ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
31.- BÀ SAN BÀ DIỄN ÐỂ CHỦ DẠ THẦN
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn
"BỒ TÁT PHÁ NHỨT THIẾT
CHÚNG SANH ÁM PHÁP QUANG MINH GIẢI THOÁT".
Bấy giờ Thiện Tài nhất tâm tư duy lời dạy của An Trụ Ðịa Thần,
ghi nhớ môn Bồ Tát bất khả trở hoại trí tạng giải thoát, tu tam muội đó, học
quỹ tắc đó, quán sát thần thông du hí đó, nhập vi diệu đó, được trí huệ đó đạt
bình đẳng đó, biết vô biên đó lường thậm thâm đó.
Ði lần đến thành Ca Tỳ La vào cửa đông, Thiện Tài đứng chờ
chẳng bao lâu kế trời tối.
Thiện Tài tâm niệm tùy thuận lời dạy của chư Bồ Tát, khác
ngưỡng muốn được thấy Chủ Dạ Thần. Nơi thiện tri thức tưởng như Phật.
Thiện Tài lại nghĩ rằng : Nhờ thiện tri thức mà được phổ biến
nhãn, thấy rõ cảnh giới mười phương. Nhờ thiện tri thức mà được quảng đại giải
thấu rõ tất cả cảnh sở duyên. Nhờ thiện tri thức mà được tam muội nhãn quán sát
tất cả pháp môn. Nhờ thiện tri thức mà đước trí huệ nhãn soi sáng mười phương
sát hải.
Lúc suy nghĩ như vậy, Thiện Tài thấy trên hư không, Dạ Thần
ngồi trên tòa hương liên hoa tạng sư tử trong bửu lâu các. Thân màu chơn kim,
mắt và tóc xanh biếc, hình mạo đoan nghiêm, những chuỗi ngọc báu dùng trang
sức. Thân mặc y phục đỏ, đầu đội mão Phạm Thiên. Tất cả tinh tú hiện rõ trên
thân.
Mỗi lỗ lông trên thân của Dạ Thần đều hiện hóa độ vô lượng vô
số chúng sanh ở ác đạo, cho họ thoát khỏi thân hình hiễm nạn.
Những chúng sanh này, hoặc sanh nhơn gian, hoặc sanh lên trời,
hoặc xu hướng Nhị thừa Bồ đề, hoặc tu hành đạo Nhứt thiết trí.
Lại trong mỗi lỗ lông thị hiện những phương tiện giáo hóa :
hoặc hiện thân, hoặc thuyết pháp, hoặc thị hiện đạo Thanh Văn thừa, Ðộc Giác
thừa, Bồ Tát hạnh, Bồ Tát dũng mãnh, Bồ Tát tam muội, Bồ Tát tự tại, Bồ Tát trụ
xứ, Bồ Tát quán sát, Bồ Tát sư tử tần thân, Bồ Tát giải thoát du hí.
Thị hiện những phương tiện thành thục chúng sanh như vậy.
Thiện tài thấy và nghe những sự trên đây, lòng rất vui mừng.
Ðảnh lễ nơi chân Dạ Thần, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng :
Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề. Lòng tôi
trông mong nương thiện tri thức để được công đức pháp tạng của Như Lai. Xin dạy
cho tôi đạo Nhứt thiết trí, tôi đi trong đó đến bực Thập lực.
Dạ Thần bảo Thiện Tài rằng :
Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi có thể thâm
tâm kính thiện trí thức, thích nghe lời dạy và tu hành theo. Do tu hành nên
quyết định sẽ được Vô thượng Bồ đề.
Này thiện nam tử ! Ta được môn giải thoát Bồ Tát pháp quang
minh phá tất cả chúng sanh si ám.
Này thiện nam tử ! Ta ở nơi ác huệ chúng sanh khởi tâm đại từ,
nơi chúng sanh bất thiện khởi tâm đại bi, nơi chúng sanh làm lành khởi tâm đại
hỷ, nơi chúng sanh đủ hai hạnh thiện ác khởi tâm bất nhị, nơi chúng sanh tạp
nhiễm ta khởi tâm làm cho họ thanh tịnh, nơi chúng sanh tà đạo ta khởi tâm làm
cho họ sanh chánh hạnh, nơi chúng sanh hiểu biết kém ta khởi tâm làm cho họ
được trí sáng suốt, nơi chúng sanh mến sanh tử ta khởi tâm làm cho họ bỏ luân
chuyển, nơi chúng sanh an trụ Nhị thừa ta khởi tâm làm cho họ tu Nhứt thiết
trí.
Này thiện nam tử ! Vì ta được môn giải thoát này nên thường
tương ứng với những tâm như vậy.
Này thiện nam tử ! Ðêm tối yên lặng, lúc quỷ thần, trộm cướp,
các ác chúng sanh du hành, lúc mây kính sương dầy gió to mưa lớn nhựt nguyệt
tinh tú đều tối tâm, thấy có các chúng sanh hoặc vào biển, hoặc đi trong lục
địa, nơi núi rừng hoang vu, những chỗ hiểm nạn, hoặc gặp trộm cướp, hoặc thiếu
lương thực, hoặc lạc đường kinh hải lo buồn không thể thoát được. Ta liền dùng
nhiều phương tiện để cứu giúp họ.
Vì chúng sanh bị nạn nơi biển mà hiện làm lái thuyền, làm Ngư
vương, Mã vương, Quy vương, Tượng vương, A Tu La vương, Hải thần, vì họ mà ngăn
mưa gió, dứt sóng mòi, dắt đường chỉ bờ cho họ thoát nạn. Nguyện đem thiện căn
này ban cho tất cả chúng sanh đều được khỏi khổ.
Vì chúng sanh đi trong lục địa, đêm tối bị nạn mà hiện mặt
nhựt, mặt nguyệt, tinh tú, ráng ban mai, chớp đêm tối, cho họ thấy ánh sáng,
nhẫn đến hiện làm nhơn chúng nhà cửa, cho họ được khỏi nạn khủng bố. Nguyện đem
thiện căn này ban cho tất cả chúng sanh thoát khỏi màn tối phiền não. Những
chúng sanh tiếc thân mạng, chuộng danh tiếng, ham của báu, trọng quyền tước,
đắm nam nữ, luyến thê thiếp, mà chưa toại theo sở cầu phải lo sợ, thời ta đều
cứu giúp cho họ khỏi khổ.
