ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
28.- CHÁNH THU BỒ TÁT
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được
“MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT PHỔ TẬT HÀNH” này, có thể mau chóng đến tất cả xứ.
Thiện Tài Đồng Tử tuân lời liền đến đảnh lễ chân CHÁNH THU BỒ TÁT, chắp tay cung kính
thưa rằng : Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ
Tát thế nào học Bồ Tát hạnh thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo xin chỉ dạy cho.
Chánh Thu Bồ Tát nói :
Này thiện nam tử ! Ta được Bồ Tát giải thoát môn tên là
"phổ môn tốc tật hành ".
Thiện Tài thưa :
Bạch đức Thánh ! Nơi đức Phật nào được phát môn này ? Cõi của
đức Thánh cách đây bao xa ? Từ đó đến đây bao lâu ?
Chánh Thu Bồ Tát nói :
Này thiện nam tử ! Việc này khó biết. Tất cả thế gian không
thể rõ được.
Chỉ trừ chư Bồ Tát dũng mảnh tinh tấn không thối không khiếp,
đã được tất cả thiện hữu nhiếp thọ, chư Phật hộ niệm, thiện căn đầy đủ, chí
nguyện thanh tịnh được căn Bồ Tát có mắt trí huệ, có thể nghe, có thể thọ trì,
có thể hiểu, có thể nói.
Thiện Tài thưa :
Bạch đức Thánh ! Tôi thừa thần lực của Phật, của thiện tri
thức, có thể tin, có thể thọ. Xin Bồ Tát nói cho .
Bồ Tát nói :
Này thiện nam tử ! Ta từ Ðông phương Diệu Tạng thế giới chỗ
đức Khổ Thắng Sanh Phật mà đến cõi này. Ta được pháp môn này ở tại đức Phật ấy.
Từ cõi ấy đến đây đã trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số
kiếp. Trong khoảng mỗi niệm cất bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần
số bước. Mỗi bước qua khỏi bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số
cõi Phật. Mỗi cõi Phật, ta đều vào khắp, đến chỗ Phật ngự để cúng dường. Những
đồ cúng này đều do tâm vô thượng làm thành, pháp vô tác ấn nên, chư Như Lai hứa
khả, chư Bồ Tát khen ngợi.
Này thiện nam tử ! Ta lại thấy khắp tất cả chúng sanh trong
những thế giới ấy, đều biết tâm của họ, đều biết căn của họ, theo chỗ hiểu của
họ mà hiện thân thuyết pháp. Hoặc phóng quang minh, hoặc ban cho của báu, dùng
nhiều phương tiện giáo hóa điều phục không thôi nghỉ.
Như ở phương Ðông, chín phương kia cũng như vậy.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được “MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT PHỔ TẬT HÀNH” này, có thể mau chóng đến tất
cả xứ.
Như chư đại Bồ Tát, khắp mười phương không chỗ nào chẳng đến.
Trí huệ cảnh giới đồng nhau không khác. Khéo bủa thân mình khắp pháp giới. Ðến tất
cả đạo, vào tất cả cõi, biết tất cả pháp, đến tất cả thế, bình đẳng diễn thuyết
tất cả pháp môn. Ðồng thời chiếu diệu tất cả chúng sanh. Ðối với chư Phật chẳng
sanh phân biệt. Với tất cả chỗ không bị chướng ngại.
Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.
Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có thành tên là Ðọa La Bát
Ðể. Trong thành có vị thần tên là Ðại Thiện.
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ
Tát đạo ?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Chánh Thu Bồ Tát, hữu nhiễu vô
số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
29 tháng Tư 1990
28.- CHÁNH THU BỒ TÁT
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được
“MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT PHỔ TẬT HÀNH” này, có thể mau chóng đến tất cả xứ.
Xin đọc sơ đoạn kinh dưới
đây…
KINH: Bấy
giờ phương Đông có bồ tát tên là Chánh Thụ từ hư không đến thế giới Ta Bà trên
đảnh núi Luân Vi Sơn… Bồ tát này lấy “chân ấn đất” Ta Bà thế
giới chấn động sáu cách, biến thành thất bửu trang nghiêm … Chánh Thụ Bồ Tát
phóng ánh sáng nơi thân che chói tất cả mặt Nhựt, mặt Nguyệt. Tất cả quang minh
của Thiên, Long, Bát Bộ, Đế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế đều như đống mực đen.
