Lời Nói Ðầu Của Dịch Giả


 MỤC LỤC


Khảo cứu theo truyền sử trong đại-tạng, khi thành đạo Vô-thượng Chánh-giác, chưa vội rời đạo-tràng Bồ-Ðề, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật với pháp-thân Tỳ-Lô-Giá-Na, cùng chư đại Bồ-Tát chứng giải-thoát-môn, tuyên thuyết Kinh Hoa-Nghiêm.

Sau khi đức Phật nhập diệt lối sáu trăm năm, do Long-Thọ Bồ-Tát, Kinh Hoa-Nghiêm này mới được lưu truyền bằng phạn-văn. Toàn bộ Kinh chữ Phạn có một trăm ngàn bài kệ, chia làm bốn mươi tám phẩm.

Ðến nhà Ðường, Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà từ nước Vu-Ðiền mang bổn Kinh chữ Phạn này sang Trung-Quốc dịch ra Hán văn. Nhưng Ðại-Sư chỉ dịch ra được ba mươi chín phẩm, từ phẩm 'Thế-Chủ Diệu-Nghiêm' đến phẩm 'Nhập-Pháp-Giới', cộng có ba mươi sáu ngàn bài kệ theo Phạn-văn, còn lại chín phẩm sáu mươi bốn ngàn bài kệ Phạn-văn chưa được dịch ra Hán-văn.

Kế đó, Pháp-Sư Bác-Nhã, người Kế-Tân dịch thêm phẩm Phổ-Hiền-Hạnh-Nguyện ra Hán-văn, thành phẩm thứ bốn mươi của bộ Kinh Hoa-Nghiêm này.

Nguyên bổn chữ Hán chia ra làm tám mươi mốt quyển. Vì xét thấy chia quyển ra như thế, có nhiều phẩm bị cắt ra làm hai ba quyển hoặc nhiều hơn, thành thử mạch văn bị gián đoạn, nên khi phiên dịch ra Việt-văn, tôi chỉ lấy phẩm mà không theo quyển của bổn chữ Hán. Tuy nhiên, tôi vẫn chia số quyển của bổn chữ Hán trong bổn Việt-văn này, để tiện sự so cứu cho người đọc.

Kinh này gọi đủ là 'Ðại-Phương-Quảng Phật Hoa-Nghiêm', ta quen gọi là Kinh Hoa-Nghiêm.

Nội dung của Kinh này đứng trên cảnh-giới bất-tư-nghì giải-thoát, chư pháp-thân Ðại-Sĩ thừa oai thần của đức Phật tuyên dương công-đức cùng cảnh-giới của chư Phật và xương minh nhơn hạnh xứng tánh bất-tư-nghì của chư đại Bồ-Tát.

Kinh Hoa-Nghiêm này đã hoàn toàn ở trong lãnh vực xứng tánh bất-tư-nghì giải-thoát mà xương minh, nên mỗi lời mỗi câu trong Kinh này đều lấy toàn thể pháp-giới tánh làm lượng. Ðã là toàn thể pháp-giới tánh nên tất cả Giáo, Lý, Hạnh, Quả nơi đây đều dung thông vô-ngại, nên cũng gọi là vô-ngại pháp-giới.

Từng bực cứu cánh của vô-ngại pháp-giới là Sự-sự vô-ngại pháp-giới, chỗ chứng nhập hoàn toàn của chư Phật mà chư pháp-thân Bồ-Tát thời được từng phần.

Muốn hiểu thấu phần nào cảnh-giới trên đây, người học đạo cần phải biết rõ bốn pháp-giới, bốn cấp bực mà chư đại-thừa Bồ-Tát tuần tự tu chứng :


1. Lý vô-ngại pháp-giới

2. Sự vô-ngại pháp-giới

3. Lý sự vô-ngại pháp-giới

4. Sự-sự vô-ngại pháp-giới


'Lý' tức là chơn-lý thật-tánh, là thể tánh chơn thật của tất cả pháp, nên cũng gọi là pháp-tánh hay pháp-giới-tánh, chơn-như-tánh. Tất cả pháp trong vũ trụ đều đồng một thể tánh chơn thật ấy. Thể-tánh ấy dung thông vô-ngại, nên gọi là 'Lý vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được lý vô-ngại này chính là bực thành-tựu căn-bổn-trí, mà bắt đầu dự vào hàng pháp-thân Bồ-Tát.

Tất cả pháp 'Sự' đều đồng một thể-tánh chơn-thật, tức là đồng lấy pháp-tánh làm tự thể. Toàn-thể 'Sự' là pháp-tánh, mà pháp-tánh đã viên-dung vô-ngại, thời toàn sự cũng vô-ngại, nên gọi là 'Sự vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được pháp-giới này chính là bực pháp-thân Bồ-Tát thành-tựu sai-biệt-trí (cũng gọi là quyền-trí, tục-trí, hậu-đắc-trí).

Lý là thể-tánh của 'Sự' (tất cả pháp), 'Sự' là hiện-tượng của 'Lý-tánh'. Vậy thời lý-tánh tức là lý-tánh của sự, còn sự lại là sự-tướng của lý-tánh. Chính Lý-tánh là toàn-sự, mà tất cả sự là toàn Lý-tánh, nên gọi là 'Lý-sự vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được lý-sự pháp-giới này thời là bậc pháp-thân Bồ-Tát đồng thời hiển phát cả hai trí (căn-bổn-trí và sai-biệt-trí).

Tất cả sự đã toàn đồng một thể-tánh mà thể-tánh thời dung thông không phân chia riêng khác, nên bất luận là một sự nào cũng đều dung nhiếp tất cả sự, và cũng đều tức là tất cả sự, một sự nhiếp và tức tất cả sự, tất cả sự nhiếp và tức một sự. Thế là sự-sự vô-ngại tự-tại, nên gọi là 'Sự-sự vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được Sự-sự pháp-giới này là bực pháp-thân Bồ-Tát thành-tựu nhứt-thiết chủng-trí. Viên-mãn trí này chính là Ðấng Vô-Thượng-Giác (Phật Thế-Tôn ).

Sự-sự vô-ngại pháp-giới dung thông tự-tại, nội dung của toàn bộ Kinh Hoa-Nghiêm, được chứng minh trên toàn thể văn Kinh này. Nay xin lược dẫn một vài đoạn văn rõ nhứt để chư học-giả tiện tham cứu :

Sự-sự là tất cả sự hoặc là tất cả pháp, tức là toàn thể không-gian và thời-gian.

Về không-gian dung thông vô-ngại văn Kinh nói :


Bao nhiêu vi-trần trong thế-giới

Trong mỗi vi-trần thấy các cõi

Bửu quang hiện Phật vô lượng số

Cảnh-giới tự-tại của Như-Lai ...


Vô-lượng vô-số núi Tu-Di

Ðều đem để vào một sợi lông,

Một thế-giới để vào tất cả

Tất cả thế-giới để vào một,

Thể tướng thế-giới vẫn như cũ

Vô-đẳng vô-lượng đều cùng khắp ...


Trong một chân lông đều thấy rõ

Vô-số vô-lượng chư Như-Lai

Tất cả chân lông đều thế cả

Tôi nay kính lạy tất cả Phật ...


Về thời-gian dung-thông vô-ngại văn Kinh nói :


Kiếp quá-khứ để hiện, vị-lai,

Kiếp vị-lai để quá, hiện-tại,

Ba đời nhiều kiếp là một niệm

Chẳng phải dài vắn : hạnh giải-thoát ...


Tôi hay thâm nhập đời vị-lai

Tất cả kiếp thâu làm một niệm,

Hết thảy những kiếp trong ba đời

Làm khoảng một niệm tôi đều nhập ...


Về không-gian và thời-gian dung thông vô-ngại nhau, văn Kinh nói :


Khắp hết mười phương các cõi nước

Mỗi đầu lông đủ có ba đời

Phật cùng quốc-độ số vô-lượng

Tôi khắp tu hành trải trần kiếp.

Trong một niệm tôi thấy ba đời

Tất cả các đấng Nhơn-Sư-Tử

Cũng thường vào trong cảnh-giới Phật

Như-huyễn, giải-thoát và oai-lực ...


Tất cả sự không ngoài thời-gian và không-gian. Thời-gian dung thông thời-gian, không-gian dung thông không-gian, thời-gian dung thông không-gian, không-gian dung thông thời-gian. Một không-gian dung thông tất cả không-gian, một thời-gian dung thông tất cả thời-gian, tất cả dung thông với một, thời-gian với không-gian, một cùng tất cả cũng đều dung thông như vậy. Ðây chính là Sự-sự vô-ngại pháp-giới, mà cũng chính là cảnh-giới giải-thoát bất-tư-nghì mà Kinh Hoa-Nghiêm này lấy đó làm nội-dung như đã nói ở trên ...


Lược giải một vài điều, để giúp phần nào cho học-giả khi cần thấy phải thấu triệt nội-dung của Kinh này. Vị nào muốn nghiên cứu đầy đủ xin xem bộ Hoa-Nghiêm đại-sớ của Tổ Thanh-Lương và Thập-huyền-môn của Tổ Hiền Thủ.


Tôi thành kính đem công-đức phiên dịch Việt-văn này hồi hướng cho tất cả chúng-sanh đồng về Tịnh-Ðộ, đồng sớm thành Phật.


Viết tại chùa Vạn Ðức

Thủ Ðức ngày Phật nhập Niết-Bàn

Rằm tháng Hai 2508

Dịch-Giả

Hân-Tịnh Tỳ-Kheo

Thích Trí Tịnh



ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH




Bấy giờ đức Thế Tôn ở nước Thất La Phiệt, trong trùng các Ðại Trang Nghiêm, tại rừng Thệ Ða, vườn Cấp Cô Ðộc.

Câu hội với năm trăm đại Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm thượng thủ. Tên của các ngài là :

Quang Diệm Tràng Bồ Tát, Tu Di Tràng Bồ Tát, Bửu Tràng Bồ Tát, Vô Ngại Tràng Bồ Tát, Hoa Tràng Bồ Tát, Ly Cấu Tràng Bồ Tát, Nhựt Tràng Bồ Tát, Diệu Tràng Bồ Tát, Ly Trần Tràng Bồ Tát, Phổ Quang Tràng Bồ Tát, Ðịa Oai Lực Bồ Tát, Bửu Oai Lực Bồ Tát, Kim Cang Trí Oai Lực Bồ Tát, Ly Trần Cấu Oai Lực Bồ Tát, Chánh Pháp Nhựt Oai Lực Bồ Tát, Công Ðức Sơn Oai Lực Bồ Tát, Trí Quang ảnh Oai Lực Bồ Tát, Phổ Kiết Tường Oai Lực Bồ Tát, Ðịa Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Liên Hoa Tạng Bồ Tát, Tịnh Ðức Tạng Bồ Tát, Pháp Ấn Bồ Tát, Quang Minh Tạng Bồ Tát, Tê Tạng Bồ Tát, Liên Hoa Ðức Tạng Bồ Tát, Thiện Nhãn Bồ Tát, Tịnh Nhãn Bồ Tát, Ly Cấu Nhãn Bồ Tát, Vô Ngại Nhãn Bồ Tát, Phổ Hiền Nhãn Bồ Tát, Phổ Quán Nhãn Bồ Tát, Thanh Liên Hoa Nhãn Bồ Tát, Kim Cang Nhãn Bồ Tát, Bửu Nhãn Bồ Tát, Hư Không Nhãn Bồ Tát, Hỉ Nhãn Bồ Tát, Phổ Nhãn Bồ Tát, Thiên Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Pháp Giới Trí Huệ Quan Bồ Tát, Ðạo Tràng Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Thập Phương Quan Bồ Tát, Nhứt Thiết Phật Tạng Quan Bồ Tát, Siêu Xuất Nhứt Thiết Thế Gian Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Quan Bồ Tát, Bất Khả Hoại Quan Bồ Tát, Trì Nhứt Thiết Như Lai Sư Tử Toà Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Pháp Giới Hư Không Quan Bồ Tát, Phạm Vương Kế Bồ Tát, Long Vương Kế Bồ Tát, Nhứt Thiết Hoá Phật Quang Minh Kế Bồ Tát, Ðạo Tràng Kế Bồ Tát, Nhứt Thiết Nguyện Hải Âm Bửu Vương Kế Bồ Tát, Nhứt Thiết Phật Quang Minh Ma Ni Kế Bồ Tát, Thị Hiện Nhứt Thiết Hư Không Bình Ðẳng Tướng Ma Ni Vương Trang Nghiêm Kế Bồ Tát, Thị Hiện Nhứt Thiết Như Lai Thần Biến Ma Ni Vương Tràng Võng Thuỳ Phúc Kế Bồ Tát, Xuất Nhứt Thiết Phật Chuyển Pháp Luân Âm Kế Bồ Tát, Thuyết Tam Thế Nhứt Thiết Danh Tự Âm Kế Bồ Tát, Ðại Quang Bồ Tát, Ly Cấu Quang Bồ Tát, Diệm Quang Bồ Tát, Pháp Quang Bồ Tát, Tịch Tịnh Quang Bồ Tát, Nhựt Quang Bồ Tát, Tự Tại Quang Bồ Tát, Thiên Quang Bồ Tát, Phước Ðức Tràng Bồ Tát, Trí Huệ Tràng Bồ Tát, Thần Thông Bồ Tát, Quang Tràng Bồ Tát, Hoa Tràng Bồ Tát, Ma Ni Tràng Bồ Tát, Bồ Ðề Tràng Bồ Tát, Phạm Tràng Bồ Tát, Phổ Quangtràng Bồ Tát, Phạm Âm Bồ Tát, Hải Âm Bồ Tát, Ðại Ðịa Âm Bồ Tát, Thế Chủ Âm Bồ Tát, Sơn Tướng Kích Âm Bồ Tát, Biến Nhứt Thiết Pháp Giới Âm Bồ Tát, Chấn Nhứt Thiết Pháp Hải Lôi Âm Bồ Tát, Hàng Ma Âm Bồ Tát, Ðại Bi Phương Tiện Vân Lôi Âm Bồ Tát, Tức Nhứt Thiết Thế Gian Khổ An Uỷ Âm Bồ Tát, Pháp Thượng Bồ Tát, Thắng Thượng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Phước Ðức Tu Di Thượng Bồ Tát, Công Ðức San Hô Thượng Bồ Tát, Danh Xưng Thượng Bồ Tát, Phổ Quang Thượng Bồ Tát, Trí Hải Thượng Bồ Tát, Phật Chủng Thượng Bồ Tát, Quang Thắng Bồ Tát, Ðức Thắng Bồ Tát, Thượng Thắng Bồ Tát, Phổ Minh Thắng Bồ Tát, Pháp Thắng Bồ Tát, Nguyệt Thắng Bồ Tát, Hư Không Thắng Bồ Tát, Bửu Thắng Bồ Tát, Tràng Thắng Bồ Tát, Trí Thắng Bồ Tát, Ta La Tự Tại Vương Bồ Tát, Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát, Tương Tự Vương Bồ Tát, Phạm Tự Tại Vương Bồ Tát, Sơn Tự Tại Vương Bồ Tát, Húng Tự Tại Vương Bồ Tát, Tốc Tật Tự Tại Vương Bồ Tát, Tịch Tịnh Tự Tại Vương Bồ Tát, Bất Ðộng Tự Tại Vương Bồ Tát, Thế Lực Tự Tại Vương Bồ Tát, Tối Thắng Tự Tại Vương Bồ Tát, Tịch Tịnh Âm Bồ Tát, Vô Ngại Âm Bồ Tát, Ðịa Chấn Âm Bồ Tát, Hải Chấn Âm Bồ Tát, Vân Âm Bồ Tát, Pháp Quang Âm Bồ Tát, Hư Không Âm Bồ Tát, Thuyết Nhứt Thiết Chúng Sanh Thiện Căn Âm Bồ Tát, Thị Nhứt Thiết Ðại Nguyện Âm Bồ Tát, Ðạo Tràng Âm Bồ Tát, Tu Di Quang Giác Bồ Tát, Hư Không Giác Bồ Tát, Ly Nhiễm Giác Bồ Tát, Vô Ngại Giác Bồ Tát, Thiện Giác Bồ Tát, Phổ Chiếu Tam Thế Giác Bồ Tát, Quảng Ðại Giác Bồ Tát, Phổ Minh Giác Bồ Tát, Pháp Giới Quang Minh Giác Bồ Tát.

Năm trăm đại Bồ Tát như vậy câu hội.

Những Bồ Tát này thảy đều thành tựu hạnh nguyện Phổ Hiền Cảnh Giới Vô Ngại, vì cùng khắp tất cả cõi Phật. Hiện thân vô lượng, vì thân cận tất cả chư Như Lai. Tịnh nhãn vô ngại, vì thấy tất cả sự thần biến của chư Phật. Xứ đến vô hạn vì hằng khắp đến chỗ của tất cả Như Lai thành chánh giác. Quang minh vô tế, vì trí huệ quang chiếu khắp tất cả thiệt pháp hải. Thuyết pháp vô tận, vì thanh tịnh biên tài vô biên tế kiếp không cùng tận. Khắp hư không giới, vì trí huệ ra làm đều thanh tịnh. Không chỗ y chỉ, vì tùy tâm chúng sanh hiện sắc thân. Diệt trừ mê lòa, vì rõ chúng sanh giới không chúng sanh. Trí khắp hư không, vì dùng lưới đại quang minh chiếu pháp giới.


Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng



LỜI DẪN


Bộ kinh HOA NGHIÊM, dài chừng 5000 trang, là bộ kinh nhằm diễn giải về cái bí ẩn của pháp giới này cũng như về sự hiện hữu của các chúng hữu tình và y báo vô tình. Tuệ giác của kinh không dừng ở quan niệm đơn sơ về một vị Thượng đế mô phỏng theo nhân ảnh và biết thưởng phạt, mà dẫn dắt chúng ta đi rất xa, rất sâu vào bình diện Nhất nguyên phi thần hóa. Tới những áng mây tuyệt vời che phủ niềm cô liêu bất nhị của ngọn núi Tuyết sơn… Tới BIỂN TÂM UYÊN NGUYÊN… tuy mịt mùng hư ảo VÔ HÌNH TƯỚNG nhưng lại chính là cỗi nguồn nguyên sơ của tất cả vũ trụ này.

Và trên mặt Biển Tâm trong vắt và không có một vật ấy, tùy theo nghiệp lực ĐIÊN ĐẢO của chúng sanh đứng nhìn, đã mọc lên bời bời vô lượng những sắc tướng trùng điệp, chập chùng xen lẫn, chập chùng ẩn hiện.

Tôi không biết phải làm thế nào để có thể làm

Vì tất cả pháp giới như-không-ngằn-mé này, chỉ được DỆT nên bằng những QUANG MINH tâm thức, những quang minh này xoay vần miên viễn, lần lần chuyển động chậm lại do vọng tưởng vọng tình rồi kết tụ thành những sắc tướng. Đó là một màn ẢO HÓA chập chùng biến hiện của vô lượng những màn lưới quang minh, những màn THIÊN LA VÕNG phát xuất từ NGHIỆP LỰC HẢI của chúng sanh, cũng như từ NGUYỆN LỰC HẢI của chư Đại bồ tát và THẦN LỰC HẢI của những tâm niệm vô nhiễm của chư Phật.

Lời kinh xưa dạy như vậy.

Trong các kinh lớn của nhà Phật, kinh HOA NGHIÊM là lâu đài nguy nga đồ sộ nhất. (Suzuki cũng nhận định rằng kinh Hoa Nghiêm là một lâu đài giáo lý mà các tôn giáo khác không có nổi…) Và trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm NHẬP PHÁP GIỚI là lạ lùng kỳ diệu nhất, độc nhất vô nhị.

Phẩm Nhập Pháp Giới, dài 1300 trang, mô tả một cách vô cùng kỳ thú, cuộc hành trình của một vị hành giả, của ngài THIỆN TÀI đồng tử, đi lần lần học hỏi qua 53 vị thiện tri thức, cách thức ĐI SÂU VÀO BIỀN TÂM, qua những giai đoạn Không quán rồi Giả quán, Trung quán. Nhưng thực sự là Giả và Trung quán.

Tuy bối cảnh của cuộc hành trình là cả pháp giới mênh mang bao la này, nhưng thực ra, cuộc hành trình chi trải ra trong Tàng thức sơ năng biến của ngài, cũng như trong Tàng thức của các bậc Thiện tri thức… Rốt cuộc, ngài nhập vào LỖ CHÂN LÔNG của ngài Phổ Hiền, đi trong đó 12 năm, rồi:

NHẬP PHÁP GIỚI…!!!

Trong các kinh nhà Phật, thường chỉ nói tới Giải thoát, rất ít khi nói tới Nhập pháp giới… Riêng kinh Hoa Nghiêm chỉ nhấn mạnh tới Nhập pháp giới.

Vậy thế nào là GIẢI THOÁT? Thế nào NHẬP PHÁP GIỚI?

Giải thoát cho riêng mình không phải là cứu cánh của giáo lý Phật, mà chỉ là một chặng đường. Trong khi Nhập pháp giới mới chính là cứu cánh tuyệt vời tối hậu.

Giải thoát là khi hành giả tiến tu trên lịch trÌnh Không quán, lần lần vượt qua bốn màn sương mù Sắc Thọ Tưởng Hành ấm, vào Diệt tận định, bước vào bờ mé của Tàng thức sơ năng biến. Rồi ngồi đó, dùng Trí huệ vô lậu quán chiếu các Phiền não chướng tham sân si mạn, nghi là những mầm mống sanh tử, tiêu dung các thứ đó. Lúc ấy, hành giả không còn phải thọ sanh nữa, chấm dứt Phân đoạn sanh tử, bước vào trạng thái niết bàn an lạc tịch diệt của các bậc Giải thoát cho riêng mình.

Vị đó, tuy đã tiêu dung phiền não chướng và chấm dứt Phân đoạn sanh tử, song còn những Sở tri chướng của Biến dịch sanh tử vi tế.

Cho nên, hành giả tu Bồ tát đạo không dừng chân ở bờ Giải thoát. Mà còn tiến xa hơn nữa, sâu hơn nữa… Còn LẶN SÂU hơn vào Tàng thức, khởi Giả quán và Trung quán, đi tới chỗ Tột không tức Diệu hữu, tới Đại niết bàn Đại tịch diệt của chư Như lai. Để tiêu dung mọi biến dịch sanh tử vì tế, mọi ranh giới giữa Tự và Tha, giữa Chánh báo cùng Y báo. Để Thân tâm bao trùm pháp giới, NHẬP MỘT với pháp giới… Lúc đó, không một cọng hoa nào nở, không một vi trần dấy lên, không một tinh hà thành hoại, không một tâm niệm nào khởi lên… mà Bậc đó không hay biết. Vì sao? Vì tất cả đều ở trong thân tâm Bậc đó… Lúc đó, Thân là Cõi và cõi là thân…

Và Nhập pháp giới chính là đắc VÔ THƯỢNG CHẢNH GIÁC.

Tôi có cái hạnh ngộ (không biết do túc duyên nào?!), tụng kinh Hoa Nghiêm, và diễn giảng trong mấy năm tại một ngôi chùa nhỏ ở Santa Ana… Và phẩm Nhập pháp giới đã khiến tôi say mê thích thú, tưởng chừng như đọc một bộ tiểu thuyết nhà trời kỳ diệu.

Những trang sau đây là phẩm Nhập pháp giới diễn giảng, lời giảng thường đi theo lời kinh được trích yếu.

Tuy lời diễn giảng nôm na, đôi khi thô lậu, nhưng có thể góp ý và gợi ý cùng bạn đọc về cuộc hành trình Đi Sâu vào Biển Tâm.

Và bây giờ, xin mời bạn đọc theo dõi từng bước chân, từng cử chỉ lời nói của ngài Thiện Tài đồng tử.

Nam mô Văn Thù, Phổ Hiền Đại Bồ Tát

Cung kính đề
Tịnh Liên

 

ĐI, đi mãi… đi hoài đi hủy… trong pháp giới xum la vạn tượng và như không-ngằn-mé này, cũng chỉ là ĐI TRONG VƯỜN TÂM của mình thôi.


4 tháng Hai, 1990

 

Hôm nay là buổi thuyết giảng đầu năm và cũng là buổi thuyết giảng thứ 101 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này.

Hôm nay, chúng ta sẽ đi vào phẩm “Nhập Pháp Giới.” Trong phẩm này, các vị thiện trí thức rất nhiều (53 vị), mà vị nào cũng vậy, nếu nói theo ngôn ngữ hơi… “thô lỗ” của thế gian thì vị nào cũng đều… “quái dị” cả. Nhưng mỗi lời của các ngài đều là những công án, nên vì vậy, xin quí vị về đọc trước cho dễ đi vào mạch kinh.

Phẩm Nhập Pháp Giới là một phẩm hết sức lạ lùng và có lẽ độc nhất vô nhị của kinh Phật. Không biết đối với quí vị ra sao, nhưng riêng tôi, nhiều khi đọc tôi thích thú như đang đọc một bộ tiểu thuyết kỳ diệu, lạ lùng và khó hiểu, đồng thời như mình đang đứng ngắm nhìn một giòng sông chảy trong đó toàn là kim cương mà không có cách nào lấy được những viên kim cương ấy. Bây giờ chúng tôi xin nói qua về chữ “Nhập Pháp Giới.” Thường thường trong các kinh khác, ngài chỉ nói đến chữ “Giải Thoát,” hoặc giới, định, huệ, giải thoát, hay giải thoát tri kiến mà thôi.

Nhưng kinh Hoa Nghiêm lại không nhấn mạnh ở chữ “Giải Thoát,” mà lại nói đến chữ “Nhập Pháp Giới.” Vậy thì mục tiêu tuyệt vời của giáo lý nhà Phật là gì? Là giải thoát hay nhập pháp giới? Và hai cái đó khác nhau ra sao??

Trong những kinh khác, thường thường đức Phật bao giờ cũng nhắc đi nhắc lại chữ giải thoát và giải thoát tri kiến, còn trong kinh Hoa Nghiêm thỉnh thoảng ngài nói đến chữ giải thoát nhưng ngài chỉ nói lược qua mà lại nhấn mạnh đến chữ “Nhập Pháp Giới.”

Để hiểu rõ hơn về bản hoài của chư Phật và chữ giải thoát lẫn nhập pháp giới, chúng ta phải trở lại nói lược về con đường tu của thanh văn và con đường tu của bồ tát.

Thường các Phật tử đi chùa, ai cũng nghĩ một cách đơn giản tu là phải giải thoát mà thôi. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ thì sự giải thoát còn thua xa so với sự nhập pháp giới. Theo những kinh của Nam Tông kể rằng: “có đức Phật ngồi dưới cây bồ đề đắc được ngũ thông, khi sao mai nổi lên ngài đắc được thiên nhãn thông, rồi thiên nhĩ thông, rồi tha tâm thông, thần túcthông, cuối cùng đến lậu tận thông.” Riêng Hoa Nghiêm thì lại nói khác hẳn, nói thập thông, thập định, thập nhẫn và nhập pháp giới. Vậy phải hiểu ý của chư Phật như thế nào???

Xin trích ra một đoạn ngắn tả về nhập pháp giới:

Kinh:

…Lúc đó đức Phật Thế Tôn ngự trên tòa sư tử này thành Vô Thượng chánh Đẳng Chánh Giác, trí Phật chứng nhập thời gian ba đời đều bình đẳng…

Giảng:

Bên Thanh Văn thừa, chỉ nói là có túc mạng thông, biết được một số những kiếp trước và vị lai. Nhưng đây lại nói đức Phật chứng nhập thời gian ba đời đều bình đẳng, tức là đã hóa giải thời gian.

Kinh:

…Thân Phật đầy khắp tất cả thế gian…

Giảng:

Nghĩa là đầy khắp pháp giới, ở đây, không gian cũng bị hóa giải, tức là thân và tâm Phật trùm đầy tất cả pháp giới: không có một cọng hoa nào nở ra, một hạt bụi nào rưới lên, một vi trần động đậy, một tâm niệm của chúng sanh, một tinh hà nở ra, một phiền não chúng sanh khởi lên mà ngài không biết. Vì TẤT CẢ đều ở trong tâm của ngài đó là ý nghĩa của chữ nhập pháp giới…

Khi một vị hành giả tu hành đến mức tâm mình lớn bao trùm tất cả vũ trụ này. Thí dụ như ta ngồi đây, thấy người đói rét mà ta không cảm thấy gì hết, có chăng một chút lòng ái ngại và thương xót rồi sau đó quên ngay. Tức là sao? Đó là tại tâm mình quá nhỏ, chỉ thu ở phạm vi cái gì “của mình” thôi. Nhưng đến khi nào quí vị cảm nhận rằng mình đau được cái đau khổ ấy, rét được cái rét đó, đói được cái đói đó, thì bắt đầu tâm của quí vị đã nới ra hơn một chút, và cho đến khi nào quí vị cảm thấy rằng bất cứ chúng sanh nào đau khổ hay vui mừng, mình cũng cảm nhận sự đau khổ, vui mừng đó y như họ vậy. Lúc đó tâm càng ngày càng lớn, về sau mình sẽ có thần lực, thân ngồi đây bất động, nhưng tâm bao trùm cả pháp giới này, không có vi trần nào mà thân tâm mình không đến được. Đó là nhập pháp giới…

Kinh:

…Thân Phật khắp đầy tất cả thế gian, tiếng Phật thuần khắp cõi nước mười phương, ví như hư không bao gồm tất cả các tướng…

Giảng:

Ý nói rằng thân và tâm Phật rộng lớn như hư không, lúc nào cũng thấm thâu khắp pháp giới.

Kinh:

…Đối với cảnh giới không có phân biệt…

Giảng:

Không phân biệt vì chỗ nào cũng là thân và tâm của mình cả.

Kinh:

…Lại như hư không cùng khắp bình đẳng trong tất cả quốc độ.

Giảng:

Vào trong quốc độ là vào trong tất cả vi trần, tinh hà.

Kinh:

Thân Phật thường khắp ngồi trong đạo tràng của chúng Bồ Tát, oai quang của Phật chói rỡ như mặt trời mọc lên soi sáng thế giới. Phước đức của Phật rộng lớn như biển cả đều đã thanh tịnh, mỗi đầu sợi lông đều có thể dung thọ tất cả thế giới mà vẫn không chướng ngại, đều hiện vô lượng thần thông giáo hóa điều phục chúng sinh…

Giảng:

Như vậy, kinh Hoa Nghiêm đều dính liền với tất cả thần thông, không có cách gì tách ra được. Vì nếu tách ra tức không hiểu gì hết. Vậy thì, thế nào là giải thoát? Thế nào là nhập pháp giới? Đồng thời, ta cũng phải lược lại lộ trình tu chứng của Thanh Văn thừa và lộ trình tu chứng của Bồ Tát đạo…

 

Thanh Văn tu cái gì, và tới cái gì? Niết Bàn là thế nào? Khi vào Niết Bàn các vị A La Hán đó có còn thân hay không? Và dùng tâm gì để tu? Chỉ, quán là chỉ quán cái gì? Còn Bồ Tát đạo thì các ngài tu ra sao và dùng cái gì để tu?

Bên Thanh Văn thừa, dùng trực tâm. Trực tâm là tâm ngay thẳng, không lệch lạc, một vị thanh văn giữ giới với một tâm không lệch lạc, chưa phải là Bồ Đề tâm. Còn con đường Bồ Tát đạo là dùng Bồ Đề tâm tức là tâm Bát Nhã và Đại Bi bình đẳng, là tâm chẳng có, chẳng không…

Chúng ta vốn là những Phật tử, nhất là đã đọc Hoa Nghiêm rồi, cần phải hiểu rõ thế nào là mục tiêu tuyệt vời của chư Phật. Đây, xin nói trước về lộ trình tu chứng của Thanh Văn thừa.

Một bên, Thanh Văn thừa dùng trực tâm, một tâm ngay thẳng, giữ giới, chưa biết được tâm Bồ Đề, Bát Nhã và Đại Bi, các ngài có 250 giới cho tỳ kheo, 348 giới cho tỳ kheo ni. Một bên, Bồ Tát thừa dùng tâm Bồ Đề, Đại Bát Nhã và Đại Bi, dùng tâm chẳng có, chẳng không. Ngoài những giới gần giống như bên Thanh Văn thừa, Bồ Tát còn có những giới khác như giới phải giữ Bồ Đề Tâm, giới phải tu đại thừa, giới nhiêu ích hữu tình .v.v… Sự khác nhau chỉ ở chỗ một đằng là đến chỗ giải thoát, nhập Niết Bàn cho riêng mình thôi (Thanh Văn), một đằng là đến chỗ nhập pháp giới trọn vẹn (Bồ Tát). Bồ Tát nhiều khi không nghĩ đến mình nữa, nên có nhiều vị cố tình để lại một ít kiết sử để thọ sinh lại trong các đường ác, và coi sự giải thoát cho chính mình là thứ yếu, mà chỉ cầu tới chỗ nhập pháp giới, mà tới chỗ đó thì tất cả mọi việc đều xong.

Quí vị sẽ thấy Niết Bàn của Thanh Văn rất khác với đại tịch diệt Niết Bàn của Như Lai. Và khi vào đại tịch diệt, hành giả sẽ có đủ thần lực kéo cả pháp giới đi đến chỗ cứu cánh.

Trở lại vấn đề giải thoát bên Thanh Văn. Xin đặt câu hỏi: Một hành giả tu theo Thanh Văn thừa là như thế nào? Giữ giới ra sao? Trong Thanh Văn thừa được chia ra hai phần: ngoại phàm, và nội thánh. Lúc đầu, một hành giả mới vào tu, trước hết hành giả phải tu ngũ đình tâm quán: đó là những môn để luyện tâm mình và đối trị những bệnh của mình. Ngũ đình tâm quán có năm thứ:

1/ Quán tâm bất tịnh: để cho nhàm chán cái thân này ra khỏi dục giới. Nếu còn đắm luyến thân này, thì hành giả chưa thể bước một bước — dù rất nhỏ — trên con đường Phật đạo. Phải biết thân này là máu mủ đờm rãi, không có gì là đẹp cả. Vì do tập khí cũ nên mắt không thể thấy gì khác ngoài cái da bao bọc ngoài thân.

2/ Quán nhân duyên: Đó là một loại quán cốt yếu của nhà Phật. Hành giả phải quán không có pháp nào là đơn thuần cả, đều do vô lượng nhân duyên hội tụ lại mà thành. Khoa học ngày nay cũng thấy rằng, trong các vi trần dù nhỏ đến đâu, như những hạt nhân, những trung hòa tử, những âm điện tử, dương điện tử v.v…, nếu đi sâu hơn nữa vào những vật ấy, họ lại có thể phân tách thành những vật khác. Họ lại tìm thấy những thứ gọi là “phản vật,” phản dương điện tử, phản âm điện tử, v.v… rồi thì liên miên biên hóa không ngừng. Nên khi tâm nhãn mình rọi soi đến đâu thì nó lại càng biến hóa trùng trùng đến đó mà không thể tìm được một vật nào đơn thuần hết. Vì vậy, kinh Phật mới dạy rằng: “Tất cả các pháp đều không có thực thể, đều là do vô lượng nhân duyên hội tụ mà thành.” Quán nhân duyên là một lối quán sơ bộ, nhưng rất quan yếu của tiểu thừa, đồng thời đó là một lối quán để nối liền với lối quán như huyễn của đại thừa.

3/ Quán từ bi: Chúng ta quán nhân duyên, bất tịnh để đối trị với tham dục của chúng ta, còn quán từ bi để đối trị sự sân hận. Khi một hành giả thấy rằng mình sắp sửa nổi sân lên vì một người nào đó, thì hãy khởi quán tâm từ, nghĩ rằng người đó cũng có nhiều điều đau khổ như mình vậy, và biết đâu họ đã lõi bõi đi qua bao nhiêu kiếp chìm nổi để có được thân người như ngày nay. Đại khái là như vậy.

4/ Quán giới phân biệt: Giới là sáu căn, sáu trần, sáu thức và tất cả giới đều do lục đại hòa hiệp mà thành, ở đây xin mở một dấu ngoặc là theo Thanh Văn thừa thì có sáu đại, nhưng trong kinh Lăng Nghiêm lại nói bảy đại: đất, nước, gió, lửa, hư không, thức, và kiến đại. Khi một hành giả luôn luôn quán như vậy, thì tâm càng ngày càng sắc bén hơn lên, thành cái gươm trí huệ, bất cứ pháp nào hành giả cũng có thể chia chẻ ra được. Như trong kinh tả ngài Xá Lợi Phất, không có một điều gì mà ngài nghe qua mà không hiểu. Nhìn thấy một người nào ngài cũng biết rằng người này vướng vào cái gì, có cái gì lợi căn và cái gì hại căn v.v…

5/ Quán sổ tức: sổ tức để ngừng tâm lại không để cho nó buông lung tán loạn, đó là một trong những pháp môn căn bản để bắt đầu.

Sau khi qua được giai đoạn tu ngũ đình tâm quán, (nhưng nhiều khi các vị THANH Văn chỉ tu một phần của ngũ đình tâm quán thôi mà cũng có thể bước qua phần khác được) thì các vị bước qua phần thứ hai. ở phần này, là một pháp môn tu nửa tiểu thừa, nửa đại thừa để bắt đầu cho những vị khởi tâm muốn qua đại thừa. Phần này tu tứ niệm xứ gồm có:

1/ Quản thân bất tịnh, cũng là pháp môn như trên. Nhưng trong đạo Phật, thường phải tu đi, tu lại một hạnh, hay một độ nào đó, vì nhiều khi, tu đến một mức nào đó lại phải tu sâu hơn nữa, vì tâm thức đi theo con đường vòng xoáy trôn ốc. Chẳng hạn như lúc đầu đã tu hạnh bố thí rồi, nhưng sau các vị lại trở lại tu bố thí, hoặc có ngài như ngài Vô Yểm Túc dạy tu từ tâm, sau đó lại có ngài Đại Quang cũng dạy tu từ tâm, nhưng ngài này dạy đi vào mức độ sâu hơn, (Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm nhập pháp giới, lúc ngài Thiện Tài đi gặp các vị thiện tri thức). Như chúng ta, đọc kinh một lần đầu đâu có thể hiểu ngay được, mà phải đọc đi, đọc lại 50, 60 lần mới mong hiểu chút phần, vì thế cứ phải xoáy dần sâu vô mãi…

2/ Thọ thì khổ. ở đây, hành giả ngồi quán chiếu mọi cảm giác của mình, thấy rằng bất cứ thọ cái gì cũng là khổ cả. Nhiều cái thọ thấy lúc đầu rất vui, nhưng sau cùng đều đưa đến cái thọ khổ. Thí dụ như ta mới được một cái xe mới, cảm giác lúc đó rất vui, nhưng sau lại phải đương đầu với lắm sự phiền nhiễu, tiền trả xe hàng tháng, tiền bảo trì, tiền bảo hiểm v.v… nghĩa là chuyện gì, lúc nào cũng chỉ đem đến cho ta nhiều lo lắng, phiền não, mà sự vui lại rất ít. Một thí dụ khác là ăn uống, lúc đương đói, ăn vào thì rất thích, nhưng sau đó, ăn no quá lại thấy nặng bụng, phải tiêu hóa, hoặc đau bụng, đó là chưa kể về già lại nhiều phiền não hơn nữa, có khi không đi cầu được chẳng hạn. Tóm lại, tất cả sự thọ đều là khổ.

