-minh, sắc-thân tạng sáng khắp, sắc-thân
hiện những tướng thanh-tịnh thế-gian, sắc-thân cầu nhất-thiết-trí, sắc-thân
hiện vi-tiếu khiến chúng-sanh phát khởi lòng tin thanh-tịnh, sắc-thân
quang-minh tất cả bửu-trang-nghiêm, sắc-thân chẳng lấy chẳng bỏ tất cả
chúng-sanh, sắc-thân không quyết định không rốt ráo, sắc-thân hiện sức gia-trì
tự-tại, sắc-thân hiện tất cả thần-thông biến-hóa, sắc-thân sanh nhà Như-Lai,
sắc-thân xa lìa những ác khắp pháp-giới hải, sắc-thân hiện khắp trong đạo-tràng
chúng-hội của tất cả Như-Lai, sắc-thân đủ những sắc-hải, sắc-thân từ thiện-hạnh
lưu xuất, sắc-thân tùy chỗ đáng hóa độ mà thị-hiện, sắc-thân tất cả thế-gian
nhìn xem không chán, sắc-thân những tịnh quang-minh, sắc-thân hiện tất cả
tam-thế-hải, sắc-thân phóng tất cả quang-minh-hải, sắc-thân hiện vô-lượng sai-biệt
quang-minh-hải, sắc-thân siêu thế-gian tất cả hương quang-minh, sắc-thân hiện
bất-khả-thuyết nhựt-luân-vân, sắc-thân hiện quảng-đại nguyệt-luân-vân, sắc-thân
phóng vô-lượng tu-di-sơn diệu-hoa-vân, sắc-thân xuất sanh những mây tràng-hoa,
sắc-thân hiện tất cả bửu-liên-hoa-vân, sắc-thân nổi tất cả mây hương đốt khắp
pháp-giới, sắc-thân rải mây tạng hương bột, sắc-thân hiện thân đại-nguyện của
tất cả Như-Lai, sắc-thân hiện tất cả ngữ ngôn âm thanh diển pháp-hải, sắc-thân
hiện tượng Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Trong mỗi niệm hiện những sắc-tướng-thân như vậy sung mãn mười
phương, khiến các chúng-sanh hoặc thấy, hoặc nhớ, hoặc nghe thuyết pháp, hoặc
nhơn thân-cận, hoặc được khai ngộ, hoặc thấy thần-thông, hoặc thấy biến-hóa,
đều tùy tâm sở thích liền được điều phục bỏ nghiệp bất-thiện, an trụ nơi
thiện-hạnh.
Nầy thiện-nam-tử ! Phật biết đây là do sức đại-nguyện, do sức
nhất thiết-trí, do sức bồ-tát giải-thoát, do sức đại-bi, do sức đại-từ, mà làm
những sự như vậy.
Nầy thiện-nam-tử ! Ta nhập môn giải-thoát nầy biết rõ pháp-tánh
không sai-khác mà có thể thị-hiện vô-lượng sắc-thân. Mỗi thân thị-hiện vô lượng
sắc-tướng-hải. Mỗi tướng phóng vô-lượng quang-minh-vân. Mỗi quang-minh hiện
vô-lượng phật-độ. Mỗi cõi hiện vô-lượng Phật xuất thế. Mỗi Phật hiện vô-lượng
thần thông-lực khai phát thiện-căn đời trước của chúng-sanh. Kẻ chưa gieo thời
khiến họ gieo. Kẻ đã gieo thời làm cho tăng trưởng. Đã tăng trưởng thời làm cho
thành-thục. Trong mỗi niệm làm cho vô-lượng chúng-sanh chẳng thối chuyển nơi
vô-thượng bồ-đề.
Nầy thiện-nam-tử ! Như ngươi hỏi ta phát tâm bồ-đề tu
bồ-tát-hạnh đã bao lâu ?
Ta thừa thần-lực của Phật sẽ vì ngươi mà nói những nghĩa ấy.
Nầy thiện-nam-tử ! Bồ-Tát trí-luân xa rời tất cả cảnh-giới
sai-biệt. Chẳng nên đem những kiếp dài ngắn rộng hẹp nhiễm tịnh nhiều ít trong
sanh tử để phân-biệt hiển bày.
Tại sao vậy ?
Vì trí-luân của Bồ-Tát bổn-tánh thanh-tịnh, rời tất cả lưới
phân-biệt, siêu tất cả núi chướng ngại. Tùy chỗ nên hóa độ mà chiếu khắp.
Nầy thiện-nam-tử ! Ví như mặt nhựt không có ngày đêm, chỉ có
lúc mọc gọi là ngày, lúc lặn gọi là đêm.
Cũng vậy, trí-luân của Bồ-Tát không có phân-biệt, cũng không
tam thế, chỉ tùy tâm hiện giáo-hóa chúng-sanh, mà nói Bồ-Tát ở kiếp trước kiếp
sau.
Nầy thiện-nam-tử ! Ví như mặt nhựt ở không-trung, bóng nó hiện
trong tất cả bửu-vật và trong nước trong lặng của ao hồ sông biển. Chúng-sanh
đều thấy bóng mặt nhật. Nhưng mặt nhật chẳng đến các chỗ ấy.
Trí-luân của Bồ-Tát cũng vậy, ra khỏi biển hữu-lậu, an-trụ nơi
không trung, phật-thiệt-pháp tịch-tịnh không có sở-y. Vì muốn hóa-độ chúng-sanh
nên tùy loại thọ sanh trong các loài, mà thiệt ra thời không sanh-tử, không
nhiễm trước, không kiếp dài vắn, không tưởng phân biệt.
Tại sao vậy ?
Vì Bồ-Tát rốt ráo rời tâm tưởng kiến chấp tất cả điên-đảo,
được chân thiệt-kiến thấy pháp thiệt-tánh, biết tất cả thế-gian như mộng như
huyễn, không có chúng-sanh, chỉ do sức đại-bi đại nguyện mà hiện ra trước
chúng-sanh để giáo-hóa điều-phục họ.
Nầy thiện-nam-tử ! Vì như nhà lái thuyền thường dùng thuyền
lớn ở trong sông, chẳng đậu bờ bên nầy, chẳng ghé bờ bên kia, chẳng dừng ở giữa
dòng, nên có thể đưa mọi người không thôi nghỉ.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng thuyền ba-la-mật ở trong biển sanh
tử, chẳng tấp bờ bên nầy, chẳng ghé bờ bên kia chẳng dừng ở giữa dòng nên độ
được chúng-sanh không thôi dứt. Dầu tu bồ-tát hạnh vô-lượng kiếp, nhưng chưa
từng phân biệt kiếp số dài vắn.