Quang
minh của bồ tát chiếu khắp tất cả địa ngục, súc sanh, nngạquỉ, Diêm La vương,
làm cho chúng sanh nơi ác đạo hết khổ, chẳng khởi phiền não, đều rời lo buồn. Lại
khắp tất cả Phật độ mưa tất cả hoa, hương, anh lạc, y phục, tràng phan bửu cái,
những đồ trang nghiêm để cúng dường Chư Phật. Lại tùy sở thích của các chúng
sanh mà hiện thân khắp trong tất cả cung điện, ai thấy cũng đều hoan hỉ.
Sau đó
Chánh Thụ bồ tát mới đến chỗ của Quán Tự Tại Bồ Tát. Quán Tự Tại Bồ Tát mới bảo
Thiện Tài rằng:
“Ngươi
thấy Chánh Thụ Bồ Tát đến pháp hội chăng, ngươi nên đến hỏi bồ tát thế nào học
bồ tát hạnh, thế nào tu bồ tát đạo.”
Thiện
Tài đồng tử tuân lời liền đến đảnh lễ chân Chánh Thụ Bồ Tát chắp tay cung kính
thưa rằng:
“Bạch
đức thánh tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề, mà chưa biết bồ tát thế nào học bồ
tát hạnh, thế nào tu bồ tát đạo. Tôi nghe đức thánh khéo dạy bảo. Xin chỉ dạy
cho.”
Chánh
Thụ bồ tát nói:
“Này
thiện nam tử, ta được bồ tát giải thoát môn tên là “Phổ môn tốc tật hành.”
Thiện
Tài thưa:
“Bạch
đức thánh, nơi Đức Phật nào được pháp môn này? Cõi của đức thánh cách đây bao
xa? Từ đó đến đây bao lâu?”
Chánh
Thụ bồ tát nói.
“Này
thiện nam tử, việc này khó biết. Tất cả thế gian không thể rõ được, chỉ trừ Chư
Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn không thối, không khiếp, đã được tất cả thiện hữu nhiếp
thọ, chư Phật hộ niệm, thiện căn đầy đủ, chí nguyện thanh tịnh, được căn bồ
tát, có mắt trí huệ, có thể nghe, có thể thọ trì, có thể hiểu, có thể nói.”
Thiện
Tài thưa:
“Bạch
đức thánh, tôi thừa thần lực của Phật, của thiện tri thức, có thể tin, có thể
thọ. xin bồ tát nói cho.”
Bồ tát
nói:
“Này
thiện nam tử, ta từ Đông Phương Diệu Tạng Thế Giới, chỗ Đức Phổ Thắng Phật mà đến
cõi này. Ta được pháp môn này ở tại Đức Phật ấy. Từ cõi ấy đến đây đã trải qua
bất khả thuyết bất khả thuyết vi trần số kiếp. Trong khoảng mỗi niệm có bất khả
thuyết bất khả thuyết vi trần số bước. Mỗi bước qua khỏi bất khả thuyết bất khả
thuyết vi trần số cõi Phật, mỗi cõi Phật ta đều vào khắp, đến chỗ Phật ngự để
cúng dường. Những đồ cúng này đều do tâm vô thượng làm thành, pháp vô tác ấn
nên, Chư Như Lai hứa khả, chư Bồ Tát khen ngợi…”
GIẢNG: Bây giờ tôi xin giảng mấy danh từ
trước cho quí vị dễ hiểu…
Ngài Chánh Thụ đến
từ hư không, đến cõi Ta Bà trên đảnh núi Luân Vi Sơn. Ngài lấy “chân ấn
đất” thì Ta Bà thế giới chấn động sau cách biến thành thất bửu trang
nghiêm.
