ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
37.- DẠ THẦN KHAI PHU NHẤT THIẾT THỌ HOA
Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết
“MÔN
GIẢI THOÁT BỒ TÁT XUẤT SANH QUẢNG ĐẠI HỈ QUANG MINH” nầy.
Thiện-Tài đã nhập môn giải-thoát bồ-tát thậm-thâm tự-tại
diệu-âm, tu hành tinh tấn, đi đến chỗ DẠ
THẦN KHAI PHU NHẤT THIẾT THỌ HOA.
Thấy Dạ-Thần nầy ở trong lâu các chúng-bửu-hương-thọ, ngồi
trên tòa sư-tử bằng những diệu-bửu. Trăm vạn Dạ-Thần vây quanh.
Thiện-Tài đảnh lễ chân Dạ-Thần chắp tay cung kính thưa rằng :
Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề mà chưa biết
Bồ-Tát thế nào học bồ-tát hạnh, thế nào được nhất-thiết-trí ?
Xin ngài từ mẫn vì tôi mà tuyên nói.
Dạ-Thần nói :
Nầy thiện-nam-tử ! Nơi Ta-Bà thế-giới nầy, lúc mặt nhựt lặn,
hoa sen khép cánh, mọi người bãi du ngoạn, ta thấy những chúng-sanh muốn trở về
chỗ họ ở hoặc núi, hoặc thành, hoặc đồng quê, ta đều mật hộ cho họ đi đúng
đường đến nơi đến chốn, đêm nghỉ an ổn.
Nầy thiện-nam-tử ! Nếu có chúng-sanh tuổi trẻ háo sắc kiêu-mạn
phóng-dật vui say ngũ dục, thời ta vì họ mà hiện tướng già bịnh chết, họ sợ sệt
rời bỏ các điều ác. Lại vì họ mà khen ngợi những thiện-căn khiến họ tu tập.
Vì người bỏn-sẻn khen ngợi bố-thí. Vì người phá giới khen ngợi
tịnh giới. Với người sân hận dậy họ hạnh đại từ. Khiến người não hại thật hành
nhẫn-nhục. Nếu người giải-đãi khiến họ tinh-tấn. Nếu người tán loạn khiến tu
thiền định. Người trụ ác-huệ khiến học bát nhã.
Người thích tiểu-thừa khiến trụ đại-thừa. Người đắm các loài
trong tam-giới khiến họ trụ bồ-tát nguyện ba-la-mật. Nếu có chúng-sanh phước
trí kém yếu bị kiết nghiệp ràng buộc lưu ngại nhiều, thời làm cho họ trụ Bồ-tát
lực ba-la-mật. Nếu có chúng-sanh tâm họ tối tăm không có trí-huệ, thời làm cho
họ trụ bồ-tát trí ba-la-mật.
Nầy thiện-nam-tử ! Ta đã thành tựu môn giải thoát bồ-tát xuất
sanh quảng-đại hỉ-quang-minh.
Thiện-Tài thưa :
Bạch đức Thánh ! Cảnh-giới của môn giải-thoát này thế nào ?
Dạ-Thần nói :
Nầy thiện-nam-tử ! Nhập môn giải-thoát nầy có thể biết trí
phương tiện thiện xảo của Như-Lai Phổ nhiếp chúng sanh.
Phổ nhiếp thế nào ?
Nầy thiện-nam-tử ! Tất cả chúng sanh hưởng vui đều là do sức
oai-đức của Như-Lai. Vì thuận lời dạy của Như-Lai. Vì thật hành theo lời của
Như-Lai. Vì học hạnh của Như-Lai. Vì được sức hộ-trì của Như-Lai. Vì tu tập đạo
của Như-Lai ấn khả. Vì gieo điều lành của Như-Lai làm. Vì y theo pháp của
Như-Lai nói. Vì trí-huệ nhựt-quang của Như-Lai chiếu đến. Vì được Như-Lai tánh
tịnh nghiệp-lực nhiếp thọ.
Tại sao biết như vậy ?
Ta nhập môn giải-thoát xuất sanh quảng-đại hỉ quang-minh nầy,
nghĩ nhớ đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai thành Đẳng-Chánh-Giác, thuở xưa tu bồ-tát
hạnh thảy đều thấy rõ.
Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa, lúc làm Bồ-Tát, đức Thế-Tôn thấy
tất cả chúng-sanh chấp ngã, ngã-sở, trụ nhà tối vô-minh, vào rừng rậm kiến
chấp, bị tham ái trói buộc, bị giận hờn làm hư, bị ngu-si làm loạn, bị bỏn-sẻn
ganh ghét ràng rịt, nên sanh tử luân-hồi bần cùng khốn khổ, chẳng gặp được chư
Phật Bồ-Tát. Thấy như vậy rồi khởi lòng đại-bi lợi ích chúng-sanh.
Những là khởi tâm nguyện được tất cả diệu-bửu tư-cụ nhiếp lấy
chúng-sanh. Khởi tâm nguyện tất cả chúng-sanh đều được đầy đủ vật tư-sanh không
thiếu thốn. Với tất cả sự rời tâm chấp trước. Nơi tất cả cảnh-giới không tâm
tham-nhiễm. Nơi tất cả sở-hữu không tâm tiếc nối. Nơi tất cả quả báo không tâm
hi-vọng. Nơi tất cả vinh hảo không tâm khen chuộng. Nơi tất cả nhơn-duyên không
tâm mê hoặc. Khởi tâm quán-sát pháp-tánh chơn-thiệt. Khởi tâm cứu hộ tất cả
chúng-sanh. Khởi tâm thâm nhập tất cả pháp. Khởi tâm trụ bình đẳng đại-từ đối
với tất cả chúng-sanh. Khởi tâm thật hành phương-tiện đại-bi đối với tất cả
chúng-sanh. Khởi tâm làm lọng đại pháp che khắp chúng-sanh. Khởi tâm chạy
kim-cang đại-trí phá tất cả núi chướng phiền-não của tất cả chúng-sanh. Khởi
tâm làm cho tất cả chúng-sanh tăng-trưởng hỉ lạc. Khởi tâm nguyện tất cả
chúng-sanh rốt ráo an-lạc. Khởi tâm tùy chỗ muốn của tất cả chúng-sanh mà mưa
tất cả của báu. Khởi tâm dùng phương-tiện bình-đẳng thành thục tất cả
chúng-sanh. Khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh đầy đủ thành tài. Khởi tâm
nguyện tất cả chúng-sanh rốt ráo đều được thập-lực trí quả.
Khởi tâm như vậy rồi ta được bồ-tát-lực, hiện đại-thần-biến
khắp pháp-giới hư-không-giới. Ở trước chúng-sanh mưa tất cả vật tư-sanh, tùy
sở-thích của chúng-sanh đều được toại ý, đều làm cho họ hoan-hỉ, chẳng hối
chẳng tiếc chẳng xen chẳng dứt.