3/ Tâm vô thường. Tâm đây không phải là diệu tâm đâu, mà là vọng tâm. Tâm tưởng của chúng sinh, đều thay đổi từng giờ phút, giây, ngay cả từng sát na một. Hôm nay có thể ta nghĩ thế này, mai lại nghĩ khác, hôm nay ta thích cái này, vài ba ngày sau lại chán cái đó ngay. Vì vậy nên tâm vô thường, nên pháp vô định…

4/ Pháp vô ngã. Mọi pháp đều không có cái gì là tự tánh của nó cả, nên gọi là pháp vô ngã.

Tóm lại, tất cả những phần tu nói trên đều là sơ bộ, cốt để tập cho tâm mình thuần thục một chút. Trong thời gian tu tập sơ bộ đó, đạo Phật lại chia làm bốn thứ bậc của ngoại phàm, (là những người còn lơ mơ ở ngưỡng cửa). Những vị này, sẽ chứng được bốn bậc: noãn, đảnh, nhẫn và thế đệ nhất.

— Noãn là hơi ấm, nếu một hành giả quán chiếu thân bất tịnh, quán lâu thì thấy nó đúng, giống như một người dùi cây lâu ngày thì nó bật lửa. Ở mức độ này, hành giả thấy một chút trí tuệ phát khởi nên gọi là noãn.

— Đảnh là sau khi dùi cây lấy lửa lâu rồi sắp được kết quả thì được đảnh. Đảnh tức là lên đến đảnh núi rồi, nhưng hành giả ấy vẫn chưa với được những cụm mây trên cao, đồng thời chân còn dính vào đất mà chưa bay bổng tuyệt vời được.

— Nhẫn đây là nhẫn của tiểu thừa thôi, chưa phải cái nhẫn lớn của vô sanh pháp nhẫn của các vị đại bồ tát. Trong đạo Phật rất lạ lùng, vẫn chỉ là một thứ thôi, nhưng sau lại chia ra đi vòng tròn xoáy trôn ốc lên. ở tiểu thừa chỉ nói một thứ nhẫn, nhưng lên đại thừa thì có cả mười mấy thứ nhẫn. Nhẫn của đại thừa đại khái như sau: Phục nhẫn, cho những vị mới tu thập tín, thập trụ. Phục nhẫn là dùng chữ nhẫn của mình để dẹp bớt những phiền não. Tín nhẫn là lòng tin sâu chắc khiến nhẫn chịu được các pháp, cho dù có ai chửi cũng không thấy giận nữa. Tùy thuận nhẫn, là thuận theo chân lý của đại thừa, và khi đã hiểu được chân lý đó thì có thể chịu được nhiều thứ pháp, đói không thấy sợ lắm, bệnh cũng không thấy sợ lắm, ngay cả đến sự chết cũng không thấy sợ. Vì sao, vì lúc đó hành giả đã hiểu rõ các pháp, hiểu rằng mình bất tử, không có cách gì có thể chết được cả. Đó chỉ là cái thân này chết thôi, còn luồng sức tâm không thể chết được.

Nhân đây, tôi cũng xin nói qua về cái “bất tử” của nhà Phật. Tất cả các đạo khác nhằm đến một sự bất tử rất hạn hẹp, giả dụ như tu tiên, muốn giữ hình hài này độ vài nghìn năm nhưng đó vẫn chưa đến chỗ bất tử rốt ráo, vì rồi hết hạn cũng phải chết. Đạo Phật cho rằng đó chỉ là sự bất tử hình tướng và thô kệch. Vì nếu đi sâu được vào thức ấm và dùng thức ấm liên tục nhớ từ kiếp này sang kiếp khác, dùng sợi dây ấy để làm “cái-gạch-nối-liền” đi qua các cõi, các kiếp để tạo nên cái bất tử của mình, thì đó mới thực sự là bất tử, là biến hóa tràn đầy thế gian mà không bao giờ có thể hết được. Khi đi sâu vào thức â’m thuần thục, hành giả chỉ cần khởi một niệm cũng có thể hiện bời bời nhiều sắc thân và trụ nhiều kiếp.

Như một người được vãng sinh Cực Lạc, có thể sống vô lượng kiếp nhưng không phải trụ ở thân máu mủ này đâu, mà có một thân hào quang của thức ấm. Nói tóm lại, bất tử của đạo Phật sâu xa vô cùng và vượt xa tất cả các đạo khác. Vì thế, ngày xưa có một vị sư tên Đàm Loan đi gặp một ông tiên và được ông cho một ít sách để tu tiên. Giữa đường, lại gặp một vị hòa thượng, được nghe hòa thượng đó tả nói về Tịnh Độ, ngài Đàm Loan hiểu được sự vi diệu, nên ngài đã quẳng sách tu tiên để tu theo Tịnh Độ và sau được vãng sanh.

Vô sanh pháp nhẫn là nhẫn của Bồ Tát đệ bát địa. Lúc này, bực Bồ Tát đã có nhiều thần thông biến hóa lắm rồi, nên không có pháp nào mà không nhẫn được.

Hư không nhẫn là chữ “nhẫn” của chư Phật, tức là đã hoàn toàn nhập pháp giới trọn vẹn.

Trở lại chữ nhẫn ở tiểu thừa, nó còn rất hạn hẹp, chỉ có thể chịu đựng được một số pháp thôi, như chuyện tham dục, bệnh tật v.v… Vì sự hiểu biết nhân duyên: bất tịnh, khổ, không, vô thường, vô ngã nên các vị đó có sự nhẫn chịu được một số pháp, nên tâm được một chút thong dong, tự tại.

4/ Thế đệ nhất, ở mức độ này, trong thế gian, hành giả phàm phu được phong làm đệ nhất của hàng người.

Sau khi đi qua bốn bậc đó gọi là tứ thiện căn, hoặc tứ gia hạnh, lúc này cá cvị tiểu thừa bước vào quán tứ đế: khổ, tập, diệt, đạo.

Quán tất cả pháp là khổ. Chúng ta nên nhớ rằng không có gì là không khổ. Như cái thân này chẳng hạn, phải bắt buộc qua bốn thời kỳ sanh, già, bệnh, chết. Đồng thời phải hiểu rằng có một trạng thái tâm thức gọi là Niết Bàn, mà trạng thái đó là trạng thái giải thoát, an lạc, tịch tĩnh… Nên các vị luôn luôn phải quán mấy thứ đó, không lúc nào quên và phải nhớ rành rẽ từng thứ một. Nhìn đâu cũng đều thấy là khổ, không, vô thường, vô ngã cả… duy Niết Bàn là an lạc, tịch tĩnh. Từ tâm tưởng đến trí thông minh của mình thật ra không hề có tác giả, không có thọ giả. Hiểu rằng tác giả, thọ giả đều là Ảo Vọng. Đồng thời, hiểu rằng mình sẽ đến một giai đoạn gọi là giải thoát mà trong đó tâm thức an lạc, tịnh tĩnh. Sau khi quán khổ như thế, lại quán tập, diệt, đạo.

Tập đế là tất cả nguyên nhân của sự khổ do tập khí cũ từ vô lượng kiếp, nên cần phải diệt tập khí đó đi để tu hành đến đạo quả, tức là Niết Bàn tịnh tĩnh. Trong kinh còn nói nhiều thứ phức tạp hơn, nhưng tôi chỉ tóm tắt cho quí vị biết được cái sườn tu của các vị Thanh Văn.

Ở đây, hành giả đã bắt đầu vào nội thánh rồi, có thể được bốn quả tiểu thánh, đồng thời cũng có thể được bốn thiền, bốn vô sắc định và diệt tận định.

Thế nào là quả thánh và thế nào là quả thiền? Có nhiều trường hợp hành giả tu được bốn quả thiền nhưng chưa được một quả thánh nào cả. Như đắc sơ thiền nhưng chưa chắc đã đắc được quả thánh Tu Đà Hoàn, (Xin nhắc sơ bốn quả tiểu thánh là Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hoàn, A Na Hàm và A La Hán). Khi bắt đầu có những quả thánh đó thì trong nhà Phật gọi là kiến đạo, sau đến chỗ tu đạo và sau cùng là vô học đạo. Còn tứ thiền là: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, và tứ thiền, rồi tứ vô sắc định là không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ. Cuối cùng là diệt tận định. Tóm lược là cửu thứ đệ định.

Bốn quả thánh và cửu thứ đệ định đều do tu thiền mà được. Nhưng có những vị đắc được tứ thiền như ngài Thiện Tinh Tỳ Kheo, có thể ngưng tim đập, bặt hơi thở, phóng quang, vào được xả niệm thanh tịnh địa (đệ tứ thiền), nhưng ngài không đắc một quả thánh nào cả, ngay cả quả thánh thấp nhất là Tu Đà Hoàn. Nên khi lâm chung, thấy chẳng vào được Niết bàn, vẫn thấy có thân trung ấm, nên ngài kinh ngạc kêu lên rằng: “Chư Phật đều nói lời hư vọng, chả có Niết Bàn gì cả.” Vì thế mà ngài bị đọa địa ngục.

Thiền là mức định lực nông sâu của mình, quả thánh là do diệt được những phiền não hữu lậu. Một vị hành giả tu thiền khá có thể ly dục và vào được sơ thiền, nhưng sân, si, nghi, mạn v.v… vẫn còn nhiều, chưa diệt được mấy đỗi, vì vậy mà chưa đắc quả thánh. Muốn đắc quả thánh thấp nhất phải diệt được một số kiến hoặc và tư hoặc. Tất cả bốn quả thánh bên Thanh Văn thừa đều căn cứ vào vấn đề diệt phiền não nhiều hay ít, còn thiền chỉ thuần do định lực mà có. Trong kinh thường nói có những kiến hoặc và tư hoặc mà các vị tu muốn đắc quả phải diệt.

Kiến hoặc là cái nhìn lệch lạc, tỷ dụ như thân kiến, biên kiến, giới cấm thủ kiến, chấp thủ kiến, và tà kiến.

Thân kiến là chấp có thân này do đó chấp có ngã, (cái ta). Biên kiến là nghĩ rằng các pháp có một biên giới rõ rệt như tự và tha, như một là có, hai là không, một là đoạn, hai là thường, một là có mình, hai là có người v.v… Không bao giờ hiểu rằng các pháp là chẳng có, chẳng không cả, là không quyết định, là tùy tâm người nhìn.

Giới cấm thủ kiến là những ngoại đạo thường hay lạc vào những giới cấm tà kiến. Chẳng hạn như nghĩ rằng, cứ tu bằng cách đứng co một chân như con cò rồi sau khi chết sẽ sanh thiên. Hoặc có vị nghĩ rằng phải hành hạ thân xác mình thật khổ sở, như nằm trên giường đinh, sống bẩn thỉu như một con chó — gọi là cẩu giới — hoặc kê giới, v.v… ăn thì không cầm tay, chỉ dục miệng vào bát để ăn, không đi đứng chỉ bò như chó, khi ngủ thì tìm mấy cái xó bẩn thỉu để ngủ v.v… Họ nghĩ rằng đày đọa thân này thì sau sẽ được sinh thiên. Phật Giáo gọi đó là giới cấm thủ kiến, tức là giữ một giới cấm rất lệch lạc, không thể đưa con người đến một sự giải thoát nào cả. Mà bên xứ Ấn, có rất nhiều trường hợp như vậy, nên chư Phật mới phải từ bi thị hiện ở bên đó.

Chấp thủ kiến là như ngài Thiện Tinh Tỳ Kheo, tu đến đệ tứ thiền rồi chấp là mình có sở đắc vào được Niết Bàn.

Chứ không hiểu rằng phiền não chưa diệt.

Tà kiến là tất cả sự nhìn lệch lạc của mình. Tỷ dụ như bên Ấn có một phái tuyên bố rằng chẳng có nhân quả nghiệp báo gì cả. Nên ai muốn làm gì thì làm v.v…

Hỏi: Xin ông nói rõ thêm sự khác biệt giữa biên kiến và tà kiến là thế nào?

Đáp: Biên kiến là chấp có, không, đoạn, thường, khứ, lai v.v… Nói cách khác, biên kiến là những thành kiến chấp có hai bên, chấp có cái này cái kia, chấp có ta, có người. Luôn luôn phải có đối tượng và chủ thể. Còn tà kiến là một cái chấp lệch lạc, như không có nhân quả nghiệp báo, v.v… Còn tư hoặc là những vọng tình ẩn sâu vào trong tâm thức, nó kết tụ bao nhiêu đời trước do những sự ái luyến suy tư, nó bền bỉ đan nhau từ kiếp này qua kiếp khác, chẳng hạn như tham dục, sân khuể, ngu si, nghi, mạn v.v… Đó cũng gọi là các mầm mống sinh tử nữa.

Trở về vấn đề thiền bên Thanh Văn thừa, những vị này trong khi tu tứ đế, diệt được phần nào kiến hoặc và tư hoặc, ít hay nhiều thì đạt được từ thấp lên cao bốn quả thánh. Đồng thời có thể đi vào thiền định từ sơ thiền đến tứ thiền, đến vô sắc định, diệt tận định, rồi vào đến không hải của thức ấm. Rồi vào Đại Thừa, hoặc dừng chân.

Nói về các quả, quả đầu tiên là Tu Đà Hoàn. Đắc quả này, người tu chỉ trở lại cõi dục bảy lần nữa, phải bảy lần làm người hoặc làm chư thiên, nếu tiếp tục tu thì mới đắc được quả A La Hán, rồi vào Niết Bàn tịch diệt. Còn Tu Đà Hàm (Nhất Lai), là chỉ trở lại cõi dục một lần thôi. A Na Hàm là những vị không trở lại dục giới nữa, các vị này khi chết đi không thọ sinh làm chư thiên cõi dục, hoặc làm người, chỉ trừ khi có nguyện độ sanh. Thường thường những vị này thọ sanh ở tầng trời sắc giới,  tầng trời này, không có tham dục và không có nam nữ. A La Hán là ra khỏi tam giới rồi, tức là dục giới sắc giới và vô sắc giới.

Muốn hiểu rõ hơn con đường tu thiền bên Thanh Văn thừa, tôi xin trở lại Lăng Nghiêm để ôn qua năm màn sương mù của năm ấm. Ta nên lưu ý rằng: khi tu theo Thanh Văn thừa vượt qua từ sơ thiền, nhị thiền, tam thiền đến tứ thiền lúc đó hành giả mới vào được đến thọ ấm và tưởng ấm mà thôi. Vì sao? Vì sơ thiền là ly sanh hỷ lạc địa, nhị thiền là định sinh hỷ lạc địa, tam thiền là ly hỷ diệu lạc địa. Mấy định này, chỉ cho sự vui sướng mà sự vui sướng ấy thuộc về cảm thọ. Như trong kinh vẫn nói rằng khi một vị Bồ Tát gieo mình vào miệng hổ đói, vị Bồ Tát đó thấy mình sung sướng như một vị Tỳ Kheo nhập đệ tam thiền vậy. Hoặc ngài Đề Bà Đạt Đa ngồi dưới địa ngục vui như một vị Tỳ Kheo nhập đệ tam thiền. Do đó, từ sơ thiền đến tam thiền thuộc về thọ ấm. Lên đến tứ thiền là xả niệm thanh tịnh địa, tức là vào được đến tưởng ấm, tứ vô sắc định là vào được đến hành ấm, đến diệt tận định là bắt đầu bước vào không hải, tức là vào thức ấm.

Do vậy, ta nên hiểu rằng trong kinh Hoa Nghiêm không thấy nói ngài Thiện Tài tu gì từ sắc ấm qua thọ ấm đến tưởng ấm cả. Vì ngài bắt đầu đã tu ngay trong thức ấm đó. Do đó, ta phải hiểu rằng, ngài đã thành tựu Không quán rồi. Chỉ còn học Giả quán và Trung quán thôi.

Đó là kim chỉ nam cho chúng ta hiểu đường đi của thiền định như thế nào. Vì vậy, ta thấy trong phẩm Nhập Pháp Giới, lúc Thiện Tài gặp vị thiện tri thức đầu tiên thì vị này lập tức dạy tu niệm Phật tam muội, tức là quán cái giả để đi sâu vào tột không nên phải quán đức Phật. Vì trong biển không đó hiện ra đức Phật. Đến vị thiện tri thức thứ hai thì dạy Thiện Tài quán biển tâm, mà trong biển đó mọc lên một hoa sen tức là pháp giới này vậy. Ở vị thiện tri thức thứ hai này, cũng vẫn dạy Thiện Tài quán giả, vị thứ ba là ngài Thiện Trụ Tỳ Kheo, dạy Thiện tài quán tâm khéo giữ giữa sắc và không, không có cũng không không, đó gọi là quán trung. Nên ta thấy rõ trình tự tu của Thiện Tài không hề đi qua sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hay hành ấm là vì trong kinh nói rõ: thân, ngữ, ý không có lỗi, tâm thanh tịnh như hư không. Có nghĩa rằng Thiện tài đã vào đến thức ấm rồi vậy.

Trở lại con đường tu của các vị Thanh Văn, sau khi các ngài vào được thức ấm rồi, thì đã được giải thoát chưa? Các ngài còn thân hay không thân?

Giải thoát có hai hình tướng, nếu các vị đó vẫn dùng sắc thân này đi vào thức ấm mà chưa mãn báo thân thì gọi là hữu dư Niết Bàn. Đến khi vị đó bỏ báo thân này, tự đốt thân mình thì luồng thần thức của các ngài đi vào chỗ gọi là vô dư Niết Bàn. Trong kinh tiểu thừa đức Phật thường dạy như vậy, các vị đó vào Niết Bàn như”củi hết lửa tắt,” ngài nói một cách rất mơ hồ, nhưng chúng ta cũng phải hiểu rằng, khi một vị A La Hán đã diệt hết phiền não rồi và dùng hỏa tam muội tự đốt thân mình thì thần thức của các ngài vào một nơi nào đó chưa cần phải nói đến, nhưng liệu các ngài có còn thân hay không, và Niết Bàn là thế nào?

Niết là không, Bàn là dệt. Không dệt sinh tử, vấn đề là ta phải hiểu từng tầng lớp quang minh, từ thô kệch gọi là sắc thân đến vi tế gọi là thức ấm. Khi các ngài diệt được hết phiền não thô kệch rồi, thì thân của các ngài được dệt bằng một quang minh vi diệu hơn, quang minh của thức ấm. Vì vậy trong kinh thường nói đến những khu vực mờ ảo mà ta chỉ có thể đoán thôi, trừ những vị tu chứng lên đến mức độ đó mới hiểu được dễ dàng. Trở lại vấn đề còn thân hay không thân của những vị A La Hán, nói rằng các ngài không còn thân là không còn cái thân phân đoạn sinh tử như chúng ta thôi, vì những mầm mống phiền não đã diệt rồi. Phiền não là những chủng tử mầm mống sinh tử “phụt lên” tạo nên một hình tướng thô kệch là cái thân phân đoạn sinh tử này. Đó là thân máu mủ bầy nhầy hoặc thai sinh, hoặc noãn sinh. Nhưng sau khi bỏ được thân phân đoạn sinh tử thì các ngài vẫn còn thân, gọi là thân biến dịch sinh tử, dệt bằng một thứ quang minh vi tế của thức ấm. Vì vậy, tất cả đại thừa là tu trong thức ấm để chuyển thành Bạch tịnh thức, trong khi tiểu thừa chỉ đến mấp mé, bắt đầu bước vào thức ấm thì dừng lại và cho rằng đã nhập Niết Bàn rồi. Tóm lại, Niết Bàn có thể nói đó là biển quang minh vi diệu của thức ấm, nên trong kinh có kể, các vị A La Hán độn căn ngồi trong đó, lâu dần, chư Phật lại phải khởi đại bi tâm, nhón tay đưa các ngài sang Cực Lạc, cho ngồi trong hoa sen nơi biên địa để tắm được quang minh của chư Phật vài ba kiếp mới có thể khởi được tâm đại bi, phát được lòng mong cầu nhất thiết trí, muốn tiến tu đến tuệ giác Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Tóm lại, tất cả con đường tu của Thanh Văn thừa chỉ tiêu diệt được phiền não chướng mà thôi, tức tham, sân, si, mạn, nghi, kiến, chứ chưa hề tiêu diệt được sở tri chướng. Còn bước sang Đại Thừa thì phải đi nốt con đường còn lại, tiêu diệt nốt phần sở tri chướng và những biến dịch sinh tử, chẳng hạn như những vọng tưởng về ta, về pháp giới, về tác giả, ngã giả, tri giả, kiến giả, thọ giả v.v… Tất cả đó là con đường của Đại Thừa, phải đi sáưvào biển diệu tâm ấy, phải diệt luôn ý tưởng có người chiếu soi cùng cảnh bị chiếu soi, phải nhập với pháp giới làm một, viên mãn, tròn đầy…

Tóm lại, chúng ta nên nhớ, phiền não chướng là vọng tình, lên đến tột cao thì vọng tình chuyển thành Đại Bi. Sở tri chướng là vọng tưởng, lên đến tột cao thì vọng tưởng chuyển thành Bát Nhã (trí sáng suốt). Nên trong kinh Lăng Nghiêm có dạy, nếu có bảy phần tình, ba phần tưởng thì đọa địa ngục, tưởng nhiều tình ít thì bay bổng lên cao…

Nay ta sang lộ trình tu chứng của các vị Bồ Tát…

Thông thường, các vị Bồ Tát mới tu cũng chập choạng vì nhiều khi chưa rõ được đường lối. Các vị cũng tu theo ngũ đình tâm quán, tứ niệm xứ, tứ đế, thập nhị nhân duyên v.v… Đến một ngày kia, đọc kinh hiểu và càng ngày càng thầm kinh thì bắt đầu bước vào thập tín. Cũng nên mở dấu ngoặc để giảng thêm chữ tín. Các vị này có tín tâm rất sâu chắc và một ít huệ tâm. Về định lực và giới lực thì thua xa một vị A La Hán, nhưng riêng về cái tín tâm, thì lại hơn ghê gớm lắm rồi, tin sâu chắc đến độ nở ra thành một căn gọi là tín căn. Vậy thì, các vị tin cái gì? Bên Thanh Văn, các ngài tin có Phật, có pháp, có giải thoát, có con đường tứ đế, từ khổ đế đến tập đế, đến diệt đế rồi đến đạo đế. Nhưng các ngài vẫn chưa hiểu rõ về pháp giới, mà đôi khi cũng không hiểu rốt ráo Phật là gì? Thường các ngài chỉ biết đến đức Phật Thích Ca thôi, mà chưa chắc đã biết đến đức Phật A Di Đà. Vì vậy các ngài mới chê là không có đức Quán Thế Âm, các ngài chưa hiểu cái lẽ một với nhiều, các ngài tu bằng cái tâm giữ giới và ngay thẳng, cốt tránh ác mà chưa biết những giới tích cực, chưa biết những giới nhiêu ích hữu tình giới v.v… Ngoài ra, các ngài rất nhàm chán cái thân máu thịt này, e sợ sanh tử, và đôi khi quay đầu lại nhìn pháp giới bời bời, thấy chúng sanh vô lượng thì tâm rất e ngại, nên không dám khởi đại bi tâm, không tin mình có thể độ hết được tất cả chúng sanh. Đó là một lòng tin còn hạn hẹp. Nhưng trái lại, các vị Bồ Tát ỏ bậc thập tín, tức là những vị mới bắt đầu bước chân vào con đường Bồ Tát đạo, tuy rằng không có định lực, nhưng các ngài có được một lòng tin rất ghê gớm, hơn hẳn các vị Thanh Văn. Vì các ngài hiểu rằng, tất cả pháp giới này chỉ là huyễn mộng, đều do duy tâm sở hiện, thứ nữa, các vị cũng tin rằng chính mình cũng là huyễn, đồng thời các ngài tin rằng chính Phật biến ra pháp giới này, và thân Phật nhập pháp giới hoàn toàn, đồng thời cả pháp giới này cũng đều là huyễn mộng mà thôi. Mục đích cuối cùng của các vị Bồ Tát là để nhập pháp giới chứ không phải chỉ để giải thoát nhập Niết Bàn cho riêng mình, chữ tín của Bồ Tát lớn lao như thế, nên ngài Hiền Thủ đã nói rằng:” …dù có một người đứng giữa không gian trọn mười kiếp hai tay bưng một quốc độ, không bằng công đức của người tin pháp này…” (tức là tin được lý như huyễn và duy tâm sở hiện). Nên những vị Bồ Tát ở thập tín này, tuy chưa cứu độ được mấy, nhưng đã dõng mãnh phát Bồ Đề Tâm, biết rằng tâm đó, một mặt là Bát Nhã, một mặt là Đại Bi, và chính cái tâm đó phát hiện ra pháp giới này, phải tu theo cái “huyễn tâm” đó để nhập pháp giới trọn vẹn, trong khi các vị vẫn tu thiền quán, cũng quán nhân duyên, quán từ bi, nhưng những thứ đó là sơ khởi để sau này bắc cầu lên đến quán như huyễn mà thôi. Từ thập tín, các ngài bước qua thập trụ để trưởng dưỡng về lý, và giữ được Bồ Đề Tâm không bị lung lay thối thát. Trụ là trụ Bồ Đề Tâm lại để trưởng dưỡng. Một vị Bồ Tát phải có một tín căn sâu chắc không có gì lay chuyển được, dù gặp tất cả các nạn nước, lửa, đói, khát cũng vẫn tin chắc về con đường tu của mình. Đó mới gọi là trụ được Bồ Đề Tâm. Qua đến Thập hạnh là các ngài đi vào sự, tức là mang cái Bồ Đề Tâm đó vào pháp giới, đi vào cuộc đời, đi vào tất cả cảnh giới. Rồi sang đến Thập hồi hướng là để xóa hết những vết tích giữa tự và tha, không có sự phân chia nữa, coi pháp giới này chính là mình và luôn luôn lúc nào cũng hồi hướng cho tất cả, và hiểu rõ rằng càng hồi hướng rộng lớn bao nhiêu thì cái ngã và phi ngã lại càng bị xóa bấy nhiêu. Mười hạnh là tu mười độ: bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ, nguyện, phương tiện, lực và trí. Tu đến thập hạnh thì các vị chưa đến được bốn độ sau cùng.

Tu đạo Phật vẫn là một lịch trình vòng tròn xoáy trôn ốc, vì tới chỗ Đăng địa, tức là vào Thập địa thì lại tu mười hạnh ấy, nhưng lên càng cao sự tu chứng càng sâu hơn. ở đây, tôi xin nhắc lại về vấn đề luận lý và biện chứng. Đạo học của Đông phương, nhất là đạo Phật, đó là một sự vận hành Tâm thức theo biện chứng chứ không phải theo luận lý, vì nhiều khi nó phi luận lý. Còn bên Tây phương chỉ biết có luận lý thôi, luận lý tức là đi theo cái ý thức thứ sáu hay phân biệt, còn biện chứng là vừa dùng thức thứ sáu liễu tri lại vừa dùng vô phân biệt trí. Vì vậy, luận lý của Tây phương là một luận lý nhị biên, chỉ có thể một là có, hai là không, một là trắng, hai là đen, một là thường, hai là đoạn v.v… mà không bao giờ biết cái phi có phi không, chỉ có biết đệ nhất cú (có) và đệ nhị cú (không) là cùng, mà không bao giờ biết đến đệ tam cú (cũng có cũng không) và đệ tứ cú (chẳng có chẳng không) cả. Còn bên Đông phương thì không đi đường thẳng như vậy mà đi vòng trôn ốc, đôi khi thấy nó rất tương khắc nhưng kỳ thực nó đều là tương sinh, tương duyên lẫn nhau, và bao giờ cũng đều có hai mặt, một mặt là luồng sóng ba động, một mặt là hạt tử. Mà phải hai mặt đi đôi với nhau mà không bỏ cái nào cả. Đó là biện chứng nhất như, là dùng cả hai lối phân biệt trí và vô phân biệt trí. Nên lên đến chỗ Đăng địa, thì tu lại mười hạnh trên. Sau này, ta sẽ lấy Thiện Tài đều đi trở lại những điều này, nhưng càng ngày càng đi sâu vào tột không cũng tức là đi sâu vào diệu hữu. Rồi sẽ lên đến Đẳng Giác, đẳng giác là tất cả pháp giới bình đẳng. Rồi lên Diệu Giác, là trạng thái như như tịnh tĩnh mà vẫn chiếu soi vằng vặc, giữ được tâm ở mức này là đến chỗ tuyệt vời, việc làm gần như đã xong. Vì ở bình diện này, tâm thức chuyển biến song chiếu giữa Bát Nhã và Từ Bi rất mau lẹ, như con thoi đi qua, đi lại, không ngừng ở bờ bên này, cũng không dừng ở bờ bên kia, cũng không ngừng ở giữa giòng, đó là việc làm của một bậc Đại Bồ Tát và chư Phật.

Tóm lại, Bồ Tát Đạo là ngoài việc diệt phiền não chướng, tức là vọng tình, đồng thời còn phải diệt thêm phần sở tri chướng là vọng tưởng vi tế. Như trong kinh, khi Thiện Tài đến dần những vị thầy cuối cùng, các vị này đều dạy Thiện Tài quán chiếu như huyễn cả…


Lại có mấy điểm mà chúng ta cần biết, trước khi đi vào kinh. Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh dạy về sự chuyển hiện của những ngằn mé chập chùng, thứ hai là nói về pháp giới đồng thời cũng là nói về cái tầm của chúng sinh.

Tại sao lại chuyển hiện ngằn mé chập chùng??

Những tài liệu khoa học ngày nay đã gần đi đến chiều hướng của Hoa Nghiêm, tức là chuyển hiện chập chùng ngằn mé, nhưng rất tiếc, họ vẫn chưa hiểu gì về đạo Phật, nên họ vẫn còn ngơ ngác và lạc lõng trong bước đi. chẳng hạn những nhà bác học ở Princeton, như wheeler và những nhà bác học lớn khác, họ chỉ hiểu gần gần như đạo Phật mà thôi, tức là đến mức “chẳng có chẳng không,” còn về đến cái ngằn mé vi tế thì họ thấy mờ mịt, không biết phải sao nữa. Có thể họ sẽ đi đến chỗ Tứ cú của đạo Phật nhưng chỉ một số rất ít. Nên biết rằng càng hiểu về đạo Phật, càng thấy tuệ giác của nhà Phật thật vi diệu, bao quát và lạ lùng. Tôi mới nhận được một cuốn sách nhan đề là la melodiedu secret của một người bạn bên Pháp gửi qua, tác giả là một người Việt tên là Trịnh Xuân Thuận. Viết rất thơ mộng, hiện giờ ông dạy ở trường đại học Virginia. Ông nói về khoa học cũng hơi giống như đạo Phật, ông dạy về Astro physic (Thiên văn học), ông nói rằng mỗi năm thường có nhiều tinh hà nở ra, một tinh hà có hằng triệu triệu tinh tú, triệu triệu mặt trời và trái đất mà chất hydrozen (khinh khí) chiếm gần hết cả pháp giới này, nhưng chất đó không có trọng lượng gì mấy, mà chỉ có chừng 2% chất đặc (sắc ấm) ở trong pháp giới này mà thôi. Ông phát biểu rằng: “Những giải tinh hà nở ra và cũng có những tinh hà khác cụp lại…” và đi đến kết luận rằng chất hydrozen kia hình như ở khoảng không mà ra. Rất tiếc, các nhà khoa học chưa biết gì về Hoa Nghiêm cả, nên nhiều khi gặp những trường hợp bị bế tắc mà không thể giải được. Nói đến nguyên tử thì ông bảo rằng đó vừa là sóng vừa là hạt. Lời nói này cũng tương tợ như lời dạy trong kinh là vừa là Bát Nhã, vừa là Đại Bi, khi nào hạt (hiện tướng) thì là đại bi, còn khi nào sóng (vô tướng) thì là bát nhã. Tất cả những thứ đó đều là ngằn mé của pháp giới này, vì nó luôn luôn chuyển động, nên không có một pháp nào là không chuyển động, và sự chuyển hiện đó là sự chuyển hiện giữa cái có và cái không, giữa cái lớn và cái nhỏ, giữa cái ẩn và cái hiện, từ chỗ phi thời gian ra có thời gian, từ chỗ không có không gian ra hiện tướng không gian và ngược lại, từ chỗ tận đến vô tận, từ chỗ phổ huyền môn đi vào chân thật tế, từ chỗ đồng thời ra chỗ thứ đệ, (thứ đệ tức là có thời gian rồi, còn đồng thời là không có thời gian), v.v… Vì vậy, mười huyền môn của Hoa Nghiêm là ở chỗ đó như huyền môn Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại là từ lớn thành nhỏ, từ nhỏ thành lớn, huyền môn Đồng Thời Cụ Túc Tương ưng là ẩn hiện từ chỗ đồng thời đến chỗ thứ đệ v.v… Nên Hoa Nghiêm là sự biến hóa và ẩn hiện chập chùng, là kinh của pháp giới, là chuyển hiện giữa bát nhã và đại bi. Tất cả Hoa Nghiêm đều là Quang Minh và Diệu Âm mà ra. Quang minh tượng trưng cho không gian, làn sóng tượng trưng cho bát nhã. Diệu âm tượng trưng cho thời gian, cho đại bi và cho hạt tử. Tất cả quang minh và diệu âm đó đều trùng trùng từng lớp, mỗi một lớp quang minh đến một lớp diệu âm lồng vào nhau xoay vần miên viễn tạo nên vô vàn bông hoa, mà mỗi một chúng sanh đều là một bông hoa của pháp giới, những bông hoa đó lúc nở ra thành chữ hồng, lúc cụp lại thành chữ úm. Và lộ trình đó là lộ trình mà Thiện Tài đi qua, đôi khi ngài có thể là một vị Phật thị hiện, cũng có thể chỉ là một hành giả, cũng có thể là một trong chúng ta… Ngài đã vượt qua những chặng đường của sắc, thọ, tưởng, hành rồi, nên con đường đi này là con đường khởi sự đi vào thức ấm, khi thì ngài niệm Phật tam muội, lúc quán tâm, lúc thì quán giữa sắc và không, quán trung, bố thí, tu trì giới, tu đại từ, đại bi, đại hĩ, đại xả, lúc tu tất cả công nghiệp thế gian, nên không thể nhất định nói rằng ngài đi từ bậc sơ trụ, nhị trụ, v.v… Những vị bên Tầu hay cho rằng Thiện Tài đi gặp 52 vị thiện tri thức là qua 52 bậc tu chứng từ sơ trụ đến Đẳng Giác. Nhưng nếu ta xét từng vị thiện tri thức một, thì thấy có rất nhiều vị không dính dáng gì đến những thứ bậc tu ấy cả. Như vị đầu trong mười hạnh thì đáng lẽ Thiện Tài phải học bố thí, vị thứ hai phải dạy trì giới, vị thứ ba dạy tu nhẫn nhục v.v…, nhưng các ngài lại dạy Thiện Tài những thứ khác. Nên cần suy xét từng trường hợp một, vì ta chỉ thấy Thiện Tài tu những đại hỉ, đại xả, bát nhã phổ đắc, hoặc những chúng nghệ ở thế gian, tu toán số, những đà la ni, thần chú tức diệu âm, cuối cùng là tu như huyễn để trôi vào Đẳng Giác, rồi đến khi Thiện Tài gặp ngài Phổ Hiền thì nhập pháp giới. Nhưng đó chỉ là một lối nghĩ của chúng ta thôi, chưa dám chắc hẳn là đúng…

Hỏi: Có phải ý đức Phật trong kinh Hoa Nghiêm muốn đưa chúng ta nhìn ra ngoài không gian vô tận không? 

Đáp: Đúng, vì đây chính là kinh của không gian và thời gian, mà không gian và thời gian đều là trong tâm của chúng sinh, nó đều là vọng tưởng. Nhưng kinh không những chỉ giảng nói về không gian thời gian, còn bao trùm cả pháp giới nữa. Sự thực thì các pháp đều ẩn hiện lẫn nhau cả. Khoa học hiện cũng nhận được rằng khi nào thời gian chạy rất chậm lại thì không gian cũng co lại. Song những điều khoa học nói thì chỉ tạm thời đúng trong một giai đoạn, và khoảng năm, bảy năm sau lại đổi di chút phần, vì sao? Lúc đó nhãn lực của khoa học nới rộng ra được một chút thì thấy rằng những cái thuyết cũ không còn đúng nữa. Nên chỉ có lời kinh của các bậc Đại Giác mới hoàn toàn đúng, song, những lời dạy ấy chỉ như ẩn như hiện, chúng ta cần suy tư lâu ngày mới có thể hiểu được chút phần.

Sau đây, chúng ta đi vào phẩm Nhập Pháp Giới…

Kinh:

Bấy giờ đức Thế Tôn ở nước Thát La Phiệt trong trùng các đại trang nghiêm, tại rừng Thệ Đa vườn Cấp Cô Độc..

Giảng:

Ngay câu đầu này, kinh Hoa Nghiêm đã sang một cảnh giới khác, vì chúng ta nên nhớ rằng đầu kinh bắt đầu ở Bồ Đề Đạo Tràng. Sau đó, do thần lực của Phật, ngài nâng tất cả pháp hội lên dần đến đỉnh núi Tu Di ở tầng trời Đao Lợi, rồi lên tầng trời Đâu Xuất, rồi đến Tha Hóa Tự Tại, sau đó trở lại xuống Bồ Đề Đạo Tràng. Trong kinh này, chỉ có những vị Đại Bồ Tát vân tập, mà không có người dự. Riêng đến phẩm nhập pháp giới này, thì có người dự, nhưng lại xuất phát ở nơi khác, ở nước Thất La Phiệt, nơi trùng các đại trang nghiêm vườn cấp Cô Độc, xuất phát ở nhân thế.

Kinh:

Câu hội đến năm trăm Đại Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát v.v… (bỏ một đoạn kinh nói tên các vị Đại Bồ Tát),… năm trăm Đại Bồ Tát như vậy đến câu hội, những Bồ Tát này thảy đều thành tựu hạnh nguyện Phổ Hiền…

Giảng:

Thành tựu hạnh nguyện Phổ Hiền tức là gần đến bậc Đẳng Giác cả.