Ta được bồ tát giải
thoát môn tên là “phổ môn tốc tật hành…” Phổ môn tức là cái cửa
cùng khắp, tức là nói về không gian, còn “tốc tật hành” tức là
đến rất mau, ý nói về thời gian. Ý đoạn kinh này là ngài đã hóa giải không gian
và thời gian. Lúc đầu trong kinh tả rằng : Bấy giờ phương Đông có bồ tát tên là
Chánh Thụ từ hư không đến thế giới Ta Bà trên đảnh núi Luân Vi Sơn…, sau ngài lại
bảo Thiện Tài rằng: Ta từ Đông Phương diệu tạng thế giới chỗ Đức Phổ Thắng Sanh
Phật mà đến cõi này. Ban đầu ngài nói là từ hư không, sau ngài nói từ Diệu Tạng
Thế giới, có nghĩa rằng ngài đến từ chỗ không hư của tâm, còn Diệu Tạng thế giới
thì cũng giống như trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 31, có kể
nhiều lớp thế giới hải, như lớp Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà là lớp thứ 13, đó
là lớp tịnh độ thấp rồi lên dần dần, đến cõi Ca Sa Tràng rồi lên dần cao hơn,
cao hơn mãi đến cuối cùng là cõi của ngài Thắng Liên Hoa, ở cõi Đức Phật đó chỉ
toàn những vị bồ tát như ngài Phổ Hiền ngồi đầy trong đó cả. Chúng ta căn cơ thấp
kém, nên phải xin sang Cực Lạc, một cõi tịnh độ trung bình (nếu so với cõi tịnh
độ vi diệu khác, nhưng đối với phàm phu chúng ta thì tịnh độ của ngài A Di Đà rất
vi diệu, rất khó có thể nhập vào tàng thức của ngài, vì tâm ngài chính là cõi,
cần phải có một lòng tin sâu chắc, một sự tha thiết chí thành, cùng sức gia trì
của đức Phật A Di Đà mới mong được vãng sanh), lên cao hơn, vào sâu trong thức
tâm ấy, còn có nhiều cõi tịnh độ ghê gớm hơn nhiều, mà Tịnh Độ gần như là Diệu
Tâm vậy, vì toàn các vị Bồ Tát như ngài Phổ Hiền ngồi, không có những Thanh
Văn, hay Bích Chi Phật. Nên trong kinh lúc đầu nói ngài đến từ hư không, tức là
điểm tâm hư của cái tâm ấy, đó là nói theo lối phi thần hóa, rồi sau kinh lại
nói rõ theo cách tùy thuận thế gian, nói theo lối thần hóa, ngài đến từ Đông
Phương Diệu Tạng Thế Giới, chỗ Đức Phật Phổ Thắng Sanh. Phổ là khắp giáp, còn
Thắng Sanh cái sanh tối thắng tức là vô sanh, đó là vị Phật Vô Sanh, tức chính
là cái tâm vô sanh, lúc nào cũng an nhiên bất động. Tuy tâm vẫn bất động nhưng
Chư Phật vẫn khởi tâm từ bi, hiện ra một cõi đẹp cùng cực, nên mới gọi ià Diệu
Tạng Thế Giới. Diệu Tạng là tạng của tâm.
Bồ tát này lấy
chân ấn đất. Ta Bà thế giới chấn động sáu cách, biến thành thất bửu trang
nghiêm. “Chân ấn đất” đây là bí quyết khởi thần thông biến
hóa. Nghĩa ngoài là ngài lấy chân ấn đất thật, sau phát quang minh chói lòa khắp
nơi che chói tất cả các quang minh của chư Thiên thành như đống mực. Cũng như Đức
Thích Ca Mâu Ni, ngồi trong pháp hội Duy Ma Cật, ngài thò ngón chân cái ấn xuống
đất, lập tức, cõi Ta Bà này thành thất bửu, thì ngài chánh Thụ cũng làm như vậy.
Nhưng còn một nghĩa bóng là “chân” thuộc về thân căn của vị bồ
tát đó, tức là thuộc địa đại, nên chân do địa đại, quay lại ấn xuống địa đại.
Đất ở đây cũng có thể hiểu là “tâm địa.” Dùng “chân ấn
đất” tức là “dùng tâm ấn vào tâm.” Tại sao dùng tâm ấn
tâm mà thành ra khởi vọng được? thành biến hóa được?
(Cần nhớ rằng,
ở mức phàm phu, khởi tâm niệm chấp trước hữu ngã là khởi vọng. Còn Đại Bồ Tát
khởi Tâm Đại Bi Vô Ngã là để biến hóa độ sanh).
Ở đây, ta lại
phải nhớ đến kinh Lăng Nghiêm dạy khởi vọng chính là cái niệm mê muội ban đầu,
quên rằng chính mình là trong sáng tột bực, lại quay lại soi vào chính mình.