Nầy thiện-nam-tử ! Như thái-hư-không, tất cả thế-giới thành
hoại trong đó, mà hư-không vẫn chẳng phân biệt, bổn tánh thanh-tịnh không nhiễm
không loạn, không ngại không nhàm, chẳng dài chẳng vắn, tận vị-lai kiếp giữ-gìn
tất cả cõi.
Đại Bồ-Tát cũng vậy, dùng thâm tâm rộng lớn khắp cõi hư-không
khởi gió đại nguyện nhiếp các chúng-sanh khiến lìa ác-đạo sanh các đường lành,
đều khiến an-trụ bực nhất-thiết-trí, diệt những dây phiền-não sanh tử khổ não,
mà không có lòng lo mừng mỏi nhàm.
Nầy thiện-nam-tử ! Như người huyễn hóa, dầu chi tiết thân thể
đầy đủ mà không có mười sự : thở ra, hít vào, lạnh, nóng, đói, khát, lo, mừng,
sanh, tử.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng như-huyễn-trí bình-đẳng pháp-thân hiện
các sắc-tướng, nơi các loài trụ vô-lượng kiếp giáo-hóa chúng-sanh ở trong sanh
tử, nơi tất cả cảnh-giới, không ưa, không nhàm, không thương, không giận, không
khổ, không vui, không lấy, không bỏ, không an, không sợ.
Nầy thiện-nam-tử ! Trí-huệ của Bồ-Tát dầu lại như vậy mà rất
sâu khó lường, ta sẽ thừa sức oai-thần của đức Phật mà nói cho ngươi, cũng làm
cho chư Bồ-Tát vị-lai viên-mãn đại-nguyện thành-tựu trí-lực.
Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa, quá thế-giới vi-trần số kiếp, có
kiếp tên là Thiện-Quang, thế-giới tên là Bửu-Quang. Trong kiếp đó có một vạn
đức Phật xuất thế :
Đức Phật tối-sơ hiệu là Pháp-Luân-Ấm-Hư-Không-Đăng-Vương
Như-Lai.
Nơi Diêm-Phù-Đề có Vương-Đô tên là Bửu-Trang-Nghiêm. Phía đông
Đô-Thành, cách không xa, có một khu rừng lớn tên là Diệu-Quang, trong rừng có
đạo-tràng tên là Bửu-Hoa. Trong đạo-tràng có tòa sư-tử
Phổ-Quang-Minh-Ma-Ni-Liên-Hoa-Tạng.
Đức Pháp-Luân-Ấm Như-Lai thành Đẳng-Chánh-Giác trên tòa sư-tử
nầy. Phật ngồi nơi đạo-tràng mãn một trăm năm, vì chư Bồ-Tát và hàng nhơn thiên
cùng những kẻ đã thành-thục thiện-căn ở Diêm-Phù-Đề mà diển nói chánh-pháp.
Quốc-Vương tên là Thắng-Quang. Thuở ấy nhơn-dân thọ một vạn
tuổi, trong đó phần đông phạm nghiệp ác : sát sanh, trộm cướp, dâm-dật,
nói-dối, nói thô, hai lưởi, thêu dệt, tham-lam, giận thù, tà-kiến, bất hiếu,
bất kính.
Nhà vua vì muốn sửa trị họ nên thiết lập nhà ngục, giam nhốt
vô-lượng người phạm tội hành hạ khổ sở.
Thái-Tử tên là Thiện-Phục, đoan chánh đẹp lạ đủ hai mươi tám
tướng đại-nhơn.
Thái-Tử ở trong cung vẳng nghe tiếng kêu khóc ở chốn ngục tù,
động lòng trắc ẩn, liền vào nhà ngục, thấy tù nhơn bị gông xiềng tối tăm, có kẻ
bị đốt, có kẻ bị xông khói, có kẻ bị đánh, có kẻ bị thẻo lóc, tóc rối mình
trần, đói khát ốm gầy, rên-rỉ khóc la.
Quá xót thương, Thái-Tử an-ủi tội-nhơn : các ngươi chớ lo sầu
kinh sợ. Ta sẽ cứu thoát các ngươi.
Thái-Tử liền đến tâu Phụ-Vương xin tha tội nhơn.
Nhà Vua hội các quan lại để hỏi ý.
Các quan luận rằng tội-nhơn là những kẻ gian ác cướp trộm của
công, mưu toan cướp ngôi lén vào cung cấm, tội đáng hành hình. Có ai thương cứu
cũng bị tử-hình.
Thái-Tử buồn thương bảo các quan rằng : xin thả những người
ấy, tôi đành chịu tội, dầu nát thân mất mạng tôi cũng cam, miễn tội-nhơn được
thoát khổ.
Tại sao vậy ?
Vì nếu tôi không cứu được những tội nhơn nầy thời làm sao cứu
được chúng-sanh trong nhà ngục tam giới.
Tất cả chúng-sanh trong ba cõi bị tham ái buộc ràng, nghèo
thiếu công đức, ngu-si che đậy, đọa trong ác-đạo, thân hình xấu-xí, thân căn
phóng dật, tâm họ mê loạn chẳng cầu đạo xuất-ly, mất ánh sáng trí-huệ, ưa mến
ba cõi, dứt các phước đức, diệt những trí-huệ, phiền-não làm tâm họ nhơ đục, ở
trong ngục khổ, vào rọ của ma. Thường bị những khổ sanh lão bịnh tử ưu-bi não
hại bức bách mãi.
Tôi phải làm thế nào cho họ được giải-thoát ? Tôi phải xả thân
mạng để cứu họ.
Lúc đó các quan đồng đến chỗ Vua giơ tay nói lớn rằng :
Đại-Vương nên biết, như ý của Thái-Tử là hủy-hoại vương-pháp, họa đến nhơn-dân.
Nếu Đại-Vương không trị tội Thái-Tử thời ngôi báu của Đại-Vương tất khó được
bền lâu.
Vua nghe các quan tâu liền nổi giận truyền giết Thái-Tử và các
tội-nhơn.
Vương-Hậu hay tin kinh hãi gào khóc, cùng ngàn thể-nữ chạy đến
chỗ vua mọp lạy cầu vua tha tội Thái-Tử.
Vua ngó Thái-Tử mà bảo rằng : ngươi chớ cứu tội-nhơn, nếu cứu
họ ta sẽ giết ngươi.
Thái-Tử vì muốn chuyên cầu nhất-thiết-trí, vì muốn lợi ích
chúng-sanh, vì lòng đại-bi phổ cứu, nên trong lòng vững chắc không khiếp sợ,
lại tâu rằng : xin thả tội-nhơn, con đành chịu chết.
Vua bảo tùy ý.
Vương-Hậu tâu xin cho Thái-Tử tùy ý bố-thí nửa tháng để tu
phước, sau đó sẽ trị tội.