Vì người đi trên núi hiễm mà bị nạn, thời ta làm thiện thần
hiện hình thân cận, hoặc hiện làm chim đẹp kêu hót cho họ được vui, hoặc hiện
làm linh dược soi sáng cho họ thấy cây trái, chỉ cho họ suối ngọt, chỉ cho họ
đường sá bằng phẳng để họ thoát ách nạn.
Vì người bị nạn nơi đồng hoang rừng rậm mà hiện ra chỉ đường
cho họ. Nguyện tất cả chúng sanh đốn rừng rậm kiến chấp, chặt lưới tham ái
thoát đồng sanh tử, diệt tối phiền não, vào đường bằng thẳng Nhứt thiết trí,
đến chỗ vô uý rốt ráo an lạc.
Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh ham tụ lạc, mến nhà cửa
mà thường ở chỗ tối tăm bị khổ, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ nhàm lìa để
được đầy đủ pháp lành, an trụ chánh pháp. Nguyện tất cả chúng sanh đều chẳng
tham mến tụ lạc lục trần, mau được thoát khỏi cảnh giới sanh tử, rốt ráo an trụ
nơi thành Nhứt thiết trí.
Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh đi đêm tối quên mất
phương hướng, lạc đường lo sợ. Ta dùng phương tiện soi sáng cho họ. Nếu là
người muốn ra khỏi, thời ta chỉ cửa nẻo, người muốn đi thì ta chỉ đường sá,
người muốn qua sông thời ta chỉ cầu đò, người muốn đi sông biển thời ta cho
thuyền bè, người thích xem phương hướng thời ta chỉ cho họ chỗ an nguy hiễm dễ,
người muốn nghỉ ngơi thì ta chỉ cho họ thành ấp cội cây.
Ta nghĩ rằng : Như ở tại đây ta trừ đêm tối làm cho những thế
sự đều được thứ tự hiển bài. Nguyện ta dùng ánh sáng trí huệ soi rõ khắp những
chỗ tối tăm vô minh, đêm dài sanh tử.
Những chúng sanh không có trí nhãn bị che đậy bởi tâm tưởng
kiến chấp điên đảo : vô thường tưởng là thường, vô lạc tưởng là lạc, vô ngã
tưởng là ngã, bất tịnh tưởng là tịnh, chấp chặt những ngã, nhơn, chúng sanh,
uẩn, xứ, giới, mê lầm nhơn quả, chẳng biết thiện ác, sát hại chúng sanh nhẫn
đến tà kiến, chẳng hiếu với cha mẹ, chẳng kính Sa Môn, Bà la môn, chẳng biết
người ác người lành, ham ác sự, trụ pháp tà, hủy báng Như Lai, phá hoại chánh
pháp, sỉ nhục thương hại chư Bồ Tát, khinh đạo Ðại thừa, dứt tâm Bồ đề, hại
người ơn, oán kẻ thù, khinh rẻ Hiền Thánh, gần gũi bạn ác, trộm vật của chùa
tháp, làm tội ngũ ngịch, chẳng bao lâu sẽ bị đọa ba ác đạo. Nguyện tôi mau dùng
ánh sáng đại trí phá màn tối vô minh của những chúng sanh đó, khiến họ mau phát
tâm Vô thượng Bồ đề.
Họ đã phát tâm, tôi liền chỉ hạnh Phổ Hiền, mở đường thập lực,
chỉ cảnh giới Như Lai pháp vương, cũng hiển thị thành trì nhất thiết trí của
chư Phật. Chư Phật thật hành, chư Phật tự tại, chư Phật thành tựu, chư Phật
tổng trì, tất cả chư Phật chung đồng một thân, tất cả chư Phật bình đẳng một
chỗ, đều làm cho họ được an trụ.
Này thiện nam tử ! tất cả chúng sanh hoặc bị bịnh y buộc ràng,
hoặc bị già xâm lấn, hoặc khổ vì nghèo cùng, hoặc gặp hoạn nạn, hoặc phạm pháp
vua bị gia hình, ta đều cứu giúp cho họ được an ổn.
Ta lại nghĩ rằng : Nguyện dùng chánh pháp nhiếp khắp chúng
sanh cho họ giải thoát tất cả phiền não, sanh gìa bệnh chết, ưu bi khổ hoạn.
Thường được gần thiện tri thức, thật hành pháp thí, siêng tu hạnh lành, mau
được pháp thân thanh tịnh của Như Lai, an trụ nơi rốt ráo không biến đổi.
Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sanh vào rừng kiến chấp, trụ
nơi đạo tà, nơi các cảnh giới khởi tà phân biệt, thân khẩu ý thường làm sự bất
thiện, vọng làm những sự khổ hạnh. Nơi chẳng phải chánh giác tưởng là chánh
giác. Nơi chánh giác tưởng là chẳng phải chánh giác. Bị ác tri thức nhiếp thọ.
Do họ khởi ác kiến sắp đọa ác đạo, ta dùng nhiều môn phương tiện cứu hộ họ, cho
họ an trụ nơi chánh kiến sanh trong Nhơn Thiên.
Lại tự nghĩ rằng : Như ta cứu những chúng sanh sắp đọa ác đạo,
nguyện ta cứu tất cả chúng sanh, đều làm cho họ giải thoát tất cả khổ, an trụ
nơi Ba la mật Thánh đạo xuất thế. Nguyện ta được chẳng thối chuyển nơi nhất
thiết trí, đủ nguyện Phổ Hiền, gần Nhứt thiết trí, chẳng rời bỏ hạnh Bồ Tát,
thường siêng giáo hóa tất cả chúng sanh.
Bấy giờ BÀ SAN BÀ DIỄN
ÐỂ CHỦ DẠ THẦN muốn tuyên lại nghĩa giải thoát này, thừa thần lực của Phật,
quán sát mười phương, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng :
Môn giải
thoát của ta
Sanh tịnh
pháp quang minh
Phá được
tối ngu si
Chờ thời
mà diễn thuyết.