Kinh:

Cảnh giới vô ngại vì cùng khắp tất cả cõi Phật, hiện thân vô lượng vì thân cận tất cả Như Lai, tịnh nhãn vô ngại vì thấy tất cả sự thần biến của chư Phật, xứ đến vô hạn vì hằng khắp đến chỗ của tất cả Như Lai thành Chánh Giác, quang minh vô tế vì trí huệ quang chiếu khắp tât cả thật Pháp Hải, thuyết pháp vô tận vì thanh tịnh biện tài vô biên tế kiếp không cùng tận, khắp hư không giới không chỗ y chỉ…

Giảng:

Quang minh vô tế là quang minh không có bờ bến. Thật pháp hải là thật tướng của diệu tâm. Vô biên tế là cùng tận không có biên giới. Ở đây, kinh tả các vị Đạ i Bồ Tát đã đến tất cả cõi Phật, quang minh các ngài đều là vô tế gần như Phật.


Hàng Thanh Văn năm trăm vị câu hội. Những vị này đều giác ngộ chơn đế, đều chứng thiệt tế, thâm nhập pháp tánh, thoát hẳn biển hữu lậu, nương Phật công đức, lìa sự trói buộc của kiết sử, trụ chỗ vô ngại. Tâm Các ngài tịch tịnh như hư không. Ở chỗ chư Phật, dứt hẳn nghi lầm. Nơi trí chư Phật, tin sâu xu nhập.


Kinh:

Hàng Thanh Văn năm trăm vị câu hội…

Giảng:

Kinh muốn nói đến các vị Thanh Văn đã đến chỗ giải thoát mà chưa nhập pháp giới. Vì các vị đến chỗ giác ngộ chân đế, sau mới vào đệ nhất nghĩa đế, còn người phàm phu chúng ta là ở tục đế, vì chấp tất cả thế gian là có, còn các ngài Thanh Văn đến chỗ chân đế là đến chỗ không, đều chứng thật tế, nhưng chưa đến chỗ như như tịnh tĩnh. Thâm nhập pháp tánh nhưng chưa thâm nhập đến tột cùng, thoát hẳn biển hữu lậu, thoát được ba cõi để vào được thức ấm kia, nhưng vẫn chưa lặn sâu để trở thành Bạch Tịnh Thức, nên vẫn phải nương vào Phật công đức để lìa sự trói buộc của sở tri chướng và trụ chỗ vô ngại, (nhưng là chỗ vô ngại của Thanh Văn thừa thôi chứ chưa vào được chỗ vô ngại của các bậc Bồ Tát.)

Kinh:

Tâm các ngài tịch tĩnh như hư không, vào chỗ chư Phật dứt hẳn nghi lầm, nơi trí chư Phật tin sâu xu nhập…

Giảng:

Trong kinh, lời kinh hay dạy trùng nhau nên những người mới đọc kinh cứ hay bị lầm, chẳng hạn như “tâm các ngài tịch tĩnh như hư không…” nhưng ta phải hiểu rằng có nhiều mức độ nông sâu của tịch tĩnh.


Vô Lượng Thế Chủ câu hội. Những Thế Chủ này đều đã từng cúng dường vô lượng Chư Phật. Thường hay lợi ích tất cả chúng sanh, làm bất thỉnh hữu. Hằng siêng thủ hộ thệ nguyện chẳng bỏ chúng sanh. Ðã nhập thế gian thù thằng trí môn. Từ Phật giáo sanh. Hộ Phật chánh pháp. Phát đại nguyện chẳng để dứt Phật chủng. Sanh nhà Như Lai cầu nhứt thiết trí.


Kinh:

Vô lượng thế chủ câu hội…

Giảng:

Vô lượng các vua cõi trời…

Kinh:

Những thế chủ này đều đã từng cúng dường chư Phật, thường hay làm lợi ích tất cả chúng sanh…

Giảng: Trong kinh Hoa Nghiêm, ở phẩm đầu đã kể tất cả các thế chủ, các ngài có những lợi ích gì đều kể hết cả. Nên chúng ta đều nằm trong các quang minh của các ngài luôn luôn được gia trì mà chúng ta không hay biết, tuy rằng gia trì theo sự chiêu cảm của nghiệp lực.

Kinh:

Làm bất thỉnh hữu…

Giảng:

Bất là không, Hữu là bạn. Bất thỉnh hữu là làm người bạn không mời, những vị Bồ Tát là như vậy. Nếu thấy người đáng được độ thì dù không mời thỉnh cũng cứ tới độ cho họ, ngược lại chỗ nào chưa đáng độ thì nhiều khi có mời cũng không tương ứng.

Kinh:

Hằng siêng thủ hộ thệ nguyện chẳng bỏ chúng sinh, đã nhập thế gian thù thắng trí môn. Từ Phật giáo sinh. Hộ tất cả chánh pháp. Phát đại nguyện chẳng để dứt Phật chủng. Sinh nhà Như Lai cầu nhứt thiết trí…

Giảng: Những vị thế gian chủ này nếu so với các vị Thanh Văn thì hơn rất nhiều, vì các ngài toàn là Bồ Tát thị hiện cả, nhưng thị hiện thọ sanh để cứu độ chúng sanh đáng được độ mà thôi.

Hỏi: Xin ông cho biết thế nào là vô niệm?

Đáp: Vô niệm không phải là không nghĩ gì cả, vì khi còn nghĩ thấy cái không đó tức là đã nghĩ rồi. Theo như thiền sư Thích Thanh Từ nói rằng khi thiền quán mà dứt được niệm thì gọi là vô niệm. Nhưng câu hỏi đặt ra rằng: mình có thể dứt được niệm không? Theo thiển ý của tôi thì như thế này, chúng ta không có cách gì tách rời được ý niệm cả, không có cách gì dứt được ý niệm cả, chỉ có cái là chúng ta đừng khởi vọng tình và vọng tưởng mà thôi. Đó gọi là vô niệm. Vì ngay đến chỗ thấy biết đến cái không thì vẫn còn ý niệm. Nói tóm lại, tâm thức của chúng ta không thể nào không có ý niệm, nhưng khi ta có cái ý “không” đó, ta không khởi vọng tưởng cùng vọng tình thì gọi là vô niệm, nên nhớ rằng, chúng ta luôn luôn có sự chiếu soi, không khời vọng tình yèu, ghét thì tạm gọi là dễ, nhưng không khởi vọng tưởng rất khó, vì vậy mới gọi là biến dịch sanh tử… Thực ra, chỗ đó là tột bờ mé, khó thể ức đoán…

Hỏi: Vậy trong kinh nói đến chỗ vô tưởng định thì sao?

Đáp: Đó là một lối diễn tả rằng hành giả đã dứt được những ý tưởng thô thôi, nhưng vẫn còn những ý tưởng vi tế. Lúc đỏ hành giả thấy được cái “không” đó, thì cái thấy đó là một ý tưởng vi tế, nhưng ý tưởng vi tế đó quá nhỏ, nên hành giả cho rằng không có. Lên đến mức định gọi là phi tưởng phi phi tường xứ, trong cơn định này tuy gọi là không tưởng nhưng vẫn có cái thấy, nơi đó vẫn còn có ý tưởng vi tế. Ở mức độ phàm phu chúng ta, không khởi những vọng tưởng thị gượng gọi là vô niệm, nhưng lên cao, đi trên con đường Bồ Tát thì cũng phải gột luôn cả ý niêm vi tế đó, chỗ đó thì rất mờ mịt, tâm thức của chúng ta chưa thể biết được, chỉ có cách là tu lên đến đó mới biết được mà thôi.

Hỏi: Tôi nhớ trong Lăng Nghiêm có câu nói về chân tâm “không hay biết thì không phải là tâm, còn hay biết thì không phải là chân.” Ý nghĩa câu này thế nào?

Đáp: Nếu không hay biết thì hóa thành vật vô tri, thì đó không phải là tâm. Còn hay biết thì còn vọng tâm do ý thức thứ sáu chia chẻ phân biệt, thì không phải là chân. Chân có nghĩa là CHÂN TÂM, nó bao gồm tất cả, nên phải hiểu như thế này, không phân biệt nhưng vẫn liễu tri rành rẽ, biết một cách liễu tri rành rẽ nhưng không móng niệm, không khởi vọng tình vọng tưởng thì như vậy mới gọi là biết, như vậy mới gọi là vô niệm.

Bây giờ cũng đã quá dài, xin tạm ngưng ở đây…


18 tháng Hai, 1990

 

Trong lần trước, chúng tôi đã trình bày với quí vị trên đại cương lộ trình tiến tu của Thanh Văn thừa và lộ trình tiến tu của Bồ Tát đạo, và cũng có đi vào một đoạn kinh ngắn. Hôm nay, trước khi đi vào kinh, chúng tôi xin mạn phép lấy một chút thì giờ để nói thêm về con đường thiền quán của Bồ Tát đạo. Vì cần phải hiểu những điều này rành rẽ thì mới có thể theo dõi bước tiến tu của Thiện Tài được.

Trong lần trước chúng tôi đã nói rằng, Thanh Văn thừa thường tu giới và thiền quán đi đến chỗ tiêu diệt những phiền não và chấm dứt phân đoạn sinh tử, tức là đi đến chỗ giải thoát cá nhân. Còn Bồ Tát đạo thì tu hành cao hơn nhiều, xa gấp mấy lần đoạn đường đó, vì không những phải tiêu dung phiền não chướng và phân đoạn sanh tử, mà còn phải tiêu dung sở tri chướng cùng biến dịch sanh tử để đi tới nhập pháp giới.

Hôm nay, cần nói thêm mấy điểm về vấn đề thiền quán để quí vị thấy rõ Thiện Tài tu theo quán giả và quán trung chứ không phải ngài cần tu theo quán không.

Thanh Văn chỉ tu có giới và thiền quán thôi mà không tu tất cả các hạnh như các vị Bồ Tát. Bồ Tát thường phải tu mười hạnh, còn bên Thanh Văn cũng tu bố thí nhưng cũng rất ít, chưa đi đến chỗ bố thí ba la mật như các vị Bồ Tát. Còn trì giới thì các ngài Thanh Văn cũng trì giới một cách tiêu cực gọi là biệt giải thoát giới, trong khi các vị Bồ Tát phải trì tâm địa tịnh giới, vì ngoài cái biệt giải thoát giới để trừ điều ác, các ngài còn phải làm tất cả điều lành, gọi là thiện pháp giới, và cả nhiêu ích hữu tình giới, tức là tu những hạnh làm nhiêu ích cho tất cả chúng sanh… Bồ Tát không bao giờ nghĩ đến riêng mình cả mà lúc nào cũng nghĩ đến tất cả chúng sanh. Còn về chữ “nhẫn” là nhẫn nhục thì Bồ Tát phải tu nhẫn nhục đến mức ba la mật, bố thí cũng phải bố thí ba la mật, tinh tấn cũng là tinh tấn ba la mật, thiền định cũng thiền định ba la mật v.v… Bồ Tát không chĩ thuần tu không quán mà còn phải tu cả giả quán và trung quán nữa, và trí huệ là trí huệ “Đại bát nhã ba la mật” chứ không phải là trí huệ nhất thiết trí của Thanh Văn. Bồ Tát còn có những độ sâu hơn nữa là độ nguyện, độ phương tiện, độ lực và độ trí mà bên Thanh Văn hoàn toàn không có. Trong kinh thường có một câu mà quí vị cần nhớ, đó là câu “Nhất tâm tam quán,” tức là chỉ có một cái tâm đó thôi mà có thể quán ba cách. Đạo Phật dạy rằng tất cả các pháp đều tùy sự lắt lay của tâm thức, chúng ta sống trong đời, cứ nghĩ rằng cái này có hoặc không, nhưng đạo Phật đặc biệt dạy rằng tâm mình có thể quán được nhiều cách, nếu quán lâu bền một vật là có thì tự nhiên nó trở thành có, nếu quán không thì lần lần nó trở thành không, dù đó là vật cứng chắc ù lì đến đâu chăng nữa. Hoặc nếu quán cao hơn nữa là “chẳng có chẳng không” thì sự vật trước mắt ta đều như huyễn cả. Tất cả các kinh đều chỉ dạy có vậy thôi. Nên người tu cần quán cái tâm chẳng có chẳng không ấy, tương tự như người đi dây, hoặc như con chim bay, không nghiêng về một bên nào cả thì mới bay bổng tuyệt vời được. Ngày xưa tôi cứ thắc mắc, lấy làm lạ nghĩ rằng: “Quái! chỉ có một tí đó thôi mà nó lại là cái bí ẩn cao vời của đạo Phật.” Cái “một tí” đó chính là cái chẳng có, chẳng không, tức là giữ cái tâm bồng bềnh đập đúng theo nhịp đập của diệu tâm ấy, một nhịp đập nguyên sơ trước khi bị vô minh che đậy. Ngày xưa, ngài Trí Khải lập tông Thiên Thai về thiền quán nối được cả tông lẫn giáo. Tông là cái yếu chỉ của tâm, còn giáo là sự giải thích về cái Tâm đó, và ngài có nói về Nhất tâm tam quán. Trong kinh Lăng Nghiêm và Viên Giác cũng nói đến ba lối quán đó, tức là quán không, sau quán giả rồi sau cùng đến quán trung, trung đạo song chiếu.

Kinh Lăng Nghiêm và Viên Giác gọi quán không là Samatha, quán giả gọi là Sa-ma-bát-đề, còn trung quán song chiếu gọi là Thiền Na hoặcTam-na-đề. Như vậy, Bồ Tát đạo có ba giai đoạn tu, từ sắc vào Không, rồi khởi Giả rồi Trung đạo song chiếu, trong khi bên Thanh Văn chỉ tu quán không mà thôi. Một hành giả, muốn làm con cá tích đi ngược dòng qua năm màn sương mù là sắc, thọ, tưởng, hành để vào đến thức ấm thì gọi là thành tựu không quán. Rồi khi vào đến biển không hải ấy, các vị Thanh Văn thường dừng lại ở đó, không khởi tâm tiến tu nữa, các ngài đã tiêu trừ những mầm mống sinh tử và vào Niết Bàn, lúc còn sắc thân thì gọi là hữu dư niết bàn. Sau khi chết thì gọi là vô dư niết bàn. Nhưng các ngài vẫn còn những tập khí của biến dịch sanh tử, những vi tế của sở tri chướng chiếu soi chấp ngã, chấp thọ giả, tri giả v.v…, nên trong kinh Pháp Hoa mới nói rằng đó chỉ là Niết Bàn hóa thành mà thôi, chứ không phải Niết Bàn thực, mà Niết Bàn thực là Đại tịch diệt của Như Lai, là sự nhập pháp giới trọn vẹn đồng thời cũng là sự giải thoát tột độ nữa. Nên đại thừa không nhấn mạnh đến sự giải thoát, tức nhập Niết Bàn cho riêng mình, mà phải ôm trọn pháp giới vào thân mình mới là sự giải thoát rốt ráo, mới là nhập đại niết bàn tịch diệt, đó chính là Nhập Pháp Giới.

Nên con đường tu chứng của các vị Thanh Văn thì các ngài chỉ mới đi được một phần ba con đường thôi, có thể là một phần tư, một phần năm vì hai đoạn kia dài xa cần khổ hơn nhiều, phải qua nhiều a tăng kỳ kiếp mới thành tựu. Trong kinh nói, Thanh Văn có thể tu trong 60 kiếp, nếu kiếp nào cũng xuất gia, trì giới, thiền quán thì có thể đắc A L a Hán, (tức là vào được đến thức ấm). Trong khi đi con đường quán giả và quán trung, thường các vị Bồ Tát phải qua 3 a tăng kỳ kiếp, phải thí thân hoài hoài, bố thì hoài hoài, làm tất cả những hạnh, nguyện và phương tiện để độ sanh, như thế đủ hiểu con đường Bồ Tát mênh mang dài xa, cần khổ như thế nào. Nên Thiện Tài tu trong thức ấm ấy, quán chiếu những sở tri chướng để tiêu dung những tập khí vọng tưởng về ngã, về pháp giới, về ngã giả, về thọ giả, về tri giả, về kiến giả, về chiếu soi v.v…, phải làm như thế mới có đại tự tại lực, mới biến hóa không cùng được, mới có thể độ được tất cả chúng sanh. Đó là điểm “nhất tâm tam quán” mà chúng tôi muốn nhắc quí vị, khi quí vị hiểu được sự bí ẩn lắt lay của tâm thức, mà tất cả sự lắt lay ấy đậu trên đầu một tâm niệm thì lúc đó chúng ta có thể thấy được đạo. Vì nếu khởi một niệm có thì pháp giới này trở thành có, vì sao? Vì tâm niệm ấy cứ huân tập hết kiếp này đến kiếp khác từ vô số kiếp về trước đến giờ nên nó trở thành có, hiện tướng để chúng ta có cảm giác cái này là thực có, là ù lỳ chướng ngại, chứ thực ra, nó chỉ là những tâm niệm của chúng ta mà thôi. Ngược lại, nếu ta muốn trở về, muốn làm con cá tích bơi ngược dòng trở về diệu tâm, thì cần khởi tâm niệm là không, rồi lên cao hơn nữa là chẳng có, chẳng không. Như thế, trong vô lượng vô số kiếp thì đến một lúc nào đó pháp giới này sẽ biến chuyển đúng theo tâm thức của người tu hành, lên đến bực cao nhất là Phật thì tâm các ngài là tâm bình đẳng, chẳng có, chẳng không vậy.

Điểm thứ hai chúng tôi xin nhắc ở đây là câu “Tam đế viên dung.” Đế là chân lý. Đạo pháp có thế đế (tục đế), là đế của người phàm phu chúng ta, đế thứ hai cao hơn một nấc là Chân Đế, tức là chân lý của hàng Thanh Văn, Duyên Giác, đế thứ ba là Đệ Nhất Nghĩa Đế, tức là chân lý của chư Phật và chư Đại Bồ Tát. Thế đế của phàm phu thường chấp một bên. Ví như trông thấy cái bàn thì chúng ta coi là có cái bàn, trông lên hư không chúng ta gọi là không, hoặc tốt hoặc xấu, rõ rệt một cách nhị biên như thế. Nhưng khi tu lên đến bực Thanh Văn thì các ngài quán không và vào chỗ chân đế, thì các ngài cho pháp giới này là không, cái ngã cũng không. Lên cao hơn nữa đến chư Đại Bồ Tát thì các ngài vượt luôn qua cả chân đế đó, vượt qua cái trệ không, các ngài giữ tâm chẳng có, chẳng không như một người đi dây giữa không trung vậy. Đây gọi là Đệ Nhất Nghĩa Đế.

Nhân đây, tôi xin trở lại một chút về “tứ cú” mà tôi đã giảng mấy lần ở đây rồi. Ta sẽ thấy rằng, phàm phu là đệ nhất cú, tục đế, chân đế của Thanh Văn là cú thứ hai, đệ nhất nghĩa đế của các vị Bồ Tát là cú thứ tư, còn đệ tam cú, cũng có cũng không là của ngoại đạo. Đệ nhất nghĩa đế là đệ tứ cú, chẳng có chẳng không hoặc giữ im lặng là tối thượng. Còn khoa học mà người ta thường tôn sùng là chỉ ở đệ nhất cú mà thôi (thếđế), vì họ đều chấp có vi trần, có núi non, có người, có vật v.v… Nên phải nhớ rằng giáo lý tự tâm biến hiện của Phật giáo mà chưa tin thì chưa hẳn là một Phật tử.

Trước đây, có một người Tầu được giải Nobel, khi ủy ban trao giải Nobel hỏi ông rằng, gần như năm nào anh cũng làm được một việc đáng được giải Nobel cả, vậy thì tại sao anh lại giỏi như vậy? Ông trả lời rằng, tôi chỉ đọc và hiểu đạo Phật mà thôi.

Điều thứ ba là cả Thanh Văn lẫn Bồ Tát tu hành đều dùng tâm. Bên Thanh Văn thì dùng tâm chỉ và quán, chỉ tức là định, quán tức là huệ. Bồ Tát thừa cũng dùng chỉ và quán nhưng dụng tâm sâu sắc hơn. Song Bồ Tát thừa lại có thêm một điểm quan trọng đó là nguyên lực. Bên Thanh Văn dùng nhiều định lực (chỉ), một ít huệ lực (quán), không có nguyện lực. Trái lại, Bồ Tát dùng định lực, huệ lực đều nhau và nhiều hơn hết là nguyện lực.

Tôi xin nói về Thanh Văn thừa trước…

Các vị Thanh Văn thừa là những vì rất nhàm chán thân máu mủ này, rất chán thế gian này, vì các ngài luôn quán rằng không có cái gì vui được lâu, cái vui bây giờ cũng sẽ chuyển thành cái khổ. Còn xác thân này thì luôn luôn phải chịu sanh già bệnh và chết. Nên không có gì gọi là vui cả. Nên khi đức Phật nhập diệt, có mười tám ngàn A La Hán tự đốt thân theo Phật và mưa xá lợi. Các ngài tu để giải thoát cho mình, diệt những phiền não chướng, để khỏi thọ sinh thân máu thịt, các ngài dùng định lực và huệ lực, nhưng dùng định lực nhiều hơn.

Trong con đường diệt phiền não, các ngài có hai cách tu: Trạch diệt vô vi và phi trạch diệt vô vi. Trạch là săm xoi, quán chiếu để hiểu rành rẽ nguyên do nào phiền não được cấu tạo, để tiêu dung, nên trạch diệt thuộc nhiều về quán, tức là thuộc về trí huệ. Còn phi trạch diệt thuộc về chỉ, dùng định lực để đè các phiền não không cho khởi, mà không săm xoi cỗi nguồn phiền não, giống như ta lấy một tảng đá đè lên đám cỏ dại, hoặc xây ciment lên thì cỏ dại sẽ không mọc. Còn trạch diệt là cứ để phiền não mọc lên rồi quán chiếu rành rẽ và tiêu dung những phiền não đó đi, như người để cỏ dại mọc và nhổ cho đến khi hết sạch. Phi trạch diệt dùng định lực đè phiền não thì sẽ vào được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, bốn vô sắc định. Nhưng chưa chắc đã đắc bốn quả thánh, vì phiền não chưa được diệt. Như trường hợp của Thiện Tinh Tỳ Kheo, ngài đã đắc đệ tứ thiền, nhưng chưa đắc được quả thánh nào cả, nên đến khi chết thấy thân trung ấm cùa mình vẫn còn, và vẫn thấy đầy rẫy phiền não, nên ngài mới kêu lên: “Chẳng có Niết Bàn gì cả, chư Phật chỉ nói lời hư vọng,” vì vậy ngài bị đọa địa ngục. Còn dùng trạch diệt vô vi là quán chiếu để tiêu dung nó đi. Phương pháp này dùng huệ để tiêu dung phiền não, biết rằng nó chỉ là giả huyễn, do vô lượng nhân duyên họp thành tham, sân, si, mạn, nghi v.v…, các vị chiếu soi hoài hoài sẽ tiêu dung được cội rễ của phiền não chướng, sẽ đắc bốn thứ quả thánh là Tu Đà Hoàn, Tu Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán, đồng thời có thể được bốn quả thiền, bốn vô sắc định và diệt tưởng định.

Hỏi: Có phải sau khi diệt thân này thì mới đắc bốn quả thánh haỵ đắc được quả ngay khi còn thân này?

Đáp: Ngay khi còn thân này đã có thể đắc được rồi.

Hỏi: Thiền này có đồng nghĩa với thiền đốn ngộ nói rằng: trên đầu sào trăm trượng nên bước thêm bước nữa không?

Đáp: Thiền đốn ngộ thuộc Đại Thừa nên cao hơn. Nhưng trước sau cũng là đi vào thức ấm, và khi vào đến đây, phải “bước thêm bước nữa,” có nghĩa là phải diệt thêm sở tri chướng để trờ thành Bạch Tịnh Thức.

Nếu ta làm một sự so sánh về định lực, thì một Bồ Tát đệ ngũ địa bằng định lực của một vị A La Hán, nhưng về huệ lực và nguyện lực thì vị Bồ Tát đệ ngũ địa hơn A La Hán rất nhiều, các vị Bồ Tát thường quán không, quán giả, và quán trung, còn bên Thanh Văn các ngài quán không mà thôi. Nhưng ở chặng giữa, ở chặng đường thập hồi hướng thì định lực của các vị Bồ Tát thua các vị A La Hán.

Hỏi: Vậy thì thiền vipassana (Minh sát tuệ) của Nam Tông thuộc loại gì? Trạch diệt vô vi hay phi trạch diệt vô vi?

Đáp: Đó là trạch diệt vô vi, nhưng tuệ đó chưa phả là tuệ cao lắm vì chỉ dùng trạch diệt vô vi để tiêu dung phiền não thôi. Ở đạo Phật, khổ một cái là danh từ cứ trùng trùng điệp điệp, (vì thế gian trùng điệp), quá nhiều danh từ nên nhiều Phật tử bị lạc lõng.

Đại khái, các vị Thanh Văn tu trạch diệt vô vi và phi trạch diệt vô vi, dùng định lực và huệ lực. Còn các vị Bồ Tát cũng tu cả định lẫn huệ, đồng thời thêm nguyện lực nữa. Nguyện lực nó rất ghê gớm ở chỗ nó vừa là định, cũng vừa là huệ tâm lớn hiểu rõ mình và pháp giới là gì, Phật là gì, nhân duyên, như huyễn v.v… Rồi do huệ tâm sanh ra Đại bi và Nguyện. Vì vậy, chĩ ở chỗ nguyện thôi mà những vị quĩ thần hay hộ trì cho những vị này. Như trong kinh, có những vị ngồi thiền đắc sơ thiền, nhị thiền, nhưng kinh không hề nói có chư Thiên đến cúng dường, vì các ngài chưa phát được những thệ nguyện rộng lớn, chưa làm lợi ích cho ai.

Còn điểm thứ tư là định và tam muội. Vậy định và tam muội khác nhau ra sao? Trong kinh thường nói đến cửu thứ đệ định mà thôi, từ tứ thiền, tứ không định và diệt tận định. Còn tam muội thì trong kinh Hoa Nghiêm hoặc Pháp Hoa thì nói đến vô số tam muội. Nhưng khi lên đến chỗ tột cao như thủ Lăng Nghiêm tam muội thì kinh cũng gọi là thủ Lăng Nghiêm định. Vậy là sao? Nếu ta quyết đoán định khác tam muội, thì tại sao trong kinh lại nói là Đại Định Thủ Lăng Nghiêm cũng là Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, và cũng là Như Huyễn Tam Ma Đề?

Trong giáo lý nhà Phật thường các ngài chỉ nói ẩn hiện thế thôi, một người muốn tìm hiểu phải bơi lội bì bõm trong ấy lâu mới hiểu được.

Chữ Định thường được dùng trong hành trình đi vào Không quán. Trong bước đường đi vào không quán, có những thứ bậc rõ rệt, một hành giả vào đến sơ thiền, nhị thiền rồi đến tam thiền là đã vào đến bình diện thọ ấm, qua đến tứ thiền là vào đến bình diện tưởng ấm, vào đến bốn vô sắc định là vào đến bình diện của hành ấm, đến khi vào diệt tận định là vào được bình diện thức ấm, mức độ đi vào không thì chỉ có từng đó mức độ ấy thôi (cửu thứ đệ định). Dĩ nhiên là không kể đến những thứ định lặt vặt khác, như ta quán một một điểm đen đằng xa, khi có chú tâm thì đó cũng là định, nhưng định đó còn rất thấp. Lại còn có những thứ định như biến xứ định, là khi hành giả quán tất cả nhà cửa, cây cỏ, núi sông đều mầu vàng, quán lâu hành giả sẽ thấy tất cả đều biến thành màu vàng, nhưng chỉ riêng đối với hành giả quán chiếu thấy vậy thôi. Nếu vị này đi sâu vào định hơn nữa thì vị đó sẽ chuyển cái định của mình thành định quả sắc, tức là khiến người chung quanh cũng nhìn thấy mọi vật trở thành màu vàng. Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ xin nói lược đến những định chính thôi, chứ nói nhiều quá thì quá dài mà có thể đi lạc xa với ý chính… Còn về tam muội thì trái lại, tam muội thường đi vào giả quán nhiều, nên trong kinh có vô số tam muội, vì trong pháp giới có vô số cảnh giới. Khi quán giả, hành giả có thể quán bất cứ một cảnh giới nào. Như trong phẩm Hiền Thủ (số 12) khi một hành giả quán đất, hoặc nước, lúc nhập định thì có nước, đến khi xuất định thì nước biến thành lửa. Khi quán giả, ta có thể mang thân này nhập tam muội đến khi xuất mang thân rồng, mang một thân nhập tam muội lúc xuất lại vô lương thân .v.v… Vì vậy quán giả tức là quán một cảnh giới, lên cao hơn là quán cái biến hóa của nó, như vậy mới có thể hóa thân vô lượng bời bời để độ sanh được. Khi một hành giả quán không đi vào biển Bát Nhã của Thanh Văn rồi, sự biến hóa chưa có mấy, vì trong kinh thường nói, các vị Thanh Văn chỉ có 18 phép biến hóa thôi, còn Bồ Tát thì biến hóa vô lượng. Tam muội khác định là ở chỗ đó, tức là phải dùng đại bi nhiều để đi vào giả, vì đại bi là mầm mống của sự biến hóa. Chính vì vậy, Đại Bi Tâm rất cần thiết cho đường tu chứng của các vị Bồ Tát, không có Đại Bi Tâm mà chỉ có Bát Nhã thì hành giả rất dễ rơi vào con đường Thanh Văn. Nên sự biến hóa của tam muội vô lượng, đồng thời, trong tam muội các vị Bồ Tát lại chuyển từ tam muội này sang tam muội khác một cách rất thần kỳ, có thể trong một niệm nhập xuất hàng ngàn tam muội, đó mới thật là biến hóa, mới thật là có tự tại lực, còn bên Thanh Văn thì từ một định này chuyển qua một định khác phải mất thời gian nhiều hơn, mà chuyển biến cũng không được mau lẹ, không được chập chùng vô lượng. Thí dụ như từ sơ thiền, các ngà i qua nhị thiền, rồi qua tam thiền v.v… từng nấc một, chứ không như bên các tam muội của các vị Bồ Tát, có thể nhập một tam muội mà xuất cả ngàn tam muội được, chỗ khác nhau của định và tam muội là như vậy. Song khi lên đến Trung quán tuyệt vời, vào được như huyễn tam ma đề ở bực Bồ Tát thập địa, thì lúc đó định và tam muội là một, nên Đại ĐịnhThủ Lăng Nghiêm cũng là Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, cũng là Như Huyễn Tam Ba Đề.

Chìa khóa của đạo Phật là đi đến chỗ biến hóa không cùng, mà cái tâm có thể biến hóa nhiều nhất là cái tâm đại bi, và cũng là tâm Bát Nhã tuyệt vời, vì tột không cũng là diệu hữu vậy. Nên phải nhớ, khi hành giả còn tu ở dưới thì tách ra làm hai, nhưng lên tột bờ mé thì nhập lại làm một.

Điểm thứ năm là nói đến lịch trình không, giả và trung quán. Không quán thì ai cũng hiểu rồi, còn giả quán là sao? Tại sao lại phải giả quán? Ta nên nhớ đến câu kệ của ngài Quán Thế Âm: “Sắc bất dị không” tức là đi từ sắc vào không, là quán không. “Không bất dị sắc” là đi từ không ra sắc tức là quángiả. “Sắc tức là không, không tức là sắc” là quán trung. Chỉ một câu nói trong bài Bát Nhã Tâm Kinh mà thâu tóm tất cả đường tu, nhưng khổ nỗi là chúng ta không làm nổi mà thôi.

Câu “sắc bất dị không” tức ta phải quán tất cả đều là không. Và cũng cần biết rằng khi quán chiếu vào không hải có hai cách: một là quán theo lối nhân duyên, tức là theo Thanh Văn thừa, hai là quán theo lối như huyễn của Bồ Tát đạo.

Quán Nhân duyên thì ai cũng biết rằng tất cả sắc trần đều do vô lượng nhân duyên họp lại mà thành, nếu quán lâu hành giả có thể tiêu dung được những vật ù lì này để đi vào không hải kia. Rồi các vị Thanh Văn hay dừng lại đó, còn vị Bồ Tát thì vẫn “yết đế” (vượt lên), đi nốt con đường còn lại bằng cách quán giả, từ không ra sắc. Quán giả để trưởng dưỡng tâm đại bi thêm lớn và có thể biến hóa không lường được. Nên chư Phật bao giờ cũng khuyên rằng, chớ có dừng chân nơi không hải, vì đó mới chỉ một phần ba đoạn đường thôi. Phải yết đế, yết đế, vượt lên, vượt lên nữa để lặn sâu đến chỗ tột không, làm con thoi đi từ không ra giả, từ giả vào không, mà mỗi lần ra vào như vậy thì lại xuống sâu không hải một nấc, ngày càng biến hóa thêm cho đến mức viên dung gọi là “chân không mà diệu hữu.”

Trong kinh tả ngài Thiện Tài đã đến cửa bể rồi, giờ đi tìm cầu thiện tri thức, học thêm về quán giả để chỉ có một mục đích đi vào đến đáy bể đó. Còn trong kinh Viên Giác nói đến chỗ khởi giả là tam ba bát đề, là phải khởi huyễn để trừ huyễn, đó là ngài dạy cho những vị cao. Còn phàm phu chúng ta, chỉ cần biết con đường tu chứng là như thế thôi, sức của chúng ta chỉ có thể quán nông cạn, quán nhân duyên, như huyễn một chút thôi. Nhìn vật gì ta cũng quán nó như một lớp sương mù khởi dậy từ diệu tâm, chứ chúng ta chưa thể biến hóa được. Còn các vị Bồ Tát khi vào được thức ấm rồi thì các ngài biến hóa rất dễ, lúc đó các ngài sắp trở thành pháp thân Bồ Tát, vì thế các ngài không thể ngồi trong thức ấm mà an hưởng sự trầm không thú tịch mà các ngài luôn luôn phải hóa hiện thân hình, hoặc cảnh giới để độ sanh. Tức là khởi những cảnh huyễn để độ huyễn.

Ta cũng cần định nghĩa lược qua chữ tam ba bát đề. Nó có nghĩa thứ nhất là phải nhớ tưởng chư Phật mười phương, sau đó khởi những cảnh huyễn để độ huyễn, nên vì thế trong kinh thường nói đến chữ “thiện thệ,” tức là qua lại, sang giả rồi trở lại không, vào không rồi trở ra giả, cứ thế, luôn luôn làm con thoi qua lại, không trụ bờ bên này, không trụ bờ bên kia, cũng không dừng ở giữa dòng. Càng qua lại thần tốc bao nhiêu thì tự tại lực càng thần biến bấy nhiêu, trong một niệm có thể qua lại vài ngàn lần, hoặc vài vạn lần, hay vô lượng vô số lần, thần tốc càng ngày càng lớn, thì tự tại lực càng biến hóa vô lượng. Như đức Phật nói rằng: “Ta ở nơi không hải mà vẫn diễn nói lịch kiếp tu hành…,” có nghĩa là tâm ngài vẫn ở tột không tịch tĩnh, nhưng đồng thời ngài vẫn khởi Đại Bi nói tất cả pháp để độ sinh, ngài làm như vậy một cách thường trực và hết sức thần tốc, vì vậy mới gọi là thiện thệ. Thiện thệ lâu sẽ biến thành trung đạo song chiếu tuyệt vời, tức là trôi vào biển Đại Giác. Đại cương không, giả và trung là như vậy. Ngay cả tâm thức của chúng ta cũng thế, tuy chẳng quán chiếu giỏi giang gì, nhưng nó cũng đi qua đi lại mà không có mấy người biết. Có điều sự đi qua, đi lại của tâm thứ chúng ta không vào sâu được đến thức ấm mà chỉ có từ sắc ấm vào đến tưởng ấm là cùng. Sở dĩ chúng ta vẫn còn bị trôi lăn vì tất cả những hành vi của chúng ta đều vướng mắc ở những điều vọng, nên không được thần biến, tự tại như chư Đại Bồ Tát và chư Phật.