Dùng phương-tiện nầy nhiếp khắp chúng-sanh giáo-hóa
thành-thục, đều làm cho họ ra khỏi khổ nạn sanh-tử chẳng cầu báo đáp. Rửa sạch
tâm bửu của tất cả chúng-sanh, làm cho họ sanh khởi đồng một thiện-căn với tất
cả chư Phật. Thêm biển lớn phước đức nhất-thiết-trí.
Bồ-tát niệm niệm thành-thục tất cả chúng-sanh như vậy. Niệm
niệm nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Niệm niệm vào khắp tất cả pháp-giới. Niệm
niệm thảy đều khắp hư-không-giới. Niệm niệm vào khắp tất cả tam thế. Niệm niệm
thành-tựu trí điều phục tất cả chúng-sanh. Niệm niệm hằng chuyển tất cả pháp
luân. Niệm niệm hằng dùng đạo nhất thiết trí lợi ích chúng-sanh. Niệm niệm khắp
tất cả thế giới ở trước các chúng-sanh, tận vị-lai kiếp hiện tất cả Phật thành
Đẳng-Chánh-Giác. Niệm niệm khắp tất cả thế-giới, tất cả kiếp tu bồ-tát-hạnh
chẳng sanh hai tưởng.
Những là vào khắp tất cả thế-giới hải-quảng-đại, trong tất cả
thế-giới-chủng, những ranh giới các thế-giới-những trang-nghiêm các thế-giới,
những thể-tánh các thế-giới, những hình trạng các thế-giới, những phân bố các
thế-giới.
Hoặc có thế-giới uế mà kiêm tịnh. Hoặc có thế-giới tịnh mà
kiêm uế. Hoặc có thế-giới một bề tạp uế. Hoặc có thế-giới một bề thanh-tịnh.
Hoặc nhỏ hoặc lớn, hoặc thô hoặc tế. Hoặc ngay hoặc nghiêng, hoặc úp hoặc ngửa.
Trong tất cả thế-giới như vậy niệm niệm tu hành những hạnh
bồ-tát, nhập bồ-tát-vị, hiện bồ-tát-lực. Cũng hiện tất cả thân Phật tam-thế.
Tùy tâm chúng-sanh khiến biết thấy khắp cả.
Nầy thiện-nam-tử ! Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai, lúc tu hành hạnh
bồ-tát như vậy, thấy các chúng-sanh chẳng tu công-đức, không có trí-huệ, chắp
ngã ngã-sở vô-minh che chướng, chẳng chánh tư-duy, vào các tà kiến, chẳng biết
nhân quả, thuận phiền-não nghiệp, sa vào hầm sâu hiểm nạn sanh tử. Thọ đủ
vô-lượng những sự khổ, khởi tâm đại-bi, tu đủ tất cả ba-la-mật hạnh. Vì các chúng-sanh
mà tán dương thiện-căn kiên-cố, cho họ an-trụ xa rời khổ nghèo cùng sanh tử,
siêng tu pháp trợ-đạo phước trí. Vì họ mà nói những môn nhân quả. Vì họ mà nói
nghiệp báo chẳng trái nhau. Vì họ mà nói chỗ chứng nhập của pháp. Vì họ mà nói
tất cả chúng-sanh hiểu biết và muốn thích, và nói tất cả quốc độ thọ sanh,
khiến họ chẳng dứt tất cả phật-chủng, khiến họ thủ hộ tất cả phật-giáo, khiến
họ rời bỏ tất cả các ác. Lại vì họ mà tán dương pháp trợ-đạo xu hướng
nhất-thiết-trí, khiến các chúng-sanh hoan hỉ, khiến hành pháp-thí nhiếp khắp
tất cả, khiến họ phát khởi hạnh nhất-thiết-trí, khiến họ tu học đạo ba-la-mật
của chư đại Bồ-Tát, khiến họ tăng trưởng những thiện-căn-hải thành
nhất-thiết-trí, khiến họ đầy đủ tất cả thánh-tài, khiến họ được nhập môn tự-tại
của Phật. Khiến họ nhiếp-thủ vô-lượng phương-tiện, khiến họ quán thấy oai-đức
của Như-Lai, khiến họ an-trụ bồ-tát trí-huệ.
Thiện-Tài thưa :
Đức Thánh phát tâm vô-thượng bồ-đề đã bao lâu ?
Dạ-Thần nói :
Nầy thiện-nam-tử ! Việc nầy khó tin, khó hiểu, khó vào, khó
nói, tất cả thế-gian và hàng Nhị-Thừa đều chẳng biết được, chỉ trừ thần-lực của
Phật gia-hộ, thiện-hữu nhiếp-thọ, chứa thắng công-đức, chí nguyện thanh-tịnh,
không tâm hạ-liệt, không tâm tạp nhiễm, không tâm siểm khúc, được tâm trí
quang-minh khắp soi sáng, phát tâm nhiêu ích khắp các chúng-sanh, tâm mà tất cả
phiền-não nhẫn đến chúng ma không phá hoại được, khởi tâm quyết thành-tựu
nhất-thiết-trí, tâm chẳng thích tất cả sự vui sanh tử, có thể cầu tất cả
diệu-lạc của chư Phật, có thể diệt tất cả khổ-não của chúng-sanh, có thể tu
công-đức của tất cả Phật, có thể quán thật tánh của tất cả pháp, có thể đủ tất
cả tín-giải thanh-tịnh, có thể siêu tất cả nước độc sanh-tử, có thể nhập tất cả
trí-hải của Như-Lai, có thể quyết định đến pháp-thành vô-thượng, có thể
dũng-mãnh nhập cảnh-giới Như-Lai, có thể mau chóng đến địa vị chư Phật, có thể
liền thành-tựu sức nhất-thiết-trí, có thể ở nơi thập-lực đã được rốt ráo. Người
như vậy ở nơi đây có thể trì, có thể nhập, có thể rõ.
Tại sao vậy ?
Vì đây là cảnh-giới trí-huệ của Như-Lai, tất cả Bồ-Tát còn
chẳng biết được huống là những chúng-sanh khác. Nhưng nay ta do oai-lực của đức
Phật, muốn khiến chúng-sanh điều thuận đáng được hóa độ, ý họ mau thanh-tịnh.
Muốn khiến chúng-sanh tu tập thiện-căn, tâm họ được tự-tại. Nên theo chỗ hỏi
của ngươi mà ta tuyên nói.
Bấy giờ Dạ-Thần Khai-Phu-Nhất-Thiết-Thọ-Hoa muốn tuyên lại
nghĩa nầy, quán-sát cảnh-giới của tam-thế Như-Lai mà nói kệ rằng :
Phật-tử ngươi đã hỏi
Cảnh-giới Phật rất sâu
Nam-tư sát-trần kiếp
Nói đó chẳng thể hết
Chẳng phải tham sân si
Kiêu-mạn phiền-não che
Những chúng-sanh như vậy
Biết được Phật diệu-pháp.
Chẳng phải bỏn-sẻn ganh
Siểm khúc những ý trược
Nghiệp phiền-não che đậy
Mà biết được phật-cảnh.