Ta từ vô
biên kiếp
Siêng tu
đại từ tâm
Che chở
khắp thế gian
Phật tử nên
tu học.
Biển đại
bi tịch tịnh
Xuất sanh
tam thế Phật
Hay diệt
khổ chúng sanh
Ngươi nên
nhập môn này.
Hay sanh
thế gian vui
Cũng sanh
vui xuất thế
Khiến
lòng ta hoan hỷ
Ngươi nên
nhập môn này.
Ðã bỏ họa
hữu vi
Cũng xa
Thanh Văn quả
Tịnh tu
chư Phật lực
Ngươi nên
nhập môn này.
Mắt ta
rất thanh tịnh
Thấy khắp
mười phương cõi
Cũng thấy
Phật trong đó
Ngồi dưới
cây Bồ đề.
Thân
tướng tốt trang nghiêm
Vô lượng
chúng câu hội
Trong mỗi
lỗ chân lông
Phóng ra
nhiều tia sáng.
Thấy
những loài quần sanh
Chết đây
mà sanh kia
Luân hồi
trong năm loài
Thường
thọ vô lượng khổ.
Tai ta
rất thanh tịnh
Nghe thấu
đến mười phương
Tất cả
biển ngữ ngôn
Ðều nghe
hay ghi nhớ.
Chư Phật
chuyển pháp luân
Tiến Phật
diệu vô tỷ
Bao nhiêu
những văn tự
Ðều có
thể ghi nhớ.
Mũi ta
rất thanh tịnh
Nơi pháp
không chướng ngại
Tất cả
đều tự tại
Ngươi nên
nhập môn này.
Lưỡi ta
rất rộng dài
Sạch tốt
hay nói năng
Tùy nghi
diễn diệu pháp
Ngươi nên
nhập môn này.
Thân ta
rất thanh tịnh
Tam thế
đồng như như
Tùy tâm
các chúng sanh
Tất cả
thảy đều hiện.
Tâm ta
tịnh vô ngại
Như không
chứa muôn vật
Khắp nhớ
tất cả Phật
Mà cũng
chẳng phân biệt.
Biết rõ
vô lượng cõi
Tất cả
biển tâm tánh
Các căn
và dục lạc
Mà cũng
chẳng phân biệt.
Ta dùng
đại thần thông
Chấn động
vô lượng cõi
Thân mình
đến khắp nơi
Phục kia
chúng khó phục
Phước ta
rất rộng lớn
Như hư
không vô tận
Cúng
dường chư Như Lai
Lợi ích
tất cả chúng.
Trí ta
rộng thanh tịnh
Biết rõ
biển các pháp
Trừ diệt
chúng sanh mê
Ngươi nên
nhập môn này.
Ta biết
tam thế Phật
Và biết
tất cả pháp
Cũng biết
phương tiện kia
Môn này
khắp vô thượng.
Thấy
trong mỗi vi trần
Tam thế
tất cả cõi
Cũng thấy
chư Phật kia
Ðây là
phổ môn lực.
Trong
thập phương sát trần
Ðều thấy
Lô Xá Na
Ngồi dưới
cây Bồ đề
Thành đạo
diễn diệu pháp
Thiện Tài thưa rằng :
Ðức Thánh pháp tâm Vô thượng Bồ đề được bao lâu ? Ðược môn
giải thoát này hồi nào mà có thề lợi ích chúng sanh như vậy ?
Chủ Dạ Thần nói :
Này thiện nam tử ! Thuở xưa quá Tu Di sơn vi trần số kiếp, có
một kiếp tên là Tịch Tịnh Quang, thế giới tên Xuất Sanh Diệu Bửu, có năm ức
Phật xuất hiện trong đó.
Trong thế giới Xuất Sanh Diệu Bửu có tứ thiên hạ tên Bửu
Nguyệt Ðăng Quang, có thành tên Liên Hoa Quang, vua hiệu Pháp Thiện Ðộ dùng
pháp trị dân, đầy đủ thất bửu. Vua có phu nhơn tên là Pháp Huệ Nguyệt giữa đêm
đang ngủ.
Thành Ðông có khu rừng lớn tên là Tịch Trụ, trong rừng có cây
Bồ đề lớn tên là Nhứt Thiết Quang Ma Ni Vương Trang Nghiêm Thân thường xuất
sanh thần lực quang minh của tất cả Phật.
Bấy giờ có đức Phật thành Ðẳng Chánh Giác dưới cây Bồ đề này
hiệu là Nhứt Thiết Pháp Lôi Âm Vương, phóng quang minh rộng lớn vô lượng màu
chiếu khắp thế giới Xuất Sanh Diệu Bửu.
Trong thành Liên Hoa Quang có Chủ Dạ Thần tên Tịnh Nguyệt đến
cung, động chuỗi ngọc để đánh thức phu nhơn Pháp Huệ Nguyệt mà bảo rằng :
Này phu nhơn ! Nơi rừng Tịch Trụ, đức Nhứt Thiết Pháp Lôi Âm
Vương Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác.
Dạ Thần lại vì phu nhơn mà nói công đức thần lực tự tại của
Phật, hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, cho phu nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề
đến cúng dường Phật và chư Bồ Tát cùng chúng Thanh Văn.
Này thiện nam tử ! Phu nhơn Pháp Huệ Nguyệt thuở xưa chính là
tiền thân của ta.
Từ thuở đó ta phát tâm Vô tận Bồ đề gieo căn lành, trải qua Tu
Di sơn vi trần số kiếp chẳng sanh trong các ác đạo, dũng chẳng sanh nơi nhà hạ
tiện. Ở trong nhân thiên ta được phước đức thù thắng, chẳng sanh ác thế, thường
chẳng rời Phật và chư Bồ Tát đại thiện tri thức gieo trồng căn lành. Trải qua
tám mươi Tu Di sơ vi trần số kiếp thường được an lạc, mà chưa đầy đủ chư căn
của Bồ Tát. Lại trải qua vạn kiếp trước Hiền kiếp, có một kiếp tên là Vô Ưu
Biến Chiếu, thế giới tên là Vô Cấu Diệu Quang. Trong thế giới đó tịnh uế xen
lẫn, có năm trăm đức Phật xuất hiện trong đó.
Ðức Phật đệ nhứt hiệu là Tu Di Tràng Tịch Tịnh Diệu Nhãn.