Vua liền phê chuẩn.
Phía bắc Đô-Thành có khu vườn lớn tên là Nhựt-Quang, là
hội-trường bố-thí thuở xưa. Thái-Tử đến đó lập đại-thí-hội. Tất cả những đồ
uống ăn, y-phục, thuốc men, hoa hương, phan cái, vàng bạc châu ngọc đều cung
cấp cho người cầu xin.
Đến ngày thứ mười lăm, Vua cùng các quan, trưởng-giả, cư-sĩ,
nhân-dân và các nhà ngoại-đạo đều hội họp.
Bấy giờ đức Pháp-Luân-Ấm-Hư-Không-Đăng-Vương Như-Lai biết
chúng-sanh đã đến lúc được điều-phục nên cùng đại-chúng câu hội: Thiên-Vương
hầu hạ, Long-Vương cúng-dường, Dạ-Xoa-Vương thủ hộ, Càn-Thát-Bà-Vương ca-ngợi,
A-Tu-La Vương cúi mình đảnh lễ, Ca-Lâu La-Vương lòng thanh-tịnh rải hoa báu,
Khẩn Na-La-Vương hoan-hỉ khuyến thỉnh, Ma-Hầu-La-Già Vương nhất tâm chiêm
ngưỡng, đồng đến hội-trường bố-trí.
Thái-Tử và đại-chúng thấy đức Phật sắp đến. Thân Phật
đoan-nghiêm thù đặc, các căn tịch tịnh, tâm không nhơ đục như ao nước sạch
trong, hiện đại thần-thông tự-tại, hiển đại oai-đức, những tướng hảo
trang-nghiêm, phóng đại quang-minh chiếu khắp thế-giới, tất cả lỗ lông phát ra
mây sáng thơm, chấn động vô-lượng phật-độ mười phương, chỗ nào phật đến đều mưa
những đồ trang-nghiêm. Do oai-nghi và công-đức nên chúng-sanh nào thấy Phật
thời tâm thanh-tịnh hoan-hỉ phiền-não tiêu-diệt.
Thái-Tử và đại-chúng đảnh lễ chân đức Phật, dọn tòa cao đẹp,
chắp tay bạch Phật:
Thiện-lai đấng Thế-Tôn ! Thiện-lai đấng Thiện Thệ ! Xin đức
Như-Lai từ mẫn nhiếp thọ chúng-tôi mà ngự trên tòa nầy.
Do thần-lực của Phật, nên Tịnh-Cư-Thiên liền biến tòa ấy thành
tòa sen hương-ma-ni.
Đức Phật ngồi trên tòa sen ấy. Chư Bồ-Tát cũng ngồi xung quanh
Phật.
Tất cả mọi người trong hội-trường ấy nhơn thấy đức Như-Lai nên
dứt khổ trừ chướng, có thể lãnh thọ thánh-pháp.
Đức Như-Lai biết họ đáng được hóa độ, bèn dùng âm thanh
viên-mãn nói khế-kinh tên là Phổ-Chiếu-Nhơn-Luân, khiến các chúng-sanh tùy theo
loài mà nhận hiểu.
Lúc đó có tám mươi na-do-tha chúng-sanh xa trần lìa cấu được
pháp-nhãn thanh-tịnh. Vô-lượng na-do-tha chúng-sanh được bậc vô-học. Mười ngàn
chúng-sanh trụ đạo đại-thừa nhập phổ-hiền-hạnh, thành-mãn đại-nguyện.
Đồng thời mỗi phương trong mười phương đều có trăm phật-sát
vi-trần số chúng-sanh ở trong đại-thừa tâm được điều-phục.
Tất cả chúng-sanh trong vô-lượng thế-giới thoát khỏi ác-đạo
sanh lên trời, cõi người.
Thái-Tử Thiện-Phục liền được môn giải thoát Bồ-Tát giáo-hóa
chúng-sanh khiến sanh thiện-căn.
Nầy thiện-nam-tử ! Thái-Tử Thiện Phục xưa kia chính là thân
ta.
Vì thuở xưa ta phát tâm đại-bi bỏ thân mạng của cải cứu khổ
chúng-sanh mở cửa đại-thí, cúng-dường đức phật, nên được môn giải-thoát nầy.
Nầy thiện-nam-tử ! Nên biết rằng thuở ấy ta chỉ vì lợi ích tất
cả chúng-sanh, chẳng luyến tam-giới, chẳng cầu quả báo, chẳng tham danh tiếng,
chẳng muốn tự khen mà kinh hủy người khác. Nơi các cảnh-giới không chút tham
nhiểm không hề e sợ. Chỉ trang-nghiêm đạo đại-thừa xuất yếu. Thường thích
quán-sát môn nhất thiết-trí, tu hành khổ-hạnh, nên được môn giải-thoát nầy.
Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa năm trăm quan đại-thần muốn hại
Thái-Tử Thiện-Phục, nay là năm trăm đồ đảng của Đề-Bà-Đạt-Đa. Những người nầy
nhờ đức Phật giáo-hóa, sẽ được thành Phật. Đời vị-lai quá tu-di-sơn vi-trần số
kiếp, có kiếp tên là Thiện-Quang thế-giới tên là Bửu-Quang, năm trăm người nầy
sẽ thứ đệ thành Phật trong đó. Đức Phật tối-sơ hiệu là Đại-Bi, thứ hai hiệu là
Nhiêu-Ích-Thế-gian, thứ ba hiệu là Đại-Bi-Sư-Tử, thứ tư hiệu là
Cứu-Hộ-Chúng-Sanh, đức Phật tối-hậu hiệu là Y-Vương.
Dầu năm trăm đức Phật vị-lai ấy đại-bi bình-đẳng, nhưng
quốc-độ, chủng-tộc, cha mẹ, thọ sanh, đản sanh, xuất gia học đạo, đến
đạo-tràng, chuyển pháp-luân, nói kinh, ngữ ngôn âm thanh, quang-minh,
chúng-hội, thọ-mạng, pháp trụ và danh-hiệu của các ngài đều sai khác.
Nầy thiện-nam-tử ! Những người tội được ta cứu thuở xưa ấy,
nay là đức Câu-Lưu-Tôn Như-Lai và ngàn đức Phật trong Hiền-Kiếp nầy, cùng trăm
vạn a-tăng-kỳ đại Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề nơi chỗ đức Vô-Lượng
Tinh-Tấn-Lực Danh-Xưng Công-Đức-Huệ Như-Lai, hiện nay ở thập phương quốc-độ tu
tập tăng trưởng bồ-tát-đạo, giáo-hóa chúng-sanh khiến sanh thiện-căn
giải-thoát.