Chẳng phải chấp uẩn xứ
Và chắp thân hữu-lậu
Người kiến-đảo tưởng-đảo
Biết được phật giác-ngộ.
Phật cảnh-giới tịch-tịnh
Tánh tịnh rời phân-biệt.
Chẳng phải chấp ba cõi
Biết được pháp-tánh nầy.
Sanh nơi nhà chư Phật
Được chư Phật thủ hộ
Người trì Phật pháp-tạng
Cảnh-giới của trí-nhãn.
Gần-gũi thiện-tri-thức
Mến thích pháp bạch tịnh
Siêng cầu chư Phật lực
Nghe pháp nầy hoan-hỉ.
Tâm tịnh vô-phân-biệt
Dường như thái-hư-không
Đèn trí-huệ phá tối
Cảnh-giới của người nầy.
Dùng ý đại từ-bi
Che khắp các thế-gian
Tất cả đều bình-đẳng
Cảnh-giới của người nầy.
Hoan-hỉ tâm vô-trước
Tất cả đều xả được
Bình-đẳng thí chúng-sanh
Cảnh-giới của người nầy.
Tâm tịnh rời các ác
Rốt ráo không hối hận
Thuận hành chư Phật giáo
Cảnh-giới của người nầy.
Biết rõ pháp tự-tánh
Nhẫn đến các nghiệp-chủng
Tâm họ không động loạn
Cảnh-giới của người nầy.
Dũng-mãnh siêng tinh-tấn
An-trụ tâm bất thối
Siêng tu nhất-thiết-trí
Cảnh-giới của người nầy.
Tâm họ tịch-tịnh trụ tam-muội
Rốt ráo thanh-lương không nhiệt não
Đã tu thân nhất-thiết-trí hải
Là giải-thoát của người chứng ngộ.
Khéo biết tất cả tướng phân-biệt
Thâm nhập vô-biên môn pháp-giới
Độ khắp quần-sanh không sót thừa
Là giải-thoát của bậc trí-huệ.
Rõ tánh chân thiệt của chúng-sanh
Chẳng chấp tất cả biển hữu-lậu
Như bóng hiện khắp trong tâm thủy
Là giải thoát của người chánh-đạo.
Từ nơi tất cả tam-thế Phật
Phương-tiện nguyện-chủng mà xuất sanh
Tận những kiếp sát siêng tu hành
Là giải-thoát của bực Phổ-Hiền.
Vào khắp tất cả môn pháp-giới
Đều thấy mười phương những sát-hải
Cũng thấy trong đó kiếp thành hoại
Mà tâm rốt ráo vô-phân-biệt.
Trong những vi-trần của pháp-giới
Đều thấy Như-Lai ngồi đạo-thọ
Thành-tựu bồ-đề độ quần-sanh
Là giải-thoát của vô-ngại-nhãn.
Ngươi ở vô-lượng đại-kiếp-hải
Thân-cận cúng-dường thiện-tri-thức
Vì lợi quần sanh cầu chánh-pháp
Nghe rồi ghi nhớ không quên sót.
Tỳ-Lô-Giá-Na cảnh rộng lớn
Vô-lượng vô-biên chẳng thể suy
Ta thừa phật-lực nói với ngươi
Cho ngươi thâm-tâm càng thanh-tịnh.
Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa quá thế-giới-hải vi-trần-số kiếp,
có thế-giới-hải tên là Phổ-Quang-Minh-Chơn-Kim-Ma-Ni-Sơn. Trong thế-giới-hải
nầy có Phật xuất hiện hiệu là Phổ-Chiếu-Pháp-Giới
Trí-Huệ-Sơn-Tịch-Tịnh-Oai-Đức-Vương.
Nầy Thiện-nam-tử ! Lúc đức Phật ấy tu hạnh bồ-tát, nghiêm-tịnh
thế-giới-hải đó. Trong thế-giới-hải đó có thế-giới vi-trần-số thế-giới-chủng.
Mỗi thế-giới-chủng có thế-giới vi-trần-số thế-giới. Mỗi thế-giới đều có Như-Lai
xuất thế. Mỗi Như-Lai diễn nói thế-giới vi-trần-số tu-đa-la. Mỗi tu-đa-la
thọ-ký cho phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát, hiện những thần-lực, nói những pháp-môn,
độ vô-lượng chúng-sanh.
Nầy Thiện-nam-tử ! Trong thế-giới-hải Phổ-Quang-Minh-Chơn-Kim-Ma-Ni-Sơn,
có thế-giới-chủng tên là Phổ-Trang-Nghiêm-Tràng.
Trong thế-giới-chủng ấy có thế-giới tên là
Nhất-Thiết-Bửu-Sắc-Phổ-Quang-Minh. Thể chất bằng
Hiện-Nhất-Thiết-Hóa-Phật-Ảnh-Ma-Ni-Vương, hình như thành quách cõi trời. Hạ-tế
làm bằng Hiện-Nhất-Thiết-Như-Lai-Đạo-Tràng-Ảnh-Tượng-Ma-Ni-Vương, an-trụ trên
biển Nhất-Thiết-Bửu-Hoa. Thế-giới ấy tịnh uế lẫn lộn. Trong thế-giới nầy có
tu-di-sơn vi-trần-số tứ-thiên-hạ. Chính giữa có một tứ-thiên-hạ tên là
Nhất-Thiết-Bửu-Sơn-Tràng, Tứ-thiên-hạ ấy, mỗi thiên-hạ ngang dọc đều một vạn
do-tuần. Mỗi thiên-hạ đều có một vạn thành lớn.
Trong Diêm Phù Đề ấy có một Vương-Đô tên là
Kiên-Cố-Diệu-Bửu-Trang Nghiêm-Vân-Đăng, một vạn đại-thành rải-rác bao quanh.
Thời kỳ người Diêm-Phù-Đề thọ-mạng vạn năm, có vua tên là
Nhứt-Thiết-Pháp-Ấm-Viên-Mãn-Cái. Có năm trăm Đại-Thần, sáu vạn thế-nữ, bảy trăm
Vương-Tử. Những Vương-Tử nầy đều đoan-chánh dũng kiện có oai-lực lớn.
Đức Vua ấy có oai-đức ban bố khắp Diêm-Phù-Đề, không có kẻ oán
địch.
Thế-giới ấy, lúc kiếp sắp tận, có năm thứ trược phát khởi,
nhơn chúng thọ-mạng ngắn-ngủi, của cải thiếu thốn, thân hình xấu xí, nhiều khổ
ít vui, chẳng tu thập thiện, chuyên làm nghiệp ác. Giận gây hủy nhục nhau, làm
quyến thuộc người xa lìa, ganh ghét hạnh phúc của người, kiến chấp tà vạy, tham
cầu phi-pháp.