Lúc đó ta là con gái của Trưởng giả Danh Xưng, tên là Diệu Huệ
Quang Minh, dung nhan đoan chánh.
Tịnh Nguyệt Dạ Thần vì bổn nguyện mà sanh trong vương thành
Diệu Trang nơi một tứ thiên hạ ở Ly Cấu thế giới, làm Chủ Dạ Thần tên là Thanh
Tịnh Nhãn.
Một đêm ta nằm ngủ bên cha mẹ. Thanh Tịnh Nhãn Dạ Thần đến
chấn động nhà ta, phóng quang minh hiện thân ca ngợi công đức của Phật và cho
hay rằng : Diệu Nhãn Như Lai ngồi tòa Bồ đề mới thành Chánh Giác. Dạ Thần
khuyên ta cùng cha mẹ và quyến thuộc mau đến gặp Phật. Rồi Dạ Thần tự làm tiền
đạo dẫn đến chỗ Phật cúng dường.
Ta vừa thấy Phật liền được tam muội tên là "Xuất sanh
kiến Phật điều phục chúng sanh tam thế trí quang minh luân". Do được tam
muội này nên có thể nhớ Tu Di sơn vi trần số kiếp. Cũng thấy chư Phật xuất hiện
trong những kiếp đó. Ta ở chỗ chư Phật nghe diệu pháp. Do nghe pháp nên được
môn giải thoát pháp quang minh phá tối của tất cả chúng sanh này.
Ðược môn giải thoát này, ta liền thấy thân mình đến Phật sát
vi trần số thế giới, cũng thấy tất cả chư Phật trong những thế giới đó.
Ta lại thấy thân mình ở chỗ chư Phật. Ta cũng thấy tất cả
chúng sanh trong những thế giới đó, hiểu ngôn âm của họ, biết căn tánh của họ,
biết họ thuở quá khứ đã từng được thiện hữu nhiếp thọ. Tùy sở thích của họ mà
hiện thân cho họ hoan hỷ. Nơi môn giải thoát đã được, niệm niệm ta được tăng
trưởng không ngớt.
Ta lại thấy thân mình đến khắp trăm Phật sát vi trần số thế
giới, tâm giải thoát kia cũng vẫn liên tục.
Ta lại thấy thân mình đến khắp ngàn Phật sát, trăm ngàn Phật
sát, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, cũng
thấy tất cả Như Lai trong những thế giới, cũng thấy chính mình nghe chư Phật
thuyết pháp, ghi nhớ thọ trì, quán sát giải quyết. Cũng biết những biển bổn sự,
bổn nguyện của chư Phật đó.
Chư Như Lai đó nghiêm tịnh Phật độ, ta cũng nghiêm tịnh.
Ta cũng thấy tất cả chúng sanh trong những thế giới đó, tùy cơ
nghi của họ mà hiện thân giáo hóa điều phục. Trong thời gian đó, môn giải thoát
này niệm niệm tăng trưởng. Như vậy nhẫn đến sung mãn pháp giới.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn "BỒ TÁT PHÁ NHỨT THIẾT CHÚNG SANH ÁM PHÁP QUANG MINH GIẢI
THOÁT".
Như chư đại Bồ Tát thành tựu Phổ Hiền vô biên hạnh nguyện, vào
khắp tất cả pháp giới hải, được Bồ Tát kim cang trí tràng tự tại tam muội, xuất
sanh đại nguyện , trụ trì Phật chủng, ở trong mỗi niệm thành mãn biển tất cả
công đức lớn, nghiêm tịnh tất cả thế giới rộng lớn, dùng trí tự tại giáo hóa
thành thục tất cả chúng sanh, dùng trí huệ nhật, diệt trừ tất cả thế gian ám
chướng, dùng trí dũng mãnh giác ngộ giấc ngủ của tất cả chúng sanh, dùng trí
huệ nguyệt quyết rõ sự nghi hoặc của tất cả chúng sanh, dùng thanh tịnh âm dứt
trừ tất cả sự hữu lậu, thị hiện tất cả thần lực tự tại trong mỗi vi trần nơi
tất cả pháp giới, trí nhãn thanh tịnh thấy khắp tam thế.
Ta thế nào biết được diệu hạnh đó, nói được công đức đó, vào
được cảnh giới đó, thị hiện được tự tại đó.
Này thiện nam tử ! Trong Bồ đề tràng đây có Chủ Dạ Thần tên là
Phổ Ðức Tịnh Quang. Ta vốn từ Thần đó phát tâm Vô thượng Bồ đề, thường dùng
diệu pháp khai ngộ cho ta.
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo
?
Thiện Tài đồng tử cung kính hướng về Dạ Thần Bà San Bà Diễn Ðể
mà nói kệ rằng :
Thấy Ngài
thân thanh tịnh
Tướng hảo
hơn thế gian,
Như Văn
Thù Sư Lợi
Cũng như
Bửu Sơn Vương.
Pháp thân
Ngài thanh tịnh
Tam thế
đều bình đẳng
Vào tất
cả thế giới
Thành
hoại không chướng ngại,
Tôi xem
tất cả loài
Ðều thấy
hình tượng Ngài
Trong mỗi
mỗi lỗ lông
Tinh
nguyệt đều phân bố
Tâm Ngài
rất quảng đại
Như không
khắp mười phương
Chư Phật
đều vào trong
Thanh
tịnh vô phân biệt.
Trong mỗi
mỗi lỗ lông
Ðều phóng
vô số quang
Chỗ chư
Phật mươi phương
Khắp rưới
đồ trang nghiêm.
Trong mỗi
mỗi lỗ lông
Ðều hiện
vô số thân
Khắp quốc
độ mười phương
Phương
tiện độ chúng sanh.
Trong mỗi
mỗi lỗ lông
Thị hiện
vô lượng cõi
Tùy sở
thích chúng sanh
Cho họ
được thanh tịnh.
Nếu có
các chúng sanh
Nghe danh
và thấy thân
Ðều được
công đức lợi
Thành tựu
Bồ đề đạo.
Nhiều
kiếp ở ác đạo
Mới được
thấy nghe Ngài
Cũng nên
hoan hỷ họ
Vì để
diệt phiền não.