Nay nói đến điểm cuối cùng là điểm Ma chướng. Thường khi tu hành trong giai đoạn không hay gặp ma chướng. Còn trong kinh, ngài Thiện Tài đi vào giả, nên rất ít gặp ma chướng, ngài chỉ gặp một chỗ thôi nhưng lại diệt được ngay, tức là ở đoạn đi gặp Thắng Nhiệt Bà La Môn. Ông này tu theo lối trí huệ, ông để một rừng gươm rồi đốt một đống lửa lớn, sau đó trèo lên cao rồi nhảy vào rừng gươm đó. Lúc Thiện Tài đến hỏi đạo, thì Thắng Nhiệt Bà La Môn cũng bảoThiệnTài làm y như vậy, Thiện Tài ngần ngừ và nổi lên một ý nghi ngờ: “đây có phải là ma chăng mà sui ta làm như vậy?” Thiện Tài vừa nghĩ thế thôi, thì chư Thiên hiện xuống, người nào cũng bảo cho Thiện Tài biết ông Thắng Nhiệt Bà La Môn này tu theo trí huệ mà không phải cảnh giới là ma, nên cứ việc theo lời thiện trí thức này mà làm. Thiện Tài nghe lời, nhảy đến nửa chừng thì đắc được hai tam muội. Nên phải hiểu, con đường tìm cầu thiện trí thức của Thiện Tài rất ít bị ma chướng, vì chỉ trong giai đoạn tu không quán là bị ma chướng nhiều nhất mà thôi, ở đây, ta lại phải trở về với Lăng Nghiêm để dẫn chứng. Trong Lăng Nghiêm nói rằng, một khi hành giả vượt sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm đều bị ma chướng về tham dục, nhưng khi vào đến hành ấm và thức ấm thi thiên ma không chiếu cố nữa mà chỉ còn ma ý của chính hành giả mà thôi. Tỷ dụ như khi vào đến không hải, lại tưởng đó là Niết Bàn, hoặc nghi cái này, cái khác, đó gọi là ma ý. Còn đi ra giả quán thì ít bị, thiên ma không chiếu cố vì các ngài tu đã khá cao rồi, lại có rất nhiều thiện thần hộ trì, hơn nữa thiên ma chi ngự ở dục giới tức quanh quẩn từ sắc ấm đến hành ấm mà thôi. Sau đó, Thiện Tài lại hơi bị một chút chướng ngại ở chỗ gặp vị thiện trí thức Ba Tu Mật Đa. Đó là một người đàn bà rất đẹp, lại thị hiện làm kỹ nữ. Khi Thiện Tài đến nơi, nghe thấy dân chúng nói về vị này, có người khen, kẻ chê, họ nói rằng: “Đồng tử này trông tướng mạo đoan trang, mắt không nháy, tại sao đi tìm bà dâm nữ này làm gì?” Nhưng có người hiểu và biết rằng Ba Tu Mật Đa là một vị Bồ Tát thị hiện, vì ngài dạy cho Thiện Tài môn “Ly Tham Dục Tế,” tức là lìa hết tham dục. Nếu ai được trông thấy bà đều mất hết tất cả tham dục, “chỉ cần nhìn ta hoặc liếc mắt, hay cầm tay ta là mất hết tham dục…” Như vậy, trong kinh muốn nói rằng Thiện Tài đã tu vào đến thức ấm rồi, nhưng kinh vẫn nhắc đến chuyện tham dục, vì nhiều khi hành giả phải mài tâm mình, tu đi, tu lại nhiều lần, cũng như đức Phật Thích Ca ngồi Bồ Đề Đạo Tràng, đã là bậc Đẳng Giác rồi, thì tại sao ma nữ còn có thể hiện ra để quấy phá ngài được? Tại sao lại phải tranh đấu với Ma Vương làm chi? Trong kinh đại thừa nói rằng, lại còn có cả Ma Vương đem quân đến quấy nhiễu ngài nữa, tại sao thế? Đức Phật đã gần làm chủ pháp giới này rồi thì sao Ma Vương còn có thể quấy phá được? Vì rằng, trong kinh Hoa Nghiêm có dạy, chính vì lòng đại bi, có những chúng sanh thích chiến đấu, thích quân trận nên ngài thị hiện có Ma Vương đến phá, đồng thời thị hiện cả ma nữ đến phá nữa, để nhắc chúng sanh biết rằng, cửa ải tham dục là một cửa ải rất ghê gớm, khó vượt, vì có những bậc tu đã cao rồi mà vẫn còn bị ma nữ ám ảnh, nên ngài khởi từ bi tâm để nhắc nhở chúng ta thôi. Tôi vẫn nghĩ rằng, nếu chúng ta tu cao lên một chút, vượt qua được tưởng ấm mà vào đến hành ấm thì lúc đó chúng ta không còn bị ma chướng nhiều nữa. Lúc đó chỉ còn ma ý, cái nghi và cái mạn mà thôi. Đó là sáu điểm chúng ta cần phải nhớ trước khi đi vào kinh theo dõi con đường tìm cầu thiện trí thức của ngài Thiện Tài đồng tử…

Nay xin đi vào kinh…

Trên kia, chúng ta thấy đức Phật ngồi vườn cấp Cô Độc trong Trùng các đại trang nghiêm, có năm trăm vị Bồ Tát, năm trăm vị Thanh Văn. về số 500 này, thực tôi chưa hiểu rõ tại sao kinh lại lấy số năm trăm, nhưng hình như kinh hay dùng con số mười là để chỉ cái vô tận và số năm là để cho sự thành tựu hoàn mãn, cũng như Ngũ Cổ Như Lai là năm vị Phật xưa vậy…


Bấy giờ chư đại Bồ Tát, đại đức Thanh Văn, những chủ thế gian và quyến thuộc đều nghĩ rằng : cảnh giới của Như Lai, trí hạnh của Như Lai, gia trì của Như Lai, lực của Như Lai, vô úy của Như Lai, tam muội của Như Lai, sở trụ của Như Lai, tự tại của Như Lai, thân của Như Lai, trí của Như Lai, tất cả thế gian chư Thiên cùng người đời không thông đạt được, không xu nhập được, không tín giải được, không rõ biết được, không nhẫn thọ được, không quán sát được, không giảng trạch được, không khai thị được, không tuyên minh được. Không ai có thể làm cho chúng sanh hiểu rõ. Chỉ trừ sức gia bị của Chư Phật, sức thần thông của Phật, sức oai đức của Phật, sức bổn nguyện của Phật, và sức thiện căn đời trước của họ, sức nhiếp thọ của thiện tri thức, sức tinh tín sâu, sức minh giải lớn, sức tâm thanh tịnh xu hướng Bồ đề, sức nguyện rộng lớn cầu nhứt thiết trí. Cúi xin đức Thế Tôn tùy thuận chúng tôi và những dục giải của các chúng sanh, những trín những ngôn ngữ, những tự tại, những trụ đại, những căn thanh thịnh, những ý phương tiện, những tâm cảnh giới, những y chỉ công đức của Như Lai, những pháp đã được nghe thọ của chúng tôi và các chúng sanh mà hiển thị đức Như Lai : thuở xưa xu cầu tâm Nhứt thiết trí, thuở xưa phát khởi đại nguyện Bồ Tát, thuở xưa tu tịnh, những môn Ba La Mật, thuở xưa đã nhập những bực Bồ Tát, thuở xưa viên mãn những hạnh Bồ Tát, thuở xưa thành tựu phương tiện, thuở xưa tu hành những đạo, thuở xưa chứng được pháp xuất ly, thuở xưa đã làm những sự thần thông, thuở xưa đã có bổn sự nhơn duyên, đến thành Ðẳng Chánh Giác, chuyển diệu pháp luân, tịnh Phật quốc độ, điều phục chúng sanh, mở thành pháp Nhứt thiết trí, chỉ đường tất cả chúng sanh, thọ sự cúng dường của tất cả chúng sanh, vì tất cả chúng sanh mà nói công đức bố thí, vì tất cả chúng sanh mà hiện ảnh tượng của Chư Phật. Những pháp như vậy, xin đức Phật vì chúng tôi mà giải thuyết.


Kinh:

Bấy giờ chư Đại Bồ Tát, Đại Đức Thanh Văn những chủ thế gian và quyến thuộc đều nghĩ rằng: cảnh giới của Như Lai, trí hạnh của Như Lai, sức gia trì của Như Lai, lực của Như Lai, vô úy của Như Lai v.v… không tin giải được, không rõ biết được, không nhẫn thọ đưực, chỉ trừ sức gia bị của chư Phật…

Giảng:

Đại khái đoạn này nói đến các vị Bồ Tát và những vị Thế Gian Chủ v.v… tự nghĩ về những cảnh giới, những trí hạnh của Như Lai là thế nào, các ngài chỉ nghĩ thế thôi, nhưng đức Phật vì có tha tâm thông nên ngài biết được các sự nghi đó, thì đây, trong kinh tả…


Bấy giờ đức Thế Tôn biết tâm niệm của chư Bồ Tát, liền dùng đại bi làm thân, đại bi làm môn, đại bi làm đầu, dùng pháp đại bi mà làm phương tiện, đầy khắp hư không, nhập sư tử tần thân tam muội.

Khi đức Thế Tôn nhập tam muội này rồi, tất cả thế gian đều khắp nghiêm tịnh.

Liền đó, lâu các đại trang nghiêm bỗng nhiên rộng rải không có ngằn mé, kim cang làm đất, bửu vương che phía trên, vô lượng bửu hoa và những châu ma ni rải đầy khắp trong lầu, lưu ly làm cột, các thứ báu hiệp thành, trang nghiêm với đại quang ma ni, vàng diêm phù đàn, như ý bửu vương trùm khắp phía trên nghiêm sức. Lầu cao thành dãy, đường gác kèm bên. Kèo máy thừa nhau, cửa nghạch chói nhau. Thềm, bực, hiên, bao lơn đều đầu đủ. Tất cả đều trang nghiêm với diệu bửu. Những bửu ấy đều là hình tượng nhơn thiên, kiên cố đẹp lạ đệ nhứt thế gian. Lưới báu ma ni che khắp phía trên. Bên cửa đều dựng tràng phan, đều phóng quang minh cùng khắp giới. Ngoài đạo tràn, thềm cấp lan can nhiều vô lượng không thể kể nói, đều bằng ngọc ma ni.

Lúc đó lại do thần lực của Phật, rừng Thệ Ða bỗng nhiên rộng rãi đồng với bất khả thuyết Phật sát vi trần số quốc độ. Tất cả diệu bửu xen lẫn trang nghiêm. Bất khả thuyết bửu trải khắp mọi nơi. Vô số bửu làm tường rào. Cây đa la báu trang nghiêm bên đường.

Trong rừng lại có vô lượng hương hà, đầy những nước thơm sóng gợn xoay quanh. Tất cả hoa báu theo dòng chuyển về phía hửu, tự nhiên diễn ra âm thanh Phật pháp. Bất tư nghì bạch liên hoa báu búp nở thơm tho giăng bày trên mặt nước. Những cây bông báu trồng hàng bên bờ sông. Bất tư nghì những đài, nhà mát xếp hàng trên bờ sông, lưới báu ma ni che trùm. Vô số báu phóng đại quang minh. Ðốt những diệu hương mùi thơm ngào ngạt.

Lại dựng vô lượng bửu tràng. Những là : bửu hương tràng, bửu y tràng, bửu phan tràng, bửu thắng tràng, bửu hoa tràng, bửu anh lạc tràng, bửu man tràng, bửu linh tràng, ma ni bửu cái tràng, đại ma ni bửu tràng, quang minh biến chiếu ma ni bửu tràng, xuất nhứt thiết Như Lai danh hiệu âm thanh ma ni vương tràng, sư tử ma ni vương tràng, thuyết nhứt thiết Như Lai bổn sự hải ma ni vương tràng, hiện nhứt thiết pháp giới ảnh tượng ma ni vương tràng. Những bửu tràng này bày hàng trang nghiêm cùng khắp mười phương.

Bấy giờ trong hư không trên rừng Thệ Ða có bất tư nghì thiên cung điện vân, Vô số hương thọ vân, bất khả thuyết Tu Di sơn vân, bất khả thuyết kỹ nhạc vân phát ra tiếng hay diệu ca ngợi đức Như Lai, bất khả thuết bửu liên hoa vân, bất khả thuyết bửu tòa vân trải thiên y Bồ Tát ngồi trên đó ca ngợi công đức của Phật, bất khả thuyết thiên vương hình tượng ma ni bửu vân, bất khả thuyết bạch chơn châu vân, bất khả thuyết xích châu lâu các trang nghiêm cụ vân, bất khả thuyết vũ kim cang kiên cố châu vân. Những bửu vân này đều dừng ở hư không bao vòng cùng khắp để trang nghiêm.

Tại sao vậy ?

Vì thiên căn của đức Như Lai bất tư nghì. Vì bạch pháp của đức Như Lai bất tư nghì. Vì oai lực của đức Như Lai bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể dùng một thân tự tại biến hóa khắp tất cả thế giới bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể dùng thần lực làm cho tất cả Phật và Phật quốc trang nghiêm đều nhập vào thân mình bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một vi trần hiện khắp ảnh tượng tất cả pháp giới bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông thì hiện quá khứ tất cả chư Phật bất tư nghì. Vì đức Như Lai tùy phóng mỗi một quang minh đều có thể chiếu khắp tất cả thế giới bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông phát ra tất cả Phật sát vi trần số biến hóa vân đầy khắp tất cả chư Phật quốc độ bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông hiện khắp tất cả thế giới mười phương : thành trụ hoại kiếp bất tư nghì.

Như ở tại rừng Thệ Ða vườn cấp Cô Ðộ thấy Phật quốc thanh tịnh trang nghiêm, mười phương tất cả pháp giới hư không giới, tất cả thế giới cũng đều thấy như vậy.

Những là thấy thân đức Như Lai ở rừng Thệ Ða, chúng hội Bồ Tát thảy đều cùng khắp. Thấy khắp nơi mưa những mây trang nghiêm. Thấy khắp nơi mưa những mây bửu quang minh chiếu sáng. Thấy khắp nơi mưa những mây ma ni bửu. Thấy khắp nơi mưa những mây lọng trang nghiêm che trùm cõi Phật. Thấy khắp nơi mưa những mây thiên thân. Thấy khắp nơi mưa những mây hoa thọ. Thấy khắp nơi mưa những mây y thọ. Thấy khắp nơi mưa những mây bửu man anh lạc nối tiếp chẳng dứt cùng khắp tất cả đại địa. Thấy khắp nơi mưa những mây đồ trang nghiêm. Thấy khắp nơi mưa những mây thơm hình chúng sanh. Thấy khắp nơi mưa những mây lưới hoa báu vi diệu tiếp nỗi chẳng ngớt. Thấy khắp nơi mưa những mây chư Thiên nữ cầm tràng phan báu đi qua lại ở trong hư không. Thấy khắp nơi mưa những mây bữu liên hoa, ở trong cánh hoa tự nhiên phát ra những tiếng nhạc. Thấy khắp nơi mưa những mây tòa sư tử lưới báu anh lạc dùng trang nghiêm.

Lúc đó phương Ðông qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Kim Ðăng Vân Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Tỳ Lô Giá Na Thắng Ðức Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Tỳ Lô Giá Na Nguyện Quang Minh, cùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát câu hội đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện những lùm mây : mây thiên hoa, mây thiên hương, mây thiên mạt hương, mây thiên man, mây thiên bửu, mây thiên trang nghiêm cụ, mây thiên bửu cái, mây thiên vi diệu y, mây thiên bửu tràng phan, mây những diệu bửu trang nghiêm đầy dẫy hư không.

Ðến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật. Liền ở nơi phương Ðông hóa làm lâu các bửu trang nghiêm và tòa sư tử bửu liên hoa tạng chiếu khắp mười phương. Lưới như ý bửu choàng trên thân. Rồi cùng quyến thuộc ngồi kiết già trên đó.

Phương Nam qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Kim Cang Tạng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Quang Minh Vô Thắng Tạng Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó, có Bồ Tát hiệu là Bất Khả Hoại Tinh Tấn Vương, cùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát câu hội đến chỗ đức Phật, đồng cầm những lưới bửu hương, những bửu anh lạc, những bữu hoa đới, những bửu man đới, những kim cang anh lạc, những lưới bửu ma ni, những bửu y đới, những bửu anh lạc đới, những thắng quang minh ma ni đới, những sư tử ma ni bửu anh lạc. Ðều dùng thần lực làm cho những bửu vật trên đầy khắp tất cả thế giới hải.

Ðến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật. Liền ở nơi phương Nam hóa làm lâu các biến chiếu thế gian ma ni bửu trang nghiêm, và tòa sư tử phổ chiếu thập phương bửu liên hoa tạng. Dùng những lưới bửu hoa choàng trên thân, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên đó.

Phương Tây qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Ma Ni Bửu Ðăng Tu Di Sơn Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Pháp Giới Trí Ðăng.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Phổ Thắng Vô Lượng Oai Ðức Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ Ðức Phật. Ðều dùng thần lực hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số những hương thoa, hương thắp, mây Tu Di sơn, những mây Tu Di sơn hương thủy nhiều màu, những mây Tu Di sơn quang minh ma ni bửu vương, những mây Tu Di sơn quang diệm luân trang nghiêm tràng, những mây Tu Di sơn kim cang tạng ma ni vương trang nghiêm nhiều màu, những mây Tu Di sơn diêm phù đàn ma ni bửu tràng chiếu khắp tất cả thế giới, những mây Tu Di sơn ma ni bửu hiện tất cả pháp giới, những mây Tu Di sơn ma ni bửu vương hiện tất cả chư Phật tướng hảo, những mây Tu Di sơn ma ni bửu vương hiện bổn sự nhơn duyên của chư Phật nói tất cả công hạnh tu hành của chư Bồ Tát, những mây Tu Di sơn ma ni bửu vương hiện tất cả Phật ngồi Bồ đề đề tràng. Những mây này đầy khắp pháp giới.

Ðến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Tây hóa lâu các nhứt thiết hương vương, lưới báu chơn châu giăng trùm trên đó, và hóa toà sư tử bửu liên hoa tạng tràng bóng Thiên Ðế, dùng lưới ma ni diệu sắc choàng nơi thân, trên đầu trang nghiêm với mão tâm vương bửu, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên trên tòa đó.

Phương Bắc qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Bửu Y Quang Minh Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Chiếu Hư Không Pháp Giới Ðại Quang Minh. Trong chúng hội của Ðức Phật đó, có Bồ Tát hiệu là Vô Ngại Thắng Tạng Vương cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật đều dùng thần lực hiện những mây bửu y. Những là mây bửu y quang minh màu vàng, những mây bửu y ướp hương, mây bửu y nhựt tràng ma ni vương, mây bửu y kim sắc xí nhiên ma ni, những mây bửu y quang diệm, những mây bửu y ma ni thượng diệu tượng tinh tú, những mây bửu y ma ni bạch ngọc quang, những mây bửu y ma ni thù thắng quang minh biến chiếu, những mây bửu y ma ni oai thế quang minh biến chiếu, những mây bửu y ma ni trang nghiêm hải. Những mây bửu y này đầy khắp hư không.

Khi đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật, liền ở phương Bắc hóa làm lâu các ma ni bửu hải trang nghiêm, và toà sư tử liên hoa tạng tỳ lưu ly bửu. Dùng lưới ma vi vương sư tử oai đức choàng trên thân. Dùng bửu vương thanh tịnh minh châu trang nghiêm trên đầu. Cùng chư quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

Phương Ðông Bắc qua khởi bất khả thyuết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Nhất Thiết Hoan Hỉ Thanh Tịnh Quang Minh Võng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Vô Ngại Nhãn.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Hoá Hiện Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện mây lâu các báu, mây lâu các hương, mây lâu các hương đốt, mây lâu các hoa, mây lâu các chiên đàn, mây lâu các kim cang, mây lâu các ma ni, mây lâu các huỳnh kim, mây lâu các bửu y, mây lâu các liên hoa, che khắp thế giới mười phương.

Khi đã đến chỗ Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Ðông Bắc hóa làm lâu các đại ma ni pháp giới môn, và tòa sư tử liên hoa tạng vô đẳng hương vương, dùng lưới ma ni hoa choàng trên thân, đội mão diệu bửu tạng ma ni vương, cùng chư quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

Phương Ðông Nam qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới hiệu là Hương Vân Trang Nghiêm Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Long Tự Tại Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là pháp Huệ Quang Diệm Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện mây kim sắc viên mãn quang minh, mây vô lượng bửu sắc viên mãn quang minh, mây Như Lai hào tướng viên mãn quang minh, mây những bửu sắc viên mãn quang minh, mây liên hoa tạng viên mãn quang minh, mây bửu thọ chi viên mãn viên quang minh, mây Như Lai đảnh kế viên mãn quang minh, mây diêm phù đàn kim sắc viên mãn quang minh, mây nhựt sắc viên mãn quang minh, mây tinh nguyệt sắc viên mãn quang minh, đầy khắp hư không.

Ðến chỗ đức Phật rồi Chư Bồ Tát đảnh lể chân đức Phật, liền ở Phương Ðông Nam hóa làm Lâu các tỳ lô giá na tối thượng bửu quang minh, và tòa sư tử kim cang ma ni liên hoa tạng lưới bửu quang diệm ma ni vương choàng trên thân, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

Phương Tây Nam qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Nhựt Quang Ma Ni Tạng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Chiếu Chư Pháp Trí Nguyệt Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Tồi Phá Nhứt Thiết Ma Quân Trí Tràng Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội, đồng đến chỗ đức Phật. Ở trong tất cả lỗ lông hiện ra mây hoa diệm khắp hư không giới, mây hương diệm, mây bửu diệm, mây kim cang diệm, mây thiêu hương diệm, mây điển quang diệm, mây tỳ lô giá na ma ni bửu diệm, mây nhứt thiết kim quang diệm, mây thắng tạng ma ni vương quang diệm, mây đồng tam thế Như Lai hải quang diệm, mỗi mỗi đều từ những lỗ lông hiện ra khắp hư không giới.

Khi đã đến chỗ đức Phật chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Tây Nam hóa làm lưới phổ hiện thập phương pháp giới quang minh lâu các đại ma ni bửu, và tòa sư tử hương đăng diệm bửu liên hoa tạng, dùng lưới ly cấu tạng ma ni choàng trên thân, đội mảo xuất nhứt thiết chúng sanh phát thu âm ma ni vương nghiêm sức, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

Phương Tây Bắc qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Tỳ Lô Giá Na Nguyện Ma Ni Vương Tạng.

Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Quang Minh Tối Thắng Tu Di Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Nguyện Trí Quang Minh Tràng, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật. Trong khoảng mỗi niệm, nơi tất cả tướng hảo, tất cả lỗ lông, tất cả thân phần đều hiện ra mây hình tượng tất cả tam thế Như Lai, mây hình tượng tất cả Bồ Tát, mây hình tượng chúng hội của tất cả Như Lai, mây hình tượng thân biến hoá của tất cả Như Lai, mây hình tượng thân bổn sanh của tất cả Như Lai, mây hình tượng tất cả Thanh văn, Bích Chi Phật, mây hình tượng Bồ đề tràng của tất cả Như Lai, mây hình tượng thần biến của tất cả Như Lai, mây hình tượng tất cả thế gian chủ, mây hình tượng tất cả quốc độ thanh tịnh, đầy khắp hư không.

Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật, liền ở phương Tây Bắc hóa làm lâu các ma ni bửu trang nghiêm phổ chiếu thập phương và toà sư tử bửu liên hoa tạng phổ chiếu thế giang. Dùng lưới chơn châu vô năng thắng quang minh choàng trên thân, đội mão phổ quang minh ma ni bửu, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

Hạ phương qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Nhứt Thiết Như Lai Viên Mãn Quang Phổ Chiếu. Ðức Phật nơi đó hiệu là Hư Không Vô Ngại Tướng Trí Tràng Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Phá Nhứt Thiết Chướng Dũng Mãnh Trí Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật. Trong tất cả lỗ lông hiện ra mây âm thanh nói ngữ ngôn hải của tất cả chúng sanh mây âm thanh nói tu hành phương tiện hải của tất cả tam thế Bồ Tát, mây âm thanh nói phát nguyện phương tiện hải của tất cả Bồ Tát, mây âm thanh nói tất cả Bồ Tát thành mãn thanh tịnh Ba la mật phương tiện hải, mây âm thanh nói tất cả Bồ Tát viên mãn hạnh khắp tất cả cõi, mây âm thanh nói tất cả Bồ Tát thành tựu tự tại dụng, mây âm thanh nói tự tại dụng của tất cả Như Lai qua ngồi đạo tràng phá chúng ma quân thành Ðẳng Chánh Giác, mây âm thanh nói tất cả Như Lai chuyển pháp luân khế kinh : môn danh hiệu hải, mây âm thanh nói tất cả pháp phương tiện hải tùy cơ giáo hóa đều phục chúng sanh, mây âm thanh nói tất cả phương tiện hải tùy thời tùy thiện căn tùy nguyện lực khiến khắp chúng sanh chứng được trí huệ.

Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chư Phật, liền ở Hạ phương hóa làm lâu các chúng bửu trang nghiêm hiện hình tượng cung điện của tất cả Như Lai, và toà sư tử bửu liên hoa tạng, đội mão phổ hiện đạo tràng ảnh ma ni bửu, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên toà đó.

Thượng phương qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Thuyết Phật Chủng Tánh Vô Hữu Tận. Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Trí Luân Quang Minh Âm.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Pháp Giới Sai Biệt Nguyện, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nơi tất cả tướng hảo, tất cả lỗ lông, tất cả thân phần, tất cả chi tiết, tất cả đồ trang nghiêm, tất cả y phục hiện ra tất cả chư Phật quá khứ như đức Tỳ Lô Giá Na v.v… tất cả chư Phật vị lai hoặc đã được thọ ký hay chưa được thọ ký, hiện tại mười phương tất cả quốc độ tất cả chư Phật và chúng hội. Cũng hiện ra những bổn sự hải thật hành Ðàn Ba la mật và tất cả người thọ bố thí thuở quá khứ. Cũng hiện ra những bổn sự hải thật hành Thi Ba la mật thuở quá khứ. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ thật hành nhẫn nhục Ba La mật cắt dứt chi thể tâm không động loạn. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ thật hành Tinh tấn Ba la mật dũng mãnh bất thối. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ cầu Như Lai Thiền Ba la mật hải mà được thành tựu. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ cầu chư Phật chuyển pháp luân mà được thành tựu pháp phát tâm dũng mãnh tất cả đều xả bỏ. Cũng hiện những bổn sự hải thuở qúa khứ thích thấy chư Phật, thích hành Bồ Tát đạo, thích giáo hoá chúng sanh. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ những Bồ Tát đại nguyện thanh tịnh trang nghiêm. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ chư Bồ Tát thanh lực Ba la mật dũng mãnh thanh tịnh. Cũng hiện những bổ sự hải thuở quá khứ tất cả Bồ Tát tu viên mãn trí Ba la mật. Tất cả những bổ sự hải như vậy thảy đều đầy khắp quảng đại pháp giới.

Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở Thượng phương hóa làm lâu các kim cang tạng trang nghiêm, và toà sư tử liên hoa tạng đế thanh kim cang vương, dùng lưới bửu quang minh ma ni vương choàng trên thân dùng ma ni bửu vương diễn thuyết tam thế Như Lai danh hiệu làm minh châu trên mão, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

Mười phương tất cả Bồ Tát và quyến thuộc đều từ trong hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát mà sanh, dùng trí nhãn thanh tịnh thấy tam thế Phật, khắp nghe tu đa la hải của chư Phật chuyển pháp luân, đã được đến nơi tất cả Bồ Tát tự tại bĩ ngạn. Trong mỗi niệm hiện đại thần biến. Gần gũi tất cả chư Phật Như Lai. Một thân đầy khắp tất chúng hội đạo tràng của tất cả Như Lai trong tất cả thế giới. Trong mỗi vi trần, hiện khắp tất cả cảnh giới thế gian. Giáo hóa thành tựu tất cả chúng sanh chưa từng lỗi thời. Trong một lỗ lông phát ra âm thanh thuyết pháp của tất cả Như Lai. Biết tất cả chúng sanh thảy đều như huyễn. Biết tất cả đức Phật thảy đều như ảnh. Biết tất cả loài thọ sanh thảy đều như mộng. Biết tất cả nghiệp báo thảy đều như tượng trong gương. Biết tất cả những gì có sanh khởi thảy đều như ánh nắng gắt. Biết tất cả thế giới đều như biến hóa. Thành tựu Thập lực vô uý của đức Như Lai. Dũng mãnh tự tại hay sư tử hống. Vào sâu trong biển cả vô tận biện tài. Ðược ngôn từ hải của tất cả chúng sanh. Những pháp trí nơi hư không pháp giới, việc làm vô ngại. Biết tất cả pháp không chướng ngại. Tất cả Bồ Tát thần thông cảnh giới đều đã thanh tịnh. Dũng mãnh tinh tấn xô dẹp ma quân. Hằng dùng trí huệ thấu rõ tam thế. Biết tất cả pháp dường như hư không, chẳng có nghịch trái cũng không chấp lấy. Dầu siêng tinh tấn mà biết nhứt thiết trí trọn không chỗ đến. Dầu quán cảnh giới mà biết tất cả những gì có đều là bất khả đắc. Dùng trí phương tiện nhập tất cả pháp giới. Dùng trí bình đẳng nhập tất cả quốc độ. Dùng sức tự tại khiến tất cả thế giới xoay vần nhập nhau. Xứ xứ thọ sanh trong tất cả thế giới. Thấy những loại hình tướng của tất cả thế giới. Nơi cảnh vi tế hiện cõi quảng đại. Nơi cảnh quảng đại hiện cõi vi tế. Nơi một chỗ đức Phật, trong khoảng một niệm được tất cả đức Phật oai thần gia hộ. Thấy khắp mười phương không bị mê lầm. Trong khoảng sát na đều có thể qua đến.

Tất cả Bồ Tát có công đức trí huệ vô biên như vậy ngồi đầy trong rừng Thệ Ða. Ðây là nương thần lực của đức Như Lai.


Kinh:

Bấy giờ đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Bồ Tát đó rồi liền dùng đại từ bi làm thân, đại bi làm đầu, dùng pháp dại bi mà làm phương tiện đầy khắp hư không, nhập sư tử tần thân tam muội…

Giảng:

Đức Phật biết tâm niệm của các vị Bồ Tát rồi, ngài không giảng bằng lời, mà chĩ giảng bằng tam muội, trong đoạn này, kinh không hề nói đến sự triển khai về Bát Nhã (Tánh Không), mà chỉ dùng Đại bi, mà đại bi là cái tâm sở đưa chúng ta đến chỗ biến hóa nhiều hơn là Bát Nhã. Và ngài đã khởi tâm đại bi, nên ngài đã nhập tam muội gọi là “Sư Tử tần thân tam muội,” Sư tử tần thân là con sư tử chuyển thân, vờn cầu mà không có gì vấp váp cả, đức Phật vào tam muội này cũng thế, ngài cũng thần kỳ chuyển tam muội, chuyển từ tam muội này sang tam muội khác…

Kinh:

Khi đức Thế Tôn nhập tam muội này rồi, tất cả thế gian đều khắp nghiêm tịnh…

Giảng:

Ngài vào tam muội thì ở khu rừng đó trở thành lâu các Đại trang nghiêm, bỗng dưng rộng rãi, không có ngằn mé. Tất cả đều nói lên sự biến hóa, khi ngài muốn nói pháp lớn thì ngài thường nhập tam muội nên đạo tràng trở thành trang nghiêm rộng lớn hơn. Cũng như tôi vẫn nói rằng, khi chúng ta lên núi Linh Thứu ở bên Ấn Độ, chỉ thấy một mảnh sân rất nhỏ, nhưng đến khi ngài ngồi nói pháp thì tự nhiên chỗ đó bỗng rộng rãi ra, dù bao nhiêu người đến dự cũng vừa. Ở đây cũng vậy, nên sau khi nhập tam muội rồi thì tất cả hào quang phóng đi mười phương các cõi, nên mười phương chư Đại Bồ Tát đều vân tập.

Kinh:

Lúc đó, lại do thần lực của Phật, rừng Thệ Đa bỗng nhiên rộng rãi đồng với bất khả thuyết Phật sát vi trần số quốc độ. Tất cả đều diệu bửu xen lẫn trang nghiêm. Bất khả thuyết bửu trải khắp mọi nơi. Vô số bửu làm tường rào. Cây đa la báu trang nghiêm bên dường…

Giảng:

Chỗ này hiện lên cảnh giới y như bên Cực Lạc, vì có những cây, những hoa báu, những giòng nước…

Kinh:

Lại có vô lượng hương hà, đầy những nước thơm sóng gợn xoay quanh. Tất cả hoa báu theo dòng chuyển về phía hữu…

Giảng:

Khi nào hiện tướng thì luôn xoay về phía hữu, khi nào xoay về phía tả tức là chìm vào không, là Bát Nhã, hiện tướng là đại bi. Tôi nghĩ rằng, tất cả những sông, hay giòng nước bát công đức bên Cực Lạc cũng đều xoay theo chiều phía hữu.

Kinh:

Vô số báu phóng đại quang minh…, vô số báu trang nghiêm mặt đất, đốt những diệu hương mùi thơm ngào ngạt…

Giảng:

Chỗ này nói khoảng mấy trang, nhưng nếu đọc hết thì dài quá, nên xin đọc lược qua chỉ cần hiểu ý chính là được rồi…

Kinh:

Bấy giờ, trong hư không trên rừng Thệ Đa, có bất tư nghi thiên cung điện vân, vô số bửu liên hoa vân, thiên y vân v.v… Tại sao vậy, vì thiện căn đức Như Lai bất khả tư nghi. Vì oai đức của đức Như Lai bất khả tư nghì. Vì đức Như Lai ở trong một lỗ lông thị hiện quá khứ tất cả chư Phật bất tư nghì. Vì đức Như Lai tuy phóng mỗi một quang minh đều có thể chiếu khắp tất cả thế giới bất khả tư nghi. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông phát ra tất cả Phật sát vi trần biến hóa vân đầy khắp tất cả chư Phật, tất cả chư quốc độ bất tư nghì v.v…

Giảng:

Những chỗ này đã giảng trước nhiều lần rồi, nghĩa là cả hội trường biến hóa hẳn lên, như cảnh giới của Cực Lạc, có khi còn hơn thế nữa. Khi hội trương biến hóa thế rồi, thì mười phương đông, nam, tây, bắc, và giữa những phương ấy, đều có những vị Bồ Tát từ mười phương vân tập. Lề lối và nghi thức của một đạo tràng lớn là như vậy, tức là đức Phật ngồi đó, vào tam muội phóng quang tất cả các nơi, thay đổi tất cả đạo tràng, rồi chiếu ánh sáng đi mười phương thế giới, tất cả những vị đại Bồ Tát gặp được ánh sáng ấy, đều vân tập đến để nghe pháp, các vị đến thường là đảnh lễ Phật rồi hóa hiện những tòa sen lớn và ngồi lên đó để nghe pháp. Đại lược là như vậy, sau khi các vị Đại Bồ Tát vân tập thì nói đến các vị Thanh Văn…


Lúc đó chư thượng thủ đại Thanh Văn các Trưởng lão : Xá Lợi Phất, Ðại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ly Bà Ða, Tu Bồ Ðề, A Nâu Lâu Ðà, Na Ðà, Kiếp Tân Na, Ca Chiên Diên, Phú Lâu Na v.v… Chư đại Thanh Văn này ở tại rừng Thệ Ða mà đều chẳng thấy thần lực của Như Lai. Chẳng thấy sự nghiêm hảo của Như Lai. Chẳng thấy cảnh giới của Như Lai. Chẳng thấy sự du hí của Như Lai. Chẳng thấy sự thần biến của Như Lai. Chẳng thấy sự tôn thắng của Như Lai. Chẳng thấy sự diệu hạnh và oai đức của Như Lai. Chẳng thấy sự trụ trì của Như Lai. Chẳng thấy cõi thanh tịnh của Như Lai. Lại cũng chẳng thấy cảnh giới Bồ Tát bất tư nghì, Bồ Tát đại hội, Bồ Tát phổ nhập, Bồ Tát phổ chí, Bồ Tát phổ nghệ, Bồ Tát thần biến, Bồ Tát du hí, Bồ Tát quyến thuộc, Bồ Tát phương sở, Bồ Tát trang nghiêm sư tử tòa, Bồ Tát cung điện, Bồ Tát trụ xứ, Bồ Tát nhập tam muội tự tại, Bồ Tát quán sát, Bồ Tát tần thân, Bồ Tát dũng mãnh, Bồ Tát cúng dường, Bồ Tát thọ ký, Bồ Tát thành thục, Bồ Tát dũng kiện, Bồ Tát pháp thân thanh tịnh, Bồ Tát trí thân viên mãn, Bồ Tát nguyện thân thị hiện, Bồ Tát sắc thân thành tựu, Bồ Tát tướng hảo cụ túc thanh tịnh, Bồ Tát quang minh thường nhiều màu trang nghiêm, Bồ Tát phóng lưới đại quang minh, Bồ Tát khởi mây biến hóa, Bồ Tát thân khắp mười phương, Bồ Tát các hạnh viên mãn. Những sự như vậy, tất cả Thanh Văn đại A La Hán thảy đều không thấy.

Tại sao vậy ?

Vì thiện căn chẳng đồng. Vì vốn không tu tập thiện căn thấy Phật tự tại. Vì vốn chẳng khen nói công đức thanh tịnh của tất cả Phật độ ở mười phương. Vì vốn chẳng ca ngợi những thần biến của chư Phật Thế Tôn. Vì vốn chẳng ở trong sanh tử phát tâm Vô thượng Bồ đề. Vì vốn chẳng làm cho kẻ khác phát tâm Bồ đề. Vì vốn chẳng có thể làm cho chủng tánh Như Lai không đoạn tuyệt. Vì vốn chẳng nhiếp thọ chúng sanh. Vì vốn chẳng khuyên kẻ khác tu hạnh Ba La mật của Bồ Tát. Vì lúc ở trong sanh tử lưu chuyển, vốn chẳng khuyên bảo chúng sanh cầu đại trí nhãn tối thắng. Vì vốn chẳng tu tập thiện căn phát sanh Nhứt thiết trí. Vì vốn chẳng thành tựu thiện căn xuất thế của Như Lai. Vì vốn chẳng được trí thần thông nghiêm tịnh Phật độ. Vì vốn chẳng được cảnh sở tri của Bồ Tát nhãn. Vì vốn chẳng cầu những thiện căn siêu xuất thế gian bất cộng Bồ đề. Vì vốn chẳng phát Bồ Tát đại nguyện. Vì sanh ra vốn chẳng từ sự gia bị của đức Như Lai. Vì vốn chẳng biết tất cả pháp như huyễn, chư Bồ Tát như mộng. Vì vốn chẳng được sự hoan hỷ quảng đại của chư đại Bồ Tát. Những điều trên đây đều là cảnh giới trí nhãn Phổ Hiền Bồ Tát chẳng cùng chung với tất cả hàng Nhị thừa. Do cớ này, nên chư đại Thanh văn không thấy được, chẳng biết được, chẳng nghe được, chẳng nhập được, chẳng chứng được, chẳng niệm được, chẳng quán sát được, chẳng tính lường được, chẳng tư duy được, chẳng phân biệt được. Thế nên dầu cũng ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy được những đại thần biến của Như Lai.

Lại vì chư đại Thanh Văn không có thiện căn như vậy, không có trí nhãn như vậy, không có tam muội như vậy, không có giải thoát như vậy, không có thần thông như vậy, không có oai đức như vậy, không có thế lực như vậy, không có tự tại như vậy, không có trụ xứ như vậy, không có cảnh giới như vậy, vì thế nên ở nơi đây không biết được không thấy được, không nhập được, không chứng được, không trụ được không hiểu được, không quán sát được, không nhẫn thọ được, không xu hướng được, không noi theo được.

Lại cũng vì chẳng có thể vì người khác mà khai diễn giải thoát, tán thán thị hiện dắt dìu khuyến tấn, cho họ xu hướng, cho họ tu tập, cho họ an trụ, cho họ chứng nhập.

Tại sao vậy ? Vì chư đại đệ tử y theo Thanh Văn thừa mà xuất ly, thành tựu Thanh Văn đạo, đầy đủ Thanh Văn hạnh, an trụ Thanh Văn qủa. Nơi chơn đế vô hữu được quyết định trí, trụ luôn nơi thiệt tế rốt ráo tịch tịnh, lìa xa đại bi, bỏ các chúng sanh an trụ nơi việc của mình. Nơi trí huệ kia chẳng chứa nhóm được, chẳng tu hành được, chẳng an trụ được, chẳng nguyện cầu được, chẳng thành tựu được, chẳng thanh tịnh được, chẳng xu nhập được, chẳng thông đạt được, chẳng thấy biết được, chẳng chứng đắc được. Vì thế nên dầu ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy được thần biến quảng đại của đức Như Lai.

Chư Phật tử ! Như ở bờ sông Hằng, có trăm ngàn ức vô lượng ngạ quỷ lõa lồ đói khát, khắp mình lửa cháy. Những quạ, kên kên, chó sói đua nhau rượt bắt. Các ngạ quỷ này vì quá khát muốn tìm nước uống, nhưng dầu ở bên sông mà chẳng thấy nước. Cũng có kẻ thấy sông nhưng lại thấy khô cạn.

Tại sao vậy ? Vì các ngạ quỷ này bị nghiệp chướng sâu nặng che mờ.