Do nhơn duyên ấy nên mưa gió bất thường, lúa mạ chẳng tốt,
vườn tược cây cối khô cằn, nhơn dân đói kém, nhiều bệnh tật, tản cư bốn phương
không biết nương tựa vào đâu nên đều đến ở quanh Vương Đô số đông đến trăm ngàn
vạn ức, to tiếng kêu gào, hoặc giơ tay, hoặc chắp tay, hoặc cuối đầu, hoặc quì
gối, hoặc nhảy nhót, đầu tóc rối tung y phục rách rưới, da thứa nhăn nứt, mặt
mắt mất thần, đồng hướng về cung vua kêu van rằng :
Đại-Vương ! Đại-Vương ! Chúng tôi ngày nay nghèo cùng đói
rách, bệnh tật khốn khổ, không chỗ nương tựa, không biết kêu cứu vào đâu. Chúng
tôi đồng về nương với Đại-Vương.
Đại-Vương là bực nhơn-từ trí-huệ, chúng tôi mong được
Đại-Vương ban cho an lạc, ban cho sự sống. Xin Đại-Vương thương xót chúng tôi,
nhiếp thọ chúng tôi. Đại-Vương là bửu-tạng, là cầu đò, là đường sá, là thuyền
bè, là hòn đảo châu báu, là tài lợi, là thiên-cung của chúng tôi.
Nhà vua nghe lời kêu than của dân-chúng liền được trăm vạn
vô-số môn đại-bi. Nhứt tâm tư-duy phát khởi mười thứ đại-bi-ngữ :
Một là : Thương thay chúng-sanh sa vào hố lớn sanh tử không
đáy, ta phải làm cách nào để cứu họ, cho họ an trụ nơi bực nhứt-thiết-trí.
Hai là : Thương thay chúng-sanh bị bức ngặt bởi phiền-não, ta
phải làm cách nào cứu hộ họ, cho họ an trụ nơi tất cả nghiệp lành.
Ba là: Thương thay chúng-sanh bị khủng bố bởi sanh lão bệnh
tử, ta phải làm cách nào cho họ về nương, cho họ vĩnh viễn được thân tâm an
lạc.
Bốn là: Thương thay chúng-sanh thường bị thế-gian đại-chúng
làm ngặt làm khiếp, ta phải làm thế nào hộ trợ họ, cho họ an trụ đạo
nhứt-thiết-trí.
Năm là : Thương thay chúng-sanh không có trí-nhãn thường bị
thân-kiến nghi lầm che đậy, ta phải dùng phương-tiện gì cho họ mau giải quyết
kiến chấp.
Sáu là : Thương thay chúng-sanh thường bị si tối làm mê lầm,
ta phải thế nào để làm đèn sáng cho họ soi thấy thành nhứt-thiết-trí.
Bảy là : Thương thay chúng-sanh thường bị xan tật siểm cuống
làm nhơ đục, ta phải thế nào để khai hiểu họ, cho họ chứng được pháp-thân
thanh-tịnh.
Tám là : Thương thay chúng-sanh mãi trôi chìm trong biển lớn
sanh tử, ta phải vớt đưa họ thế nào cho họ được lên bờ bồ-đề.
Chín là : Thương thay chúng-sanh các căn cang cường khó điều
khó phục, ta phải điều-ngự họ thế nào cho họ được đầy đủ thần-lực của Phật.
Mười là : Thương thay chúng-sanh như kẻ mù lòa chẳng thấy
đường sá, ta phải dẫn dắt họ thế nào cho họ được vào cửa nhất-thiết-trí.
Nói như thế xong, đức vua truyền đánh trống ban lịnh :
Nay đức vua bố-thí khắp tất cả chúng-sanh, tùy theo nhu cầu
đều làm cho đầy đủ cả.
Vua lại ban lịnh cho tất cả thành trong Diêm-Phù-Đề và các
tụ-lạc đều khai kho chẩn tế : những là vàng bạc, lương thực, y-phục, thuốc men,
đồ dùng, giường ghế, nhà cửa, châu báu, xe cộ, lụa là gấm vóc đều đem bố-thí.
Nhẫn đến đức Vua có thể sẻ xả thí cung-điện, vợ con, vương-vị, da thịt, tay
chưn, môi răng, miệng lưỡi, mũi tai, đầu mắt, tâm can tỳ phế.
Phía đông của Vương-đô có cổng tên là Ma-Ni Sơn-Quang Minh.
Ngoài cổng thành ấy có hội-trường bố-thí rộng rãi bằng phẳng trống trải rất mực
trang-nghiêm, đều là quả-báo do tịnh-nghiệp của Bồ-Tát.
Trong thí-hội nầy có tòa sư-tử, đất bằng mười thứ báu, lan can
mười thứ báu, mười thứ cây báu bao quanh, dưới là kim-cang bửu-luân. Dùng tất
cả thứ báu làm tượng long-thần cầm bửu-vật để trang-sức hội-trường, tràng phan
bày hàng, lưới báu giăng che, vô-lượng thứ hương luôn phất mùi thơm vi-diệu,
hàng lụa báu đẹp trải giăng khắp nơi, trăm ngàn âm nhạc luôn hòa tấu. Lại có
bửu-cái thường phóng vô lượng bửu-quang-minh như vàng diêm-phù-đàn hực hở
thanh-tịnh. Những anh-lạc bửu-linh hằng phát ra âm thanh vi-diệu khuyên các
chúng-sanh tu hành nghiệp lành.
Lúc đó đức Vua ngự tòa sư tử, hình dung đoan chánh đủ những
tướng tốt, thân na-la-diên không hư hoại, tánh hiền thiện, tài pháp hai thứ đều
tự-tại, biện luận vô-ngại trí-huệ siêu phàm, trị nước không ai trái mạng lịnh.
Bấy giờ vô-lượng vô-số chúng-sanh trong Diêm-Phù-Đề đua nhau
đến hội-trường bố-thí nầy, thấy đức vua ngự trên tòa sư-tử, đều cho là người
đại trí, đại phước, là bực đủ đức đủ hạnh đủ nguyện, là nhà đại thí-chủ.
Nhà vua thấy những người đến cầu xin liền sanh lòng bi mẫn,
lòng hoan-hỉ, lòng tôn trọng, lòng thiện-hữu, lòng quảng-đại, lòng tương-tục,
lòng tinh-tấn, lòng bất-thối, lòng thí xả, lòng châu biến.
Lòng hoan-hỉ trong giây lát của nhà vua khi thấy những người
đến xin còn hơn sự khoái lạc trong trăm ngàn ức na-do-tha kiếp của Đao-Lợi
Thiên-Vương, Dạ-ma Thiên-Vương, Đâu-Suất-Đà Thiên-Vương, nhẫn đến hơn cả sự vui
tịch-tịnh trong bất khả-thuyết kiếp của Tịnh-Cư Thiên Vương.
Nầy thiện-nam-tử ! Ví như có người nhơn từ hiếu hữu gặp loạn lạc
cha mẹ vợ con huynh đệ tỷ muội đều thất lạc, tình cờ được đoàn tụ đông đủ thời
sự vui mừng biết ngần nào.
Lòng hoan-hỉ của nhà vua khi thấy những người đến cầu xin cũng
như vậy.