Ngàn cõi
vi trần kiếp
Khen Ngài
chút công đức
Kiếp số
có cùng tận
Ðức Ngài không
cùng tận
Thiện Tài nói kệ xong, đảnh lễ nơi chân Dạ Thần, hữu nhiễu vô
lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
13 tháng 05 1990
31.- BÀ SAN BÀ DIỄN ÐỂ CHỦ DẠ THẦN
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn
"BỒ TÁT PHÁ NHỨT THIẾT CHÚNG SANH ÁM PHÁP QUANG MINH GIẢI THOÁT".
KINH: Này
thiện nam tử, trong thành Ca Tỳ La có chủ dạ thần tên là Bà San Bà Diễn Để…
GIẢNG: Thành Ca Tỳ La là nơi đức Phật
Thích Ca đản sanh. Từ đây trở đi, chúng ta sẽ gặp luôn liên tiếp 8 vị chủ dạ thần,
sau đó có khoảng mấy vị nữa, hoặc Chủ dạ thần, hoặc Lâm Thần, đều thị hiện làm
nữ nhân cả. Chủ Dạ Thần là vì các vị này luôn luôn độ chúng sanh bằng cách thay
đổi tiềm thức chúng sanh. Như Chủ Nhật Thần là Mặt Trời, cho chúng sanh sức
nóng, thay đổi trên sắc ấm, là mức độ thô kệch nhất, còn những Chủ Dạ Thần thì
độ chúng sanh trên phần tiềm thức, khiến tiềm thức tăng trưởng thiện căn mà
chính chúng sanh không hề hay biết. Nên trong kinh hay nói: các ông sẽ được những
phước báo mà chính các ông không biết vì tiềm thức các ông thay đổi. Như một
người đọc kinh nhiều, thì những chủng tử của kinh rớt vào tiềm thức tích lũy
lâu dần thành những thiện căn mà chính người đó không biết, đến khi nó nở rầm rộ
ra thì chỉ biết kết quả ấy thôi, chứ không biết nguyên do rốt ráo vì đâu ra cả.
Vị chủ dạ thần nữ đầu tiên là Bà San Bà Diễn Để. “Bà San Bà Diễn Để” theo
tiếng Phạn có nghĩa là “mùa xuân.” Ngài Thiện Tài đi vào
tâm địa, vào mùa xuân, mà mùa xuân thì các bông trái nở ra, như trong tâm thức
nở ra nhiều thứ diệu đức, diệu lực.
KINH: Thiện
Tài đảnh lễ chân địa thần, nhất tâm tư duy về lời dậy đó…
GIẢNG: “… tư duy về lời dạy ấy…” tức
là tư duy về tâm địa của mình.
KINH: Đi
lần đến thành Ca Tỳ La vào cửa Đông, Thiện Tài đứng chờ chẳng bao lâu kế trời tối…
GIẢNG: “…vào của Đông…” có nghĩa
là phát khởi các nguồn ánh sáng của tâm, cũng như mặt trời mọc phương
Đông, “…chờ chẳng bao lâu thì trời tối…” có nghĩa là tâm ngài
vẫn còn những tập khí si ám. Ở đây, ý kinh nói Thiện Tài đã vào được tàng thức,
đi sâu vào trong, gột rửa nhiều phần vọng, nhưng vẫn còn những tập khí vi tế .
KINH: Thiện
Tài tâm niệm tùy thuận lời dạy của chư Bồ Tát, khát ngưỡng muốn được thấy Chủ Dạ
Thần. Nơi thiện trí thức tưởng như Phật…
GIẢNG: Thiện Tài vừa tư duy, vừa nghĩ đến
vị chủ dạ thần này.
KINH: Thiện
Tài lại nghĩ rằng, nhờ thiện tri thức mà được phổ biến nhãn, thấy rõ cảnh
giới mười phương…
GIẢNG: Quán chiếu để được “phổ biến
nhãn,” nhìn thấy thiện tri thức.
KINH: Nhờ
thiện tri thức mà được quảng đại giải thấu rõ tất cả cảnh sở duyên. Nhờ thiện
tri thức mà được tam muội nhãn quan sát tất cả pháp môn. Nhờ thiện tri thức mà
được trí huệ nhãn soi sáng mười phương sát hải. Lúc suy nghĩ như vậy, Thiện Tài
thấy trên hư không Dạ Thần ngồi trên tòa hương liên hoa tạng sư tử trong bửu
lâu các. Thân màu chơn kim, mắt và tóc xanh biếc, hình mạo đoan nghiêm, những
chuỗi ngọc báu dùng trang sức. Thân mặc y phục đỏ, đầu dội mão Phạm Thiên. Tất
cả tinh tú hiện rõ trên thân…
GIẢNG: “Tất cả tinh tú hiện rõ trên
thân,” là vị thần này thân rất lớn bao trùm nhiều khoảng hư không.
Cũng như chúng ta ngồi đây, chỉ nhìn thấy vài cái cây ngoài kia, ngôi chùa này,
và một chút hư không v.v…, nhưng chắc chắn, chúng ta đang ngồi trong thân của một
vị thần linh nào đó, thân các ngài là cõi. Có thể đó là đức A Di Đà, cũng có thể
là ngài Quán Âm Bồ Tát. Vì trăng, sao còn hiện trong thân các ngài mà. Khi
chúng ta quán chiếu như thế đó lâu dần và thấy rằng “có thể tin được” thì
lúc đó tâm thức của chúng ta đã tiến được đôi chút rồi, khi đó chúng ta sẽ cảm
thây rất an lạc, dù có bị hoạn nạn gì cũng nghĩ rằng mình đang ở trong thân của
các ngài. Nếu nghĩ được như thế thì cho dù có rơi xuống biển cũng không thể nào
chết được, tự nhiên sẽ được thoát, hoặc cho dù có bị chết đi chăng nữa thì mất
đi sắc thân thô kệch này ta cũng được một sắc thân khác tốt hơn ngàn lần. Cũng
vậy, những con thi trùng ở trong thân ta mà chúng nó có biết gì đâu, cứ lổn ngổn
bò trong thân ta, ăn uống, lăng xăng, lít xít. Nên cần nhớ rằng, cõi tức là
thân, thân tức là cõi. Thân đức A Di Đà, thân ngài Quán Thế Âm là cõi, trong đó
có vô lượng chúng sanh. Cũng vậy, thân của chúng ta là cõi đối với những con
thi trùng trong người.