Cũng vậy, chư đại Thanh Văn dầu đến ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy thần lực quảng đại của đức Như Lai. Vì bỏ Nhứt thiết chủng trí, bị màn vô minh che loà đôi mắt. Vì chẳng từng gieo trồng những thiện căn Nhứt thiết chủng trí.

Ví như có người ở giữa đại hội ngủ say chiêm bao thấy trên đảnh núi Tu Di, Thiên Ðế ngự nơi thành Thiện Kiến, cung điện vườn cây các thứ nghiêm tốt. Ngàn muôn ức Thiên Tử Thiên nữ. Thiên hoa rải khắp mọi nơi. Những y thọ sanh ra y phục đẹp. Những hoa thọ đơm nở hoa đẹp. Những âm nhạc thọ trổi thiên âm nhạc. Những thiên thể nữ ca ngâm tiếng tốt. Vô lượng chư thiên ở trong đó vui chơi. Người nằm mộng này tự thấy mặc thiên y đi dạo khắp Thiên cung.

Ở trong đại hội tất cả mọi người dầu đồng ở một chỗ mà chẳng thấy chẳng biết cảnh giới Thiên cung như vậy.

Cũng vậy, tất cả Bồ Tát vì từ lâu chứa nhóm thiện căn, vì phát nguyện quảng đại cầu Nhứt thiết chủng trí, vì học tập tất cả Phật công đức, vì tu hành đạo trang nhgiêm của Bồ Tát, vì viên mãn pháp Nhứt thiết chủng trí, vì đầy đủ những hạnh nguyện Phổ Hiền, vì xu nhập trí địa của tất cả Bồ Tát, vì du hí những tam muội sở trụ của tất cả Bồ Tát, vì đã có thể quán sát Cảnh giới trí huệ của tất cả Bồ Tát không chướng ngại. Do đây nên đều thấy thần biến tự tại bất tư nghì của Như Lai Thế Tôn.

Tất cả Thanh Văn đều chẳng thấy được, đều chẳng biết được, vì không có thanh tịnh nhãn của Bồ Tát.

Ví như núi Tuyết đủ những dược thảo. Lương y đến đó đều có thể phân biệt biết. Còn những thợ săn, những người chăn súc vật thường ở trên đó mà chẳng thấy biết được thuốc.

Ðây cũng như vậy, bởi chư Bồ Tát nhập trí cảnh giới đủ sức tự tại, có thể thấy thần biến quảng đại của đức Như Lai.

Chư Thanh Văn đại đệ tử chỉ cầu tự lợi chẳng muốn lợi tha, chỉ cầu tự an chẳng muốn an tha, nên dầu ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy chẳng biết.

Ví như trong đất có mỏ thất bảo. Nhà bác học trí huệ sáng suốt, có thể khéo phân biệt biết thấy những mõ báu đó. Người này có đại phước đức nên tùy ý lấy dùng tự tại : Phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp kẻ nghèo bịnh cơ hàn cô độc.

Những người không trí huệ không phước đức dầu cũng đến chỗ mõ báo mà chẳng biết chẳng thấy chẳng được lợi ích.

Cũng vậy, chư đại Bồ Tát có trí nhãn thanh tịnh có thể nhập cảnh giới thậm thâm bất tư nghì, thấy được thần lực của Phật, nhập được các pháp môn, du hành được tam muội hải, hay cúng dường chư Phật, hay dùng chánh pháp khai ngộ chúng sanh, hay dùng Tứ nhiếp pháp nhiếp thọ chúng sanh.

Chư đại Thanh Văn chẳng thấy được thần lực của Chư Phật, cùng chẳng thấy được chúng Bồ Tát.

Ví như người mù đến chỗ châu bảo, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm vẫn chẳng thấy được châu bảo. Vì không thấy nên không lấy được, chẳng dùng được.

Ðây cũng như vậy, chư đại đệ tử Thanh Văn dầu ở rừng Thệ Ða thân cận đức Thế Tôn mà chẳng thấy thần lực tự tại của đức Thế Tôn, cũng chẳng thấy được đại hội Bồ Tát, vì không có tịnh nhãn vô ngại của đại Bồ Tát, nên chẳng có thể thứ đệ ngộ nhập pháp giới thấy thần lực tự tại của đức Như Lai.

Ví như có người được thanh tịnh nhãn gọi là ly cấu quang minh, tất cả màu tối không làm chướng được. Bấy giờ ở trong đêm tối có vô lượng ức người, hoăc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hình tướng oai nghi. Người này ở trong đại chúng đó đều thấy biết rõ ràng. Còn đại chúng đó lại không thấy biết oai nghi tấn thối của người minh nhãn này.

Cũng vậy, đức Phật thành tựu trí nhãn thanh tịnh vô ngại thấy rõ tất cả thế gian.

Ðức Phật thị hiện thần thông biến hóa, chúng đại Bồ Tát câu hội. Hàng đại đệ tử Thanh Văn đều chẳng thấy được.

Ví như Tỳ Kheo ở giữa đại chúng nhập biến xứ định. Những là địa biến xứ định, thủy biến xứ định, hỏa biến xứ định, phong biến xứ định, thanh biến xứ định, huỳnh biến xứ định, xích biến xứ định, bạch biến xứ định, thiên biến xứ định, chúng sanh thân biến xứ định, ngữ ngôn âm thanh biến xứ định, cảnh duyên biến xứ định. Người nhập định này thấy những cảnh đó. Những người khác không thấy được. Chỉ trừ người trụ trong chánh định này.

Cũng vậy, đức Như Lai hiện Phật cảnh giới bất tư nghì, Bồ Tát thấy cả, Thanh Văn chẳng thấy.

Ví có người dùng thuốc ẩn thân tự thoa lên mắt, ở trong chúng hội tới lui ngồi đứng, không ai thấy được. Người này thời thấy tất cả những sự trong đại chúng.

Cũng vậy, đức Như Lai siêu quá thế gian, thấy khắp thế gian. Chẳng phải hàng Thanh Văn thấy được. Chỉ trừ chư đại Bồ Tát xu hướng cảnh giới Nhứt thiết trí.

Như người khi đã sanh ra thời có hai Thiên thần hằng theo kề. Một Thiên thần hiệu Ðồng Sanh. Một Thiên thần hiệu Ðồng Danh. Thiên thần thường thấy người. Người thời chẳng thấy được Thiên thần.

Cũng vậy đức Như Lai ở trong đại hội Bồ Tát hiện đại thần thông. Chư đại Thanh Văn đều chẳng thấy được.

Ví như Tỳ Kheo được tâm tự tại nhập diệt tận định, sáu căn chẳng hiện hành, chẳng hay chẳng biết tất cả ngữ ngôn. Vì định lực chấp trì nên chẳng nhập diệt.

Cũng vậy, tất cả đại Thanh Văn dầu ở tại rừng Thệ Ða, đủ cả sáu căn mà đối với những sự tự tại của Như Lai cùng chúng hội Bồ Tát, chẳng biết chẳng thấy, chẳng hay chẳng nhập.

Tại sao vậy ? Vì cảnh giới của đức Như Lai thậm thâm quảng đại, khó thấy, khó biết, khó suy, khó lường. Siêu xuất thế gian chẳng thể nghĩ bàn, chẳng gì làm hoại được. Chẳng phải cảnh giới của hàng Nhị thừa. Vì thế nên Như Lai tự tại thần lực và chúng hội Bồ Tát cùng rừng Thệ Ða, cùng khắp tất cả thanh tịnh thế giới. Những sự như vậy, chư đại Thanh Văn đều chẳng thấy biết, vì họ chẳng phải căn khí này.

Lúc đó, Tỳ Lô Giá Na Nguyện Quang Minh Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Các ngài nên quán sát

Phật đạo bất tư nghì

Nơi rừng Thệ Ða này

Thị hiện thần thông lực.

Oai thần lực của Phật

Biến hiện vô ương số

Tất cả các thế gian

Mê lầm chẳng rõ được.

Pháp vương pháp thâm diệu

Vô lượng khó nghĩ bàn

Hiện ra những thần thông

Thế gian chẳng lường được.

Vì biết pháp vô tướng

Thế nên gọi là Phật

Mà đủ tướng trang nghiêm

Xưng dương chẳng kể hết.

Nay ở trong rừng này

Thị hiện đại thần lực

Rất sâu vô biên lượng

Ngôn từ không biện được.

Ngài xem đại oai đức

Vô lượng chúng Bồ Tát

Mười Phương những quốc độ.

Mà đến thấy Thế Tôn.

Chỗ nguyên đều đầy đủ

Chỗ làm không chướng ngại

Tất cả các thế gian

Không ai suy lường được.

Tất cả chư Duyên Giác

Và đại Thanh Văn kia.

Thảy đều chẳng biết được

Bồ Tát hạnh cảnh giới.

Bồ Tát đại trí huệ

Các địa đều rốt ráo

Dựng cao tràng dũng mãnh

Khó xô khó động được.

Những bực Ðại Danh xưng

Vô lượng tam muội lực

Hiện ra những thần biến

Pháp giới đều sung mãn.

Bấy giờ, Bất Khả Hoại Tinh Tấn Vương Bồ Tát thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Ngài xem các Phật tử

Trí tuệ tạng công đức

Rốt ráo hạnh Bồ đề

An ổn các thế gian.

Tâm Ngài vốn minh đạt

Khéo nhập những tam muội

Trí huệ vô biên tế

Cảnh giới không lường được.

Nay rừng Thệ Ða này

Mọi sự đều nghiêm sức

Chúng Bồ Tát vân tập

Thân cận bên Như Lai

Ngài xem vô lượng chúng

Những bực vô sở trước

Mười phương đến chỗ này

Ngồi toà bửu liên hoa.

Không đến cũng không ở

Không dựa không hí luận

Tâm ly cấu vô ngại

Rốt ráo nơi pháp giới

Kiến lập tràng trí huệ

Kiên cố chẳng động lay

Biết pháp không biến hoá

Mà hiện sự biến hoá

Mười phương vô lượng cõi

Tất cả chỗ chư Phật

Ðồng thời đều qua đến

Mà cũng chẳng phân thân

Ngài xem Thích Sư Tử

Sức thần thông tự tại

Hay khiến chúng Bồ Tát

Tất cả đều đến họp

Tất cả những Phật pháp

Pháp giới đều bình đẳng

Ngôn thuyết nên chẳng đồng

Chúng này đều thông đạt.

Chư Phật thường an trụ

Pháp giới bình đẳng tế

Diễn nói pháp sai biệt

Ngôn từ vô cùng tận.

Bấy giờ, Phổ Thắng vô Thượng Oai Ðức Vương Bồ Tát thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Ngài xem vô thượng Sĩ

Trí quảng đại viên mãn

Khéo đạt thời phi thời

Vì chúng diễn thuyết pháp.

Xô dẹp chúng ngoại đạo

Tất cả những dị luận

Khắp tùy tâm chúng sanh

Vì hiện thần thông lực

Chánh Giác chẳng hữu lượng

Cũng lại chẳng vô lượng

Hoặc lượng, hoặc vô lượng

Mâu Ni đều siêu việt.

Như mặt nhựt trên không

Soi đến tất cả xứ

Phật trí cũng như vậy

Rõ thấu tam thế pháp.

Ví như chính đêm rằm

Vầng trăng không thiếu khuyết

Như Lai cũng như vậy

Bạch pháp đều viên mãn.

Như mặt nhựt trên không

Vận hành không tạm ngừng

Như Lai cũng như vậy

Thần biến thường tương tục.

Như mười phương quốc độ

Hư không chẳng chướng ngại

Thế đăng hiện biến hóa

Nơi thế cũng như vậy

Ví như đất thế gian

Chỗ nương của muôn loại

Chiếu thế đăng pháp luân

Làm chỗ nương cũng vậy

Ví như gió lốc mạnh

Thổi đi không chướng ngại

Phật pháp cũng như vậy

Mau khắp ở thế gian.

Ví như đại thủy luân

Thế giới nương trên đó

Trí huệ luân cũng vậy

Chỗ nương của chư Phật.

Bấy giờ, Vô Ngại Thắng Tạng Vương Bồ Tát thừa thần lực của Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Ví như đại bửu sơn

Lợi ích các hàm thức

Phật sơn cũng như vậy

Lợi ích khắp thế gian.

Ví như, đại hải thủy

Ðứng sạch không nhơ bợn

Thấy Phật cũng như vậy

Trừ được những khát ái

Ví như, Tu Di sơn

Ở ngay giữa đại hải

Thế Gian Ðăng cũng vậy

Có từ nơi pháp hải.

Như biển đủ châu báu

Người cầu đều đầy đủ

Vô sư trí cũng vậy

Người thấy đều khai ngộ.

Như Lai trí thậm thâm

Vô lượng cũng vô số

Thế nên thần thông lực

Thị hiện khó nghĩ bàn

Ví như, nhà huyễn giỏi

Thị hiện những sự vật

Phật trí cũng như vậy

Hiện những tự tại lực.

Ví như, như ý bửu

Hay thỏa mãn ý muốn

Ðấng tối thắng cũng vậy

Làm mãn nguyện thanh tịnh

Ví như, minh tịnh bửu

Chiếu khắp tất cả vật

Phật trí cũng như vậy

Chiếu khắp tâm quần sanh.

Ví như, bát diện bửu

Soi khắp cả các phương

Vô Ngại Ðăng cũng vậy

Chiếu khắp cả pháp giới

Ví như, thủy thanh châu

Hay làm trong nước đục

Thấy Phật cũng như vậy

Sáu căn đều thanh tịnh.

Bấy giờ, Hóa Hiện Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương Bồ Tát thừa Phật thần lực quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Ví như đế thanh bửu

Hay làm xanh các màu

Người thấy Phật cũng vậy

Ðều phát hạnh Bồ đề.

Trong mỗi mỗi vi trần

Phật hiện thần thông lực

Khiến vô lượng vô biên

Bồ Tát đều thanh tịnh

Sức thậm thâm vi diệu

Vô biên chẳng thể biết

Cảnh giới của Bồ Tát

Thế gian chẳng lường được.

Ðức Như Lai hiện thân

Tướng thanh tịnh trang nghiêm

Vào khắp những pháp giới

Thành tựu các Bồ Tát

Nan tư Phật quốc độ

Trong đó thành Chánh giác

Tất cả chư Bồ Tát

Thế chủ đều đầy dẫy.

Ðấng Thích Ca vô thượng

Nơi pháp đều tự tại

Thị hiện thần thông lực

Vô biên chẳng lường được.

Bồ Tát những công hạnh

Vô lượng cùng vô tận.

Như Lai tự tại lực

Vì Bồ Tát mà hiện

Phật tử khéo tu học

Những pháp giới thậm thâm

Thành tựu trí vô ngại

Biết rõ tất cả pháp.

Thiện thệ oai thần lực

Vì chúng chuyển pháp luân

Thần biến khắp sung mãn

Khiến thế gian thanh tịnh.

Như Lai trí viên mãn

Cảnh giới cũng thanh tịnh

Ví như đại Long Vương

Giúp khắp các quần sanh.

Bấy giờ, Pháp Huệ Quang Diệm Vương Bồ Tát, thừa thần lực của Ðức Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Tam thế chư Như Lai

Thanh Văn đại đệ tử

Ðều chẳng biết được Phật

Sự cất chân hạ chân.

Quá khứ, hiện, vị lai

Tất cả hàng Duyên Giác

Cũng chẵng biết Như Lai

Sự cất chân hạ chân

Huống là các phàm phu

Kiết sử luôn buộc ràng

Vô minh che tâm thức

Mà biết được Ðạo Sư

Chánh Giác trí vô ngại

Siêu quá đường ngữ ngôn

Lượng kia chẳng lường được

Có ai thấy biết được.

Ví như minh nguyệt sáng

Không lường biên tế được

Phật thần thông cũng vậy

Chẳng thấy chung tận được,

Mỗi mỗi những phương tiện

Niệm niệm chỗ biến hoá

Ðều trong vô lượng kiếp

Tư duy chẳng biết được

Suy gẫm nhứt thiết trí

Pháp chẳng thể nghĩ bàn

Mỗi mỗi môn phương tiện

Chẳng biết được biên tế.

Nếu ai ở pháp này

Mà phát nguyện rộng lớn

Ở nơi cảnh giới này

Thấy biết chẳng khó lắm.

Dũng mãnh siêng tu tập

Biển pháp lớn khó nghĩ

Tâm đó không chướng ngại

Vào môn phương tiện này.

Tâm ý đã đều phục

Chí nguyện cũng rộng rãi

Sẽ được đại Bồ đề

Cảnh giới rất tối thắng.

Bấy giờ, phá Nhứt Thiết Ma Quân Trí Tràng Vương Bồ Tát thừa thần lực của đức Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Trí thân chẳng phải thân

Vô ngại khó nghĩ bàn,

Dầu có ai nghĩ bàn

Tất cả không đến được.

Từ bất tư nghì nghiệp

Khởi thân thanh tịnh này

Thù đặc diệu trang nghiêm

Chẳng chấp nơi ba cõi

Quang Minh chiếu tất cả

Pháp giới đều thanh tịnh

Nghe Phật Bồ đề môn

Xuất sanh những trí huệ.

Như mặt nhựt thế gian

Phóng ánh sáng trí huệ

Xa rời những trần cấu

Diệt trừ tất cả chướng.

Thanh tịnh khắp ba cõi

Tuyệt hẳn dòng sanh tử

Thành tựu đạo Bồ đề

Xuất sanh Vô Thượng Giác.

Thị hiện vô biên sắc

Sắc này không sở y

Sở hiện dầu vô lượng

Tất cả bất tư nghì.

Bồ đề khoảng một niệm

Hay giác ngộ các pháp

Sao lại muốn nghĩ lường

Như Lai trí biên tế.

Một niệm đều thấu rõ

Tất cả pháp tam thế

Nên nói Phật trí huệ

Vô tận cũng vô hoại.

Người trí phải như vậy

Chuyên gẫm Phật Bồ đề

Gẫm này khó nghĩ bàn

Suy đó chẳng thể được

Bồ đề không thể nói

Siêu quá đường ngữ ngôn

Chư Phật từ đây sanh

Pháp này khó nghĩ bàn.

Bấy giờ Nguyện Trí Quang Minh Tràng Vương Bồ Tát, thừa thần của đức Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Nếu khéo quán sát được

Bồ đề vô tận hải

Thời lìa được niệm si

Quyết định thọ trì pháp.

Nếu được tâm quyết định

Thời hay tu diệu hạnh

Thiền tịch tự tư lự

Dứt hẳn những nghi hoặc.

Tâm đó chẳng mỏi mệt

Lại cũng chẳng biến lười

Lần lượt tăng tấn tu

Rốt ráo những Phật pháp

Tín trí đã thành tựu

Niệm niệm khiến tăng trưởng

Thường thích thường quán sát

Pháp vô đắc vô y.

Vô lượng ức ngàn kiếp

Tu những công đức hạnh

Tất cả đều hồi hướng

Ðạo vô thượng của Phật.

Dầu ở nơi sanh tử

Mà tâm không nhiễm trước

An trụ trong Phật pháp

Thường thích Như Lai hạnh.

Những sự có thế gian

Những pháp uẩn, xứ giới

Tất cả đều bỏ lìa

Chuyên cầu Phật công đức.

Phàm phu bị mê lầm

Thường lưu chuyển thế gian

Bồ Tát tâm vô ngại

Cứu họ được giải thoát.

Bồ Tát hạnh khó nói

Thế gian chẳng suy được

Trừ khắp tất cả khổ

Khắp ban quần sanh vui.

Ðã được Bồ đề trí

Lại thương các chúng sanh

Quang Minh chiếu thế gian

Ðộ thoát tất cả chúng.

Bấy giờ, Phá Nhứt Thiết Chướng Dũng Mãnh Trí Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Vô lượng ức ngàn kiếp

Phật danh khó được nghe

Huống lại được thân cận

Dứt hẳn những nghi lầm

Như Lai thế Gian Ðăng

Thông đạt tất cả pháp

Khắp sanh phước tam thế

Khiến chúng đều thanh tịnh.

Như Lai diệu sắc thân

Tất cả chúng kính khen

Ức kiếp thường chiêm ngưỡng

Tâm họ không nhàm đủ.

Nếu có càc Phật tử

Quán Phật diệu sắc thân

Tất bỏ luyến thế gian

Hướng về Bồ đề đạo.

Như Lai diệu sắc thân

Hằng diễn quảng đại âm

Biện tài không chướng ngại

Khai Phật Bồ đề môn.

Hiểu ngộ các chúng sanh

Vô lượng chẳng nghĩ bàn

Khiến vào môn trí huệ

Ðược thọ ký Bồ đề.

Như Lai xuất thế gian

Làm phước điền thế gian

Dắt dẫn các hàm thức

Khiến họ tu phước hạnh.

Nếu có cúng dường Phật

Trừ hẳn sợ ác đạo

Diệt trừ tất cả khổ

Thành tựu thân trí hue.ä

Nếu thấy Lưỡng Túc Tôn

Hay phát tâm quảng đại

Người này hằng gặp Phật

Tăng trưởng sức trí huệ.

Nếu thấy Nhơn Trung Tôn

Quyết ý hướng Bồ đề

Người này tự biết được

Tất sẽ thành Chánh Giác.

Bấy giờ, Pháp giới Sai Biệt Nguyện Trí Thần Thông Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Thích Ca Vô Thượng Tôn

Ðủ tất cả công đức

Người thấy tâm thanh tịnh

Hồi hướng đại trí huệ

Như Lai đại từ bi

Xuất hiện ở thế gian

Khắp vì các quần sanh

Chuyển pháp luân vô thượng.

Như Lai vô số kiếp

Cần khổ vì chúng sanh

Thế nào các thế gian

Báo được ơn đức Phật

Thà trong vô lượng kiếp

Thọ những khổ ác đạo

Trọn chẳng bỏ Như Lai

Mà cầu nơi xuất ly.

Thà thay các chúng sanh

Chịu đủ tất cả khổ

Trọn chẳng bỏ Như Lai

Mà cầu được an lạc.

Thà tại các ác thú

Hằng được nghe Phật danh

Chẳng muốn sanh thiện đạo

Tạm thời chẳng nghe Phật.

Thà sanh các địa ngục

Mỗi mỗi vô số kiếp

Trọn chẳng xa rời Phật

Mà cầu thoát ác thú

Cớ sao nguyện ở lâu

Tất cả các ác đạo ?

Vì được thấy Như Lai

Trí huệ được trăng trưởng.

Nếu được thấy đức Phật

Diệt trừ tất cả khổ

Vào được cảnh đại trí

Của chư Phật Thế Tôn.

Nếu thấy được đức Phật

Bỏ rời tất cả chướng

Trưởng dưỡng phước vô tận

Thành tựu đạo Bồ đề.

Như Lai dứt hẳn được

Tất cả chúng sanh nghi

Tùy tâm họ sở thích

Ðiều khiến khắp đầy đủ.

 

 Bấy giờ đức Phổ Hiền Bồ Tát quán sát khắp tất cả chúng hội Bồ Tát, dùng phương tiện đồng pháp giới, phương tiện đồng hư không giới, phương tiện đồng chúng sanh giới, đồng tam thế, đồng tất cả kiếp, đồng tất cả chúng sanh nghiệp, đồng tất cả chúng sanh dục, đồng tất cả chúng sanh giải, đồng tất cả chúng sanh căn, đồng lúc tất cả chúng sanh thành thục, phương tiện đồng tất cả pháp quang ảnh, vì chư Bồ Tát, dùng mười thứ pháp cú, khai phát hiển thị, chiếu rõ diễn thuyết sư tử tần thân tâm muội này.

Ðây là mười :

Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong pháp giới tất cả Phật sát vi trần, chư Phật thứ đệ xuất thế, các cõi thứ đệ thành hoại.

Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật, tận vị lai kiếp âm thanh tán thán công đức của Như Lai.

Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật, Như Lai xuất thế vô lượng vô biên thành Chánh Giác môn.

Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật, đức Như Lai ngồi đạo tràng giữa chúng hội Bồ Tát.

Diễn thuyết pháp cú nơi tất cả lỗ lông niệm niệm xuất hiện đồng tam thế thân biện hóa của tất cả Chư Phật đầy khắp pháp giới.

Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho một thân đầy khắp mười phương sát hải bình đẳng hiển hiện.

Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho trong tất cả những cảnh giới hiện kháp tam thế Chư Phật thần biến.

Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho trong tất cả Phật sát vi trần hiện khắp tam thế tất cả Phật sát vi trần số Phật, những thần trải qua vô lượng kiếp.

Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho tất cả lỗ lông xuất sanh âm tahnh đại nguyện hải của tất cả tam thế Chư Phật, tận vị lai kiếp, khai phát hóa đạo tất cả Bồ Tát.

Diễn thuyết pháp cú có thẩ làm cho tòa sư tử củ Phật lượng đồng pháp giới, chúng hội Bồ Tát, đạo tràng trang nghiêm, tận vị lai kiếp chuyển những pháp luân vi diệu.

Chư Phật tử ! Mười Pháp cú này làm đầu, có bất khả thuyết Phật sát vi trần số pháp cú đều là cảnh giới trí huệ của đức Như Lai.

Lúc đó đức Phổ Hiền muốn tuyên lại nghĩa này, thừa Phật thần lực, quán sát đức Như Lai, quan sát chúng hội, quán sát cảnh giới khó nghĩ bàn của Phật, quán sát vô biên tam muội của Chư Phật, quán sát những thế giới hải bất tư nghì, quán sát pháp trí như huyễn bất tư nghì, quán sát tam thế Chư Phật bất tư nghì thảy đều bình đẳng, quán sát vô lượng vô biên tất cả những pháp ngôn từ, rồi nói kệ rằng :


Trong mỗi mỗi lỗ lông

Vi trần số sát hải

Ðều có đức Phật ngồi

Ðều đủ chúng Bồ Tát.

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Vô lượng những sát hải

Phật ngự tòa Bồ đề

Khắp pháp giới như vậy.

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Tất cả sát trần Phật

Chúng Bồ Tát vây quanh

Phật nói hạnh Phổ Hiền.

Phật ngồi một cõi nước

Ðầy khắp mười phương cõi

Vô lượng chúng Bồ Tát

Ðều vân tập chỗ Phật.

Ức cõi vi trần số

Bồ Tát công đức hải

Ðều từ trong hội khởi

Ðầy khắp mười phương cõi.

Ðều trụ hạnh Phổ Hiền

Ðều đi biển pháp giới

Hiện khắp tất cả cõi

Ðồng nhập hội chư Phật.

Ngồi an tất cả cõi

Lắng nghe tất cả pháp

Trong mỗi mỗi quốc độ

Ức kiếp tu các hạnh.

Bồ Tát chỗ tu hành

Khắp rõ pháp đại hải hạnh

Vào nơi đại nguyện hải

Trụ cảnh giới của Phật.

Thấu rõ hạnh Phổ Hiền

Xuất sanh các Phật pháp

Ðủ Phật công hải

Rộng hiện sự thần thông.

Thân vân khắp trần số

Ðầy khắp tất cả cõi

Khắp mưa pháp cam lộ

Cho chúng trụ Phật đạo.


Kinh:

Lúc đó chư thượng thủ Đại Thanh Văn như ngài Xá Lợi Phát, Đại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp v.v… chư Đại Thanh Văn này ở tại rừng Thệ Đa mà đều chẳng thấy thần lực của Như Lai.

Giảng:

Tất cả sự biến hiện đó, cùng chư Đại Bồ Tát vân tập đến mà các vị Thanh Văn, A La Hán là những hàng đệ tử cao của Phật không nhìn thấy gì cả.

Kinh:

Chẳng thấy sự nghiêm hảo của Như Lai. Chẳng thấy cảnh giới của Như Lai. Chẳng thấy sự du hí của Như Lai…

Giảng:

Du hí tức là thần thông du hí, tại sao lại gọi là thần thông du hí? Tức là độ sanh mà vẫn tiêu dao, không chấp chước, chữ “du hí” không có nghĩa là giỡn chơi đâu, mà nghĩa của nó là các vị Đại Bồ Tát làm Phật sự một cách dễ dàng, không chấp, không khởi một tâm thiên lệch nào cả…

Kinh:

Chẳng thấy sự tôn thắng của Như Lai, chẳng thấy diệu hạnh và oai đức của Như Lai… Chư Đại Thanh Văn chẳng thấy được thần lực của chư Phật, cũng chẳng thấy được thân những Bồ Tát. Tại sao vậy? Vì thiện căn chẳng đồng…

Giảng:

Thiện căn tức là tu phước, huệ không đồng, vì sao? Vì các vị Thanh Văn chưa có tâm Đại Bi bình đẳng, thứ nữa, các ngài không có tâm Bát Nhã sâu xa, nên nhãn lực các ngài còn rất hạn hẹp, không có thiên nhãn tuyệt vời như chư Đại Bồ Tát và Phật được…



Kinh:

Vì vốn không tu tập thiện căn thấy Phật tự tại. Vì vốn chẳng khen nói công đức thanh tịnh của tất cả Phật độ  mười phương. Vì vốn chẳng ca ngợi thần biến của chư Phật Thế Tôn…

Giảng:

Phàm phu chúng ta tuy rằng không có định và huệ gì, nhưng chúng ta có được lòng tin và đôi lúc cũng nói sự tán thán.

Kinh:

Vì vốn chẳng ở trong sanh tử phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, vì vốn chẳng làm cho kẻ khác phát tâm Bồ Đề, vì vốn chẳng có thể làm cho chủng tánh Như Lai không đoạn tuyệt, vì vốn chẳng biết tất cả pháp như huyễn, chư Bồ Tát như mộng…, vì cớ này nên chư Đại Thanh Văn không thấy được, chẳng chứng được, chẳng niệm được, chẳng quán sát được, chẳng tính lượng được, chẳng tư duy được, chẳng phân biệt được. Thế nên dầu cũng ở trong rừng Thệ Đa mà chẳng thấy được những đại thần biến của Như Lai.

Giảng:

Vì thân các vị Bồ Tát quá vi diệu, trụ xứ của các ngài quá sâu, diệu sắc thân của các ngài dệt bằng những hào quang vi tế quá, mà các hàng Thanh Văn chưa đủ nhãn lực để nhìn thấy. Tất cả vi diệu của đạo Phật là ở chỗ đó, mở nhãn lực ra, đó là tâm nhãn, trong kinh có rất nhiều thí dụ để giảng về việc này, tôi xin đọc đại lược một số…

Kinh:

Ví như có ngươi ở giữa đại hội ngủ say, chiêm bao thấy trên đảnh núi Tu Di thiên đế ngự nơi thành thiện kiến, cung điện vườn cây các thứ nghiêm tốt, ngàn muôn ức thiên tử, thiên nữ, thiên hoa rải khắp mọi nơi. Những y thọ sanh ra y phục đẹp. Nhưng hoa thọ đơm nở hoa đẹp. Những âm nhạc thọ trỗi thiên âm nhạc. Những thiên thể nữ ca ngâm tiếng nói. Vô lượng chư thiên  trong đó vui chơi. Người nằm mộng này tự thấy mặc thiên y đi dạo khắp thiên cung… ở trong đại hội tất cả mọi người dầu đổng ở một chỗ mà chẳng thấy, chẳng biết cảnh giới thiên cung như vậy…

Giảng:

Ở đấy, tôi xin nhắc lại chữ “thọ,” như là những y thọ, những hoa thọ, những âm nhạc thọ v.v… đó chính là những loại cây trên trời, mọc ra những cái áo gọi là y thọ, phát ra những thứ âm nhạc gọi là âm nhạc thọ v.v… chứ chữ thọ đây không phải để chỉ cho thọ ấm đâu. Trong khi người nằm mộng nhìn thấy tất cả những cảnh giới đó, thì những người ở chung quanh không ai nhìn thấy cả, vì thiện căn không đồng. Cũng vậy, tuy các vị Thanh Văn cũng có mặt trong rừng Thệ Đa, nhưng thiện căn của các ngài không đồng nên chẳng nhìn thấy gì cả…

Kinh:

Ví như núi tuyết có đủ các dược thảo, lương y đến đó đều có thể phân biệt hết, còn những thợ săn, những người chăn súc vật thường ở trên đó mà chẳng thấy biết được thuốc hay.

Giảng:

Cũng như ví dụ trên, đức Phật lại cho một tỷ dụ khác về dược thảo, chỉ có lương y mới nhận rõ từng loại thuốc mà thôi, còn người thường thì chẳng biết gì hết. Hoặc người không có phước, nhiều khi nhìn thấy một cây rất quí, nhưng cũng chẳng biết gì hơn.

Kinh:

Đây cũng như vậy, chư Đại Đệ Tử Thanh Văn, dầu ở trong rừng Thệ Đa, thân cận đức Thế Tôn mà chẳng thây thần lực tự tại của Như Lai, vì không có tịnh nhãn vô ngại của Đại Bồ Tát nên chẳng có thể thứ đệ ngộ nhập pháp giới…

Giảng:

Vì không có tịnh nhãn nên chẳng thể nhìn được hết thứ tự lớp lang của pháp giới này. Tùy theo tịnh nhãn của mình càng rộng bao nhiêu thì ta càng nhập pháp giới nhiều bấy nhiêu. Phàm phu chúng ta chỉ nhìn thấy được một khúc rất hạn hẹp, thấy được cây cối, nhà cửa, vợ con, của cải v.v… vì tâm chúng ta chỉ mở được đến đó mà thôi, không thể nhìn thấy sâu, rộng hơn được. Còn chư Đại Bồ Tát lại khác, các ngài nhìn thấy được tất cả từ thai sanh, noãn sanh, hóa sanh, ma quỉ, chư thiên v.v…

Kinh:

Ví như Tỳ Kheo ở giữa đại chúng nhập biến xứ định, như là địa biến xứ định, thủy biến xứ định, hỏa biến xứ định, phong biến xứ định, thanh biến xứ định, huỳnh biến xứ định, xích biến xứ định (tức là tùy theo tâm mà có thể nhìn thấy được các màu khác nhau). Người nhập định này thấy những cảnh đó nhưng người khác không thấy được chỉ trừ người trụ trong chánh định này…

Giảng:

Xin nói đến thái độ của các vị Thanh Văn không nhìn thấy gì cả, các ngài ngồi như đui, như điếc vậy thôi. Sau đó, trong pháp hội, các vị Đại Bồ Tát đứng lên, người nào cũng nói kệ, mỗi vị đại diện cho một số Đại Bồ Tát nói kệ tán thán đức Phật, rồi sau mới vào ngồi trong pháp hội. Sau cùng, ngài Phổ Hiền mới đứng lên, ngài giảng giải qua về những tam muội của đức Phật, tu pháp môn gì thì được tam muội này. Trong khi đức Phật nhập tam muội để dắt những vị thính chúng (Bồ Tát) cùng vào tam muội đó, cũng như sau này, quí vị thấy rằng Thiện Tài đi gặp một vị thiện tri thức là ngài Tỳ Mục Cù Sa cũng đưa Thiện Tài vào tam muội của ngài vậy.


Bấy giờ đức Thế tôn, vì muốn cho chư Bồ Tát an trụ trong Như Lai sư tử tần thân quảng đại tam muội, nên từ tướng bạch hào giữa chặng mày, phóng ra quang minh lớn gọi là phổ chiếu tam thế pháp giới môn, dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh mà làm quyến thuộc, chiếu khắp chư Phật quốc độ trong tất cả thế giới hải ở mười phương.

Lúc đó tại rừng Thệ Ða, Bồ Tát đại chúng đều thấy tất cả cõi Phật khắp pháp giới hư không giới. Trong mỗi mỗi vi trần đều tất cả Phật sát vi trần số Phật độ những danh, những sắc, những thanh tịnh, những trụ xứ, nhưng hình tướng.

Trong tất cả Phật độ như vậy đều có đại Bồ Tát ngồi đạo tràng trên tòa sư tử thành Ðẳng Chánh Giác. Ðại chúng Bồ Tát trước sau vây quanh. Các Thế Gian Chủ thời cúng dường.

Hoặc thấy ở trong bất khả thuyết Phật sát chúng hôi phát ra âm thanh vi diệu đầy khắp pháp giới chuyển chánh pháp luân.

Hoặc thấy tại Thiên cung điện, Long cung điện, dạ xoa cung điện, trong những cung điện của Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn Phi Nhơn v.v…

Hoặc thấy tại nhơn gian : Thôn ấp, tụ lạc, vương đô, đại xứ mà hiện những họ, những tên, những thân, những tướng, những quang minh. Trụ những oai nghi, nhập những tam muội, hiện những biến. Hoặc có lúc tự dùng những ngôn âm, hoặc làm cho những Bồ Tát ở trong những đại hội, dùng những ngôn từ thuyết những chánh pháp.

Trong hội này, đại chúng Bồ Tát thấy thậm thâm tam muội đại thần thôn lực, của chư Phật Như Lai như vậy.

Khắp pháp giới hư không giới, trong tất cả mười phương, nương nơi tâm tưởng của chúng sanh mà an trụ. Bắt đầu từ tiền tế nhẫn đến hiện tại nay, tất cả quốc độ thân, tất cả chúng sanh thân, tất cả hư không đạo, trong đó, nơi chỗ bằng đầu lông, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi, do những nghiệp mà có ra, thứ đệ an trụ. Cũng đều có đạo tràng. Bồ Tát chúng hội như vậy mà thấy thần lực của Phật, chẳng hoại tam thế, chẳng hoại thế gian, ở trong tâm của tất cả chúng sanh mà hiện hình tượng. Tùy theo tâm sở thích của tất cả chúng sanh mà phát ra ngôn âm vi diệu vào khắp trong tất cả chúng hội, hiện khắp trước tất cả chúng sanh. Sắc tướng có khác mà trí huệ không khác. Tùy sở nghi mà khai thị Phật pháp, giáo hoá điều phục tất cả chúng sanh chưa lúc nào nghĩ.

Những ai thấy được thần lực này, thời đều do sự nhiếp thọ của thiện căn thuở quá khứ của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Hoặc thuở xưa từng dùng pháp Tứ Nhiếp để nhiếp. Hoặc là thấy nghe, nhớ nghĩ, thân cận mà được thành thục. Hoặc là ngày trước dạy cho phát tâm Vô thượng Bồ đề. Hoặc thuở xưa ở chỗ chư Phật đồng gieo căn lành. Hoặc là quá khứ dùng Nhứt Thiết trí thiện xảo phương tiện giáo hoá thành thục. Thế nên đều nhập nơi bất tư nghì thậm thân tam muội đại thần lực khắp pháp giới hư không của Như Lai. Hoặc nhập pháp thân hoặc sắc thân, hoặc nhập hạnh đã thành tựu thuở xưa. Hoặc nhập viên mãn các môn Ba la mật, hoặc nhập hạnh luân trang nghiêm thanh tịnh, hoặc nhập các bực Bồ Tát, hoặc nhập sức thành Chánh giác. Hoặc nhập tam muội vô sai biệt đại thần biến của Ðức Phật an trụ. Hoặc nhập trí lực, trí vô úy của Như Lai. Hoặc nhập biển vô ngại biện tài của Chư Phật.