Nầy thiện-nam-tử ! Nhà vua ấy nhờ thiện-tri-thức nên được tăng
trưởng tri-giải và chí nguyện nơi phật bồ-đề, các căn thành-tựu, tín tâm
thanh-tịnh hoan-hỉ viên mãn.
Tại sao vậy ?
Vì nhà vua là bực Bồ-Tát siêng tu các công-hạnh cầu
nhứt-thiết-trí. Nguyện được lợi-ích tất cả chúng-sanh. Nguyện được bồ-đề
vô-lượng diệu-lạc. Rời bỏ tất cả những tâm bất-thiện. Thường thích chứa nhóm
tất cả thiện-căn. Thường nguyện cứu hộ tất cả chúng-sanh. Thường thích quán-sát
đạo trí-huệ. Thường ham tu hành pháp nhứt thiết-trí. Làm thỏa mãn nguyện vọng
của tất cả chúng-sanh. Vào biển lớn công-đức của tất cả Phật. Phá tất cả núi ma
nghiệp hoặc chướng. Tùy thuận giáo-hạnh của tất cả Như-Lai. Thật hành đạo
nhất-thiết-trí vô-ngại. Đã có thể thâm nhập dòng nhất-thiết-trí. Tất cả
pháp-lưu thường hiện tiền. Đại nguyện vô-tận làm Đại-Trượng-Phu, trụ pháp đại-nhân.
Chứa nhóm tất cả tạng lành phổ-môn, lìa tất cả chấp, chẳng nhiễm tất cả
cảnh-giới thế-gian. Biết các pháp-tánh dường như hư-không. Với những người đến
xin xem như con một, xem như cha mẹ, xem là phước-điền, xem là khó được, xem là
ân-nhân, xem là chỗ bền chắc, xem là Thầy, là Phật. Chẳng chọn xứ sở, chẳng lựa
chủng tộc, chẳng phân hình mạo.
Tùy theo chỗ muốn của họ, nhà vua vẫn một tâm từ-bi bình-đẳng
vô-ngại cung cấp đầy đủ cho tất cả. Người cầu lương thực thời cho lương thực.
Người xin y phục thời cho y-phục. Người xin vàng bạc thời cho vàng bạc. Nhẫn
đến những người cầu xin xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa, voi ngựa, châu báu, phan
lọng, hương hoa, quyến-thuộc vân-vân, nhà vua đều cấp cho tất cả.
Trong thí-hội nầy có Trưởng-Giả-Nữ tên là Bửu-Quang-Minh cùng
sáu mươi đồng-nữ câu hội, hình dung đoan chánh đẹp lạ, mọi người thích thấy da
màu chơn-kim, tóc và mắt màu xanh biếc thân phát mùi thơm, miệng diễn phạm-âm,
bửu-y thượng diệu trang-nghiêm trên thân, thường có lòng tàm quý chánh-niệm
chẳng loạn, đầy đủ oai nghi cung-kính sư-trưởng, thường nhớ thuận hành công
hạnh vi-diệu thậm-thâm, những pháp đã nghe ghi nhớ chẳng quên, thiện-căn đời
trước chảy nhuầu nơi tâm, thanh-tịnh quảng-đại dường như hư-không, khắp an lợi
chúng-sanh, thường thấy chư Phật cầu nhất-thiết-trí.
Bấy giờ nàng Bửu-Quang-minh cách đức Vua không xa, chắp tay
đảnh lễ, tự nghĩ rằng : Tôi được lợi lành tôi được lợi lành. Nay tôi được thấy
bực thiện-tri-thức.
Nơi nhà vua, nàng nghĩ là Đại-Sư, là thiện-tri-thức, là đủ
từ-bi, là hay nhiếp thọ. Tâm nàng chánh-trực rất vui mừng, liền cổi anh-lạc
dâng lên vua mà nguyện rằng:
Nay Đại-Vương nầy làm chỗ nương cho vô-lượng vô-biên chúng
sanh mê tối, nguyện ngày sau tôi cũng như vậy.
Như đại-Vương đây, những pháp đã biết, thừa đã theo, đạo đã
tu, sắc tướng đã đủ, tài sản đã có, chúng-hội đã nhiếp vô-biên, vô-tận, khó hơn
khó hoại nguyện ngày sau tôi đều được như vậy. Đức vua đây sanh ở đâu tôi đều
theo sanh nơi đó.
Đức vua biết nàng ấy phát tâm như vậy nên bảo rằng :
Nầy Đồng-Nữ ! Tùy ý nàng muốn ta đều cấp cho. Tất cả sở-hữu
nay ta đều xả cả, cho các chúng-sanh đều được đầy đủ.
Nghe đức vua nói, nàng Bửu-Quang-Minh rất hoan-hỷ tín tâm
thanh-tịnh, liền nói kệ ca ngợi đức vua :
Thuở xưa thành ấp nầy
Lúc chưa có Đại-Vương
Không có mảy-may vui
Dường như xứ ngạ-quỷ.
Chúng-sanh sát hại nhau
Cướp trộm và dâm dật,
Lưỡng-thiệt nói dối trá
Lời thô ác vô nghĩa,
Tham lam tài vật người
Sân hận lòng độc ác,
Tà-kiến làm điều quấy
Chết rồi đọa ác-đạo.
Bởi những chúng-sanh nầy
Bị ngu si che đậy
Ở trong điên-đảo kiến
Trời ít khi ban lành.
Vì không mưa phải mùa
Ngũ cốc đều chẳng mọc
Cỏ cây nhiều khô héo
Sông suối cũng khô cạn.
Lúc chưa có Đại-Vương
Sông ao đều khô cạn
Thây chết chật trong vườn
Nhìn đó như đồng hoang.
Đại-Vương lên ngôi báu
Rộng cứu những quần-sanh
Mây mát che tám phương
Khắp nơi đều mưa xuống.
Đại-Vương cai trị dân
Dứt hết những ngược ác
Hình ngục đều dẹp bỏ
Kẻ côi cùng được an
Ngày trước các chúng-sanh
Thường tàn sát lẫn nhau
Uống máu và ăn thịt.
Nay đều sanh lòng từ.
Ngày trước các chúng-sanh
Nghèo cùng thiếu y-phục
Dùng cỏ tự che thân
Gầy xấu như ngạ-quỷ.
Khi Đại-Vương trị vì
Lúa tốt tự-nhiên sanh
Trong cây sanh y-phục
Nam Nữ đều xinh đẹp
Ngày trước người tham lam
Phi pháp lấn đoạt nhau,
Nay thời đều giàu đủ
Như khu vườn Đế-Thích.
Ngày trước người làm ác
Dâm dật sanh tham nhiễm
Vợ người và đồng-nữ
Cùng xâm bức lẫn nhau.
Nay thấy vợ con người
Xinh đẹp trang sức khéo
Mà lòng không nhiễm trước
Giống như trời Tri-Túc.
Ngày trước các chúng-sanh
Nói dối chẳng chơn thiệt
Phi-pháp không lợi ích
Nịnh hót lấy lòng người.