Thiện Tài quán một
lúc lâu thì thấy hình ngài chủ Dạ Thần hiện trên hư không, thân bao trùm cả hư
không, tinh tú hiện trong thân, đội mũ Phạm Thiên.
KINH: Mỗi
lỗ lông trên thân của Dạ Thần đều hiện hóa độ vô lượng, vô số chúng sanh ở ác
dạo, cho họ thoát khỏi thân hình hiểm nạn…
GIẢNG: Trong kinh nói rõ, các ngài thường
độ các chúng sanh, nhưng sở dĩ chúng ta không cảm thấy gì là vì nhiều khi mức độ
tâm thức chưa tương Ưng, chưa khởi lòng tin, thân chưa thanh tịnh đủ .
KINH: …lại
trong mỗi lỗ lông thị hiện những phương tiện giáo hóa, hoặc hiện thân, hoặc
thuyết pháp, hoặc thị
hiện đạo Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa, bồ tát hạnh, bồ tát dũng mãnh, bồ tát
tam muội, bồ tát tự tại, bồ tát trụ xứ, bồ tát quán sát, bồ tát sư tử tần thân,
bồ tát giải thoát du hí…
GIẢNG: Trên lịch trình tu đạo của Thiện
Tài, trước hết ngài chưa có nhãn lực mấy đỗi, nhưng dần dần nhãn lực nhãn lực của
ngài lên mức độ ghê gớm được gọi là “trí vi tế” mà trong thập
hồi hướng có nói, trí vi tế tức là pháp nhãn. Càng ngày, trí vi tế của ngài
càng cao, lúc trước trong kinh không nói ngài nhìn thấy mỗi lổ lông, tới đây
thì nói ngài nhìn thấy mỗi lỗ lông có cả một thế giới, trong ấy, hiện không biết
bao nhiêu hóa thân để độ sanh. Dần dần về sau, ngài lại thấy trong mỗi vi trần
có tất cả cõi Phật, tức là pháp nhãn của ngài ngày càng tăng tiến, nếu ta để ý,
thì thấy rất rõ có một mức đi lên dần dần, sau cùng thì ngài vào hẳn lỗ lông của
ngài Phổ Hiền đi trong đó mười hai năm rồi ngài mới “nhập pháp giới.” Trở
về đoạn kinh này, Thiện Tài đang đứng nhìn ngài Chủ Dạ Thần thấy những lỗ lông
biến hóa một cách thần kỳ.
KINH: Bạch
đức thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề. Lòng tôi trông mong nương thiện tri
thức để được công đức pháp tạng của Như Lai. Xin dạy cho tôi đạo nhất thiết
trí, tôi đi trong đó đến bực thập lực.
GIẢNG: Chúng ta thấy rõ lúc trước Thiện
Tài hỏi rất khiêm tốn, thường thường ngài hỏi “xin dạy tôi bồ tát đạo,
tu bồ tát hạnh…” Nhưng đến đây, thì Thiện Tài nói “xin dạy tôi
đạo nhất thiết trí,” để đi đến bực thập lực. Như vậy tâm Thiện Tài
ngày càng mở rộng, nên câu hỏi ngày càng lớn.
KINH: Dạ
Thần liền bảo Thiện Tài rằng, lành thay, lành thay, này thiện nam tử, ngươi có
thể thâm tâm kính thiện tri thức, thích nghe lời dạy tu hành theo. Do tu hành
nên quyết định sẽ được vô thượng bồ đề.
Nầy
thiện nam tử, ta được môn giải thoát bồ tát pháp quang minh phá tất cả chúng
sanh si ám.
GIẢNG: Ngài Dạ Thần này được môn giải
thoát chỉ chuyên tác động vào tiềm thức chúng sanh, ngài hiện thân trên hư
không, phóng quang minh chiếu vào tất cả chúng sanh để gột tất cả si ám trong
tàng thức của họ (chứ không phải si ám trong ý thức). Phần nhiều các vị thần
linh lớn độ sanh như vậy, tức là phóng quang minh, mỗi loại quang minh gột một
thứ trần trược nào đó, chẳng hạn như gột sân, hoặc si, v.v… ở đây, Thiện Tài đã
vượt qua mức tham dục rồi, sân cũng không còn nữa, mà ngay cái si thô cũng đã
tiêu diệt, chỉ còn những si ám rất vi lố trong tàng thức, thì vị Dạ Thần này gột
hết cho Thiện Tài.
KINH: Này
thiện nam tử, ta ở nơi ác huệ chúng sanh, khởi tâm đại từ, nơi chúng sanh bất
thiện khởi tâm đại bi, nơi chúng sanh làm lành khởi tâm đại hỉ.
GIẢNG: Khi ở nơi chúng sanh ác ngài khởi
tâm đại từ, khi ở nơi chúng sanh bất thiện ngài khởi tâm đại bi. Còn nơi chúng
sanh làm lành ngài khởi tâm đại hỉ, không cần phải dạy dỗ nữa mà ngài khởi tâm
đại hỉ để cùng vui mừng…
KINH: Nơi
chúng sanh đủ hai hạnh thiện ác khởi tâm bất nhị…
GIẢNG: Thường chúng sanh như chúng ta
luôn luôn có đủ những tâm thiện và tâm ác, thì ngài khởi tâm bất nhị để dạy cho
chúng ta giáo lý bình đẳng vô nhị. Vì sao? Vì thiện ác cũng là từ do cái tâm ấy
khởi lên, mà vấn đề là chúng ta phải chuyển cái ác ấy sang thiện, rồi đi tới trạng
thái Như Như Bất Nhị.
KINH: Này
thiện nam tử, đêm tối yên lặng, lúc quỉ thần trộm cướp, các ác chúng sanh du
hành, lúc mây kín sương dầy, gió to mưa lớn nhựt nguyệt tinh tú đều tối tăm, thấy
có các chúng sanh hoặc vào biển, hoặc đi trong lục địa, nơi núi rừng hoang vu,
những chỗ hiểm nạn, hoặc gặp trộm cướp, hoặc thiếu lương thực, hoặc lạc đường
kinh hãi lo buồn không thể thoát được. Ta liền dùng nhiều phương tiện để cứu
giúp họ.