Chư Bồ Tát đó dùng những giải, những đạo, những môn, những nhập, những lý thú, những tùy thuận, những trí huệ, những trợ đạo, những phương tiện, những tam muội mà nhập mười bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật thần biến hải phương tiện môn như vậy.

Thế nào là những tam muội ?

Những là : Phổ trang nghiêm pháp giới tam muội, phổ chiếu nhứt thiết tam thế vô ngại cảnh giới tam muội, pháp giới vô sai biệt trí quang minh tam muội, nhập Như Lai cảnh giới bất động chuyển tam muội, phổ chiếu vô biên hư không tam muội, nhập Như Lai lực tam muội, Phật vô úy dũng mãnh phấn tấn trang nghiêm tam muội, nhứt thiết pháp giới triền chuyển tạng tam muội, như nguyệt phổ hiện nhứt thiết pháp giới dĩ vô ngại âm đại khai diễn tam muội, phổ thanh tịnh pháp quang minh tam muội, vô ngại tắng Pháp Vương tràng tam muội, nhứt nhứt cảnh giới trung tất kiến nhứt thiết Chư Phật hải tam muội, ư nhứt thiết thế gian tất hiện thân tam muội, nhập Như Lai vô sai biệt thân cảnh giới tam muội, tùy nhứt thiết thế gian chuyển đại bi tạng tam muội, tri nhứt thiết pháp vô hữu tích tam muội, tri nhứt thiết pháp cứu cánh tịch diệt tam muội, tuy vô sở đắc nhi năng biến hóa phổ hiện thế gian tam muội, phổ nhập nhứt thiết sát tam muội trang nghiêm nhứt thiết Phật sát thành chánh giác tam muội, quán nhứt thiết thế gian chủ sắc tướng sai biệt tam muội, quán nhứt thiết chúng sanh cảnh giới vô chướng ngại tam muội, năng xuất sanh nhứt thiết Như Lai mẫu tam muội, năng tu hành nhập nhứt thiết Phật hải công đức đạo tam muội, nhứt nhứt cảnh giới trung xuất hiện thần biến tận vị lai tế tam muội, nhập nhứt thiết Như Lai bổn sự hải tam muội, tận vị lai tế hộ trì nhứt thiết Như Lai chủng tánh tam muội, dĩ quyết định giải lực linh hiện tại thập phương nhứt thiết Phật sát hải giai thanh tịnh tam muội, nhứt niệm trung phổ chiếu nhứt thiết Phật sở trụ tam muội, nhập nhứt thiết cảnh giới vô ngại tế tam muội, linh nhứt thiết thế giới vi nhứt Phật sát tam muội, xuất nhứt thiết Phật biến hóa thân tam muội, dĩ Kim Cang vương trí tri nhứt thiết chư căn hải tam muội, tri nhứt thiết Như Lai đồng nhứt thân tam muội, tri nhứt thiết pháp giới sở an lập tất trụ tâm niệm tế tam muội, ư nhứt thiết pháp giới quảng đại quốc độ trung thị hiện Niết bàn tam muội, linh trụ tối thượng xứ tam muội, ư nhứt thiết Phật sát hiên chủng chủng chúng sanh sai biệt thân tam muội, phổ nhập nhứt thiết Phật trí huệ tam muội, tri nhứt thiết pháp tánh tướng tam muội, nhứt niệm phổ tri tam thế pháp tam muội, niệm niệm trung phổ hiện pháp giới thân tam muội, dĩ sư tử dũng mãnh trí tri nhứt thiết Như Lai xuất hưng thứ đệ tam muội, ư nhứt thiết pháp giới cảnh giới huệ nhản viên mãn tam muội, dũng mãnh xu hướng thập lực tam muội, phóng nhứt thiết công đức viên mãn quang minh phổ chiếu thế gian tam muội, bất động tạng tam muội, thuyết nhứt pháp phổ nhập nhất thiết pháp tam muội, ư nhứt pháp dĩ nhứt thiết ngôn âm sai biệt huấn thích tam muội, diễn thuyết nhứt thiết Phật vô nhị pháp tam muội, tri tam thế vô ngại tế tam muội, tri nhứt thiết kiếp vô sai biệt tam muội, nhập thập lực vi tế phương tiện tam muội, ư nhứt thiết kiếp thành tựu nhứt thiết Bồ Tát hạnh bất đoạn tuyệt tam muội, thập phương phổ hiện thân tam muội, ư pháp giới tự tại thành chánh giác tam muội, sanh nhứt thiết an ổn thọ tam muội, xuất nhứt thiết trang nghiêm cụ trang nghiêm hư không giới tam muội, niệm niệm trung xuất đẳng chúng sanh số biến hóa thân vân tam muội, Như Lai tịnh không nguyệt quang minh tam muội, thường kiến nhứt thiết Như Lai trụ hư không tam muội, khai thị nhứt thiết Phật trang nghiêm tam muội, chiếu minh nhứt thiết pháp nghĩa đăng tam muội, chiếu thập lực cảnh giới tam muội, tam thế nhứt thiết Phật tràng tướng tam muộ, nhứt thiết Phật nhứt mật tạng tam muội, niệm niệm trung sở tác giai cứu cánh tam muội, vô tận phước đức tạng tam muội, kiến vô biên Phật cảnh giới tam muội, kiên trụ nhứt thiết pháp tam muội, hiện nhứt thiết Như Lai biến hóa tất linh tri kiến tam muội, niệm niệm trung Phật nhựt thường xuất hiện tam muội, nhứt nhựt trung tất tri tam thế sở hữu pháp tam muội, phổ âm diễn thuyết nhứt thiết pháp tánh tịch diệt tam muội, kiến nhứt thiết Phật tự tại lực tam muội, pháp giới khai phu liên hoa tam muội, quán chư pháp như hư không vô trụ xứ tam muội, thập phương hải phổ nhập nhứt phương tam muội, nhập nhứt thiết pháp giới vô nguyên để tam muội, dĩ tịch tịnh thân phóng nhứt thiết quang minh tam muội, nhứt niệm trung hiện nhất thiết thần thông đại nguyện tam muội, nhất thiết thời nhất thiết xứ thành chánh giác tam muội, dĩ nhất trang nghiêm nhập nhất thiết pháp giới tam muội, phổ hiện nhất thiết chư Phật thân tam muội, tri nhất thiết chúng sanh quảng đại thù thắng thần thông trí tam muội, nhứt niệm trung kỳ thân biến pháp giới tam muội, hiện nhất thừa tịnh pháp giới tam muội, nhập phổ môn pháp giới thị hiện đại trang nghiêm tam muội, trụ trì nhứt thiết Phật pháp luân tam muội, dĩ nhứt thiết pháp môn trang nghiêm nhứt pháp môn tam muội, dĩ nhơn đà la võng nguyện hạnh nhiếp nhất thiết chúng sanh giới tam muội, phân biệt nhất thiết thế giới môn tam muội, thừa liên hoa tự tại du bộ tam muội, tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng sai biệt thần thông trí tam muội, linh kỳ thân hằng hiện nhất thiết chúng sanh tiền tam muội, tri nhất thiết chúng sanh sai biệt âm thanh ngôn từ hải tam muội, tri nhất thiết chúng sanh sai biệt trí thần thông tam muội, đại bi bình đẳng tạng tam muội, nhứt thiết Phật nhập Như Lai tế tam muội, quán sát nhất thiết Như Lai giải thoát xứ sư tử tần thân tam muội.

Bồ tát dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số tam muội như vậy mà nhập Tỳ Lô Giá Na Như Lai niệm niệm sung mãn nhất thiết pháp giới tam muội thần biến hải.

Chư Bồ Tát đó thảy đều đầy đủ đại trí thần thông minh lợi tự tại, trụ ở trí địa, dù những trí quảng đại quán sát khắp tất cả từ những trí huệ chủng tánh mà sanh, nhứt thiết chủng trí thường hiện ở trứơc, được trí nhãn thanh tịnh rời si lòa, vì các chúng sanh làm Ðiều Ngự Sư, trụ Phật bình đẳng, nơi tất cả pháp không có phân biệt, thấu rõ cảnh giới, biết các thế gian tánh đều tịch diệt không có chỗ y tựa. Ðến khắp cõi nước của tất cả chư Phật mà không chấp trước. Ðều có thể quan sát tất cả các pháp mà chẳng trụ. Vào khắp tất cả diệu pháp cung điện mà không chỗ đến. Giáo hóa điều tất cả thế gian khắp vì tất cả chúng sanh mà hiện nơi an ổn. Trí huệ giải thoát là chỗ đi của các Ngài. Hằng dùng trí thân ở nơi ly tham, siêu việt biển hữu lậu mà hiển bày chơn thiệt tế. Trí quang viên mãn thấy khắp các pháp. Trụ nơi tam muội kiên cố bất động. Với các chúng sanh hằng khởi đại bi. Biết các pháp môn thảy đều như huyễn, tất cả chúng sanh thảy như mộng, tất cả Như Lai thảy đều như bóng, tất cả ngôn âm thảy đều như vang, tất cả pháp thảy đều như hóa, có thể khéo chứa nhóm hạnh nguyện thù thắng. Trí huệ viên mãn thanh tịnh thiện xảo tâm rất tịch tịnh. Khéo nhập tất cả cảnh giới tổng trì. Ðủ sức tam muội dũng mãnh không kiếp. Ðược trí nhãn sáng suốt trụ pháp giới tế. Ðến chỗ vô sở đắc của tất cả pháp. Tu tập trí huệ đải hải không bờ. Ðến Trí Ba la mật rốt ráo bỉ ngạn. Ðược Bát Nhã Ba la mật nhiếp trì. Dùng Thần thông Ba la mật vào khắp thế gian. Nuơng Tam muội Ba la mật được tâm tự tại. Dùng trí chẳng điên đảo biết tất cả nghĩa. Dùng trí xảo phân biệt khai thị pháp tạng. Dùng trí hiển hiện biết rõ để giải thích văn từ. Dùng nguyện lực lớn thuyết pháp vô tận. Dùng vô sở uý để đại sư tử hống. Thường thích quán sát pháp không chỗ nương. Dùng tịnh pháp nhãn quán sát khắp tất cả. Dùng tịnh trí nguyệt chiếu thế gian thành hoại. Dùng trí huệ quang chiếu chơn thiệt đế. Phước đức trí huệ như núi kim cang, tất cả ví dụ không thể đến được. Khéo quán sát các pháp huệ căn tăng trưởng. Dũng mạnh tinh tấn xô dẹp chúng ma. Vô lượng trí huệ oai quang xí thạnh. Thân của các ngài siêu xuất tất cả thế gian. Ðược trí huệ vô ngại đối tất cả pháp. Khéo hay tỏ ngộ ngằn mé tận vô tận. Trụ ở ngằn mé phổ biến nhập vào ngằn mé chơn thiệt. Quán trí vô tướng thường hiện ra trước. Thiện xảo thành tựu các hạnh Bồ Tát. Dùng trí vô nhị biết các cảnh giới. Thấy khắp tất cả những loài ở thế gian. Trụ khắp tất cả quốc độ của chư Phật. Trí đăng viên mãn, với tất cả pháp không chướng ngại. Phóng tịnh pháp quang chiếu mười phương cõi. là phước điền chơn thiệt của thế gian. Hoặc thấy hoặc nghe sở nguyện đều viên mãn. Phước đức cao lớn vượt hơn các thế gian. Dũng mãnh vô uý dẹp các ngoại đạo. Diễn thuyết pháp âm khắp tất cả cõi. Thấy khắp chư khắp chư Phật không có lòng nhàm đủ. Nơi pháp thân của Phật đã được tự tại. Tùy cơ nghi hóa độ mà vì họ hiện thân. Một thân đầy khắp tất cả cõi Phật. Ðã được thần thông thanh tịnh tư tại. Ngồi thuyền đại trí đến lui vô ngại. Trí huệ viên mãn khắp cùng pháp giới, như mặt nhựt mọc lên chiếu khắp thế gian. Tùy tâm của chúng sanh mà hiện sắc tượng. Biết rõ căn tánh dục lạc của tất cả chúng sanh. Nhập vào cảnh giới vô tránh của tất cả pháp. Biết pháp tánh không sanh không khởi. Có thể làm pháp lớn pháp nhỏ nhập vào nhau tự tại. Quyết rõ lý thú thậm thâm của Phật địa. Dùng vô tận cú nói nghĩa thậm thâm. Ở trong một câu diễn thuyết tất cả biển tu đa la. Ðược thân trí huệ đà la ni. Phàm những pháp đã thọ trì thời vĩnh viễn không quên mất. Một niệm có thể nhớ những sự việc trong vô lượng kiếp. Trong một niệm biết rõ trí của tất cả tam thế chúng sanh. Hằng dùng tất cả môn đà la ni diễn thuyết vô biên pháp hải của chư Phật. Thường chuyển pháp luân thanh tịnh bất thối, làm cho các chúng sanh đều sanh trí huệ. Ðược Phật cảnh giới trí huệ quang minh. Nhập vào nơi thiện kiến thậm thâm tam muội. Nhập vào ngằn mé vô chướng của tất cả pháp. Với tất cả pháp được thắng trí tự tại. Tất cả cảnh giới đều thanh tịnh trang nghiêm. Vào khắp tất cả pháp giới mười phương. Tùy xứ sở kia đều đến tất cả. Trong mỗi mỗi vi trần hiện thành Chánh Giác. Nơi tánh vô sắc hiện tất cả sắc. Ðem tất cả phương vào khắp một phương.

Chư Bồ Tát này đủ vô biên tạng phước đức trí huệ như vậy. Thường được chư Phật khen ngợi. Bao nhiêu ngôn từ nói công đức của các Ngài cũng không hết được. Tất cả chư Bồ Tát này đều ở trong Thệ Ða. Sâu vào biển công đức lớn của Như Lai. Ðều thấy quang minh chiếu sáng của đức Phật.

Lúc đó chư Bồ Tát được bất tư nghì chánh pháp quang minh, lòng trất hoan hỷ.

Ðều ở trên thân mình, cùng lâu các và những đồ trang nghiêm với toà sư tử đương ngồi, trong tất cả vật khắp rừng Thệ Ða, hóa hiện các thứ mây đại trang nghiêm, đầy khắp tất cả thập phương pháp giới.

Ở trong mỗi niệm phóng ra mây đại quang minh đầy khắp mười phương, đều có thể khai ngộ tất cả chúng sanh. Hiện ra mây ma ni bửu linh đầy khắp mười phương, phát âm thanh vi diệu ca tụng khen ngợi tất cả công đức của tam thế chư Phật. Hiện ra tất cả mây âm nhạc đầy khắp mười phương. Trong âm nhạc diễn nói những nghiệp quả báo của tất cả chúng sanh. Hiện ra mây những nguyện hạnh sắc tướng của tất cả Bồ Tát đầy khắp mười phương, diễn nói đại nguyện của chư Bồ Tát. Hiện ra mây tự tại biến hoá của tất cả Như Lai, đầy khắp mười phương, diễn nói ngôn ngữ âm thanh của tất cả chư Phật Như Lai. Hiện ra mây thân tướng hảo trang nghiêm của tất cả Bồ Tát, đầy khắp mười phương, nói chư Như Lai thứ đệ xuất thế nơi tất cả quốc độ. Hiện ra mây đạo tràng của tam thế Như Lai đầy khắp mười phương, hiển bày công đức trang nghiêm của tất cả Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác. Hiện ra mây tất cả Long Vương đầy khắp mười phương, mưa tất cả thứ hương thơm. Hiện ra mây thân của tất cả Thế Chủ đầy khắp mười phương, diễn thuyết hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát. Hiện ra mây Phật độ thanh tịnh tất cả bửu trang nghiêm đầy khắp mười phương, hiển bày tất cả Như Lai chuyển chánh pháp luân.

Chư Bồ Tát này vì được bất tư nghì pháp quang minh, nên theo pháp phải hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số mây đại thần biến trang nghiêm như vậy.

Lúc đó, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thừa thần lực của đức Phật, muốn tuyên lại những sự thần biến trong rừng Thệ Ða, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Các Ngài nên xem rừng Thệ Ða

Phật oai thần nên rộng vô biên

Tất cả trang nghiêm đều hiện bày

Thập phương thế giới đều đầy khắp.

Tất cả cõi nước ở mười phương

Vô biên phẩm loại đại trang nghiêm

Ở trong những bửu tòa các cảnh

Hiển hiện rõ ràng những sắc tượng.

Lỗ lông của Phật tử hiện ra.

Những mây trang nghiêm báu đẹp sáng

Và phát tiếng vi diệu Như Lai

Khắp cùng mười phương tất cả cõi.

Trong cây bông báu hiện diệu thân

Thân ấy sắc tướng đồng Phạm Vương

Từ thiền định dậy mà bước đi

Oai nghi đến lui hằng tịch tịnh.

Trong mỗi lỗ lông của Như Lai

Thường hiện nan tư thân biến hóa

Ðều như Phổ Hiền đại Bồ Tát

Những tướng đại nhơn để nghiêm hảo

Cõi không gian trên rừng Thệ Ða

Những đồ trang nghiêm phát tiếng diệu

Nói khắp tam thế chư Bồ Tát

Thành tựu tất cả biển công đức.

Những cây báu trong rừng Thệ Ða

Cũng phát vô lượng âm thanh diệu

Diễn nói tất cả các quần sanh

Những loại nghiệp hải đều sai khác.

Bao nhiêu cảnh giới ở trong rừng

Ðều hiện tam thế Phật Như Lai

Mỗi Phật đều hiện đại thần thông

Mười phương sát hải vi trần số.

Bao nhiêu những quốc độ mười phương

Tất cả sát hải vi trần số

Ðều nhập trong lỗ lông Như Lai

Thứ đệ trang nghiêm đều hiện thấy.

Bao nhiêu trang nghiêm đều hiện Phật.

Bằng số chúng sanh khắp thế gian

Mỗi mỗi đều phóng đại quang minh

Thảy đều tùy nghi độ muôn loại.

Những hoa thơm sáng và tạng báu

Tất cả những mây đẹp trang nghiêm

Ðều rộng lớn lượng đồng hư không

Ðầy khắp mười phương các quốc độ,

Mười phương tam thế tất cả Phật

Bao nhiêu trang nghiêm diệu đạo tràng

Ở trong cảnh giới viên lâm này

Mỗi mỗi sắc tượng đều hiện rõ.

Tất cả Phổ Hiền các Phật tử

Trăm ngàn kiếp hải cõi trang nghiêm

Số vô lượng bằng số chúng sanh

Tất cả hiện đủ trong rừng này.

Bấy giờ, chư Bồ Tát này được tam muội quang minh của Phật chiếu đến nên liền được nhập tam muội ấy. Mỗi Bồ Tát đều được bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn đại bi, lợi ích an lạc tất cả chúng sanh. Ở trên thân của chư Bồ Tát, mỗi lỗ lông đều phóng ra bất khả thuyết vi trần số quang minh.

Trong mỗi quang minh đều hóa hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát, thân tướng như các Thế Chủ, hiện khắp trước tất cả chúng sanh, bao vòng khắp cùng mười phương pháp giới, dùng những phương tiện để giáo hóa điều phục.

Hoặc hiện ra môn vô thường của bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Thiên cung điện.

Hoặc hiện ra môn thọ sanh của bất khả thuyết Phật sát vi trần số tất cả chúng sanh.

Hoặc hiện ra môn tu hành của bất khả thuyết Phật sát vi trần số tất cả Bồ Tát.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn mộng cảnh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn đại nguyện của Bồ Tát.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn chấn động thế giới.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn phân biệt thế giới.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn hiện sanh thế giới.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Ðàn Ba la mật.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Thi Ba la mật của tất cả Như Lai tu những công đức, những khổ hạnh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Sằn Ðề Ba la mật cắt đứt chi thể.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số Tỳ Lê Gia Ba la mật siêng tu.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn thiền định giải thoát của tất cả Bồ Tát tu những tam muội.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn trí quang minh viên mãn Phật đạo.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn xả bỏ vô số thân mạng để cầu một văn một câu Phật pháp.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn gần gũi tất cả Phật, han hỏi tất cả pháp không có lòng nhàm mỏi.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn tùy theo thời tiết dục lạc của tất cả chúng sanh, đến chỗ của họ để phương tiện thành thục làm cho họ trụ nơi nhứt thiết trí hải quang minh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn hàng phục chúng ma, chế ngự các ngoại đạo, hiển bày sức phước trí của Bồ Tát.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tất cả công xảo.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tất cả chúng sanh sai biệt.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tất cả pháp sai biệt.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tâm sở thích sai biệt của tất cả chúng sanh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết căn hành phiền não tập khí của tất cả chúng sanh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết những nghiệp của tất cả chúng sanh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn khai ngộ tất cả chúng sanh.

Dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn phương tiện như vậy, đến chỗ ở của tất cả chúng sanh mà thành thục họ.

Như là : hoặc đến Thiên cung, hoặc đến Long cung, hoặc đến cung của Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già. Hoặc đến cung của Phạm Vương. Hoặc đến cung của Nhơn Vương. Hoặc đến cung của Diêm La Vương. Hoặc đến chỗ ở của súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Dùng đại bi bình đẳng, đại nguyện bình đẳng, trí huệ bình đẳng, phương tiện bình đẳng để nhiếp thọ các chúng sanh.

Hoặc có người thấy xong mà điều phục. Hoặc có người nghe xong mà điều phục. Hoặc có người ghi nhớ mà điều phục. Hoặc có người nghe âm thanh mà điều phục. Hoặc có người nghe danh hiệu mà điều phục. Hoặc thấy viên quang mà điều phục. Hoặc thấy quang võng mà điều phục.

Tùy tâm sở thích của các chúng sanh đều đến chỗ ở của họ mà làm cho họ được lợi ích.

Chư Phật tử ! Nơi rừng Thệ Ða, chư Bồ Tát vì muốn thành thục các chúng sanh nên hoặc có lúc hiện ở trong những cung điện nghiêm sức.

Hoặc có lúc thị hiện ở lâu các bửu tòa sư tử của mình, chúng hội đạo tràng cùng khắp mười phương đều làm cho được thấy. Nhưng vẫn chẳng rời khỏi rừng Thệ Ða, chỗ của đức Như Lai đây.

Chư Phật tử ! những Bồ Tát này, hoặc có lúc thị hiện vô lượng hóa thân.

Hoặc hiện thân mình riêng một không bạn. Như là hiện thân Sa Môn. Hoặc hiện thân Bà La Môn. Hoặc hiện thân khổ hạnh. Hoặc hiện thâ mập mạnh. Hoặc hiện thân y vương. Hoặc hiện thân thương chủ. Hoặc hiện thân tịnh mạng. Hoặc hiện thân kỹ nhạc. Hoặc hiện thân phụng sự chư Thiên. Hoặc hiện thân công xảo kỹ thuật.

Qua đến tất cả xóm làng, thành ấp, đô thị chỗ của chúng sanh ở, Bồ Tát này tùy sở nghi dùng mọi thứ thân, mọi oai nghi, mọi âm thanh, mọi ngôn luận, những chỗ ở, mà thật hành hạnh Bồ Tát trong tất cả thế gian dường như màng lưới của Thiên Ðế.

Hoặc nói công xảo sự nghiệp thế gian. Hoặc nói tất cả trí huệ chiếu thế gian như đèn sáng. Hoặc nói tất cả chúng sanh do nghiệp lực trang nghiêm. Hoặc nói cõi nước mười phương kiến lập những thừa vị. Hoặc nói đèn trí huệ chiếu cảnh giới của tất cả pháp, giáo hóa thành thục tất cả chúng sanh. Nhưng vẫn cũng chẳng rời khỏi rừng Thệ Ða của đức Như Lai đây.

Bấy giờ ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, từ Thiện Trụ lâu các đi ra cùng vô lượng Bồ Tát đồng hạnh và các Thần Kim Cang thường theo thị vệ, các Thân Chúng Thần khắp vì chúng sanh mà cúng dường chư Phật, các Túc Hành Thần từ lâu phát kiên thệ nguyện thường tùy tùng, các Chủ Ðịa Thần thích nghe diệu pháp, Các Thủ Thủy Thần thường tu đại bi, các Chủ Hỏa Thần trí quang chiếu sáng. Các Chủ Phong Thần ma ni làm mão, các Chủ Phương Thần minh luyện tất cả nghi thức mười phương, các Chủ Dạ Thần chuyên cần diệt trừ vô minh hắc ám, các Chủ Trú Thần xiển minh Phật nhựt nhứt tâm không lười, các Chủ Không Thần trang nghiêm pháp giới tất cả hư không, các Chủ Hải Thần độ khắp chúng sanh vượt khỏi biển hữu lậu, các Chủ Sơn Thần thường siêng chứa nhóm thiện căn trợ đạo cao như núi xu hướng Nhứt thiết trí, các Chủ Thành Thần thường siêng gìn giữ thành Bồ đề tâm của tất cả chúng sanh, các Ðại Long Vương thường siêng gìn giữ pháp thành vô thượng Nhứt thiết chủng trí, các Dạ Xoa Vương thường siêng hộ trì tất cả chúng sanh, các Càn Thát Bà Vương thường làm cho chúng sanh thêm hoan hỉ, các Cưu Bàn Trà Vương thường siêng trừ diệt những loài ngạ quỷ, các Ca Lâu La Vương hằng thuận cứu tế tất cả chúng sanh ra khỏi biển hữu lậu, các A Tu La Vương nguyện được thành tựu những thân Như Lai cao hơn thế gian, các Ma Hầu La Già Vương thấy Phật hoan hỷ cúi mình cung kính, cá đại Thiên Vương hằng nhàm sanh tử thường thích thấy Phật, các đại Phạm Vương tôn trọng chư Phật tán thán cúng dường.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng những chúng Bồ Tát công đức trang nghiêm như vậy ra khỏi chỗ mình ở, đồng đến chỗ đức Phật, hữu nhiễu đức Thế Tôn đến vô lượng vòng. Dâng các món cúng dường lên đức Phật. Cúng dường xong, từ tạ Phật rồi đi qua phương Nam đến trong nhơn gian.


Kinh:

Bấy giờ đức Thế Tôn vì muốn cho chư Bồ Tát an trụ trong Như Lai sư tử tần thân quảng đại tam muội…

Giảng:

Muốn cho các vị BồTát vào được tam muội đó…

Kinh:

Nên từ tướng bạch hào giữa chăng này, phóng ra quang minh lớn gọi là phổ chiếu tam thế pháp giới môn, dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh làm quyến thuộc, chiếu khắp chư Phật quốc độ trong tất cả thế giới hải ở mười phương… Lúc đó tại rừng Thệ Đa, Bồ Tát đại chúng đều thấy tất cả cõi Phật khắp pháp giới hư không giới. Trong mỗi một vi trần đều có tất cả Phật sát vi trần sấ Phật độ. Hoặc thây ở trong bất khả thuyết Phật sát chúng hội phát ra âm thanh vi diệu đầy khắp pháp giới chuyển chánh pháp luân.

Giảng:

Kinh giảng rằng tất cả chư Bồ Tát cũng nhìn thấy tất cả cảnh giới trong tam muội y như Phật vậy, trong cảnh giới đó chỉ có quang minh và âm thanh thôi, quang minh thuộc về con mắt, âm thanh thuộc về cái tai, còn mấy căn khác không kể. Vì vậy, pháp giới này được dệt bằng quang minh và diệu âm…

Kinh:

Trong hội này, đại chúng Bồ Tát thấy thậm thâm tam muội đại thần thông lực của chư Phật Như Lai như vậy.

Giảng:

Sự độ sanh của đức Phật rất ghê gớm, ngài chỉ cần ngồi đó, nhập cơn tam muội, đưa tất cả vào tam muội mà không cần phải cất chân, đặt tay cả. Trong kinh kể ba, bốn trang về những tam muội thần biến của chư Phật này…

Kinh:

Chư Bồ Tát đó thảy đều đầy đủ đại trí thần thông, minh lợi tự tại, trụ  trí địa, dùng trí quảng đại quan sát khắp tất cả từ những trí huệ chủng tánh mà sanh, nhất thiết chủng trí thường hiện ở trước. Thân của các ngài (thân của các vị Đại Bồ Tát) siêu xuất tất cả thế gian, được trí huệ vô ngại đối với tất cả pháp, (trông thấy pháp gì cũng hiểu cả), khéo hay tỏ ngộ ngằn mé tận, vô tận…

Giảng:

Trí huệ của các ngài đã đến được ngằn mé tận và vô tận. Còn chúng ta thì khác, chỉ nhìn được có một khúc thôi, không biết vô lượng là cái gì, không biết được cái tận đi vào cái vô tận, như chúng ta không nhìn thấy được con sông lúc nhập vào biển cả… Nhưng chư Đại BồTát thì khác, các ngài đã nhìn lên được chỗ ngằn mé của nó.

Kinh:

Trụ ở ngằn mé, phổ biến nhập vào ngằn mé chân thiện.

Giảng:

Phổ biến tức là tất cả pháp, tức là vô lượng. Khi thấy tất cả pháp vô lượng đều rơi vào cái không đó, thì sẽ thấy được rõ tất cả. Trong Đại Thừa Khởi Tín, ngài Mã Minh nói rằng, khi một vị Bồ Tát chỉ thấy được niệm trụ, niệm dị, niệm diệt mà chưa thấy được niệm sanh thì chưa thấy được ngằn mé của tận và vô tận. Còn phàm phu chúng ta thì chỉ thấy các niệm đã trụ và hiện tướng rồi, chứ không thể biết được những niệm lúc sanh, tức là lúc nó khởi lên từ chân không. Phải lên đến Bồ Tát đệ bát địa mới có thể biết được…

Kinh:

Lúc đó, chư Đại Bồ Tát được bất tư nghì chánh pháp quang minh…

Giảng: Sau khi chư Phật dùng tâm đại bi cho tất cả chúng Đại Bồ Tát vào được tam muội bất tư nghi này rồi, tức là trông thấy được tất cả pháp giới, lúc này ngài Văn Thù Sư Lợi mới xuất hiện, ngài xuất hiện cũng chỉ để nói một bài kệ thôi…

Kinh:

Các ngài đến rừng Thệ Đa…

Giảng: Đại khái đoạn này ngài tán thán sức thần lực của chư Phật, thì lúc đó Thiện Tài mới xuất hiện.

Kinh:

…Bấy giờ ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát sau khi nói kệ rồi từ Thiện Trụ Lâu Các đi ra cùng vô lượng Bồ Tát đồng hạnh và các thần Kim Cang thường theo thị vệ… Các túc hành thần từ lâu phát kiên thệ nguyện thường tùy tùng theo ngài…, các chủ địa thần thích nghe diệu pháp, các chủ thủy thần thương tu đại bi, các chủ hỏa thần chiếu quang minh trí sáng, (những vị này tu theo Bát Nhã), các chủ phong thần Ma Ni làm mão, các chủ dạ thần chuyên cần diệt trụ vô minh hắc ám…

Giảng:

Trong phẩm này ta nên để ý đến các chủ dạ thần, vì có nhiều vị thị hiện làm người nữ, mà chủ dạ thần tượng trưng cho Bát Nhã, thường dạy chúng ta về trí huệ.

Kinh:

Các chủ trú thần xiển minh Phật nhựt, nhất tâm không lười.

Giảng:

Chủ trú thần là những vị coi ban ngày, còn chủ dạ thần là những vị coi ban đêm.

Kinh:

Các chủ không thần trang nghiêm pháp giới tất cả hư không, các chủ sơn thần thường siêng chứa nhóm thiện căn trợ đạo cao như núi, xu hướng nhất thiết trí, các chủ thành thần thường siêng gìn giữ thành Bồ Đề Tâm của tất cả chúng sinh.

Giảng:

Đừng tưởng rằng các chủ thành thần là các ngài thường là những vị thần giữ thành trì đâu, mà là giữ cái thành Bồ Đề Tâm cho chúng sanh. Bởi vậy nên việc phát Bồ Đề Tâm rất quan trọng, người đã phát Bồ Đề Tâm rồi luôn luôn có các vị thiện thần hộ trì cho, vì Bồ Đề Tâm là Nhập Pháp Giới là nền tảng của đạo Phật.

Kinh:

Các đại long vương thường siêng gìn giữ pháp thành vô lượng nhất thiết chủng trí…

Giảng:… (bỏ một đoạn nói đến các chủ thần…)

Kinh bắt đầu tả ngài Văn Thù Sư Lợi ra đi về phía cửa Nam, tức là đi về cõi nhân gian. Ta cũng nên nhắc lại ý nghĩa về “phía Nam” trong kinh. Theo như Mạn Đà La của Mật Tông, bao giờ cũng bắt đầu từ phương Đông đi xuống phương Nam sang phương Tây rồi lên phương Bắc, sau cùng mái đi vào giữa trung tâm. Phương Bắc tượng trưng cho sự tịch diệt, tức là gần đến chỗ Niết Bàn rồi, chỗ đó tượng trưng cho chữ ÚM. Ở phương Bắc có đức Phật Thiên Cổ Như Lai, gọi là Thiên Cổ Như Lai vì vị Phật này có tiếng nói như giọng sâm ù ì của mùa đông, về mùa đông, tuy cái gì cũng rét mướt và mang một khung cảnh chết, nhưng tiếng sấm ù ì đó như quẻ “chấn” trong kinh Dịch, làm khởi lên tất cả mọi mầm sống, giống như sau một giấc ngủ dài lại khởi lên mầm sống mới. Còn phương Nam tượng trưng cho buổi trưa, vạn vật đã sung mãn, như sức nóng nhất của ánh sáng mặt trời. Còn phương Tây là tượng trưng cho sự độ trì viên mãn của đức Phật A Di Đà. Đó là theo Mạn Đà La của Mật Tông. Vì thế ngài Văn Thù Sư Lợi đi về phương Nam, về chỗ phát khởi đại bi viên mãn. Thiện Tài về sau cũng đi về phương Nam, về chỗ đại bi.

Chúng ta cũng cần lưu ý thêm về đoạn “... Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử Bồ Tát từ thiện trụ lâu các đi ra cùng vô lượng vô số Bồ Tát đồng hạnh và các thần kim cang thường theo hộ vệ...” Thiện trụ tức là giữ tâm mình chẳng có chẳng không, giữ tâm cân bằng giữa sắc và không, đó là điều chúng ta cần phải nhớ…

Kinh:

Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng những chúng Bồ Tát công đức trang nghiêm như vậy ra khỏi chỗ mình ở, đồng đến chỗ đức Phật, hữu nhiễu đức Thế Tôn vô lượng vòng. Dâng các món cúng dường lên đức Phật. Cúng dường xong từ tạ Phật rồi đi qua phương Nam đến trong nhơn gian…

Giảng:

Hữu nhiễu tức khởi tâm đại bi đồng thời cũng có nghĩa rằng: Con xin phép đức Phật xuống nhân gian để độ sanh. Và khi ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đến xin đức Phật đi về phương Nam các vị Bồ Tát khác đều trông thấy cả, riêng các vị Thanh Văn không trông thấy chỉ trừ ngài Xá Lợi Phất…



Lúc đó Tôn giả Xá Lợi Phất thừa thần lực của Phật, thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng chúng hội Bồ Tát trang nghiêm ra khỏi rừng Thệ Ða qua phương Nam du hành nhơn gian, liền nghĩ rằng :

Tôi nay nên theo ngài Văn Thù Sư Lợi qua phương Nam.

Nghĩ xong, Tôn giả Xá Lợi Phất cùng sáu ngàn Tỳ Kheo đồng rời chỗ mình ở đến chỗ đức Phật đảnh lễ chân Phật rồi bạch ý muốn, đức Phật hứa khả. Các Ngài hữu nhiễu đức Phật ba vòng từ tạ đi dến chỗ ngài Văn Thù Sư Lợi.

Sáu ngàn Tỳ Kheo này vốn cùng ở chung với Tôn giả Xá Lợi Phất, xuất gia chưa lâu, những là Hải Giác Tỳ Kheo, Thiện Sanh Tỳ Kheo, Phước Quang Tỳ Kheo, Ðại Ðồng Tử Tỳ Kheo, Ðiển Sanh Tỳ Kheo, Tịnh Hạnh Tỳ Kheo, Thiên Ðức Tỳ Kheo, Quân Huệ Tỳ Kheo, Phạm Thắng Tỳ Kheo, Tịch Huệ Tỳ Kheo, sáu ngàn Tỳ Kheo như vậy.

Những Tỳ Kheo này đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, trồng sâu căn lành, sức hiểu biết rộng lớn, tín nhãn sáng suốt, tâm lượng rộng rãi, quán Phật cảnh giới, rõ pháp bổn tánh, lợi ích chúng sanh, thường cần cầu công đức của chư Phật.

Những Tỳ Kheo này đều do ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thuyết pháp giáo hóa mà được thành tựu.

Trong lúc đang đi nơi đường, Tôn giả Xá Lợi Phất quan sát chư Tỳ Kheo rồi bảo Giác Hải rằng :

Giác Hải nên quán sát thân thanh tịnh tướng tốt trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tất cả hàng Nhơn Thiên chẳng nghĩ bàn được.

Giác Hải nên quán sát viên quang chói sáng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm cho vô lượng chúng sanh phát tâm hoan hỷ.

Giác Hải nên quán sát quang võng trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát diệt trừ vô lượng khổ não cho chúng sanh.

Giác Hải nên quán sát chúng hội đông đầy của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đại chúng đó đều là bực Bồ Tát do thiện căn thuở xưa nhiếp thọ.

Giác Hải nên quán sát con đường của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đang đi, hai bên cách tám bộ đều bằng thẳng trang nghiêm.

Giác Hải nên quán sát chỗ đứng của Văn Thù Sư Lợi Bố Tát khắp vòng mười phương thường có đạo tràng luôn xoay theo.

Giác Hải nên quán sát con đường của Văn Thù Sư Lợi đang đi đủ cả vô lượng phước đức trang nghiêm, hai bên đường có những kho trân bửu ngầm dưới đất tự nhiên trồi lên.

Giác Hải nên quán sát Văn Thù Sư Lợi từng cúng dường chư Phật, do thiện căn đó làm cho trong tất cả hàng cây đều hiện ra tạng báu trang nghiêm.

Giác Hải nên quán sát các Thế Gian Chủ rưới mây cúng cụ, đảnh lễ cung kính dâng cúng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Giác Hải nên quán sát tất cả chư Phật Như Lai mười phương, lúc sắp thuyết pháp, đều phóng ánh sáng lông trắng giữa chặng mày chiếu đến thân Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, nhập vào nơi đảnh của Ngài.

