ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
45.- ƯU BÀ DI HIỀN THẮNG
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ
biết
“MÔN BỒ TÁT GIẢI THOÁT VÔ Y
XỨ ĐẠO TRÀNG” nầy.
Thiện-Tài đến thành
Bà-Ðát-Na đảnh lễ HIỀN THẮNG,
hữu-nhiễu cung kính, chắp tay thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã
phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào
tu bồ-tát-đạo.
Tôi nghe đức Thánh khéo
dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
ƯU BÀ DI Hiền-Thắng nói:
Nầy Thiện-nam-từ! Ta được
môn bồ-tát giải-thoát tên là vô-y-xứ đạo-tràng. Nơi môn giải-thoát nầy, ta đã
thông đạt và đem dạy người.
Ta lại được môn vô-tận
tam-muội, vì có thể xuất sanh nhất-thiết-trí-tánh nhãn vô-tận, nhĩ vô-tận, tỹ
vô-tận, thiệt vô-tân, thân vô-tận, ý vô-tận, công-đức vô-tận, trí-huệ vô-tận,
thần-thông vô-tận.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ
biết “MÔN BỒ TÁT GIẢI THOÁT VÔ Y XỨ ĐẠO TRÀNG”
nầy.
Như chư đại Bồ-Tát tất cả
công-đức-hạnh không chắp trước, ta thế nào biết được nói được.
Nầy Thiện-nam-tử! Phương
nam có thành Ốc-Ðiền. Trong thành ấy có trưởng-giả Kiên-Cố-Giải-Thoát.
Ngươi nên đến đó hỏi
Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
24 tháng 06, 1990
45.- ƯU BÀ DI HIỀN THẮNG
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết
“MÔN BỒ TÁT GIẢI THOÁT VÔ Y XỨ ĐẠO TRÀNG” nầy.
KINH:
Này thiện nam tử, nước Ma Kiệt Đề có một tụ lạc trong đó có thành Bà Đát Na.
Trong thành ấy có một Ưu Bà Di tên là Hiền Thắng.
GIẢNG: Trong kinh
nói về các vị thiện tri thức này lúc là một Ưu Bà Di, lúc là Ưu Bà Tắc, là
Tăng, là Ni, là Bà La Môn, là Tiên, là ngoại đạo, là Chủ Dạ Thần, là Đồng Tử
v.v… Thì ở đây, là một vị Ưu Bà Di tên là Hiền Thắng.
KINH:
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học bồ tát hạnh, tu bồ tát đạo. Thiện Tài đảnh
lễ Tri Nghệ Đồng Tử, hữu nhiễu vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. Đến
thành Bà Đát Na đảnh lễ Hiền Thắng, hữu nhiễu cung kính chắp tay thưa rằng.
Bạch đức thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học
bồ tát hạnh, thế nào tu bồ tát đạo. Tôi nghe đức thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy
cho. Ưu Bà Di Hiền Thắng nói, này thiện nam tử, ta được môn bồ tát giải thoát
tên là vô y xứ đạo tràng. Nơi môn giải thoát này ta thông đạt và dem dạy người.
Ta lại được môn vô tận tam muội, vì có thể xuất sanh nhất thiết trí tánh nhãn
vô tận, nhĩ vô tận, tỷ vô tận, thiệt vô tận, công đức vô tận, trí huệ vô tận,
thần thông vô tận.
GIẢNG: Đoạn này,
cũng dễ hiểu, vị này nói một cách rất trơn tru, rằng ngài được môn tam muội cái
gì cũng vô tận cả. Đầu tiên, ngài được môn giải thoát là “Vô y xứ đạo
tràng,” tức ngài ngồi trong đạo tràng, không y xứ, không nương tựa vào
đâu. Đạo tràng ấy không phải cái nhà này, không phải khu rừng kia, không phải
cái biển ấy, cũng không phải là những đám mây bay trên cao v.v… hay một nơi nào
đó, vì không phải là bất cứ cái gì nên nó chính là cái Tâm ấy, không mắc vào
cái gì, nhưng nó rất linh động, có thể tạo ra tất cả mọi sự vật, ngài không cần
phải ở trong một đạo tràng hình tướng nào cả mà ngài trụ trong Tâm vô trụ, nên
gọi là “vô y xứ đạo tràng.” Vì đạo tràng là vô y xứ nên tam muội
trở thành vô tận, và khi vào tam muội ấy, ngài được sáu căn vô tận (nhãn, nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, ý) đồng thời công đức, trí huệ, thần thông cũng vô tận, vì khi
tới Vô tận tam muội thì (như trong kinh Lăng Nghiêm dạy), gần như đức Quán Thế
Âm, nghĩa là, toàn thân thành một khối bảo giác viên dung. Nói rõ hơn cho dễ hiểu,
như mắt chúng ta đây, xứ sở của nó thì ta cho, nó ở trên mặt mình, chỉ trông được
một tầm nào đó thôi, xa hơn sẽ không nhìn thấy, vì vậy nó trở nên “hữu
tận.” Nhưng khi tu hành lên cao, nhãn ấy trở thành “vô tận” thì
lúc đó nó tỏa khắp pháp giới, không một nơi nào mà mắt không thấy, vì vậy mới gọi
là “nhãn vô tận.”