GIẢNG: Ở đây cũng có hai nghĩa. Nghĩa đen
là có những chúng sanh đi đêm có nhiều sự hiểm nạn thì ngài giúp cho. Còn nghĩa
bóng là trong tâm thức các chúng sanh vẫn còn nhiều si ám, vì vậy trong tâm thức
đen tối ấy như đêm dài sanh tử, có những niệm ác lởn vởn trong tâm thức chúng
sanh thì ngài chiếu quang minh gột sạch những thứ ấy. Ngài dạ thần này chỉ dạy
có vậy thôi.
KINH: Này
thiện nam tử, nếu có chúng sanh ham tụ lạc, mến nhà của, thường ở chỗ
tối tăm bị khổ, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ nhàm lìa để được đầy đủ
pháp lành, an trụ chánh pháp. Nguyên tất cả chúng sanh đều chẳng tham mến tụ lạc
lục trần, mau được thoát khỏi cảnh giới sanh tử, rốt ráo an trụ nơi thành nhất
thiết trí.
GIẢNG: Trong đạo Phật, chữ “tụ lạc” quan
trọng lắm. Tụ lạc cũng có hai nghĩa, nghĩa trong và nghĩa ngoài. Nghĩa ngoài chữ
tụ lạc là nơi chốn đông người, đông dân cư. Nghĩa trong tụ lạc tức là các căn của
mình. Như cái mắt có quang minh phóng qua, các hình ảnh của vật chiếu vào, qua
lại, giao thoa tụ tập với nhau, thì gọi là tụ lạc. Trong đạo Phật cho rằng, tất
cả mọi vật đều chỉ là sự kết hợp tụ tập hay ly tán thôi. Thân căn là một tụ lạc,
gồm rất nhiều tế bào tụ lại, như một cái chợ trong thân mình, mà thật ra, tất cả
mọi vật cũng đều thế cả, như cái bàn này, nó cũng là tụ lạc của nhiều tế bào của
gỗ, bao nhiêu cực vi. chúng ta thử nghĩ xem, tuệ giác của nhà Phật thật cao
siêu, vì không có một vật gì là đơn thuần cả, vật nào cũng là sự nhóm họp lại
mà thôi. Nên suy sét cho kỹ, những gì chúng ta yêu nhất, như cái thân này chẳng
hạn, chính nó chỉ là những tế bào nhóm họp lại, gồm lúc nhúc những thi trùng
trong đó. Vì vậy, đạo Phật mới gọi là huyễn, vì khi hết duyên thì nó tan rã ra.
Nên trong kinh có câu, “nguyện tất cả chúng sanh chẳng tham mến tụ lạc
lục trần,” vì tụ lạc cũng chính là sáu căn của mình. Đó là nhận thức
quan của đạo Phật, tức là dùng pháp nhãn, phân tách các thứ vật, vật nào cũng
là những phức thể gồm vô số những hạt tử li ti, vì vậy nên nó mới là huyễn. Và
đó gọi là trí huệ bát nhã.
HỎI:
Thưa ông, đó là ông giảng nghĩa chữ “tụ lạc” trên bình diện sắc ấm,
còn trên bình diện thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm thì sao?
ĐÁP:
Cũng thế, cũng đều nhóm họp lại mà thành, có điều nó được dệt bằng những quang
minh vi tế hơn, thì sự “nhóm họp” cũng vi tế hơn. Trong tưởng ấm, thọ ấm ngay cả
đến hành ấm ấy, cũng có những nhóm họp li ti vi tế, nhưng với mắt thịt và vài
ba cái ống nhòm của khoa học thì không thể nào thấy được, phải có thiên nhãn,
huệ nhãn, pháp nhãn mới nhìn thấy. Mà những phần tử li ti vi tế đó nó vừa là hạt
tử, vừa là sóng, vừa là tia chớp nháng (flash) phụt lên… Ngay đến hư không cũng
vậy, đối với khoa học ngày nay, cứ tưởng rằng trong hư không không có gì cả,
nhưng chính trong đó có vô lượng những hạt tử mà những vị có thiên nhãn mới thấy,
lại còn có hư những loại chúng sanh sống trong ấy nữa. Nói cho rõ hơn, khoa học
ngày nay, chỉ mới đến ranh giới giữa sắc và hư không thôi, chứ chưa hiểu không
là cái gì?
KINH: Những
chúng sanh không có trí nhãn bị che đậy bởi những kiến chấp điên đảo: vô thường
tưởng là thường, vô lạc tưởng là lạc, vô ngã tưởng là ngã, bất tịnh tưởng là tịnh…
GIẢNG: Trong đạo Phật có mấy loại tưởng
điên đảo, chúng ta cũng cần nhớ. Trong kinh thường nói rằng chúng sanh bị bốn
cái điên đảo tưởng che lòa, chẳng hạn như những gì vô thường thì ta tưởng là
thường, đó là một điên đảo tưởng, như cái thân mình, nó rất vô thường, nếu nhìn
theo pháp nhãn thì nó phụt lên từng tia chớp nháng một, mà từng tia chớp nháng
đó vừa phụt lên lại bị diệt đi ngay, má chúng sanh cứ tưởng là thường, nên cả
ngày cứ khởi tâm ưa thích, chăm sóc nó, làm đủ các điều bất thiện cũng vì nó,
không hiểu được rằng, mang một sắc thân thai sanh này rất khổ. Lão Tử nói rằng: “Chúng
ta có cái khổ lớn là vì có sắc thân này”. Mà thực vậy, nếu ngồi suy
nghĩ kỹ thì thấy tất cả mọi sự khổ đều do sắc thân này mà ra cả, cứ phải đi làm
cũng là để nuôi thân, sau phải lấy vợ, sinh con cũng vì cái thân này, rồi chạy
theo danh vọng, làm đủ các chuyện cũng vì cái thân này v.v… Có thể nói chín
mươi lăm phần trăm thời gian, (trừ thời gian ngủ) thì chúng ta chỉ lo đến sắc
thân thôi, rất ít khi nghĩ đến tâm thức, hoặc bồi bổ tâm thức. Thân này như một
ngọn nến, nó là sự “nhóm họp” của vô lượng vô số những flash phụt
lên tạo thành một tổng tướng ảnh tượng là thân này, rồi lại tắt đi ngay, sau lại
phụt lên một loạt gần y hệt như vậy, tương tợ tương tục, vì vậy chúng sanh mới
tưởng là thường, tưởng rằng thân này có sự tồn tại hiện hữu riêng của nó. Tóm lại,
thân này rất vô thường.