Nay tất cả mọi người
Đều bỏ lời nói ác
Lòng họ rất nhu nhuyến
Lời nói cũng điều thuận.
Ngày trước các chúng-sanh
Làm nhiều hạnh tà vạy
Chắp tay cung kính lạy
Những trâu, bò, heo, dê,
Nay theo pháp của vua
Tổ ngộ trừ tà-kiến
Biết rõ báo khổ vui
Đều từ nhơn duyên khởi.
Đại-Vương diễn diệu-âm
Người nghe đều vui mừng
Ấm thanh của Thích, Phạm
Tất cả không bằng được.
Đại-Vương những bửu-cái
Ở cao trên không-trung
Cán bằng ngọc lưu-ly
Trùm bằng lưới ma-ni,
Linh vàng tự nhiên phát
Tiếng Phật rất hòa nhã
Tuyên dương pháp vi-diệu
Diệt trừ chúng-sanh mê
Kế lại rộng diễn thuyết
Mười phương các cõi phật
Trong tất cả những kiếp
Như-Lai và quyến-thuộc.
Và lại thứ đệ nói
Quá-khứ mười phương cõi
Và trong quốc-độ đó
Tất cả các Như Lai.
Lại phát tiếng diệu-âm
Khắp cõi Diêm-Phù-Đề
Nói rộng về Nhơn Thiên
Những nghiệp làm sai khác.
Chúng-sanh nghe tiếng nầy
Tự biết những hạnh nghiệp
Bỏ ác siêng tu hành
Hồi-hướng Phật bồ-đề.
Vương-phụ: Tịnh-Quang-Minh,
Vương-Mẫu: Liên-Hoa-Quang,
Thuở ngũ trược xuất hiện
Ở ngôi trị thiên-hạ.
Bấy giờ có vườn rộng.
Vườn có năm trăm ao
Mỗi ao ngàn cây lớn
Trên cây đầy những hoa.
Ở trên bờ ao ấy
Xây dựng nhà ngàn cột
Lan-can rất trang-nghiêm
Không gì là chẳng đủ.
Mạt-thế khởi ác-pháp
Nhiều năm chẳng có mưa
Sông ao đều khô cạn
Cỏ cây cũng héo rũ.
Bảy ngày trước vua sanh
Trước hiện tướng linh thoại,
Người thấy đều nghĩ rằng
Bực cứu thế sẽ hiện.
Bấy giờ vào giữa đêm
Đại-địa động sáu cách
Có một ao bửu-hoa
Quang-minh như trời sáng.
Trong vườn năm trăm ao
Đầy nước bát công-đức,
Cây khô đều đâm chồi
Hoa lá đều tươi tốt.
Nước ao đã đầy tràn
Chảy lan tất cả xứ
Khắp cả cõi Diêm-Phù
Không đâu chẳng nhuần ướt.
Dược thảo và cây cối
Trăm thứ lúa đậu thảy
Nhánh lá bông trái hột
Tất cả đều sum-sê
Rãnh mương và gò nổng
Những nơi cao và thấp
Tất cả những chỗ ấy
Tự-nhiên bằng phẳng cả.
Gai gốc cát sỏi thảy
Bao nhiêu những tạp uế
Đều ở trong một niệm
Biến thành những ngọc báu.
Chúng-sanh thấy sự nầy
Hoan-hỉ mà ca ngợi
Đều nói mình được lợi
Như khát uống nước ngọt.
Bấy giờ vua Quang-Minh
Cùng vô-lượng quyến-thuộc
Xe giá đồng du ngoạn
Đi xem khắp khu vườn.
Trong số năm trăm ao
Có ao tên Khánh-Hỉ
Trên ao có Pháp-Đường
Phụ-Vương ngự nơi đây.
Tiên-Vương bảo Phu-Nhơn :
Ta nhớ bảy ngày trước
Giữa đêm đất chấn động
Trong đây phát ánh sáng
Bấy giờ trong ao đó
Mọc bông sen ngàn cánh
Sáng như ngàn mặt nhựt
Chói đến đảnh Tu-di,
Cộng hoa bằng kim-cang,
Đài hoa : vàng Diêm-Phù,
Cánh hoa bằng những báu
Diệu hương làm nhụy tua
Đức Vua sanh trên hoa
Ngồi kiết-già đoan trang
Trang-nghiêm với tướng hảo
Thiên-Thần đều cung kính.
Tiên-Vương rất hoan-hỉ
Tự vào ao ẵm lên
Đem trao cho Phu-Nhơn
Bà nên mừng được con.
Liền đó tạng báu hiện,
Cây báu sanh diệu-y,
Thiên-nhạc tấu mỹ-âm,
Sung-mãn trong hư-không.
Tất cả các chúng-sanh
Đều sanh lòng hoan hỉ
Chắp tay khen hi-hữu
Đấng cứu thế ra đời.
Thân vua phóng quang-minh
Chiếu khắp cả mọi nơi
Làm cho tứ thiên-hạ
Hết tối, trừ bệnh tật.
Dạ-Xoa, Tỳ-Xá-Xà,
Độc-trùng các ác-thú
Những thứ muốn hại người
Tất cả đều ẩn trốn.
Tiếng xấu và thất lợi
Tai họa cùng bệnh tật
Tất cả khổ đều diệt
Mọi người đều hoan hỉ.
Phàm là chúng-sanh loại
Xem nhau như cha mẹ
Bỏ ác sanh lòng lành
Chuyên cầu nhất-thiết-trí.
Đóng bít các ác thú
Mở bày đường nhân thiên
Tuyên dương đạo trí-huệ
Độ thoát các quần-sanh.
Chúng tôi thấy Đại-Vương
Được những lợi lành lớn
Làm cho người cô cùng
Tất cả đều an lạc.
Bửu-Quang-Minh đồng-nữ nói kệ ca ngợi vua
Nhất-Thiết-Pháp-Ấm-Viên-Mãn-Cái rồi đi nhiễu vô-lượng vòng, cung kính đảnh lễ
chắp tay đứng qua một bên.
Đại-Vương bảo Đồng-Nữ :
Lành thay ! Đồng-nữ có thể tin biết công-đức của người khác.
Sự ấy rất là hi-hữu.
Này Đồng-nữ ! Tất cả chúng-sanh chẳng thể tin biết công-đức
của người khác.
Nầy đồng-nữ ! Tất cả chúng-sinh chẳng biết báo ân, không có
trí-huệ, tâm họ trược loạn, tánh chẳng sáng tỏ, vốn không chí-lực lại thối thất
sự tu hành. Những người như vậy chẳng tin chẳng biết thần thông trí-huệ và
công-đức của Bồ-Tát và chư Phật.
Nay đồng-nữ quyết định cầu đến bồ-đề, biết được công-đức của
Bồ-Tát như vậy. Ngươi sanh trong Diêm-Phù-Đề này phát tâm dũng-mãnh nhiếp khắp
chúng-sanh công chẳng uổng bỏ, rồi đây ngươi cũng sẽ thành-tựu công đức như
vậy.