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất vì chư Tỳ Kheo mà tán thán khai thị diễn thuyết ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử có vô lượng công đức trang nghiêm như vậy.

Chư Tỳ Kheo nghe xong, tâm ý thanh tịnh, tin hiểu vững chắc, vui mừng khôn xiết, toàn thân rúng nhảy không tự kềm được. Thân thể nhu nhuyến, sáu căn vui đẹp, tất cả lo khổ đều trừ, cấu chướng đều hết. Thường được thấy chư Phật thâm cầu chánh pháp đủ căn tánh Bồ Tát, được oai lực Bồ Tát, đại bi đại nguyện đều tự xuất sanh, nhập vào cảnh giới thậm thâm của các môn Ba la mật. Thập phương chư Phật thường hiện ở trước. Rất mến thích Nhứt thiết trí. Chư Tỳ Kheo bạch Tôn giả Xá Lợi Phất rằng :

Mong Ðại Sư dẫn chúng tôi đến chỗ của ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Xá Lợi Phất liền cùng chư Tỳ Kheo đồng đến chỗ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát mà bạch rằng :

Thưa Ngài, chư Tỳ Kheo này xin được kính ra mắt Ngài.

Lúc đó Văn Thù Sư Lợi Ðồng tử có vô lượng tự tại Bồ Tát và đại chúng vây quanh, như tượng vương xoay mình lại nhìn Tỳ Kheo.

Chư Tỳ Kheo liền đảnh lễ chân Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rồi chắp tay cung kính mà bạch rằng :

Nay chúng tôi kính ra mắt, cung kính lễ bái và những thiện căn của chúng tối có, ngưỡng mong ngài Văn Thù Sư Lợi, Hòa Thượng Xá Lợi Phất, Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, đều chứng biết cho.

Như ngài Văn Thù Sư Lợi có sắc thân thế này, âm thanh thế này, tướng hảo thế này, tự tại thế này, nguyện cho tôi cũng dều có đủ như vậy.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo các Tỳ Kheo rằng :

Chư Tỳ Kheo ! Nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thành tựu mười hạnh xu hướng pháp Ðại thừa thời có thể mau nhập Như Lai Ðịa, huống là Bồ Tát Ðịa.

Ðây là mười hạnh :

Chứa nhóm tất cả thiện căn lòng không mỏi nhàm.

Thấy tất cả Phật kính thờ cúng dường lòng không mỏi nhàm.

Cầu tất cả Phật pháp lòng không mỏi nhàm.

Thật hành tất cả hạnh Ba la mật lòng không mỏi nhàm.

Thành tựu tất cả Bồ Tát tam muội lòng không mỏi nhàm.

Thứ đệ nhập tất cả tam thế lòng không mỏi nhàm.

Nghiêm tịnh khắp mười phương cõi Phật lòng không mỏi nhàm.

Giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh lòng không mỏi nhàm.

Ở trong tất cả cõi tất cả kiếp thành tựu hạnh Bồ Tát lòng không mỏi nhàm.

Vì thành tựu một chúng sanh mà tu hành tất cả Phật sát vi trần số Ba la mật, thành tựu Như Lai thập lực. Thứ đệ như vậy, vì thành thục tất cả chúng sanh giới mà thành tựu Như Lai tất cả trí lực lòng không mỏi nhàm.

Chư Tỳ Kheo ! Nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thành tựu lòng thâm tính phát mười hạnh lòng không mỏi nhàm này thời có thể trưởng dưỡng tất cả thiện căn, rời bỏ tất cả những loài sanh tử vượt khỏi tất cả chủng tánh thế gian, chẳng sa vào hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật. Sanh vào nhà chư Phật Như Lai. Ðủ tất cả Bồ Tát nguyện. Học tập tất cả Như Lai công đức. Tu hành tất cả hạnh Bồ Tát. Ðược Như Lai trí lực xô dẹp chúng ma và các ngoại đạo, cũng có thể trừ diệt tất cả phiền não, nhập Bồ Tát địa, gần Như Lai địa.

Lúc đó, chư Tỳ Kheo nghe pháp này rồi thời được tam muội tên là vô ngại nhãn, thấy tất cả cảnh giới Phật. Do được tam muội này nên đều thấy chư Phật Như Lai trong vô lượng vô biên tất cả thế giới ở mười phương và những đạo tràng chúng hội. Cũng đều thấy tất cả loài chúng sanh trong thế giới mười phương. Cũng đều thấy những sai biệt của tất cả thế giới mười phương. Cũng đều thấy những vi trần của tất cả thế giới đó. Cũng đều thấy những cung điện của chúng sanh ở trong tất cả thế giới đó, dùng các báu mà làm trang nghiêm. Và cũng nghe những ngôn âm của chư Phật. Như Lai diễn thuyết các pháp, văn từ giải thích của chư Phật, nghe rồi thời đều hiểu rõ. Cũng có thể quán sát trong thế giới đó, những căn dục của tất cả chúng sanh. Cũng có thể ghi nhớ trong những thế giới đó, trước sau mười đời của tất cả chúng sanh. Cũng có thể ghi nhớ những sự trong mười kiếp quá khứ, mười kiếp vị lai của các thế giới đó. Cũng có thể ghi nhớ chư Như Lai đó mười lần bổn sanh sự, mười lần thành Chánh Giác, mười lần chuyển pháp luân, mười thứ thần thông, mười thứ thuyết pháp, mười thứ giáo giới, mười thứ biện tài.

Chư Tỳ Kheo này lại liền thành tựu mười ngàn Bồ đề tâm, mười ngàn Tam muội, mười ngàn Ba la mật, tất cả đều thanh tịnh.

Lại được đại trí huệ viên mãn quang minh. Ðược Bồ Tát mười thần thông nhu nhuyến vi diệu. Trụ Bồ Tát tâm kiên cố bất động.


Kinh:

Lúc đó Tôn Giả Xá Lợi Phất thừa thần lực của Phật thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng chúng hội Bồ Tát trang nghiêm ra khỏi rừng Thệ Đa qua phương Nam du hành nhơn gian…

Giảng:

Ngài Xá Lợi Phất trông thấy được vì do sức Phật gia trì. Nên chúng ta cũng phải hiểu rằng, ngài Thiện Tài tự sức cũng trông thấy đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thì ngài là bậc tu chứng cao rồi. Vì nếu so sánh, ngài Xá Lợi Phất đã đắc được quả A La Hán, tức là đã chớm được vào đến không hải của thức ấm mà còn phải nhờ sức gia trì của Phật mới nhìn thấy được ngài Văn Thù. Sau khi ngài Văn Thù xuất hiện thì có một số vị tăng chạy theo, trong đó có ngài Xá Lợi Phất…

Kinh:

Ngài Xá Lợi Phất bèn nghĩ rằng: Tôi nay nên theo ngài Văn Thù Sư Lợi qua phương Nam…

Giảng: Ý ngài Xá Lợi Phất muốn theo ngài Văn Thù Sư Lợi qua phương Nam nhưng không hiểu vì sao sau này lại không thấy trong kinh nhắc đến ngài nữa…

Kinh:

Nghĩ xong Tôn Giả Xá Lợi Phất cùng sáu ngàn Tỳ Kheo đồng rời chỗ mình ở đến chỗ Đức Phật đảnh lễ chân Phật rồi bạch ý muốn Đức Phật hứa khả. Các ngài hữu nhiễu đức Phật ba vòng từ tạ đi đến chỗ ngài Văn Thù Sư Lợi.

Giảng:

Trong kinh nói ngài Văn Thù Sư Lợi hữu nhiễu đức Phật vô lượng vòng, nhưng ngài Xá Lợi Phất và sáu ngàn Tỳ Kheo chỉ hữu nhiễu ba vòng thôi. Vì sao? Vì cái tâm đại bi của các ngài còn rất mỏng.

Kinh:

Sáu ngàn Tỳ Kheo này vốn cùng ở chung với Tôn Giả Xá Lợi Phát xuất gia chưa lâu, những là Hải Giác Tỳ Kheo, Thiện Sanh Tỳ Kheo v.v… những Tỳ Kheo này đã từng cúng dường vô lượng Phật, trồng sâu căn lành, sức hiểu biết rộng lớn, tin nhãn sáng suốt, tâm lượng rộng rãi, quán Phật cảnh giới, rõ pháp bổn tánh, lợi ích chúng sanh, thường cần cầu công đức của chư Phật… Những Tỳ Kheo này đều do ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thuyết pháp giáo hóa mà được thành tựu…

Giảng: Sở dĩ sáu ngàn vị Tỳ Kheo này đi theo là vì có cơ duyên cũ, trong nhiều kiếp, ngài Văn Thù đã thuyết pháp giáo hóa cho các vị Tỳ Kheo này nghe rồi.

Kinh:

Ngài Xá Lợi Phát quán sát rồi bảo Giác Hải Tỳ Kheo rằng: Giác Hải nên quán sát thân thanh tịnh tướng tốt trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tất cả hàng nhơn thiên chẳng nghĩ bàn được. Giác Hải nên quan sát viên quang chói sáng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm chỗ vô lượng chúng sanh phát tâm hoan hỷ…

Giảng: Ngài Xá Lợi Phất khuyên các vị Tỳ Kheo nên quán sát ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, vì càng quán sát bao nhiêu càng tăng thêm thiện căn bấy nhiêu.

Kinh:

Bấy giờ Tôn Giả Xá Lợi Phất vì chư Tỳ Kheo mà tán thán khai thị diễn thuyết ngài Văn Thù Sư Lợi đồng tử có vô lượng công đức trang nghiêm như vậy, chư Tỳ Kheo nghe xong tâm ý thanh tịnh, tin hiểu vững chắc. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát quay lại như tượng vương xoay mình lại các Tỳ Kheo.

Giảng:

Kinh hay tả các chư Phật và chư Đại Bồ Tát mỗi lần xoay mình như tượng vương vậy, tức là cả đầu và mình đều xoay lại, không như phàm phu chúng ta, chỉ có ngoái cổ lại nhìn mà thôi.

Kinh:

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo Giác Hải Tỳ Kheo rằng, chư Tỳ Kheo, nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhân thành tựu mười hạnh xu hướng pháp đại thừa thời có thể mau nhập Như Lai địa, huống là Bồ Tát địa. Đây là mười hạnh:

1/ Chứa nhóm tất cả thiện căn lòng không mỏi nhàm.

2/ Thấy tất cả Phật kính thọ cúng dường lòng không mỏi nhàm.

3/ Cầu tất cả Phật pháp lòng không mỏi nhàm.

4/ Thật hành tất cả hạnh Ba La Mật lòng không mỏi nhàm.

Giảng:

Ý ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dạy rằng, các ông đi theo con đường Bồ Tát đạo, làm tất cả các hạnh không bao giờ được khởi tâm mỏi nhọc, nhàm chán, dù là hạnh gì. cũng vậy, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định v.v…

Kinh:

…(Bỏ một đoạn kinh…) Chư Tỳ Kheo, nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhân thành tựu lòng thâm tín Phật mười hạnh lòng không mỏi nhàm này thời có thể trưởng dưỡng tất cả thiện căn, rời bỏ tất cả những loại sanh tử, vượt thoát khỏi tất cả chủng tánh thế gian, chẳng sa vào hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật…, trụ diệt tất cả phiền não, nhập Bồ Tát địa, gần Như Lai địa…

Lúc đó chư Tỳ Kheo nghe pháp này rồi thời được tam muội tên là vô ngại nhẫn (tức đã mở được tâm nhãn) có thể ghi nhớ trước sau mười dời tất cả chúng sanh, có thể ghi nhớ những sự trong mười kiếp quá khứ, mười kiếp vị lai của các thế giới đó. Cũng có thể ghi nhớ chư Như Lai do mười lần bổn sanh sự, mười lần thành chánh giác. Chư Tỳ Kheo này liền thành tựu mười ngàn Bồ Đề Tâm…

Giảng:

Chúng ta nên nhớ con số mười có nghĩa là tượng trưng cho một số nhiều. Sau khi các Tỳ Kheo nghe pháp xong, tâm thức các ngài tăng trưởng ghê gớm, sau đó, kinh không nói đến các vị này theo ngài Văn Thù nữa, có lẽ thấy ngài Văn Thù dạy đủ rồi…



Lúc đó Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyên các Tỳ Kheo trụ hạnh Phổ Hiền. Trụ hạnh Phổ Hiền rồi nhập biển đại nguyện. Nhập biển đại nguyện, rồi thành tựu biển đại nguyện. Vì thành tựu biển đại nguyện nên tâm được thanh tịnh. Vì tâm thanh tịnh nên thân được thanh tịnh. Vì thân thanh tịnh nên thân nhẹ nhàng nhậm lẹ. Vì thân thanh tịnh nhẹ nhàng nhậm lẹ nên được đại thần thông không còn thối chuyển. Vì được thần thông này nên chẳng rời dưới chân của ngài Văn Thù Sư Lợi, đều hiện thân mình khắp tất cả chỗ của chư Phật mười phương.Thành tựu đầy đủ tất cả Phật pháp.

 

Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyến dạy sáu ngàn Tỳ kheo pháp Bồ đề tâm rồi, lần lượt đi về phía Nam, trải qua nhơn gian đến phía đông Phước Thành, ở trong rừng Trang Nghiêm Tràng Ta La, chỗ đại tháp miếu mà chư Phật thuở xưa từng ngự giáo hóa chúng sanh, nơi đây cũng là chỗ mà ngày xưa đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn lúc tu Bồ Tát hạnh hay xả vô lượng sự khó xả. Do đây nên rừng này có tiếng đến vô lượng cõi Phật. Rừng này thường được sự thủ hộ cúng dường của chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn cùng Phi nhơn.

Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và các quyến thuộc đến rừng Trang Nghiêm Tràng Ta La rồi, liền ở tại đó nói khế kinh Phổ Chiếu Pháp Giới cùng với trăm vạn ức na do tha khế kinh.

Khi nói kinh, trong đại hải có vô lượng trăm ngàn ức chư Long đến nghe kinh. Nghe xong chư Long đều chán thân loài rồng nên đều phát tâm cầu Phật đạo. Ðều xả thân rồng sanh trong loài người hoặc cõi trời. Một muôn chư Long được chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lại có vô lượng vô số chúng sanh ở trong Tam thừa đều được điều phục.

Lúc đó người Phước Thành hay tin ngàiVăn Thù Sư Lợi Ðồng Tử ở đại tháp miếu trong rừng Trang Nghiêm Tràng Ta La, vô lượng người ra khỏi thành đi đến rừng.

Có Ưu bà tắc tên là Ðại Trí cùng quyến thuộc năm trăm Ưu bà tắc, như là : Tu Ðạt Ða, Bà Tu Ðạt Ða, Phước Ðức Quang, Hữu Danh Xưng, Thí Danh Xưng, Nguyệt Ðức, Thiện Huệ, Ðại Huệ, Hiền Hộ, Hiền Thắng.v.v… đồng đến đảnh lể chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, hữu nhiễu ba vòng, rồi lui ra ngồi qua một phía.

Lại có năm trăm Ưu bà di, như là : Ðại Huệ, Thiện Quang, Diệu Thân, Khả LaÏc Thân, Hiền Hạnh, Hiền Ðức, Hiền Quang, Tràng Quang, Ðức Quang, Thiện Mục, v.v.. đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, hữu nhiễu ba vòng rồi lui ra ngồi qua một phía.

Lại có năm trăm Ðồng tử, như là : Thiện Tài, Thiện Hạnh, Thiện Giới, Thiện Oai Nghi, Thiện Dũng Mãnh, Thiện Tư, Thiện Huệ, Thiện Giác, Thiện Nhãn, Thiện Tý, Thiện Quang, v.v.. đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, hữu nhiễu ba vòng rồi lui ra ngồi qua một phía.

Lại có năm Ðồng nữ, như là : Thiện Hiền, Ðại Trí Cư Sĩ Nữ, Hiền Xưng Mỹ Nhan, Kiên Huệ, Hiền Ðức, Hữu Ðức, Phạm Thọ, Ðức Quang, Thiện Quang, v.v.. đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng T hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía.


Kinh:

Lúc đó Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyên các Tỳ Kheo trụ hạnh Phổ Hiền. Trụ hạnh Phổ Hiền rồi nhập biển đại nguyện. Nhập biển đại nguyện rồi thành tựu biển đại nguyện, Vì thành tựu biển đại nguyện nên được tâm thanh tịnh. Vì tâm được thanh tịnh nên thân được thanh tỉnh. Vì thân thanh tịnh nên thân nhẹ nhàng nhặm lẹ. Vì thân thanh tịnh nhẹ nhàng nhăm lẹ nên được đại thần thông không còn thối chuyển. Vì được thần thông nên chẳng rời dưới chân của ngài Văn Thù Sư Lợi, đều hiện thân mình khắp tất cả chỗ của chư Phật mười phương. Thành tựu đầy đủ tất cả Phật pháp…

Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyên dạy sáu ngàn Tỳ Kheo phát Bồ Đề Tâm rồi, lần lượt đi về phía Nam, trải qua nhân gian đến phía Đông Phước Thành, ở trong rừng trang nghiêm tràng Ta La, chỗ đại pháp miếu mà chư Phật thủa xưa từng ngự giáo hóa chúng sanh…

Giảng:

Đến chỗ nhân gian ở làng Phước Thành, trong kinh bao giờ cũng có hai nghĩa, có một chỗ gọi là Phước Thành thực, đồng thời cũng chĩ rằng những người ở đó đều có phúc đức lớn…

Kinh:

…Rừng này thường được sự thủ hộ cúng dường của chư thiên, long, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, nhơn cùng phi nhơn. Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và các quyến thuộc đến rừng trang nghiêm tràng Ta La rồi liền ở tại đó nói khế kinh Phổ-Chiếu-Pháp-Giới cùng với trăm vạn ức na-đo-tha khế kinh.

Giảng:

Các quyến thuộc tức là các vị túc hành thần, chủ dạ thần… ở đây, ngài Văn Thù Sư Lợi nói kinh cho các vị chủ thần vương chứ chưa có người dự…

Kinh:

Khi nói kinh này, trong đại hải có vô lượng trăm ngàn ức chư long đến nghe kinh, nghe kinh xong chư long đều chán thân loài rồng…

Giảng:

Mặc dù làm loài rồng cũng có rất nhiều phước báo thần thông, nhưng sau khi nghe kinh xong, các vị này không còn thích làm thân rồng nữa mà khởi tâm muốn tu lên, phát Bồ Đề Tâm để cầu nhập pháp giới.

Kinh:

Vì chán thân loài rồng nên đều phát tâm cầu Phật đạo, đều xả thân rồng sanh vào loài người hoặc cõi trời. Một muôn chư long đều chẳng thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Giảng:

Trong kinh, tả có cả muôn vị rồng xả thân ngay để được sanh trong chư thiên hoặc cõi người, ở cõi người có một điểm hơn loài rồng là tuy không có phước báo và châu ngọc nhiều như loài rồng, cũng không có thần thông, nhưng lại có trí huệ để có thể phát Bồ Đề Tâm.

Kinh:

Lúc đó người Phước Thành hay tin ngài Văn Thù Sư Lợi ở đại tháp miếu trong rừng trang nghiêm tràng Ta La, vô lượng người ra khỏi thành đi đến rừng. Có Ưu Bà Tắc tên là Đại Trí cùng quyến thuộc năm trăm Ưu Bà Tắc như là…, (bỏ một đoạn nói về tên của các vị ưu Bà Tắc). Lại có năm trăm Đồng Tử như là Thiện Tài, Thiện Hạnh, Thiện Giới, Thiện Oai Nghi, Thiện Dũng Mãnh, Thiện Ty, v.v… lại có năm trăm Đồng Nữ như là Thiện Hiền, Đại Trí Cư Sĩ Nữ v.v… và Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di…

Giảng:

Trong kinh nhiều chỗ không nói rõ là người xuất gia hay tại gia, vì tùy theo tâm người đọc, chứ kinh không bao giờ nói một cách khẳng định cả.

Hỏi: Xin ông cho biết trong sáu nẻo luân hồi, rồng thuộc về loại nào?

Đáp: Tuy là có thần thông và nhiều phước báo, nhưng rồng vẫn bị xếp hạng vào loại súc sanh, nhưng là bàng sanh, đặc biệt ờ bàng sanh thì nhiều phước báo, vẫn còn nhiều dâm dục và thích ngủ, trí huệ lại kém. Vì có nhiều phước báo nên được một ít thần thông, một ít sanh đắc thông và có nhiều châu ngọc. Rồng có thể thọ bát quan trai giới được, nhưng chỉ có thể đắc thiện căn thôi, chứ không thể đắc giới được.

Hỏi: Từ xưa đến giờ, chưa có một người nào được thấy một con rồng bằng xương bằng thịt, nếu ông xếp nó thuộc vào loại súc sanh, thì nó cũng giống như những con vật khác, nghĩa là cũng phải mang một cái thân máu thịt đáng lý mọi ngươi phải thấy chứ, sao không nghe có ai thấy cả?

Đáp: Súc sanh cũng có nhiều thứ, có những loại tuy gọi là súc sanh nhưng không mang thân máu mủ. Dụ như loài A Tu La cũng có nhiều lớp, có loại trên trời, có loại dưới bể, có loại ở nhân thế, và có loại ờ trong ngạ quỉ nữa, mà con mắt thịt của loài người chỉ nhìn thấy được những loài súc sanh có thân máu thịt thôi, ngoài ra còn những thứ súc sanh khác chúng ta không thấy được.

Hỏi: Có thực là loài rồng cũng có thể đi thọ bát quan trai giới được không?

Đáp: Thì trong kinh có nói, một hôm có một vị sư mách với đức Phật rằng, có một con rồng đi thọ bát quan trai giới, (chẳng nói đâu xa, cụ Tuyên Hóa ở Cali này, cụ cũng nói rằng cụ có một số đệ tử là rồng). Thì đức Phật bảo rằng, rồng có thể thọ được bát quan trai giới, nhưng chỉ tăng được thiện căn thôi mà không thể đắc giới được, muốn đắc giới cần phải có trí huệ, phải hiểu các giới.

Hỏi: Như vậy chắc con rồng không có hình tướng nên mọi người tưởng tượng ra một hình dáng nhất định nào đó gọi là rồng, chứ nếu không có thân máu mủ như ông vừa nói thì làm gì có hình tướng, còn nếu có hình tướng thì phải có thân máu mủ chứ, vậy thì ông giải thích ra sao về những hình vẽ của rồng ngày nay? Tưởng tượng hay có thân máu mủ?

Đáp: Bây giờ xin hỏi ông, chư thiên có thân máu mủ không?

Hỏi: Ở đây, tôi đang hỏi về rồng chứ có nói đến chư thiên đâu, vì ông vừa bảo nó là loài súc sanh kia mà, mà nếu làm thân súc sanh thì dứt khoát nó phải có thân máu mủ, như vậỵ nó mới có hình tướng thì người ta mới vẽ lại được chứ?

Đáp: Ông nên nhớ một điều là chúng sanh không nhất thiết phải có một thân máu mủ. Dụ như loài địa ngục, ngạ quỉ đâu có thân máu mủ. Vì rồng có phước báo rất nhiều nên nó không còn thân máu mủ nữa, nó có một cái thân hào quang nhưng thấp thôi.

Hỏi: Vậy người ta căn cứ vào đâu để tạc hình con rồng bây giờ?

Đáp: Là vì chúng ta, cả ông lẫn tôi đều chỉ có hai con mắt thịt, nên không trông thấy, và không tin có một loài gọi là loài rồng, nhưng ngày xưa nhiều vị có thiên nhãn họ nhìn thấy và vẽ lại cho chúng ta xem. Vì vậy, phải hiểu rằng, trong pháp giới này không có cái gì là không có được. Lối lập luận của ông cũng đúng đấy, nhưng đó là lối nhìn của thế nhân, lấy nhục nhãn để nhìn sự vật. Nhưng không phải tất cả những vật chúng ta không nhìn thấy có nghĩa là không có, và cũng không nên trụ vào nhục nhãn nhiều, vì như thế sẽ cản trở con đường tu của mình, vì sao? Vì có tin vào những nhãn trên mới phải tu, vì tin vào sự biến hiện của diệu tâm mới phải tu, vì tin vào huyễn hóa mới phải tu.



Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử biết người Phước Thành đều đã đến đông đủ, tùy tâm sở thích của họ mà hiện thân tự tại ánh sáng rực rỡ chói lấp đại chúng. Ngài dùng đại từ tự tại làm cho họ thanh lương. Dùng đại bi tự tại khởi tâm thuyết pháp. Dùng trí huệ tự tại biết tâm sở thích của họ. Dùng biện tài quảng đại sắp vì họ mà thuyết pháp.

Lúc đó, Ngài lại quán sát Thiện Tài đồng tử do cớ gì mà có tên như vậy. Ngài biết đồng tử này lúc mới nhập thai, trong nhà đó tự nhiên hiện ra lầu các thất bửu. Dưới lâu các đó có bảy phục tạng. Trên phục tạng, đất tự nứt ra mọc lên nanh thất bửu : vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chơn chân, xa cừ, mã não.

Sau mười tháng, Thiện Tài đản sanh thân hình tay chân đoan chánh đầy đủ. Lúc đó bảy phục tạng từ đất trồi lên ánh sáng chói rực. Mỗi tạng báu ngang dọc cao thấp đều vuông vức bảy thước tay.

Trong nhà đó lại tự nhiên có năm trăm món đồ bằng thất bửu, mọi vật đều đựng đầy trong đó. Những là : trong chậu kim cang đựng tất cả thứ hương thơm. Trong chậu hương đựng các thứ y phục. Trong bát mỹ ngọc đựng các thứ thực phẩm thượng diệu. Trong bát ma ni đựng đầy những thứ trân bửu đẹp lạ. Bình vàng đựng bạc. Bình bạc đựng vàng. Trong bình vàng bạc đựng đầy ngọc lưu ly và ma ni. Trong bình pha lê đựng đầy xa cừ. Trong bình xa cừ đựng đầy pha lê. Trong bình mã não đựng đầy chơn châu. Trong bình chơn châu đựng đầy mã não. Bình hỏa ma ni đựng đầy thủy ma ni. Bình thủy ma ni đựng đầy hỏa ma ni. Năm trăm đồ đựng châu bửu như vậy tự nhiên xuất hiện.

Nơi đó lại mưa các châu bửu và những tài vật làm cho tất cả kho đụn trong nhà đó đều đầy ngập.

Do cớ trên đây nên cha mẹ thân thuộc và tướng sư đều kêu đứa trẻ ấy là Thiện Tài.

Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử lại biết Thiện Tài đã từng cúng dường quá khứ chư Phật, gieo sâu căn lành, tin hiểu rộng lớn, thường thích gần gũi các thiện tri thức. Thân ngữ ý đều không lỗi lầm, tu Bồ Tát đạo cấu Nhứt thiết trí thành Phật pháp khí. Tâm đồng tử này thanh tịnh như hư không, hồi hướng Bồ đề không chướng ngại.

Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát quán sát Thiện Tài như vậy rồi, liền an ủi chỉ dạy tất cả Phật pháp.

Những là nói pháp tích tập của tất cả Phật, pháp tương tục của tất cả Phật, pháp thứ đệ của tất cả Phật, pháp chúng hội thanh tịnh của tất cả Phật, pháp pháp luân hóa đạo của tất cả Phật, pháp sắc thân tướng hảo của tất cả Phật, pháp pháp thân thành tựu của tất cả Phật, pháp ngôn từ biện tài của tất cả Phật, pháp quang minh chiếu diệu của tất cả Phật, pháp bình đẳng vô nhị của tất cả Phật.

Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử vì Thiện Tài đồng tử và đại chúng mà nói những pháp như vậy rồi, lại ân cần khuyên dạy cho họ tăng trưởng đạo lực, cho họ hoan hỷ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại làm cho họ tự ghi nhớ thiện căn thuở quá khứ.

Ngài lại vì tất cả đại chúng mà tùy nghi thuyết pháp. Sau đó Ngài rời rừng mà đi.

Thiện Tài đồng tử được nghe pháp nơi ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, được nghe những công đức của chư Phật như vậy, liền nhứt tâm cần cầu Vô thượng Bồ đề, đi theo ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát mà nói kệ rằng :

Ba cõi làm thành quách

Kiêu mạn làm tường vách

Các loài làm cửa nẻo

Nước ái làm hào ao

Tối ngu si đậy che

Lửa tham sân cháy rực

Ma Vương làm quân chủ

Trẻ khờ ở trong đó.

Tham ái làm dây trói

Dua dối làm cương yên

Nghi hoặc che đôi mắt

Thẳng vào những đường tà.

Vì đầy tham ganh kiêu

Vào nơi ba đường ác

Hoặc đọa trong các loài

Khổ sanh già bịnh chết.

Mặt nhựt trí thanh tịnh

Vầng tròn đầy đại bi

Hay cạn biển phiền não

Xin ban diệu quán sát.

Mặt nguyệt trí thanh tịnh

Vầng trong sạch đại từ

Ban an vui tất cả

Xin thương soi xét tôi.

Vua tất cả pháp giới

Pháp bửu làm tiên đạo

Du không chẳng chướng ngại

Xin thương dạy bảo tôi.

Ðại Thương Chủ phước trí.

Dũng mãnh cầu Bồ đề

Lợi khắp các quần sanh

Xin thương thủ hộ tôi.

Thân mặc giáp nhẫn nhục

Tay cầm gươm trí huệ

Tự tại hàng quân ma

Xin thương cứu vớt tôi.

Ở đảnh pháp Tu Di

Ðịnh nữ thường hầu hạ

Diệt hoặc A tu la

Ðế thích xin xem tôi.

Nhà ba cõi phàm ngu

Hoặc nghiệp khổ luân chuyển

Ngài đã điều phục cả

Như đèn sáng soi đường.

Bỏ rời những ác thú

Thanh tịnh những đường lành

Bực vượt hẳn thế gian

Dạy tôi môn giải thoát.

Thế gian chấp điên đảo

Thường thích tưởng ngã tịnh

Trí nhãn đều rời được

Dạy tôi môn giải thoát.

Khéo biết đường tà chánh

Biết rõ tâm không khiếp

Ðấng quyết rành tất cả

Dạy tôi đường Bồ đề.

Trụ bực Phật chánh kiến

Lớn cây Phật công đức

Rưới bông Phật diệu pháp

Dạy tôi đường Bồ đề.

Khứ, lai, hiện tại Phật

Xứ xứ đếu cùng khắp

Như mặt nhựt mọc lên

Vì tôi dạy đạo đó.

Khéo biết tất cả nghiệp

Thấu rõ hạnh các thừa

Người trí huệ quyết định

Dạy tôi pháp Ðại Thừa.

Bánh nguyện, gọng đại bi,

Tín trục, vành kiên nhẫn

Báu công đức trang nghiêm

Cho tôi ngồi xe này.

Rương tổng trì quảng đại

Lọng từ mẫn trang nghiêm

Linh biện tài reo vang.

Khiến tôi ngồi xe này.

Phạm hạnh làm nệm êm

Tam muội làm thể nữ

Trống pháp rền tiếng mầu

Cho tôi ngồi xe này.

Tứ nhiếp tạng vô tận

Báu công đức trang nghiêm

Tàm quý làm yên cương

Ban cho tôi xe này.

Thường rong xe bố thí

Hằng xoa hương tịnh giới

Bò nhẫn nhục trang nghiêm

Cho tôi ngồi xe này.

Thùng thiền định tam muội

Ách trí huệ phương tiện

Ðiều phục chẳng thối chuyển

Cho tôi ngồi xe này.

Xe đại nguyện thanh tịnh

Sức tổng trì kiên cố

Trí huệ được thành tựu

Cho tôi ngồi xe này.

Phổ hạnh làm đi khắp

Bi tâm thong thả đi

Ðến đâu đều không khiếp

Cho tôi ngồi xe này.

Kiên cố như kim cang

Thiện xảo như huyễn hóa

Tất cả không chướng ngại.

Cho tôi ngồi xe này.

Quảng đại rất thanh tịnh

Khắp ban chúng sanh vui

Ðồng hư không pháp giới

Cho tôi ngồi xe này.

Sạch những vòng nghiệp hoặc

Dứt những khổ lưu chuyển

Dẹp ma và ngoại đạo

Cho tôi ngồi xe này,

Trí huệ khắp mười phương

Trang nghiêm khắp pháp giới

Thỏa nguyện của chúng sanh

Cho tôi ngồi xe này.

Thanh tịnh như hư không

Ái, kiến đều trừ diệt

Lợi ích tất cả chúng

Cho tôi ngồi xe này.

Nguyện lực đi mau chóng

Ðịnh tâm an ổn trụ

Chở khắp các hàm thức

Cho tôi ngồi xe này.

Như đại địa chẳng động

Như nước lợi ích cả

Chở chúng sanh như vậy

Cho tôi ngồi xe này.

Vầng từ nhiếp viên mãn.

Sáng tổng trì thanh tịnh

Mặt nhật huệ như vậy

Xin dạy cho tôi thấy.

Ðã vào ngôi Pháp Vương

Ðã đội mão Trí Vương

Ðã vấn lụa diệu pháp

Xin thương chiếu cố tôi.

Lúc đó ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, như tượng vương, xoay nhìn Thiện Tài đồng tử mà bảo rằng :

Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, lại muốn thân cận các bực thiện tri thức để hỏi Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.

Này thiện nam tử ! thân cận cúng dường các bực thiện tri thức là nhơn duyên trứơc nhứt để được đầy đủ Nhứt thiết trí.

Vì thế nên công việc này ngươi chớ có mỏi nhàm.

Thiện Tài đồng tử bạch rằng :

Cúi xin đức Thánh vì tôi mà dạy Bồ Tàt phải học Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? phải đến Bồ Tát hạnh thế nào ? Phật thật hành Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tịnh Bồ Tát hạnh thế nào? Phải nhập Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải thành tựu Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tùy thuận Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải ghi nhớ Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải thêm rộng Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải làm thế nào cho Phổ Hiền hạnh mau được viên mãn.

Lúc đó ngài Văn Thù Sư Lợ Bồ Tát vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng :


Kinh:

Ngài Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử biết người Phước Thành đều đã đến đông đủ, tùy tâm sở thích của họ mà hiện thân tự tại ánh sáng rực rỡ chói lấp đại chúng.

Giảng:

Ngài ngồi đó, dân chúng không trông thấy ngài mà chỉ thấy một vùng hào quang sáng chói. Cũng như ngài Long Thọ nhập “Nguyệt Luân Tam Muội,” dân chúng không thấy được thân ngài mà chỉ thấy hiện lên một vừng trăng tròn lấp lánh. Thì ở đây, ngài Văn Thù Sư Lợi cũng thế, nhưng trong kinh không nói rõ đó là nguyệt luân tam muội.

Kinh:

Lại dùng đại từ tự tại làm cho họ thanh lương, dùng đại bi tự tại khởi tâm thuyết pháp, dùng trí huệ tự tại biết tâm sở thích của họ, dung biệt tài quảng đại sắp vì họ mà thuyết pháp.

Giảng:

“Dùng đại từ tự tại làm cho họ thanh lương…” tức dùng tâm đại từ để cho những người chung quanh cảm thấy mát mẻ. Trong khi ngài Văn Thù hiện hào quang lấp lánh thì ngài nhìn ngắm Thiện Tài…

Kinh:

Lúc đó ngài lại quán sát Thiện Tài Đồng Tử do cớ gì mà có tên như vậy…

Giảng:

Tài có nghĩa bóng là bảy thánh tài, tức là giới tâm, tín tâm, định tâm, huệ tâm, tàm tâm, quý tâm, v.v…

Vì Thiện Tài tu tập công đức sâu dày nên có bảy thứ báu đó.

Kinh:

Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát biết Đồng Tử này lúc mới nhập thai, trong nhà tự nhiên hiện ra lâu các thất bửu. Dưới lâu các đó có bảy phục tạng. Trên phục tạng đất tự nứt ra mọc lên nanh thất bửu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, trân châu, xà cừ, mã não…

Giảng:

Phước đức của Thiện Tài lớn đến mức độ lúc sanh, đất nứt ra và có nanh thất bửu trồi lên, không phải hoang đường đâu, đúng thật là như vậy. Cũng như chúng ta đây, có người sinh ra trong nhung lụa, có kẻ sinh ra trong nhà hạ tiện, bần hàn v.v… đều tùy theo phước báo của mình cả. Vì suy luận như vậy, nên tất cả những gì trong kinh nói đều có thể xảy ra được, nhưng vì thời này là thời mạt pháp nên ít ai có đủ phước để có những chuyện như thế xảy ra, do vậy mà đôi khi chúng ta khởi lòng nghi mà không chịu tin.

Kinh:

Ngài Văn Thù Sư Lợi lại biết Thiện Tài đã từng cúng dường quá khứ chư Phật, gieo sâu căn lành, tin hiểu rộng lớn, thường thích gần gũi các thiện tri thức. Thân ngữ ý đều không lỗi lầm, tu Bồ Tát đạo, cầu nhất thiết trí, thành Phật pháp khí. Tâm Đồng Tử này thanh tịnh như hư không, hồi hướng Bồ Đề không chướng ngại…

Giảng:

Vì tâm Thiện Tài thanh tịnh như hư không, hồi hướng Bồ Đề không chướng ngại, nên ta phải hiểu rằng, Thiện Tài đã đi gần hết bậc thập hồi hướng rồi, mà tâm thanh tịnh như hư không tức là đã gần vào được đến không hải. Trong kinh thường tả ở không hải cũng có nhiều mức độ thanh tịnh, tu càng sâu thì càng vào đến mức độ thanh tịnh tột bực, tức là vào đến tột không cũng là ngằn mé của diệu hữu.

Kinh:

Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát quán sát Thiện Tài như vậy rồi, liền an ủy chỉ dạy tất cả Phật pháp. Những là nói pháp tích tập của tất cả Phật, pháp tương tục của tất cả Phật. Pháp thứ đệ của tất cả Phật. Pháp chúng hội thanh tịnh của tất cả Phật. Pháp pháp luân hóa đạo của tất cả Phật…

Giảng:

Bây giờ đã hết giờ rồi, ta nên tạm ngưng ở đây, sẽ tiếp theo kỳ sau…


4 tháng Ba 1990

 

Kính thưa Thượng Tọa trụ trì cùng chư vị đạo hữu…

Hôm nay là buổi thuyết giảng thứ 103 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này…

Vừa rồi, chúng ta có tụng phẩm “Thập Hồi Hướng,” đến chỗ hồi hướng thứ tám tức là Chân Như Tướng Hồi Hướng. Nếu quí vị để ý sẽ thấy văn chương trong phẩm này rất hay, có lẽ không có sách vở thế gian nào sánh kịp. Đồng thời, chúng tôi cũng xin nhắc rằng, tất cả những thiện căn của mình, nếu ta mang tâm vô trước, vô ngại mà hồi hướng, thì những thiện căn đó sẽ đi đến bình diện sâu nhất của tâm thức, tức là bình diện Chân Như. Giống như một làn sóng, thiện căn của mình cũng đi y như vậy, nếu nó đập vào những chỗ dưới, nó dội lại rất ít, nhưng nếu nó đi sâu vào biển chân như, thì sự dội lại liên miên vô cùng tận. Chỗ đó là tất cả bí ẩn của đạo Phật. Nên ở phẩm thập hồi hướng, đức Phật dạy chúng ta làm cách để có thể tăng trưởng thiện căn của mình đến chỗ vô cùng, vô tận.