Thứ hai là vô lạc
tưởng là lạc, như ăn một miếng ngon thì khoái chí lắm, nhưng chính cái đó không
ngon gì, vì chư thiên nhìn xuống thấy ta sống trong ăn uống, sắc dục v.v… giống
như những con dòi trong thùng phân vậy.
HỎI:
Theo như những tôn giáo khác nói rằng có một linh hồn trường cửu là như thế
nào?
ĐÁP: Nếu
nhìn theo con mắt tuệ của Phật giáo thì cái đó không đúng. Vì sao? Vì cái gọi
là “linh hồn” đó, nhưng đó chỉ là “một trường lực” diễn biến, và lúc nào cũng
thay đổi tùy theo tâm niệm và nghiệp lực chúng sanh. Nó chính là tàng thức sơ
năng biến. Nó hằng, nhưng không bất biến, vì luôn luôn chuyển từng sát na.
Nếu lấy con mắt thô mà nhìn thì ta cho rằng cái đó là “linh hồn,” nhưng chính
lúc nào nó cũng biến hiện. Vì vậy, tôi đã nói ở đây nhiều lần, đạo Phật hơn đạo
khác là có ngũ nhãn, nhìn rõ được pháp giới này. Trong khi ngoại đạo tưởng rằng
có một linh hồn bất biến, thì đạo Phật nhìn thấy sự biến hiện rõ rệt. Vì vậy
các tôn giáo khác so với đạo Phật tương tự như có một rặng núi, phần đông ngọn
núi đều cao nhưng chưa tuyệt vời cao, chỉ riêng ngọn Tuyết Sơn là cao nhất,
giao hợp với mây trời tuyệt vời thôi. Nên chỉ có đạo Phật mới đưa con người đến
sự giải thoát rốt ráo, còn những tôn giáo khác chỉ đưa tâm thức con người lên một
mức nào thôi, thường là lên các từng trời cõi dục, cõi sắc và vô sắc. Không có
một tôn giáo nào dám nói có vô lượng cõi chỉ riêng đạo Phật nói có vô lượng cõi
mà thôi. Tùy theo nhãn lực.
HỎI:
Kinh thì khó hiểu, như trong kinh nói đến núi Tu Di chẳng hạn, mà chúng ta thì
hoàn toàn không ai có thể thấy núi Tu Di. Nên khởi lòng tin rất khó, chưa kể
các ngài lại nói đến nhiều cõi khác nữa. Tôi trộm nghĩ, chắc kinh chỉ để dành
cho những vị phải có thiên nhãn mới lãnh hội được chăng?
ĐÁP:
Núi Tu Di thuộc về thọ ấm. Ở đây tôi cũng xin nhắc với quí vị một điều, kinh là
gần như nói ít đến cảnh giới của thế gian, còn toàn nói cảnh giới của thiên
nhãn và pháp nhãn, như Hoa Nghiêm là cảnh giới của pháp nhãn. Vì thế mới khó
tin, khó hiểu, khó vào. Nên đức Christ bên công giáo nói rằng: “Sung sướng thay
cho kẻ nào không thấy mà tin.” Vì vậy cái tín tâm để đi vào đạo rất cần thiết,
vì khởi được lòng tin mới có thể đi vào cảnh giới trùng trùng của pháp giới
này.
Bây giờ xin trở lại
kinh…
Bốn điên đảo tưởng
nói trên khiến trong đạo Phật nói bốn pháp ấn là: các pháp đều là khổ,
không, vô thường, vô ngã để trị bốn điên đảo tưởng của chúng sanh.
KINH: Bạch
đức thánh, ngài phát tâm vô thượng bồ đề được bao lâu? Được môn giải thoát này
hồi nào mà có thể lợi ích chúng sanh như vậy?
GIẢNG: Lúc nào cũng vậy, các ngài thường
kể những kiếp từ thời xa xưa quá khứ của ngài cho Thiện Tài nghe, như vị chủ dạ
thần này thì một kiếp làm một vị phu nhân, đang đêm đương ngủ có một vị chủ dạ
thần đánh thức bà dậy, bằng cách động chuỗi ngọc, hoặc phóng quang minh, nói rằng
có một bậc Như Lai đang thành chánh Đẳng Chánh Giác. Nên ngài vì cơ duyên đó mà
tu hành nên được giải thoát môn này. Mà pháp môn của ngài chỉ cốt gột những si
ám của chúng sanh. Giảng nghĩa thì có vậy thôi, nhưng trong kinh ngài kể nhiều
chi tiết hơn. ở đây, ta nên hiểu qua về quan niệm thời gian của nhà Phật. Theo
như trong kinh nói, vị nào cũng tu trong vô lượng kiếp, nhưng trong vô lượng kiếp
ấy thì tùy theo tâm người tu mà thấy nó lâu hay mau. Như chúng ta là những người
phàm phu, thô trọc, tâm thức chỉ đến thế thôi, thì ta sẽ thấy sự tu hành của
các ngài là vô lượng kiếp, nhưng đối với các vị tu cao, thì “vô lượng
kiếp” đó chỉ thu lại là một khoảng khắc mà thôi. Như chúng ta chạy tỵ
nạn sang Mỹ mười mấy năm, đôi khi ngồi nghĩ lại những chuyện xảy ra trong mười
mấy năm, có cảm giác như một cơn gió thoảng. Như vậy trong đạo Phật, thời gian
là một sự tùy tâm biến hóa, là một vọng tưởng tùy theo tâm chúng sanh mà thành
dài lê thê hay chỉ thoảng qua chóng vánh. Như một vị tu thiền vào định vài
ngày, thấy thời gian qua như một khảy móng tay.
Comments
Post a Comment