Đức Vua khen đồng-nữ xong, tự tay cầm bửu y vô-giá trao cho
đồng-nữ và quyến-thuộc của đồng-nữ mà bảo từng người rằng : ngươi mặc y nầy.
Các đồng-nữ quỳ gối hai tay lãnh y để trên đầu rồi mới mặc.
Mặc y xong đồng hữu nhiễu quanh đức Vua.
Trong những bửu-y đó phát ra quang-minh tất cả tinh tú.
Mọi người thấy thế đều nói rằng các đồng-nữ nầy đều đoan chánh
như sao sáng trong đêm tốt trời.
Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa đó vua
Nhất-Thiết-Pháp-Ấm-Viên-Mãn-Cái, chính là đức Tỳ-Lô Giá Na Như-Lai hiện nay
vậy.
Quang-Minh-Vương thuở xưa đó, nay là Tịnh-Phạn-Vương.
Liên-Hoa-Quang Phu-Nhân, nay là Ma-Ha Ma-Gia Phu-Nhân.
Bửu-Quang-Minh Đồng-nữ chính là thân ta đây.
Những chúng-sanh được đức Vua dùng pháp tứ nhiếp để nhiếp thọ,
nay đây là những Bồ-Tát bất-thối-chuyển trong pháp-hội nầy, hoặc bậc sơ-địa
nhẫn đến bậc thập-địa, đủ đại-nguyện, nhóm trợ-đạo, tu diệu-hạnh, đủ trang
nghiêm, được thần-thông, trụ giải-thoát, nay ở trong hội nầy ở nơi những
cung-điện diệu-pháp.
Chủ-Da-Thần Khai-Phu-Nhất-Thiết-Thọ-Hoa, muốn tuyên lại nghĩa
giải-thoát nầy, vì Thiện-Tài Đồng-tử mà nói kệ rằng :
Ta có quảng đại-nhãn
Thấy khắp cả mười phương
Trong tất cả sát-hải
Ngũ thú luân-hồi thảy
Cũng thấy chư Phật đó
Ngồi dưới cội bồ-đề
Thần-thông khắp mười phương
Thuyết pháp độ chúng-sanh.
Ta có thanh-tịnh-nhĩ
Nghe khắp tất cả tiếng
Cũng nghe Phật thuyết pháp
Hoan-hỉ tin thọ-trì.
Ta có tha-tâm trí
Không hai không chướng-ngại
Có thể trong một niệm
Biết rõ tất cả tâm.
Ta được túc-mạng-trí
Biết được tất cả kiếp
Thân mình và người khác
Phân biệt đều rõ ràng :
Khoảng một niệm ta biết
Sát-hải vi-trần kiếp
Chư Phật và Bồ-Tát
Chúng-sanh trong ngũ-đạo.
Nhớ biết chư Phật kia
Tối sơ phát đại-nguyện
Nhẫn đến tu các hạnh
Mỗi mỗi đều viên mãn.
Cũng biết chư Phật kia
Thành-tựu bồ-đề đạo
Dùng các môn phương-tiện
Vì chúng chuyển pháp-luân.
Cũng biết chư phật kia
Có bao nhiêu thừa-hải.
Chánh-pháp trụ lâu gần
Chúng-sanh độ nhiều ít.
Ta trong vô-lượng kiếp
Tu tập pháp-môn nầy
Nay ta vì ngươi nói
Phật-tử phải siêng học
Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT XUẤT SANH QUẢNG ĐẠI HỈ QUANG MINH” nầy, như
chư đại Bồ-Tát thân-cận cúng dường tất cả chư Phật vào biển nhất-thiết-trí
đại-nguyện, viên mãn những nguyện-hải của chư Phật. Được trí dũng-mãnh nơi một
bồ-tát-địa vào khắp tất cả bồ-tát-địa-hải. Được thanh-tịnh-nguyện nơi một
bồ-tát hạnh vào khắp tất cả bồ-tát-hạnh hải. Được tự tại-lực nơi một bồ-tát
giải thoát-môn vào khắp tất cả bồ-tát giải thoát-môn-hải.
Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó.
Nầy Thiện-nam-tử ! Trong đạo-tràng nầy có một Dạ-Thần tên là
Đại-Nguyện-Tinh-Tấn-Lực-Cứu-Hộ-Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào giáo-hóa chúng-sanh khiến đến
vô thượng bồ-đề ? Thế nào nghiêm-tịnh tất cả cõi phật ? Thế nào thừa sự tất cả
Như-Lai ? Thế nào tu hành tất cả phật-pháp ?
Thiện-Tài đồng-tử đảnh lễ chân Dạ-Thần, hữu nhiễu vô-số vòng,
ân cần chiêm-ngưỡng từ tạ mà đi.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
27 tháng 05 1990
37.- DẠ THẦN KHAI PHU NHẤT THIẾT THỌ HOA
Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT XUẤT SANH QUẢNG ĐẠI HỈ QUANG MINH” nầy.
KINH: Này
thiện nam tử, trong phật hội này, có một Chủ Dạ Thần tên là Khai Phu Nhất Thiết
Thọ Hoa.
GIẢNG: “Khai Phu Nhất Thiết Thọ Hoa” tức
là cái cây nở hoa. Nên cần nhớ rằng tất cả các pháp, mọi thứ chúng sanh, con kiến,
cọng cỏ v.v… đều là hoa hết. Vị này đến mức tu hành cao thần thông nả’ như hoa
vậy.
Nên mới gọi
là “khai phu nhất thiết thọ hoa.”
KINH: …Bấy
giờ Thiện Tài đồng tử được nhập môn giải thoát bổ tát thậm thâm tự tại diệu âm,
nên nhập vô biên tam muội hải, nhập quảng đại tống trì hải, được bồ tát đại thần
thông, được bồ tát đại biện tài…
GIẢNG: Thiện Tài nói chuyện với vị kia
khoảng một thời gian nào đó thì được môn giải thoát đó ngay, lúc nào ngài cũng
đắc hết. Tới mỗi một vị thiện tri thức là Thiện Tài đắc vài môn tam muội, và
càng về sau ngài Thiện Tài đắc tam muội càng nhiều.
KINH: …
Thiện Tài đã nhập môn bồ tát giải thoát thậm thâm, tu hành tinh tấn…
GIẢNG: “Tu hành tinh tấn” tức
là Thiện Tài vừa đi vừa quán chiếu.
KINH: Đi
đến chỗ Dạ Thần Khai Phu Nhất Thiết Thọ Hoa. Thấy Dạ Thần này ở trong lâu các
chúng bửu hương thọ, ngồi trên tòa sư tử băng những diệu bửu. Trăm vạn dạ thần
vây quanh. Thiện Tài đảnh lễ chân dạ thần, chắp tay cung kính thưa răng. Bạch đức
thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết bồ tát thế nào học bồ tát hạnh,
thế nào được nhát thiết trí? Xin ngài từ mẫn vì tôi mà tuyên nói.