Vua Thắng-Quang thuở xưa ấy, nay là đại Luận-Sư
Tát-Giá-Ni-Kiền-Tử.
Cung-nhơn và quyến-thuộc thuở xưa ấy, nay là sáu vạn đệ-tử của
Tát-Giá Ni-Kiền theo thầy đồng đến luận nghị với đức Phật, bị đức Phật hàng
phục và đều được thọ ký sẽ thành Phật đời vị-lai, cõi nước trang-nghiêm, kiếp
số, danh hiệu riêng khác.
Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa ấy, lúc ta cứu tội-nhơn rồi, cha
mẹ cho ta xuất gia học đạo với đức Phật Pháp-Luân-Ấm-Hư-Không-Đăng-Vương
Như-Lai. Ta tu tịnh-hạnh trong năm trăm năm liền thành-tựu trăm vạn đà-la-ni,
trăm vạn thần-thông, trăm vạn pháp-tạng, trăm vạn cầu nhất-thiết-trí dũng-mãnh
tinh-tấn, tịnh trị trăm vạn môn kham nhẫn, tăng trưởng trăm vạn tâm tư-duy,
thành-tựu trăm vạn bồ-tát-lực, nhập trăm vạn bồ-tát trí-môn, được trăm vạn
bát-nhã ba-la-mật môn, thấy thập phương trăm vạn chư Phật, sanh trăm vạn bồ-tát
đại-nguyện, trong mỗi niệm mười phương đều chiếu trăm vạn phật độ, trong mỗi
niệm tiền-tế hậu-tế đều nhớ trăm vạn chư Phật, trong mỗi niệm đều biết
thập-phương thế-giới trăm vạn chư Phật biến-hóa-hải, trong mỗi niệm thấy thập
phương trăm vạn thế-giới có bao nhiêu chúng-sanh, bao nhiêu loài theo nghiệp mà
sanh mà tử thiện-đạo ác-đạo sắc tốt sắc xấu, những chúng-sanh ấy có bao nhiêu
tâm hành, dục lạc, căn tánh, nghiệp tập, thành tựu đều biết rõ tất cả.
Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa ấy, sau khi chết, ta thọ sanh trở
lại tại cung vua làm chuyển-Luân-Vương.
Sau khi đức Pháp-Luân-Ấm-Hư Không Đăng-Vương Như-Lai diệt độ,
ta gặp đức Pháp-Không-Vương Như-Lai xuất thế, ta kính thờ cúng-dường.
Kế đó ta làm Đế-Thích, cũng trong đạo-tràng ấy, ta gặp
Thiên-Vương-Tạng Như-Lai.
Kế đó ta làm Dạ-Ma Thiên-Vương, ở thế-giới ấy ta gặp đức
Đại-Địa-Oai-Lực-Sơn Như-Lai.
Kế đó ta làm Đâu-Suất Thiên-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức
Pháp-Luân-Quang-Ấm-Thanh-Vương Như-Lai.
Kế đó ta làm Hóa-Lạc-Thiên-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức
Hư-Không-Trí-Vương Như-Lai.
Kế đó ta làm Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp
đức Vô-Năng-Hoại-Tràng Như-Lai.
Kế đó ta làm A-Tu-La Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức
Nhứt-Thiết-Pháp-Lôi-Ấm-Vương Như-Lai.
Kế đó ta làm Phạm-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức
Phổ-Hiền-Hóa-Diễn-Pháp-Ấm Như-Lai.
Nầy thiện-nam-tử ! Trong kiếp Thiện-Quang nơi thế-giới
Bửu-Quang ấy, có một vạn đức Như-Lai xuất thế ta đều được gặp và thân cận kính
thờ cúng-dường như vậy.
Sau kiếp Thiện-Quang, có kiếp tên là Nhựt-Quang có sáu mươi ức
Phật xuất thế. Đức Như-Lai tối-sơ hiệu là Diệu-Tướng-Sơn.
Bấy giờ ta làm Quốc-Vương tên là Đại-Huệ, kính thờ cúng-dường
đức Phật ấy.
Kế có đức Phật xuất thế hiệu Viên-Mãn-Kiên. Bấy giờ ta làm
Cư-Sĩ thân cận cúng-dường đức Phật ấy.
Kế có đức Phật xuất thế hiệu Ly-Cấu-Đồng-Tử. Bấy giờ ta làm
quan-đại-thần thân cận cúng-dường đức Phật ấy.
Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Dũng-Mãnh-Trì. Bấy giờ ta làm
A-Tu-La-Vương thân cận cúng-dường Phật.
Kế đó có đức Phật xuất thế hiệu là Tu-Di-Tướng bấy giờ ta làm
thọ thần thân cận cúng-dường Phật.
Kế đó có đức Phật xuất thế hiệu là Ly Cấu-Tý. Bấy giờ ta làm
chủ thương-gia thân cận cúng-dường Phật.
Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Sư-Tử-Du-Bộ. Bấy giờ ta làm
Thành-Thần thân cận cúng-dường Phật.
Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Bửu Kế. Bấy giờ ta làm
Tỳ-Sa-Môn Thiên-Vương thân cận cúng-dường Phật.
Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Tối-Thượng-Pháp-Xưng. Bấy giờ
ta làm Càn-Thát-Bà Vương thân cận cúng-dường đức Phật.
Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Quang-Minh-Quan. Bấy giờ ta
làm Cưu-Bàn-Trà Vương thân cận cúng-dường đức Phật.
Ở trong kiếp Nhựt-Quang đó thứ đệ có sáu mươi ức Như-Lai xuất
thế. Thuở ấy ta thường thọ nhiều loại thân, ở chỗ mỗi đức Phật ta đều thân-cận
cúng-dường, giáo-hóa thành-tựu vô-lượng chúng-sanh. Ở chỗ mỗi đức Phật ta được
vô-lượng môn tam-muội, những môn đà-la-ni, những môn thần-thông, những môn
biện-tài, những môn nhất-thiết-trí, những môn pháp minh, những môn trí-huệ,
chiếu những thập-phương-hải, nhập những phật-sát-hải thấy chư Phật-hải,
thanh-tịnh thành-tựu tăng-trưởng quảng đại.
Như ở trong kiếp Nhật-Quang đó thân-cận cúng-dường bao nhiêu
đức Phật như vậy, ở tất cả xứ, tất cả thế-giới-hải vi-trần-số kiếp có bao nhiêu
đức Phật xuất thế, ta đều thân cận cúng-dường, nghe pháp hộ trì cũng như vậy
cả.
Ở chỗ tất cả Như-Lai như vậy, ta đều tu tập môn giải-thoát
nầy, ta lại được vô-lượng phương-tiện giải-thoát.