Lần trước, chúng ta đã gặp ngài Thiện Tài, và đến chỗ ngài Văn Thù Sư Lợi sắp dạy Thiện Tài. Nhưng trước khi trở vào kinh, chúng tôi xin nhắc quí vị mấy điểm về vấn đề thiền quán của Thiền Tài Đồng Tử, những điểm này cần phải lưu tâm đến thì mới có thể hiểu rõ được vị trí của ngài sau này…

Chúng ta thường đọc các sách của những vị Tổ thiền tông để lại, nói về không, trung, giả. Nhiều khi ta thấy những chữ đó rất xa lạ, nhưng cũng chính những chữ đó đem lại cho ta nhiều ý tưởng lạ lùng.

Hằng ngày, tâm thức chúng ta thường qua lại giữa cái không và cái giả mà không bao giờ biết. Tại sao? Ví dụ như khi ta ra vườn tưới cây, ta để ý đến cây cỏ, đó là ta đang đi vào giả, vì lúc đó ta khởi nhiều tâm niệm về pháp giới, khởi tâm yêu, ghét, hoặc không yêu không ghét v.v… Nhưng sau đó, ta thấy mệt, dừng lại, thì lúc đó, ta đang đi vào không (dù chỉ là một cái không nông cạn trên bình diện tưởng ấm). Sau đó đi vào nhà, mở sách đọc mấy trang kinh, suy tư về kinh, thì đó là ta đang đi vào diệu hữu, và nếu suy tư về tánh không thì lúc đó ta đang đi vào không. Nói cho dễ hiểu hơn, trong chúng ta có năm lớp, gọi là năm ấm: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, và thức ấm. Khi những vị thiền sưtu xuyên qua những lớp sương mù đó, họ có thể vào được đến hành ấm hoặc đến thức ấm. Trong khi chúng ta kém hơn, ta suy nghĩ thì chỉ lăng xăng ở tưởng ấm mà thôi, nhưng so với sắc ấm thì cũng sâu hơn nhiều. Một hành động chúng ta làm, như tưới cây chẳng hạn, thì nó ở bình diện của thân, tức là sắc ấm, nhưng ta không làm nữa, ngưng lại để suy nghĩ, thì lúc đó chúng ta vượt sắc ấm đi vào tưởng ấm. Vì vậy, chúng ta cũng luôn luôn làm con thoi, đi ra đi vào hàng ngày từ giả vào không mà chúng ta không hề biết. Vì vậy nên nhớ rằng: chư Phật và Đại Bồ Tát chỉ khác chúng ta ở một điều, khi các ngài làm con thoi từ giả vào không các ngài đi vào không rất sâu và liễu tri rành rẽ. Còn chúng ta cũng làm con thoi từ giả vào không nhưng chỉ lăng xăng từ sắc ấm đến tưởng ấm là cùng, lại không liễu tri được gì mấy, mà còn khởi đầy đủ vọng tình vọng tưởng, nên sinh ra nhiều kiến chấp và tà kiến. Vì vậy, sự chuyển động tâm thức là một sự tự nhiên, đạo Phật chỉ dạy cho chúng ta làm sâu sắc hơn, đến chỗ mầu nhiệm. Tâm thức của chúng ta không thể nào vượt ra khỏi giữa cái không với cái giả được, giống như một ông lái đò chỉ lăng xăng ở giữa dòng mà không vào đến bến. Nói một cách hệ thống hơn, muốn quán đi vào không ta phải quán nhân duyên, lên trên là quán như huyễn.

Tôi xin lược nói sơ qua cho quí vị dễ hiểu. Đầu tiên ta phải buộc tâm vào một chỗ, như vào chóp mũi hay bạch hào chẳng hạn, và chỉ khởi một niệm là tâm mình trụ ở bạch hào, còn tất cả những tâm niệm khác đều không cho xen vào, không cho khởi lên. chú tâm lâu, lúc đó trong tâm hành giả chỉ còn một làn sóng duy nhất, có thể gọi là định. Sau đó hành giả có thể quán chóp mũi hay hơi thở đều do vô lượng nhân duyên họp lại mà thành, đó là quán về sắc tướng. Quán lâu, tâm thức hành giả sẽ bén nhạy, có thể chia chẻ tiêu dung sắc â’m, rồi tiêu dung cảm giác, tâm tưởng, có thể qua được những lớp sương mù của các ấm để vào đến thức ấm, tức là chớm vào không hải. Vì vậy, trong đạo Phật nếu không giảng kỹ về năm ấm này chính là thức biến thì ta cũng không nắm vững được ý kinh cho lắm. Đại lược là như vậy. Đến khi hành giả vào đến không hải rồi (tức là thức ấm), giống như một con thỏ, chân đã chấm vào nước, thì đây là mức độ của ngài Thiện Tài, đứng ở bờ rồi, thò được chân xuống nước, nhưng chưa thể lặn sâu đến đáy biển, và cần phải lặn sâu xuống đáy biển mới lấy được châu báu. Hành trình đi tìm cầu thiện tri thức của Thiện Tài chính là để lặn sâu vào tàng thức ấy thôi. Khi đã lặn hơi sâu rồi, không được dừng chân. Phải khởi quán giả và Đại Bi Tâm… Nhà Thiền Đông Độ gọi là “thõng tay vào chợ,” tức là sau khi tu trong núi vài ba chục năm, vào được không hải vững rồi, tâm không còn bị lắt lay, lúc đó các ngài cần “thõng tay xuống núi,” đi vào chợ, trải tâm mình trên các nhân duyên, dù là ngang, ngược, dọc, xuôi, lên cao, xuống thấp v.v…, tất cả duyên sự đến, tâm hành giả tiếp ứng mà không được xao động. Trong khi đi vào những nhân duyên đó, hành giả vẫn phải quán nhân duyên, để nhớ rằng những cảnh giới đều là giả cả. Lần lữa qua các kiếp, sẽ thuần thục, đắc ngả không pháp không, được vô sanh nhẫn. Rời bỏ nhục thân, lấy Pháp thân, làm Pháp thân Bồ Tát. Vì trong việc độ sanh, nhục thân không làm được mấy đỗi, nó chỉ có một cái lưỡi, hai bàn tay, hai chân v.v… dù có độ suốt đời cũng không được mấy. Nên cần lên đến bậc “Vô sanh pháp nhẫn,” tức là Bồ Tát đệ bát địa, để có thần thông hóa thân vô lượng để độ sanh. Đó là quán giả của các bậc Bồ Tát. Đến khi vào trung đạo, hành giả phải làm con thoi giữa không và giả, đó là quán như huyễn. Như huyễn tức là không thật, không hư, tức là quán trung đạo để dần trôi vào biển Đại Giác. Nói về quán như huyễn này, theo ý tôi, cần nêu lên những hình ảnh cho quí vị dễ nhớ, dễ làm và còn đem lại sự thích thú nữa. Nghĩa là khi ta gặp bất cứ cảnh giới nào, bệnh hoạn, gặp khó khăn, hay tất cả những chuyện vui buồn khác xin quí vị nghĩ rằng đó là như hoa trong gương, trâng đáy nước, ngay cả người vợ, người chồng, con cái mình cũng chỉ là những chập chùng huyễn hiện, còn duyên thì hiện ra, hết duyên thì ẩn đi, chợt hiện rồi chợt tan. Nếu chịu khó suy nghĩ kỹ ta sẽ thấy đúng như vậy, suy tư lâu dần, sẽ ra khỏi tất cả tình nhiễm.

Một lối quán thứ hai là quán về tia chớp nháng (flash), sát na của nhà Phật. Mọi sự mọi vật chỉ được tạo dựng lên bằng vô lượng vô số tia chớp nháng, phụt lên từ Tàng thức sơ năng biến, kết lại thành ảnh tượng. Khi duyên chín mùi thì nó tới, hiện ra với mình, sau một vài chục năm, duyên hết, nghiệp dứt thì nó lại tắt đi. Những tia chớp nháng ấy phụt lên, rồi tắt đi ngay, sau đó, tia sau lại phụt lên, giống hệt nhưtia trước, kết thành những ảnh tượng tương tợ tương tục mà ta lầm tưởng là có thực và là người thân của mình. Khi hiểu được như vậy, thì tất cả tài, sắc, danh, lợi, thực thùy v.v… nó cũng nhẹ bớt vài phần. Dĩ nhiên không thể nào nhẹ được hết, vì sự quán chiếu của chúng ta còn quá thấp, và vì nghiệp chướng còn sâu dày, nhưng chắc chắn cũng làm cho chúng ta vơi được ưu tư và sầu khổ. Nếu quán chiếu lâu, dần dần ta sẽ được một tâm bình đẳng, người thân, kẻ sơ cũng không khác biệt gì mấy, mà lúc đó ta sẽ khởi được tâm đại từ bi muốn độ hết tất cả chúng sanh.

Đó là những pháp mà tôi cho là dễ quán mà lại thích thú, đồng thời lại thênh thang, vì đi đâu cũng có thể quán chiếu được. Đến khi ta nghĩ được rằng tất cả đều là hoa trong gương, trăng đáy nước, thì tâm ta sẽ nhẹ đi nhiều, và những thiện căn tích tập cũng tăng trưởng rất nhiều.

Đó là sơ lược những điểm về thiền, để quí vị thấy rõ rằng, thiền nó lồng vào trong đời sống chúng ta, lúc nào cũng làm được, lúc nào chúng ta cũng có thể không quán và giả quán, lúc nào cũng có thể thấy hoa trong gương, trăng đáy nước. Ngay cả hơi thở ra vào của ta cũng vậy, nó chính là hơi thở của Bát Nhã và Đại Bi, khi trong tâm ta có những niệm Bát Nhã và Đại Bi tức là lúc đó ta đang thiền, một thứ thiền cao, lần lần có thể đi sâu vào pháp giới.

*

Điểm thứ hai tôi xin nhắc quí vị hôm nay là về điểm a-tăng-kỳ. Trong đạo Phật, nói đến a-tăng-kỳ là chỉ cho kiếp số về thời gian, có khi một a-tăng-kỳ rất nhanh, có khi lại rất chậm. Đó là tùy tâm hành giả. Như nhân vật Long Nữ trong kinh Pháp Hoa đạt tới Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nhanh chỉ trong khoảng khắc, ngược lại, có khi phải tu 3 a-tăng-tỳ mới chứng đắc. Theo kinh, a-tăng-kỳ tu tập thứ nhất trải từ thập tín, thập trụ cho đến thập hồi hướng, hành giả tu những thứ đó có thể trong một kiếp, hai kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp nhẫn đến a-tăng-kỳ kiếp. Còn a-tăng-kỳ thứ hai thì bắt đầu từ bậc Bồ Tát sơ địa, đến địa thứ bảy, tức là Viễn Hành địa. ở a-tăng-kỳ này, hành giả dần dần có nhiều thần thông, ở sơ địa, hành giả có thể hóa hiện 100 hóa thân, mỗi một nấc lên cao, thần thông lại càng nhiều, đến địa thứ bảy, Viễn Hành địa các vị Bồ Tát thường hóa hiện vô lượng hóa thân. Song việc hóa hiện vẫn còn hạn hẹp, và gọi là “tam muội nhạo ý sanh thân.” Tức là bậc Bồ Tát muốn hiện hóa thân thì phải nhập tam muội. Vào tam muội thì “nhạo ý,” tùy theo ý niệm của bậc Bồ Tát đó vui thích khởi tâm niệm gì để biến hóa thân mình, còn xuất tam muội thì không hóa hiện được. Kinh có kể nhiều vị thiện tri thức hiện hóa thân bời bời, và đó là con đường tu chứng của a-tăng-kỳ thứ hai… Đến a-tăng- kỳ thứ ba là từ Bất Động địa, địa thứ tám lên đến gần Diệu Giác. Lúc này, các Đại Bồ Tát đã có thần thông vô lượng gọi là “Giác Pháp TựTánh Tánh Ý Sanh Thân.” ở bực này, các ngài không cần phải vào tam muội, vì lúc nào các ngài cũng ở trong tam muội. Cho nên, chuyện vãng sanh Cực Lạc quan trọng kinh khủng, vì nếu được sang bên kia rồi, lúc nào chúng ta cũng ở trong định, và lúc nào cũng có thể hóa thân độ sanh. Kinh dạy rõ rằng, tuy chúng ta còn nghiệp chướng, nhưng khi sang Cực Lạc rồi, lúc nào cũng ở trong định và có ngũ thông. Vì vậy, cầu vãng sanh và tu theo tịnh độ là một pháp môn tối thắng. Tối thắng vì dễ làm, dễ nhớ, chỉ có cái là nhiều người không chịu tin và không chịu hiểu mà thôi. Còn như chúng ta tu thiền thì có khi phải qua nhiều a-tăng-kỳ mới đến được đệ bát địa, tức Bất Động địa.

Đến đây, cần nhận xét rằng trong phẩm nhập pháp giới, ngài Thiện Tài đi qua 53 vị, không có vị nào dạy ngài quán sổ tức, quán bất tịnh, cũng không có vị nào dạy quán tứ đế hay thập nhị nhân duyên, hoặc quán thoại đầu hoặc quán công án cả. Vì sao? Vì tất cả những thứ đó đều là những chặng đường đi vào không quán, còn Thiện Tài đã thành tựu không quán rồi nên kinh mới nói rằng “thân, ngữ, ý không lỗi lầm, tâm thanh tịnh như hư không, hồi hướng bồ đề không chướng ngại…”

Ta nên đem ngài Thiện Tài so sánh đôi chút với lịch sử nhà Thiền Đông Độ. Trong lịch sử nhà thiền, có ngài Huệ Khả tức là tổ thứ nhì bên Trung Hoa. Ngài đến xin thọ giáo ngài Đạt Ma. Hôm đó là một ngày mưa tuyết, ngài Huệ Khả quì ngoài sân thỉnh đạo nhưng không thấy ngài Đạt Ma nói gì. Ngài Huệ Khả muốn tỏ lòng chí thành của mình, nên chặt một cánh tay. Lúc đó, ngài Đạt Ma mới mở mắt và hỏi rằng: “Ông đến đây có lòng cầu gì?” Huệ Khả thưa “Xin thầy an tâm cho tôi,” “Vậy tâm ông đâu, đưa đây tôi an cho.” Ngài Huệ Khả nghĩ một lúc thưa rằng: Con không thấy tâm đâu cả.” “Vậy thì ta đã an tâm cho ngươi rồi đó.” Ta tạm ngừng câu chuyện thiền ở đây, để xem coi mức độ tu chứng của ngài Huệ Khả so với ngài Thiện Tài như thế nào? (Vì cần tìm xem mức độ thiền định của hai bên để hiểu con đường thiền như thế nào). Sau khi nghe ngài Đạt Ma hối tâm đâu, đưa ta an cho, thì ngài Huệ Khả tìm tâm mình qua sắc ấm, qua thọ ấm, tưởng ấm, rồi đến hành ấm cũng không thấy được tâm, như vậy đủ hiểu rằng ngài Huệ Khả đã sắp vào thức ấm rồi. Ở đây, ngài Huệ Khả còn kém ngài Thiện Tài một chỗ là ngoài cái thành tựu không quán, ngài Thiện Tài còn có rất nhiều phước đức và thánh tài. Riêng về mức độ thiền quán, cả hai đều sấp xỉ, tức là đều mới chớm vào thức ấm… Sau đó, Huệ Khả tu ít lâu, một hôm ngài Đạt Ma hỏi rằng: “Ông đã buông được muôn duyên chưa?” “Con đã buông được rồi.“Tức là buông tất cả giả pháp để vào đến không hải. Nhưng ngài Đạt Ma vội nhắc ngay: “Cẩn thận, chớ rơi vào đoạn diệt, hãy đi vào diệu hữu…”Ý ngài muốn nói rằng: ông nên cẩn thận, đừng dừng ở không hải, phải nhớ đến cái bi nguyện từ nhiều kiếp mà hãy trở ra giả quán…

Vì nếu cứ ngồi lỳ trong không hải, thì rơi vào hôn trầm vô ký. Trong kinh nói rất rõ, có điều chúng ta phải mò mẫm đối chiếu mới hiểu được rành rẽ con đường tu hành và mức độ nông sâu của nó…

Sau cùng, khi ngài Đạt Ma sắp tịch diệt, ngài họp các môn đệ mà hỏi rằng: “Bấy lâu nay, ta dạy các ông, nay các ông trình bày chỗ chứng đắc cho ta nghe.” Đầu tiên, một vị đệ tử tên Đạo Phó bước ra nói rằng: “Theo ý con nghĩ thì không được chấp văn tự, cũng không được lìa văn tự.” “Ông được phần da của ta.”Có nghĩa là sao? Thiền Đông Độ chủ trương bất lập văn tự. Nhưng ông Đạo Phó này đã hiểu được trên cái lý bất nhị, giữa văn tự và Thật Tướng Như Như. Chấp văn tự thì quên mất Thật Tướng. Còn lìa văn tự tức là không hiểu rằng văn tự chính là sự hiện tướng của Như Như. Tuy nhiên, ông chi hiểu trên lý thôi, còn trên sự thì chưa có gì cả, vì vậy ngài Đạt Ma mới bảo rằng: Ông mới được cái phần da của ta… Đạo Phật là đạo bình đẳng vô nhị, không có một pháp nào có thể nói là có, hoặc có thể nói là không. Giống như tôi và quí vị, không thể nói là một, vì tất cả đều khác biệt, song cũng không thể nói là khác, vì những phần vi tế của chúng ta vẫn dung thông với nhau, và chúng ta đều khởi lên từ tàng thức đó… Nói rộng hơn, cõi Ta Bà không thể coi là một và cũng không thể coi là khác với cõi Cực Lạc, vì nó chỉ khác trên phần thô kệch, mà lại thông suốt nhau trong phần vi tế. Nên trong kinh vẫn thường nói, khi đức Phật dùng thần lực thì tất cả các cõi đều thông suốt. Đó là nguyên lý bất nhị, nhưng không phải là nguyên lý đồng nhất của các triết học Tây phương, vì đạo Phật không phải là biện chứng đồng nhất, mà là biện chứng Nhất như… Trở lại câu chuyện thiền Đông Độ, đến vị đệ tử thứ nhì là một vị sư ni, tên Tổng Trì bước ra nói rằng: “Theo như con, con cảm thấy hơi giống như ngài A Nan, vì con chỉ thấy được cõi Phật A Súc một lần thôi, sau đó không nhìn thấy nữa…” “Ngươi được phần thịt của ta.” Nghĩa là sao? ở đây, ta lại phải nương theo năm ấm để giải thích, thì mới thấy rằng năm ấm trong Lăng Nghiêm rất quan trọng. Nếu quí vị đọc Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm v.v,.. mà không hiểu rõ về năm ấm thì không cách gì hiểu rõ được kinh. Trong trường hợp của vị ni cô Tổng Trì này, bà là người tu hành không quán, bà đã đi qua được sắc ấm mà không chấp ở sắc ấm nữa, qua được cảm giác biết được thọ ấm là hư minh, qua được tưởng ấm vì biết thứ đó đều là những dung thông vọng tưởng, qua được một chút cái ngã là hành ấm, nhưng bà dừng ở đó mà chưa vào được thức ấm. Nhưng có một lần, bà đột nhập được vào thức ấm, hoặc do sức gia trì của ngài Đạt Ma, hoặc do một cơ duyên nào đó, nên bà trông thấy cõi Phật A Súc ở phương Đông, tức là bà đã lọt được vào tàng thức sơ năng biến nhìn thấy được như thế. Nhưng sau đó, lại bị mất tam muội ấy, không thể trở lại được nữa, bà chưa làm chủ được tam muội ấy một cách thường trực nên chỉ lọt được vào một lần thôi. Bà đang đứng giữa ranh giới của hành ấm và thức ấm. Vì vậy nên ngài Đạt Ma mới bảo rằng bà được phần thịt của ngài. (Chúng ta cũng nên để ý giữa sự đối đáp của ngài Đạt Ma và các vị đệ tử của ngài thì thấy rõ từng bậc tu chứng đi lên, về sau Thiện Tài trong kinh Hoa Nghiêm cũng vậy). Đến vị đệ tử thứ ba nói rằng: “Con nghĩ rằng, bốn đại vốn không, năm ấm chẳng có nên theo ý con thì không có một pháp nào có thể có được.” “Ông đã được cái phần xương của ta. “Bốn đại là địa, thủy, hỏa, phong, và năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Bốn đại là chỉ sắc ấm, nên vị này sau khi quán chiếu bốn đại, năm ấm một cách rốt ráo thì thấy tất cả đều không có thực, vì vậy không thể có một pháp nào có thể có.

Tu hành là gì? Là tới chỗ hành giả giác ngộ, hiểu rõ rằng không có một pháp nào có thể có được, thành Vô Thượng Giác, tức nhập pháp giới trọn vẹn, đồng thời cũng hiểu rằng vì không có pháp nào có thể có được nên mọi pháp chỉ là hoa trong gương, trăng đáy nước mà thôi… Sau cùng, ngài Huệ Khả bước ra, ngài đứng im không nói gì cả, giống như ngài Duy Ma vậy, tức là lúc đó ngài đã buông bỏ nhân duyên, khởi giả quán và đi vào trung quán nhiều rồi. Khi vào trung quán tức là vào đến chỗ im lặng, như như, vô ngôn, nên ngài Đạt Ma mới bảo rằng: “Ông được cái phần tủy của ta.”

Nên vì vậy, ta thấy rõ được trình tự của con đường thiền quán là như thế, sở dĩ tôi phải nói một cách hơi dài dòng, chính là để soi sáng về ngài Thiện Tài, và sau đây, khi đi vào kinh, ta có thể hiểu ngài Thiện Tài đến được mức độ nào rồi.

Trước khi đi vào kinh, tôi cũng xin mở một dấu ngoặc để nói đến chữ “diệu trang nghiêm.” Đó là chữ chỉ cho cái tàng thức sơ năng biến. Cũng như trong kinh, ta hay gặp những chữ như: trang nghiêm, phổ trang nghiêm, thanh tịnh trang nghiêm, và diệu trang nghiêm. Diệu trang nghiêm là -chỉ đến chỗ tột cùng vào cái tàng thức.

Tỷ dụ như khi Thiện Tài đến gặp ngài Di Lặc, ngài Di Lặc hiện ra diệu trang nghiêm lâu các, đó cũng chính là cái pháp giới này, cũng chính là cái tàng thức của ngài vậy. Vì tàng thức ngài đồng nhất hóa với pháp giới, nên ngài muốn hiện cảnh giới nào cũng được. Còn ở vị thiện tri thức thứ năm, ngài này cũng đạt được môn giải thoát gọi là “vô ngại trang nghiêm,” tức là đi vào tàng thức đó một cách vô ngại, nhưng ở mức độ này thì nông hơn, vì chỉ có trang nghiêm mà thôi. Rồi đến vị thiện trí thức Từ Hạnh cũng thế, ngài cho Thiện Tài coi lâu các của ngài, thì cũng là sự biến hiện trong tàng thức và của pháp giới này. Những vị sau, dần dần càng đi sâu vào tàng thức cho đến ngài Di Lặc thì gọi là Diệu Trang Nghiêm Lâu Các. Nên phải hiểu rằng, hành trình tìm cầu thiện tri thức của Thiện Tài là đi trong tàng thức của mình, cũng là đi trong tàng thức của các vị thiện tri thức, đồng thời cũng là đi trong pháp giới, vì tất cả ba mà đồng nhất làm một.

Điểm thứ hai cần nhớ là trong 53 vị thiện tri thức, lời các ngài nói như nước chảy mây trôi, nhiều khi người đọc lạc lung tung trong đó. Nhưng thực ra chỉ có độ 6, 7 vị đầu tiên là chỉ những nét chính về tu hành và chỉ con đường quán giả, sau là quán trung, còn những vị về sau, các ngài thường mở những cảnh giới trong tàng thức của các ngài cho Thiện Tài vào. Song ta nên nhớ rằng, mỗi vị đều tu theo một lối, có vị tu theo bố thí, có vị tu theo tâm từ, hoặc như ngài Tự Tại Đồng Tử Bồ Tát tu theo toán số cùng công xảo ở thế gian này v.v… Nói tóm lại, mỗi vị tu theo một cách, trăm hoa nghìn lá, nhưng nét chính là chỉ có khoảng bảy vị đầu chỉ rõ cho Thiện Tài con đường quán giả và quán trung, còn những vị sau chỉ như hoa, lá, cành, rất đẹp mà thôi, vì đó cũng chính là pháp giới vậy.

Vì vậy, phẩm nhập pháp giới rất khó và chập chùng ở chỗ nó vừa là cảnh giới trong tàng thức, mà đồng thời cũng chính là cảnh giới của pháp giới này, vì sao? Vì trong tàng thức của các ngài đẹp đẽ như thế, và tàng thức ánh ra pháp giới, và nếu tâm của hành giả tương ưng, hoặc được sự gia trì của các ngài thì hành giả sẽ thấy những thứ ấy.



Lành thay tạng công đức

Có thể đến gặp ta

Phát khởi tâm đại bi

Siêng cầu Vô Thượng Giác.

Ðã phát nguyện rộng lớn

Diệt trừ khổ chúng sanh

Vì khắp các chúng sanh

Tu hành Bồ Tát hạnh.

Nếu có các Bồ Tát

Chẳng nhàm khổ sanh tử

Thời đủ đạo Phổ Hiền

Tất cả không hoại được.

Phước quang, phước oai lực

Phước xứ, phước tịnh hải

Ngươi vì khắp chúng sanh

Nguyện tu Phổ Hiền hạnh.

Ngươi thấy vô biên tế

Mười phương tất cả Phật

Khắp nghe Phật thuyết pháp

Thọ trì chẳng quên mất.

Ngươi ở mười phương cõi

Thấy khắp vô lượng Phật

Thành tựu những nguyện hải

Ðầy đủ Bồ Tát hạnh.

Nếu nhập phương tiện hải

An trụ Phật Bồ đề

Hay theo Ðạo Sư học

Sẽ thành Nhứt thiết trí.

Khắp tất cả quốc độ

Số kiếp như vi trần

Ngươi tu hạnh Phổ Hiền

Thành tựu Bồ đề đạo.

Ở vô lượng cõi nước

Trong vô biên kiếp hải

Ngươi tu hạnh Phổ Hiền

Thành mãn những đại nguyện.

Vô lượng chúng sanh đây

Nghe ngươi nguyện đều mừng

Ðều phát tâm Bồ đề

Nguyện học hạnh Phổ Hiền.

 

 

Nói kệ xong, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo Thiện Tài đồng tử rằng :

Lành thay ! Lành thay ! này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, cầu hạnh Bồ Tát.

Này thiện nam tử ! nếu có chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, đây là việc rất khó. Ðã có thể phát Bồ đề tâm rồi lại cầu Bồ Tát hạnh, việc này càng khó gấp bội.

Này thiện nam tử ! Nếu muốn thành tựu Nhứt thiết chủng trí thời phải quyết định cầu chân thiện tri thức.

Này thiện nam tử ! Cầu thiện tri thức chớ có mỏi lười. Thấy thiện tri thức chớ có nhàm đủ. Thiện tri thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy thuận. Nơi thiện xảo phương tiện của thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm.

Phương nam này có một nước tên là Thắng Lạc. Trong nước Thắng Lạc có tòa núi tên là Diệu Phong. Trên núi đó có một Tý kheo tên là Ðức Vân. Ngươi nên đến hỏi Tỳ Kheo Ðức Vân : Bồ Tát phải học Bố Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải như thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ? Tỳ Kheo Ðức Vân sẽ chỉ bảo cho ngươi. 


Đây, xin đi vào kinh…

Trong kinh, ngài Văn Thù minh định rõ ràng vị trí của Thiện Tài, trong bốn câu kệ đầu tiên:

Kinh:

Lành thay tạng công đức Có thể đến gặp ta Phát khởi tâm đại bi Siêng cầu Vô Thượng Giác.

Giảng:

Ở đây, kinh tả rằng thiện căn và công đức của Thiện Tài rất nhiều, đã vào được đến không hải, bây giờ chỉ muốn khởi tâm đại bi để siêng cầu Vô Thượng Giác, khởi tâm đại bi tức là khởi diệu dụng của Không Hải Bát Nhã để đi vào pháp giới, và độ chúng sanh.

Kinh:

Ngài Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử lại biết Thiện Tài đã từng cúng dường quá khứ chư Phật, gieo sâu căn lành, tin hiểu rộng lớn, thường thích gần gũi các thiện tri thức, thân, ngữ, ý đều không lỗi lầm, tu Bồ Tát đạo, cầu nhứt thiết trí thành Phật pháp khí, tâm Đồng Tử này thanh tịnh như hư không, hồi hướng bồ đề không chướng ngại. Ngài Văn Thù Sư Lợi quán sát như vậy rồi liền an ủy chỉ dạy tất cả Phật pháp. Những là nói pháp tích tập của tất cả Phật, pháp tương tục của tất cả Phật, pháp pháp luân hóa đạo của tất cả Phật, pháp sắc thân tướng hảo của tất cả Phật, pháp pháp thân thành tựu của tất cả Phật, pháp ngôn từ biện tài của tất cả Phật…

Giảng:

Ta nên trở lại từng chữ một trong kinh…

“NHỮNG LÀ NÓI PHÁP TÍCH TẬP CỦA TẤT CẢ PHẬT…” Tích tập là chứa nhóm, pháp tích tập là tất cả các pháp mà từ xưa các đức Phật tu ra sao, để nói cho Thiện Tài nghe. “PHÁP TƯƠNG TỤC CỦA TẤT CẲ PHẬT…,” tức là tất cả các hành pháp của chư Phật khởi lên, lúc nào cũng tương tục, từ kiếp này qua kiếp khác. “PHÁP THỨ ĐỆ CỦA TẤT CẢ PHẬT…,” tuy các ngài tu tương tục như thế, nhưng đến khi các ngài xuất hiện nơi đời, các ngài luôn luôn xuất hiện theo thứ đệ mà dạy các chúng sanh. “PHÁP LUÂN HÓA ĐẠO CỦA TẤT CẢ PHẬT..” tức là các ngài chuyển pháp luân để nói pháp, “PHÁP SẮC THÂN TƯỚNG HẢO CỦA TẤT CẢ PHẬT,” tức là chư Phật phải tu ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp để khi xuất hiện ở thế gian, chúng sanh chỉ cần nhìn những tướng hảo tốt đẹp như vậy đã tăng trưởng nhiều thiện căn rồi. Đại khái trong đoạn này, kinh nói rằng lúc nào cũng kết thúc bằng quang minh chiếu diệu đó, chiếu diệu các pháp bình đẳng, vô nhị, đồng thời gần tới chỗ thấy không còn một pháp nào nữa. Vì vậy, ngài Huệ Năng dạy rằng: “Đức Phật chỉ dạy cái pháp vô nhị,” vì sao? Vì khi ta còn chấp có pháp này, tức là tâm ta còn trụ vào pháp đó, nhưng đến khi tâm không chấp trước vào bất cứ pháp nào cả, tức là gần đến chỗ như như vô nhị rồi…

Kinh:

Ngài Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử vì Thiện Tài Đồng Tử và đại chúng mà nói những pháp như vậy rồi, lại ân cần khuyên dạy cho họ tăng trưởng đạo lực, cho họ hoan hỷ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lại làm cho họ tự ghi nhớ thiện căn thuở quá khứ. Ngài là vì tất cả đại chúng mà tùy nghi thuyết pháp. Sau đó ngài rời rừng mà đi.

Ngài Thiện Tài được nghe pháp nơi ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, được nghe những công đức của chư Phật như vậy, liền nhứt tâm cần cầu Vô Thượng Bồ Đề, đi theo ngài Ỵăn Thù Sư Lợi Bồ Tát mà nói kệ rằng:

Giảng:

Lúc trước ngài tu tam hiền, Trụ Hạnh và Hồi Hướng, thì Thiện Tài có lẽ chưa hiểu rõ pháp Phật ra sao, tuy rằng tu rất nhiều kiếp, ngài chưa hiểu rõ chính diệu tâm hiện ra chư Phật mười phương, công đức của chư Phật vô lượng, và chính các chư Phật và pháp giới là một, cũng là sự biến hóa không cùng tràn đầy thế gian. Bây giờ, Thiện Tài mới thấy rõ lẽ đó. Nên lúc này, Thiện Tài mới nhất tâm cầu Vô Thượng Giác. Tôi xin đọc mấy câu kệ ngài Thiện Tài nói với ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Kinh:

Thế gian chấp điên đảo Thường thích tưởng ngã tịnh

Giảng:

Ý muốn nói rằng, chúng sanh thường hay có điên đảo tưởng, những pháp vô ngã lại nghĩ là có ngã, những pháp bất tịnh, lại cho là thanh tịnh.

Kinh:

Trí nhãn đều rời được
Dạy tôi môn giải thoát
Khéo biết đường tà, chánh
Biết rõ tâm không khiếp
Đấng quyết rành tất cả
Dạy tôi được Bồ Đề.

Giảng:

Lúc đầu Thiện Tài xin với ngài Văn Thù “dạy tôi môn giải thoát” thôi, sau ngài lại lên dần đến chỗ “dạy tôi được Bồ Đề,” tức là đến chỗ Vô Thượng Giác để có thể nhập pháp giới trọn vẹn. Phẩm này rất dài, vì vậy tôi lược bớt mà chỉ đọc lên những lời kinh chính.

Kinh:

… Lúc đó ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát như tượng vương, xoay nhìn Thiện Tài Đồng Tử mà bảo rằng: Lành thay, lành thay, này thiện nam tử, ngươi đã phát tâm Vô Thượng Bồ Đề lại muốn thân cận các bực thiện tri thức để hỏi Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo. Này thiện nam tử, thân cận cúng dường các bực thiện tri thức là nhơn duyên trước nhứt để được đầy đủ nhứt thiết trí.

Giảng:

Ngài Văn Thù muốn nói rằng từ đây trở lên, con đường đi vào tàng thức mịt mùng không phải người nào cũng có thể đi một mình được, và muốn đi sâu vào biển không hải đó, muốn lặn đến đáy tầng tâm thức ấy thì phải có thầy dạy.

Kinh:

Vì thế nên công việc này ngươi chớ có mỏi nhàm.

Thiện Tài Đồng Tử bạch rằng: Cúi xin đức thánh vì tôi mà dạy Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh thế nào, phải nhập Bồ Tát hạnh thế nào, phải tịnh Bổ Tát hạnh thế nào, phải thành tựu Bồ Tát hạnh thế nào, phải tùy thuận Bồ Tát hạnh thế nào, phải ghi nhớ Bồ Tát hạnh thế nào, phải thêm rộng Bồ Tát hạnh thế nào, phải viên mãn Bồ Tát hạnh thế nào,…

Giảng:

Quý vị cũng nên để ý theo dõi lời bạch của Thiện Tài với ngài Văn Thù Sư Lợi, vì lời bạch này cũng chĩ rõ nấc thang đi lên… Lúc đầu, ngài hỏi về Bồ Tát hạnh, sau đó hỏi về tịnh, rồi tùy thuận, rồi thêm rộng và cuối cùng là làm thế nào để được viên mãn. Đây là Thiện Tài hỏi cả một hành trình đi vào đến đáy biển không hải đó. Ngài Văn Thù Sư Lợi nói một bài kệ dài, xin đọc bốn câu đầu cho quí vị nghe:

Kinh:

Lành thay tạng công đức
Có thể đến gặp ta
Phát khởi tâm đại bi
Siêng cầu Vô Thượng Giác
Nếu có các Bồ Tát
Chẳng nhàm khổ sanh tử
Thời tu đạo Phổ Hiền
Tât cả không hoại được.

Giảng:

Bốn câu đầu quan trọng nhất là ngài minh định rõ vị trí của Thiện Tài là đường tu bây giờ của Thiện Tài là khởi đại bi tâm, sau đó ngài Văn Thù nhắc lại là phải đi cầu thiện tri thức…

Kinh:

Thấy thiện tri thức chớ có mỏi nhàm, thiện tri thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy thuận, nơi thiện xảo phương tiện của thiện trí thức chớ tìm cầu lỗi lầm…

Giảng:

Đại khái có nhiều vị tùy theo phương tiện để thị hiện, trông đôi khi kỳ quái, nhưng vẫn cần tùy thuận. Vả lại, ở trong kinh, Thiện Tài được lợi điểm là luôn luôn được các vị thiện tri thức giới thiệu đến một vị khác, thì dĩ nhiên những vị đó không thể là những vị “ngụy thiện tri thức” được.

Kinh:

Phương Nam này có một nước tên là Thắng Lạc. Trong nước Thắng Lạc có tòa núi tên Diệu Phong.

Giảng:

Trong kinh bao giờ cũng có hai nghĩa, nghĩa trong và nghĩa ngoài, ngoài đời có một nước tên Thắng Lạc thật, và cũng có một vị Tỳ Kheo tên Đức Vân thật. Nhưng cũng có một nghĩa bên trong tượng trưng. Vì nếu ta chỉ chấp một nghĩa trong hay chấp nghĩa ngoài một bên đều sai cả. Như ngài Quán Thế Âm, có nhiều người nói rằng ngài là tượng trưng cho luồng lực đại bi. Nhưng nói như vậy chỉ đúng được một nửa, và đó là về phương diện phi thần hóa. Còn về mặt thần hóa thì vẫn có một vị Đại Bồ Tát Quán Thế Âm thật, hiện thân để cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Đó gọi là phương tiện đại bi thần hóa. Hai ý nghĩa đó luôn luôn đi liền nhau như hai mặt đồng tiền, vì thế pháp giới này luôn phải nhìn theo hai phía, một phía là thần hóa, một phía là phi thần hóa. Cũng như về chuyện động đất, nhiều người dùng con mắt phàm thì đó là do những yếu tố thiên nhiên địa thủy hỏa phong. Song những yếu tố thiên nhiên bao giờ cũng có một vị quỉ thần vương cai quản. Nên vì thế, chúng ta tụng chú, đọc kinh có thể giảm thiểu những chuyện đó. Vì vậy, chúng ta cần nhớ rằng, trong kinh luôn luôn có nghĩa trong và nghĩa ngoài, nghĩa bóng và nghĩa đen, thần hóa và phi thần hóa tương tự như hai mặt của pháp giới.


Comments

Popular posts from this blog