Dạ Thần
nói, này thiện nam tử, nơi Ta Bà thế giới này, lúc mặt nhựt lặn, hoa sen
khép cánh, mọi người bãi du ngoạn, ta thấy những chúng sanh muốn trở về chỗ họ ở,
hoặc núi, hoặc thành, hoặc đồng quê, ta đều mật hộ cho họ đi đúng đường, đến
nơi, đến chốn đêm nghỉ an ổn.
GIẢNG: Ngài kể cho Thiện Tài nghe những hạnh
nguyện của ngài là độ chúng sanh. “Lúc mặt nhựt lặn, hoa sen khép cảnh,
mọi người bãi du ngoạn, ta thấy chúng sanh muốn trở về chỗ họ ở…” ở ngoài
đời, có chúng sanh lạc bước muốn về chỗ ở của họ thật, thì ngài là Chủ Dạ Thần
liền hộ trì cho người đó trở về. Nhưng nghĩa bóng là khi nào chúng sanh muốn trở
về diệu tâm ấy thì ngài sẽ mật hộ cho họ đi đúng đường về đến
nơi, đến chốn.
KINH: Này
thiện nam tử, ta đã thành tựu môn giải thoát bồ tát xuất sanh quảng đại hỉ
trang nghiêm.
GIẢNG: Vị dạ thần trước được môn tam muội
là “niệm niệm quảng đại hỷ trang nghiêm,” nhưng ngài chủ dạ thần
này có hơi khác là ngài được môn tam muội “giải thoát bồ tát xuất sanh
quảng đại hỷ trang nghiêm,” Ỷ nói rằng, ngài không cần phải niệm niệm
nữa, lúc nào ngài cũng có thể xuất sanh quảng đại hỷ trang nghiêm.
KINH:…
Này thiện nam tử, tất cả chúng sanh hưởng vui đều là do sức oai đức của Như
Lai. Vì thuận lời dạy của
Như Lai, vì thật hành theo lời của Như Lai, vì học hạnh của Như Lai, vì được sức
hộ trì của Như Lai, ….vì trí huệ nhựt quang Như Lai chiếu đến, vì được Như Lai
tánh tịnh nghiệp lực nhiếp thọ.
GIẢNG: Tất cả chúng sanh dù được niềm vui
nhỏ bé, hoặc thô kệch đều là do sức gia trì của Như Lai. Còn những vị tu hành
cao, có được những hỉ lạc lớn cũng đều do sức tâm đó, nguồn suối của sự an lạc
của Như Lai. Đại khái vẫn là “xuất sanh quảng đại hỉ trang nghiêm.”
KINH: …Thiện
Tài thưa, đức thánh phát tâm vô thượng bồ đề đã bao lâu? Dạ Thần nói, này thiện
nam tử, việc này khó tin, khó hiểu, khó vào, khó nói, tất cả thế gian và hàng
nhị thừa đều chẳng biết được, chỉ trừ thần lực của Phật gia hộ, thiện hữú nhiếp
thọ, chứa thăng công đức, chí nguyện thanh tịnh, không tâm hạ liệt…
GIẢNG: Ngài trả lời có một câu thôi mà
rào đón đến như vậy, ý ngài muốn nói, ta tu từ vô lượng kiếp, nhưng lên đến cảnh
giới này phải hiểu rằng tất cả chỉ là vấn đề thời gian, tuy nói là vô lượng kiếp,
nhưng đối với ngài thì lại rất ngắn. Vì tất cả phật pháp là hóa giải vấn đề thời
gian và không gian. Cũng y như những vị trước, ngài cũng kể những bổn sanh, bổn
sự của ngài mà không có gì khác lắm, những là có những đức Phật ra đời, lúc đó
ngài làm gì…, làm gì… v.v…, rồi lúc đó ngài phát tâm vô thượng bồ đề ra sao, và
ngài lại gặp bao nhiêu Đức Phật cung kính cúng dường thế nào, sau ngài thành tựu
được môn giải thoát này, tức là giải thoát môn “Xuất sanh quảng đại hỉ
trang nghiêm.” Ngài kể, lúc đó có vị vua thấy dân chúng khổ quá, nên
ngài mở đại hội phát chẩn.
KINH:…
Nhà vua thấy những người đến cầu xin liền sanh lòng bi mẫn, lòng hoan hỉ, lòng
tôn trọng, lòng thiện hữu, lòng quảng đại, lòng tương tục, lòng tin tấn, lòng bất
thối, lòng thí xả, lòng châu biến. Lòng hoan hỉ giây lát của nhà vua khi thấy
những người đến xin còn hơn sự khoái lạc trong trăm ngàn ức na do tha kiếp của
Đao Lợi Thiên vương,… nhẫn đến hơn cả sự vui tịch tịnh trong bất khả thuyết kiếp
của Tịnh Cư Thiên vương…., này thiện nam tử, nhà vua ấy nhờ thiện tri thức nên
được tăng trưởng tri giải và chí nguyện nơi Phật Bồ Đề, các căn thành tựu, tín
tâm thanh tịnh, hoan hỉ viên mãn…
GIẢNG: Nhà vua mở hội bố thí phát chẩn
cho người nghèo, khi thấy dân chúng lễ mễ nhận những sự vật bố thí, vua khởi
tâm vui mừng, sanh tâm bi mẫn, sanh lòng hoan hỉ, lòng tôn trọng. Vì sao lại
sanh lòng tôn trọng? Vì họ chính là những vị “thiện tri thức” của
mình, họ có tới xin thì mới bố thí được, lúc đầu kọ xin của cải, sau họ xin cả
đầu, mắt, tay, chân, não tủy v.v… ngài cũng rất hoan hỉ để bố thí, làm được những
hạnh ấy đạo quả mới thành tựu được. Trong khi bố thí của cải, đầu, mắt tay,
chân v.v… như thế thì lòng hỉ của ngài, còn vui xướng hơn trăm ngàn ức na do
tha kiếp sống làm Đao Lợi Thiên vương. Hoặc như một vị thái tử đút đầu vào miệng
hổ đói để cho nó nhai thịt mình, thì cái tâm của các ngài đầy những hoan hỉ,
vui sướng như người nhập đệ tam thiền vậy. Tại sao thế? Thứ nhất, các ngài đã
vào được định, thần thức rút khỏi sắc thân nên không còn cảm thây đau nữa. Thứ
hai, sự hoan hỉ trong việc bố thí, vứt thân mình để đi cứu người khác đưa các
ngài đến một bình diện tâm thức an lạc ghê gớm, hơn chư thiên rất nhiều. Như Việt
nam chúng ta có vị Thích Quảng Đức tự thiêu, nếu ngài là bực cao, thì ngài
không cảm thấy đau đớn mà còn thấy hoan hỉ là đằng khác.
Đạo Phật dạy chúng
ta những điều chưa từng có, nên những người không nghĩ sâu, không có lòng tin
thì không sao có thể đi trên con đường bồ tát được.
Comments
Post a Comment