Bấy giờ Cứu-Hộ-Nhất-Thiết-Chúng-Sanh Chủ-Dạ-Thần muốn tuyên
lại nghĩa giải-thoát nầy, vì Thiện-Tài Đồng-Tử mà nói kệ rằng:
Ngươi
dùng tâm hoan-hỉ tin ưa
Hỏi pháp
giải-thoát khó nghĩ nầy
Ta thừa
sức hộ-niệm của Phật.
Vì ngươi
tuyên nói, phải nghe nhận.
Quá khứ
vô-biên kiếp quảng đại
Quá hơn
sát-hải vi-trần-số
Lúc ấy có
cõi tên Bửu-Quang
Trong ấy
có kiếp tên Thiện-Quang.
Ở trong
đại kiếp Thiện-Quang nầy
Một vạn
Như-Lai nối xuất thế
Ta đều
thân-cận cúng-dường Phật
Theo Phật
tu học giải-thoát nầy.
Có
Vương-Kinh-Đô tên Hỉ-Nghiêm
Ngang dọc
rộng bằng rất tráng lệ.
Chúng-sanh
tạp nghiệp ở trong đó
Người tâm
thanh-tịnh, kẻ làm ác.
Quốc-Vương
trị nước tên Thắng-Quang.
Hằng dùng
chánh-pháp ngự quần-sanh
Thái-Tử
của vua tên Thiện-Phục.
Thân hình
đoan chánh đủ tướng tốt.
Bấy giờ
vô-lượng người phạm tội
Giam
trong ngục tối sẽ hành hình
Thái-Tử
xem thấy lòng xót thương
Tâu lên
Phụ-Vương xin ân xá.
Các quan
đại-thần tâu Quốc-Vương
Nay
Thái-Tử này phá vương-pháp
Tội-nhơn
như vậy phải gia hình
Thái-Tử
sao lại cầu ân xá.
Thắng-Quang
Quốc-Vương bảo Thái-Tử
Nếu cứu
tội-nhơn ngươi phải chết.
Thái-Tử
lòng thương càng mạnh hơn
Thề cứu
chúng-sanh không thối khiếp.
Quốc mẫu
Phu-Nhơn cùng Thể-Nữ
Đồng đến
triều đường tâu Quốc-Vương
Tạm tha
Thái-Tử trong nửa tháng
Bố-thí
chúng-sanh tạo công đức.
Quốc-Vương
nghe tâu liền chuẩn cho
Lập hội
đại-thí giúp nghèo thiếu,
Những kẻ
khốn cùng đều đến hội
Tùy chỗ nhu
cầu đều cấp đủ.
Thấm
thoát đến ngày thứ mười lăm
Giờ xử
Thái-Tử đã sắp đến,
Đại chúng
trăm ngàn muôn ức người
Đồng thời
chiêm ngưỡng đều than khóc
Đức Phật
biết chúng căn gần thục
Bèn đến
thí-hội độ quần-sanh,
Hiển hiện
thần-biến đại trang-nghiêm
Đại-chúng
thân cận và cung kính.
Phật dùng
nhứt âm phương-tiện nói
Pháp-đăng
chiếu khắp những khế kinh
Vô-lượng
chúng-sanh ý nhu nhuyến
Đều được
đức Phật thọ ký biệt.
Thiện-Phục
Thái-Tử sanh hoan-hỉ
Phát khởi
tâm bồ-đề vô-thượng
Thệ
nguyện kính thờ đức Như-Lai
Khắp vì
chúng-sanh làm chỗ tựa.
Theo Phật
xuất gia trì tịnh-giới
Tu hành
nhất-thiết-chủng-trí-đạo
Bấy giờ
bèn được giải-thoát nầy
Đại bi
rộng độ các quần-sanh
Trong đó
nương ở trải kiếp hải
Xem kỹ
các pháp chân-thiệt-tánh
Thường ở
biển khổ cứu chúng-sanh
Như vậy
tu tập bồ-đề-đạo.
Trong
kiếp có những Như-Lai hiện
Thảy đều
kinh thờ không để sót
Đều dùng
tâm tin hiểu thanh-tịnh
Lắng
nghe, trì, hộ phật thuyết pháp.
Kế ở
phật-sát vi-trần-số
Vô-lượng
vô-biên những kiếp-hải
Bao nhiêu
chư Phật hiện thế-gian
Mỗi mỗi
cúng-dường đều như vậy.
Ta nhớ
thuở xưa làm Thái-Tử
Thấy các
chúng-sanh ở lao ngục
Thệ
nguyện xả thân để cứu hộ
Nhơn đó
chứng môn giải-thoát nầy.
Trải qua
phật-sát vi-trần-số
Kiếp-hải
rộng lớn thường tu tập
Niệm niệm
khiến họ được tăng trưởng
Lại được
vô-biên xảo phương-tiện.
Trong đó
có chư Phật Như-Lai
Ta điều
thấy Phật nhờ khai ngộ
Khiến ta
thêm sáng giải-thoát nầy.
Và cùng
những môn phương-tiện-lực
Ta ở
vô-lượng ngàn ức kiếp
Học môn
giải-thoát nan-tư nầy
Chư Phật
pháp-hải không có bờ
Trong
nhứt thời ta đều uống khắp.
Mười
phương đều có tất cả cõi
Thân ta
vào khắp không chướng-ngại
Tam thế
danh-hiệu các quốc-độ
Niệm niệm
biết rõ hết tất cả.
Tam thế
có những chư Phật-hải
Mỗi mỗi
thấy rõ không sót thừa
Cũng hiện
được thân tướng Như-Lai
Đến khắp
chỗ của chư Phật đó.
Lại ở
mười phương tất cả cõi
Nơi tất
cả chư Phật Đạo-Sư
Khắp mưa
tất cả mây trang-nghiêm
Cúng-dường
tất cả Vô-Thượng-Giác.
Lại dùng
vô-biên đại vấn hải
Khải
thỉnh tất cả chư Thế-Tôn
Đức Phật
đã mưa mây diệu pháp
Thảy đều
thọ trì không quên mất
Lại ở
mười phương vô-lượng cõi
Trước tất
cả chúng hội Như-Lai
Ngồi trên
tòa những diệu trang-nghiêm
Thị-hiện
các thứ thần-thông-lực.
Lại ở
mười phương vô-lượng cõi
Thị hiện
các thứ những thần-thông
Một thân
thị hiện vô-lượng thân
Trong
vô-lượng thân hiện một thân
Lại ở
trong mỗi mỗi lỗng lông
Đều phóng
vô-số đại-quang-minh
Đều dùng
nhiều thứ xảo phương-tiện
Diệt trừ
chúng-sanh lửa phiền-não.