HỎI:
Thưa ông, hai chị em tôi thắc mắc một điều. Câu này, trong kinh nói hình như
hơi mâu thuẫn nhau. Vì sao? vì ngài nói rằng ngài có cái “ý vô tận,” vậy thì tại saọ
ngay sau khi dạy cho Thiện Tài xong, ngài lại bảo rằng “ta chỉ biết
môn giải thoát vô y xứ đạo tràng này. Như chư đại Bồ Tát tất cả công đức hạnh
không chấp trước, ta thế nào biết được, nói được.”
ĐÁP:
Thường các vị thiện tri thức hay nói những câu khiêm tốn thế, vả lại, các ngài
mỗi vị chuyên tu thèo một hạnh khác nhau, nên những hạnh khác, có thể không giỏi
bằng những vị tu theo hạnh ấy. Cảc ngài đã tu lên đến mấp mé, gần đến bờ
mé giữa tận và vô tận, nhưng cái vô tận ấy cũng có nhiều mức độ nông sâu. Trong
kinh có nhiều chỗ nói tùy thuận theo thế gian. Như một vị Đại Bồ Tát sang gặp một
vị Phật, bạo giờ câu đầu tiên cũng vấn an trước: “Chúng sanh có dễ độ sanh
chăng? ngài có an ổn mạnh khỏe chăng? v.v…” Nhưng kỳ thực, tâm các ngài đã đến
mức độ như như tịnh tĩnh thì có bao giờ đau ốm hay bị phiền não bởi các chúng
sanh đâu? Các ngài độ chúng sanh một cách thung dung, vô công dụng. Tuy thế,
các ngài vẫn tùy thuận theo thế gian mà hỏi như vậy. Cũng thế, khi Thiện Tài hỏi
đến sự chứng đắc, thì các ngài đều nói rằng, “ta biết như thế.., như thế…, còn
các vị khác thì làm sao ta có thể nói hết, biết hết được!”
Và,
trong kinh cũng nói rõ, thần thông của các vị Bồ Tát ở thập địa ghê gớm lắm rồi,
nhưng so với thần thông của Chư Phật thì chưa đi đến đâu. Nên phải biết, ngoài
vòm trời này, còn có những vòm trời khác, và ngoài cái vô tận này, còn có thể
có những vô tận khác. Vì cái vô tận cùng tùy theo tâm thức của mỗi loài chúng
sanh khởi lên mà thôi.
Trở lại
vị thiện tri thức 45, Hiền Thắng, tâm thức của ngài rất cao, luôn luôn ngài ngồi
trong đáy tầng tâm thức vô y xứ, vì vậy ngài được tất cả sáu căn thành một khối
bảo giác viên dung, có thể dùng tai thay mắt để nhìn, hay dùng mắt để nghe,
dùng chân để ngửi, hay dùng ngón tay để thuyết pháp v.v… Lúc đó, tất cả
sáu căn đều hỗ tương (có thể dùng thay nhau được), vì thế nên công đức vô tận,
trí huệ vô tận và thần thông cũng vô tận. Ngài chỉ dạy thế, nhưng Thiện Tài hiểu
ngay, đồng thời cũng được môn tam muội y như vậy.
KINH:
Này thiện nam tử, ta chỉ biết môn giải thoát vô y xứ đạo tràng này.
GIẢNG: Ngài được
môn giải thoát “Vô y xứ”thì ghê quá rồi, nhưng các ngài thường
hay khiêm tốn nói thế, vì các ngài đã đến mức độ vô ngã. Còn phàm phu chúng ta
thì hay khoe khoang, có khi được ít lại nói ra nhiều hơn.
Comments
Post a Comment