Trong khi bậc đại bồ tát lấy tâm ấn tâm thành ra biến hóa trùng trùng để độ
sanh, còn chúng sanh lấy tâm soi lại tâm lại thành khởi vọng trùng trùng, giống
như anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa, hốt nhiên khởi vọng tự soi gương thấy một cái mặt
rất đẹp bèn khởi tâm Ưa thích, rồi cho rằng đó là mặt người khác, còn mình thì
không có mặt, có đầu, nên phát cuồng chạy đi kiếm cái đầu của mình, ngờ đâu, nó
vẫn sờ sờ ở đó. Và nó chính là pháp giới này vậy, vì pháp giới do chính tâm
mình ánh ra.
Pháp giới là do
tàng thức khởi lên, và ánh ra. Mỗi chúng sanh đều là một bông hoa quang minh khởi
lên từ tâm, từ tàng thức. Lúc đầu trong sáng hồn nhiên, nhưng đến một lúc nào
đó nó khởi một vọng niệm muốn chiếu soi, nên tách ra có năng, có sở, tức là
có “cái chiếu soi và cái bị chiếu soi.” Đó là khởi vọng. Rồi từ
đó kết thành thế giới nhi biên, có tự, có tha, có chúng sanh, có thế giới, rềi
trôi lăn hoài mãi nên chúng ta không biết rằng tất cả đều khởi từ tính chân như
diệu minh ấy. Đó là nghĩa của chữ “chân ấn đất,” “tâm ấn tâm.” Đó
cũng là bí quyết độ sanh của chư Bồ Tát: Bồ Tát lấy chân ấn dất, tức lấy tâm ấn
tâm, vì khởi lên một tâm tưởng từ bi muốn cứu độ, nên ngài quay lại ấn vào tâm
mình biến ra những hóa thân để độ chúng sanh. Biến hóa cũng là lây tâm ấn tâm…
Như một hành giả ngồi thiền cũng thế, dùng tâm soi tâm, rồi tùy theo mức độ
nông sâu mà có thể biến hóa nhiều hay ít.
Vị bồ tát này tên
là chánh Thụ. Chánh Thụ cũng hơi giống như chữ Thiện Trụ, (Khéo trụ). Trụ trong
pháp ây mà không khởi vọng tình, vọng tưởng thì gọi là Chánh ỉ hụ, (có thể hóa
giải không gian và thời gian).
KINH: Này
thiện nam tử, ta được bồ tát giải thoát môn tên là Phổ
môn tốc tật hành.
GIẢNG: Phổ Môn là cùng khắp, hóa giải
không gian. Tốc tật là đi thật nhanh, vì thế hóa giải luôn thời gian.
KINH: Này
thiện nam tử ta lại thấy khắp tất cả chúng sanh trong những thế giới ấy, đều biết
tâm của họ, đều biết căn của họ, theo chỗ hiểu của họ mà hiện thân thuyết pháp.
Hoặc phóng quang minh, hoặc ban cho của báu, dùng nhiều phương tiện giáo hóa điều
phục không thôi nghỉ. Như ở phương Đông, chín phương kia cũng như vậy. Nầy thiện
nam tử, ta chỉ được môn giải thoát bồ tát phổ tật hành này, có thể mau chóng đến
tất cả xứ…
…Mỗi
bước qua khỏi bất khả thuyết, bất khả thuyết phật.sát vi trần số cõi Phật, mỗi
cõi Phật ta đều vào khắp, đến chỗ Phật ngự để cúng dường. Những đồ cúng này đều
do tâm vô thượng làm thành.
GIẢNG: “…những đồ cúng này đều do tâm
vô thượng làm thành,” có nghĩa đều do tâm ngài biến hóa ra cả, sở dĩ
ngài biến hóa được là do tâm vô thượng, theo như Hiển Giáo thì đó là tâm vô niệm,
còn theo như Mật tông nói thì đó là tâm bí mật trang nghiêm. Như vậy đủ chứng tỏ
rằng cả bộ kinh Hoa Nghiêm thường chỉ nói về sự biến hóa của tâm, và không có
pháp nào nhất định, tất cả đều xoay tròn trôn ốc biến hóa. Nên cái tâm không hư
ấy, tâm diệu tạng thế giới có đức Phật Vô Sanh ngồi nó biến hóa ghê gớm, tùy ý
biến thành những tràng phan bửu cái, hương hoa, chiên đàn, thành những cõi thế
giới để cúng dường (tức là cúng dường cái tâm biến hóa) cho Chư Phật mười
phương, và cúng dường cái tâm biến hóa tràn đầy thì đó mới chính là chân pháp
cúng dường.
Comments
Post a Comment