Lại ở
trong mỗi mỗi lỗ lông
Xuất hiện
vô-phương mây hóa thân
Đầy khắp
mười phương các thế-giới
Khắp mưa
pháp vũ cứu quần-phẩm
Mười
phương tất cả những phật-tử
Vào môn
giải-thoát nan-tư nầy
Đều tận
vị-lai vô-lượng kiếp
An trụ tu
hành hạnh bồ-tát.
Tùy tâm
sở-thích mà thuyết pháp
Khiến họ
đều trừ lưới tà-kiến,
Dạy họ
thiện-đạo và nhị-thừa.
Nhẫn đến
tất cả trí Như-Lai.
Tất cả chúng-sanh
chỗ thọ sanh
Thị hiện
vô-biên nhiều loại thân
Đều đồng
loại họ hiện thân tượng
Ứng khắp
tâm họ mà thuyết pháp.
Nếu ai
được môn giải-thoát nầy
Thời trụ
vô-biên biển công-đức
Thí như
sát-hải vi-trần số
Chẳng thể
nghĩ bàn không số lượng.
Nầy
thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết “MÔN GIẢI
THOÁT GIÁO HÓA CHÚNG SANH KHIẾN SANH THIỆN CĂN” nầy.
Như chư đại Bồ-Tát siêu thế-gian hiện thân các loài, chẳng trụ
phan-duyên không có chướng-ngại, thấu rõ tự-tánh của các pháp, khéo quán sát
tất cả pháp được trí vô-ngã, chứng pháp vô-ngã, giáo-hóa đều-phục tất cả
chúng-sanh hằng không thôi nghỉ, tâm thường an trụ pháp-môn vô-nhị, vào khắp
tất cả biển ngôn từ. Nay ta thế nào biết được nói được biển công-đức đó, trí
dũng mãnh đó, chỗ tâm hành đó, cảnh tam-muội đó, sức giải-thoát đó.
Nầy thiện-nam-tử ! Diêm-Phù-Đề nầy có một viên lâm tên là
Lâm-Tỳ-Ni. Trong vườn ấy có thần tên là Diệu-Đức-Viên-Mãn.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào tu bồ-tát-hạnh sanh nhà
Như-Lai, làm ánh sáng cho đời tận kiếp vị-lai mà không nhàm mỏi ?
Bấy giờ Thiện-Tài Đồng-Tử đảnh lễ chân Chủ-Dạ-Thần, hữu nhiểu
vô-lượng vòng, chắp tay chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
27 tháng 05 1990
38.- DẠ THẦN ĐẠI NGUYỆN TINH TẤN LỰC CỨU HỘ NHỨT THIẾT CHÚNG SANH
Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT GIÁO HÓA CHÚNG SANH KHIẾN SANH THIỆN CĂN” nầy.
Xin trở
lại kinh…
KINH: Này
thiện nam tử, trong đạo tràng này có một Dạ Thần tên là Đại Nguyện Tinh Tấn Lực
Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sanh.
Thiện
Tài đến chỗ Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sanh.
Thấy Dạ Thần này ở trong đại chúng ngồi tòa sư Tử Phổ Hiện Nhất Thiết Cung Điện
Ma Ni vương Tạng. Lưới ma ni bửu che phía trên. Dạ thần hiện thân Nhựt, Nguyệt
tinh tú ảnh tượng…
GIẢNG: Thân ngài ảnh tượng đầy những nhật, nguyệt
tinh tú.
KINH: Hiện
thân tùy tâm chúng sanh khiến tất cả đều thấy…
GIẢNG: Chúng sanh muốn thấy cái gì thì đều
ảnh hiện ra như vậy, đều nhìn thấy. Như nếu muốn thấy ngày Quán Âm Bồ Tát thì Dạ
Thần này hiện ra hình Quán Âm bồ tát, hoặc muốn thấy Đức Mẹ Đồng Trinh thì ngài
lại hiện thân ra thành Đức Mẹ Đồng Trinh.
KINH:
Hiện thân tùy tâm chúng sanh khiến tất cả đều thấy. Hiện thân đồng hình tướng của
tất cả chúng sanh… hiện thân thường đi trên hư không để làm lợi ích. Hiện thân
tu tập tất cả thiện căn…, hiện thân pháp đăng khắp dứt tối tăm thế gian…
GIẢNG: Khi Thiện Tài trông tất cả những
biến hóa thần lực của vị chủ Dạ Thần này, liền phát khởi mười tâm.
KINH: …Thiện
Tài thấy phật sát vi trần số thân sai biệt như vậy, liền nhất tâm đảnh lễ mọp đầu
giây lâu mới đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng, nơi thiện tri thức phát khởi mười
tâm.
Một là
nơi thiện tri thức sanh tâm đồng với mình, vì làm cho mình siêng năng làm xong
pháp trợ đạo nhất thiết trí.
GIẢNG: Thiện Tài ngắm thiện tri thức như
vậy bèn thấy ơn đó lớn quá, liền phát mười thứ tâm trân trọng như sanh tâm
trang nghiêm, sanh tâm thanh tinh, sanh tâm thành tựu tất cả phật pháp, sanh
tâm xuất ly v.v… đại khái mười thứ tâm rất trân trọng trang nghiêm.
KINH: …Thiện
Tài phát mười tâm này rồi, thời được phật sát vi trần số đổng hạnh với Dạ Thần
cùng Chư Bồ Tát những là…
GIẢNG: Khi một vị tu hành cao đứng trước
một vị thiện tri thức, như ngài Thiện Tài, ngài khởi tâm rất kính ngưỡng, khởi
tâm quán chiếu rất sâu xa. Nên tâm thức của ngài bước lên một bực nữa là đồng hạnh
với vị đó lần lần thành tựu những hạnh giống như vị Chủ Dạ Thần và chư Bồ Tát.
KINH: …Những
là: đồng niệm…, đồng huệ…, đồng xu hướng…, đồng giác ngộ…, đồng căn…, đồng
tâm…, đồng cảnh.., đồng chứng…, đồng nghĩa…, dồng sắc thân vì tùy chúng sanh
tâm mà hiện thân…
GIẢNG: Có nghĩa là Thiện Tài cũng có những
thần thông như vị thiện tri thức, và còn rất nhiều thứ “đồng’ nữa,
kinh kể đến mấy trang lận, như “đồng quang minh, đồng tam muội, đồng nhập
xứ, đồng quyến thuộc v.v…” Khi quán chiếu sâu xa, dần dần tâm Thiện
Tài được nâng lên viên mãn như vị thiện tri thức vậy.
KINH: …đồng
thọ sanh, đồng cùng khắp, đồng tu hành, đồng thần lực, đồng quang minh, đồng chấn
động v.v… (bỏ một
đoạn kinh nói về các hạnh đồng) Thiện Tài đồng tử quán sát Chủ Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ
Nhát Thiết Chúng Sanh, phát khởi mười tâm thanh tịnh, được Phật sát vi trần số
đồng bồ tát hạnh như vậy, tâm càng thanh tịnh hơn, trịch vai áo phía hữu, đảnh
lễ chắp tay nói kệ rằng…
Tôi
phát ý kiên cố
Chí cầu vô thượng giác
Nay nơi thiện tri thức
Khởi tâm là chính mình
GIẢNG: Thiện Tài nghĩ vị thiện tri thức
kia là chính mình, tức là ngài đã đồng nhất hóa ngài vào vị thiện tri thức ấy để
nâng tâm thức của mình lên bình diện cao hơn.
KINH:
Bởi thấy
thiện tri thức
Họp vô tận pháp lành,
Diệt trừ những tội nhơ
Thành tựu quả bồ đề
Tôi thấy thiện tri thức
Tâm công đức trang nghiêm
Tận trần kiếp vị lai
Siêng tu bồ tát đạo
Tôi nhớ thiện tri thức
Nhiếp thọ lợi ích tôi
Vì tôi mà thị hiện
Giáo pháp chánh chân thật…
…Tôi do những sự này
Công đức đều đầy đủ
Vì khắp các chúng sanh
Nói đạo nhất thiết trí
Đức thánh là thầy tôi
Cho tôi pháp vô thượng
Vô lượng vô số kiếp
Chẳng báo được ơn ngài.
Nói kệ
xong, Thiện Tài thưa: Bạch đại thánh, xin vì tôi mà nói môn giải thoát này tên
là gì? ngài phát tâm đã được bao lâu? Chừng nào ngài sẽ chứng vô thượng bồ đề?
Dạ Thần
nói, này thiện nam tử, môn giải thoát này gọi là giáo hóa chúng sanh khiến sanh
thiện căn.
GIẢNG: Câu này không có gì đặc biệt lắm
vì vị nào cũng “giáo hóa chúng sanh khiến sanh thiện căn” cả.
Nhưng ngài nói về chỗ diệu sắc thân cũng rất ghê gớm. Trong kinh Hoa Nghiêm có
nhiều đoạn nói về diệu sắc thân ấy…
KINH: Vì
ta thành tựu môn giải thoát này nên ngộ tất cả pháp tự tánh bình đẳng, vào nơi
tánh chân thật của các pháp, chứng pháp vô y, bỏ rời thế gian, đều biết các
pháp sắc tướng sai biệt, cũng có thể thấu rõ tánh của xanh, vàng, đỏ, trắng đều
chẳng thật, vẫn vô sai biệt mà hằng thị hiện vô lượng sắc thân…
GIẢNG: Ngài thiện tri thức này vào được tất
cả các pháp tự tánh bình đẵng. Trước hết, phải hiểu “tất cả các pháp đều
tự tánh bình đẳng’ vì tất cả đều do tâm mình hiện ra, nên không có cảnh
giới nào hơn cảnh giới nào. Hiểu được bình đẳng ấy rồi thì hiểu được tánh của
các pháp, nên ngài chứng được pháp vô y, tức là tâm vô trụ, khi tâm vô trụ thì
tâm ấy bắt đầu biến hóa.
KINH: Nhiều
loại sắc thân, chẳng phải một sắc thân, vô biên sắc thân, sắc thân thanh tịnh,
sắc thân tất cả trang nghiêm, sắc thân thấy khắp, sắc thân đồng tất cả chúng
sanh…, sắc thân biển quang minh.., sắc thân tăng trưởng tâm hoan hỉ của tất cả
chúng sanh…, sắc thân nơi mỗi mỗi lỗ lông diễn nói tất cả công đức hải của chư
Phật, sắc thân có tất cả quang minh hải, sắc thân đại nguyện luân vân…
GIẢNG: Toàn là quang minh như vậy không,
và đó cũng chính là diệu sắc thân của các ngài. Và đến đây, ngài lại nói đến “trí
luân” và ngài nói rất hay…
KINH: Này
thiện nam tử, như ngươi hỏi ta phát tâm bồ đề, tu bồ tát hạnh đã bao lâu? Ta thừa
thần lực của Phật sẽ vì ngươi mà nói những nghĩa ấy. Nầy thiện nam tử, bồ tát
trí luân xa rời tất cả cảnh giới sai biệt. Chẳng nên đem những kiếp dài, ngắn,
rộng, hẹp, nhiễm, tịnh, nhiều, ít trong sanh tử để phân biệt hiển bày….
GIẢNG: Ở đây ngài nói về thời
gian. “Bồ tát trí luân” là trí huệ của các bậc bồ tát như cái
bánh xe xoay, vì thế nó không có hữu biên, vượt tất cả sai biệt, thiện, ác,
dài, ngắn, sanh, tử v.v…
KINH: Tại
sao vậy? Vì trí luân của bồ tát bổn tánh thanh tịnh, rời tất cả lưới phân biệt,
siêu tất cả núi chướng ngại. Tùy chỗ nên hóa độ mà chiếu khắp.
GIẢNG: Trí huệ của các ngài phát ra một
luồng tâm tưởng xoay tròn ôm lấy vật đó, khi ôm thật tròn rồi thì lúc đó, được
một thứ định của sự chú tâm. Người phàm thường không biết sử dụng luồng quang
minh trí huệ ấy, mà chỉ sử dụng ý thức như “con dao,” chẻ
sự việc ra thành có, không, đen trắng, tốt xấu, nam nữ v.v… nên rơi vào “hữu
biên.” Nhưng các vị bồ tát thì dùng “trí luân” xoay
tròn, liễu tri tất cả những thứ ấy, diệt các phân biệt nên không thấy hữu biên.
Thiện sẽ “chuyển” thành ác, hoặc ngược lại. Tử sẽ chuyển thành
sanh, quá khứ chuyển thành vị lai, vị lai sẽ chuyển thành hiện tại v.v… rồi nhập
vào tánh của sự vật.
KINH: Này
thiện nam tử, ví như mặt Nhựt không có ngày đêm, chỉ có lúc mọc gọi là ngày,
lúc lặn gọi là đêm.
GIẢNG: Thực ra, mặt trời không lặn hay mọc
gì cả, nhưng vì quả đất xoay, chúng sanh ở mặt này bị quả đất che đi thì thấy
đó là đêm, nhưng đến khi xoay qua bên kia, quả đất không che nữa thì lại cho là
ngày. Quả đất xoay khiến cho chúng ta thấy có ngày, có đêm cũng tương tự như
tâm mình, vì cái tâm động niệm nên thấy có ngày, có đêm, có tháng, có năm, có sanh
tử, tử sanh…, nếu tâm không động niệm thì lúc đó tam thế (quá khứ, hiện tại, vị
lai) đều bình đẳng trước mắt.
KINH: Cũng
vậy, trí luân của bồ tát không có phân biệt, cũng không tam thế, chỉ tùy tâm hiện
giáo hóa chúng sanh, mà nói bồ tát ở kiếp trước, kiếp sau.
GIẢNG: Ý ngài muốn nói rằng, khi ngài kể
cho Thiện Tài nghe thì có kiếp đó, kiếp đó, nhưng chính ra trên bình diện sâu
nhiệm, thì không còn kiếp nữa, mà chỉ tùy tâm đại bi mà ngài thị hiện vậy thôi.
Vì vậy nên gọi là “trí luân”.
KINH: Này
thiện nam tử, ví như mặt Nhựt ở không trung, bóng nó hiện trong tất cả bửu vật,
trong nước trong lặng của ao, hồ, sông, biển. Chúng sanh đều thấy bóng mặt Nhật,
nhưhg mặt Nhựt chẳng đến các chỗ ấy. Trí luân của bồ tát cũng như vậy, ra khỏi
biển hữu lậu, an trụ nơi không trung, phật thiệt pháp tịch tịnh không có sở y.
Vì muốn hóa độ chúng sanh nên tùy loại thọ sanh trong các loài, mà thật ra thời
không sanh tử, không nhiễm trước, không kiếp dài vắn, không tưởng phân biệt. Tại
sao vậy? Vì bồ tát rốt ráo rời tâm tưởng kiến châ’p tất cả điên đảo, được chân
thật kiến, thấy pháp thật tánh, biết tất cả thế gian như mộng như huyễn, không
có chúng sanh, chỉ do sức đại bi, đại nguyện mà hiện ra trước chúng sanh để
giáo hóa điều phục họ.
GIẢNG: Tất cả cũng chỉ là phải quán chiếu
như huyễn.
KINH: Này
thiện nam tử, ví như nhà lái thuyền thường dùng thuyền lớn ở trong sông, chẳng
đậu bờ bên này, chẳng ghé bờ bên kia, chẳng dừng ở giữa dòng, nên có thể đưa mọi
người không thôi nghỉ. Cũng vậy, đại bồ tát dùng thuyền ba la mật ở trong biển
sanh tử, chẳng tấp bờ bên này, chẳng ghé bờ bên kia, chẳng dừng ở giữa dòng nên
độ được chúng sanh không thôi dứt.
GIẢNG: Độ chúng sanh của chư Đại Bồ Tát
là do sự biến hóa thân mà thôi. Đại khái, ngài lại kể bổn sự bổn sanh cũng như
vậy. Trong kinh kể thì rất dài, tôi xin tóm lược…
Thời đó có một ông
vua có vị thái tử tên là Thiện Phục, thái tử này có lòng từ bi vô hạn, ngài
nghe tụi tù nhân trong tù rên rĩ quá ngài bèn xin phụ vương tha hết cho đám tù
nhân đó. Vua cha nổi giận, lúc đó có 500 đại thần xúm lại tâu vua rằng, thái tử
làm thế thì phép nước tất loạn, ngôi của vua cũng mất. Sau vua định giết thái tử,
nhưng có Hoàng Hậu ra can, xin cho thái tử này làm một hội bố thí, sau khi bố
thí thì hãy giết…
KINH: Này
thiện nam tử, Thái tử Thiện Phục xưa chính là thân ta…
… Này
thiện nam tử, thuở xưa năm trăm quan đại thần muốn hại thái tử Thiện Phục nay
là 500 đồ đảng của Đề Bà Đạt Đa… Này thiện nam tử, những người tội nhân được ta
cứu thuở xưa ấy nay là đức Câu Lưu Tôn Như Lai và ngàn đức Phật trong hiền kiếp
này.
GIẢNG: Quí vị có thấy lạ không? những tội
nhân lúc bấy giờ được ngài Chủ Dạ Thần xin tha, bây giờ trở thành ngàn đức Phật
trong hiền kiếp này, mà chính ngài vẫn còn là chủ dạ thần thôi. Đủ thấy rằng, hạnh
Bồ Tát của các ngài rất cao, đôi khi không cầu quả vị giải thoát cho chính mình
nữa mà chỉ chuyên làm lợi ích độ sanh thôi.
KINH: Vua
Thắng Quang thuở xưa ấy nay là đại luận sư Tát Giá Ni Kiền Tử.
GIẢNG: Thế mới biết sự lên xuống trầm bổng
trong quả báo luân hồi thật là lạ lùng, năm trăm ông đại thần kia, sau thành đồ
đảng của Đề Bà Đạt Đa. Mà điều lạ nhất là những vị tội nhân lại… thành Phật hết
cả rồi. Mà lời kinh nói không bao giờ hư vọng cả, đúng y như vậy. Vậy ta mới hiểu
được thời gian lâu xa là bao nhiêu, phải nói có đến a tăng kỳ kiếp…
KINH: Này
thiện nam tử, thuở xưa ấy, lúc ta cứu tội nhân rồi, cha mẹ cho ta xuất gia học
đạo với đức Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng…
GIẢNG: Ngài không bị giết sau khi phát hội
bố thí, mà được xuất gia tu học. Ở đây ngài kể tất cả các vị Phật cho
chúng ta hiểu bổn sanh bổn sự của ngài. Đại khái cũng giống nhau, nên chúng ta
không cần nói nhiều lắm về các vị này.
KINH:
Này thiện nam tử, Diêm Phù Đề này có một viên lâm tên là Lam Tỳ Ni. Trong vườn ấy
có thần tên là Diệu Đức Viên Mãn.
GIẢNG: Ở trên, Thiện Tài đã qua tám vị Chủ
Dạ Thần rồi ở Bồ Đề đạo tràng, nhưng đến vị thiện tri thức này, thì không
còn ở trong Bồ Đề Đạo Tràng nữa mà đến thành Ca Tỳ La, chỗ Lâm Tỳ Ni. Vị này
làm một vị thần coi vườn Lâm Tỳ Ni ấy.
KINH: Ngươi
đến đó hỏi bồ tát thế nào tu bồ tát hạnh sanh nhà Như Lai, làm ánh sáng cho đời
tận kiếp vị lai mà không nhàm mỏi.
GIẢNG: Câu này, lại khác với những câu hỏi
trước. “Làm thế nào để sanh nhà Như Lai,” tức sanh xuống trần
gian, thị hiện thành Phật. “Làm ánh sáng cho đời tận kiếp vị lai mà không
nhàm mỏi,” tức là gần đến ngôi pháp vương, hỏi xem thọ sanh làm Phật
như thế nào?
Comments
Post a Comment