ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



31.- BÀ SAN BÀ DIỄN ÐỂ CHỦ DẠ THẦN

 

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn 

"BỒ TÁT PHÁ NHỨT THIẾT CHÚNG SANH ÁM PHÁP QUANG MINH GIẢI THOÁT".

 


Bấy giờ Thiện Tài nhất tâm tư duy lời dạy của An Trụ Ðịa Thần, ghi nhớ môn Bồ Tát bất khả trở hoại trí tạng giải thoát, tu tam muội đó, học quỹ tắc đó, quán sát thần thông du hí đó, nhập vi diệu đó, được trí huệ đó đạt bình đẳng đó, biết vô biên đó lường thậm thâm đó.

Ði lần đến thành Ca Tỳ La vào cửa đông, Thiện Tài đứng chờ chẳng bao lâu kế trời tối.

Thiện Tài tâm niệm tùy thuận lời dạy của chư Bồ Tát, khác ngưỡng muốn được thấy Chủ Dạ Thần. Nơi thiện tri thức tưởng như Phật.

Thiện Tài lại nghĩ rằng : Nhờ thiện tri thức mà được phổ biến nhãn, thấy rõ cảnh giới mười phương. Nhờ thiện tri thức mà được quảng đại giải thấu rõ tất cả cảnh sở duyên. Nhờ thiện tri thức mà được tam muội nhãn quán sát tất cả pháp môn. Nhờ thiện tri thức mà đước trí huệ nhãn soi sáng mười phương sát hải.

Lúc suy nghĩ như vậy, Thiện Tài thấy trên hư không, Dạ Thần ngồi trên tòa hương liên hoa tạng sư tử trong bửu lâu các. Thân màu chơn kim, mắt và tóc xanh biếc, hình mạo đoan nghiêm, những chuỗi ngọc báu dùng trang sức. Thân mặc y phục đỏ, đầu đội mão Phạm Thiên. Tất cả tinh tú hiện rõ trên thân.

Mỗi lỗ lông trên thân của Dạ Thần đều hiện hóa độ vô lượng vô số chúng sanh ở ác đạo, cho họ thoát khỏi thân hình hiễm nạn.

Những chúng sanh này, hoặc sanh nhơn gian, hoặc sanh lên trời, hoặc xu hướng Nhị thừa Bồ đề, hoặc tu hành đạo Nhứt thiết trí.

Lại trong mỗi lỗ lông thị hiện những phương tiện giáo hóa : hoặc hiện thân, hoặc thuyết pháp, hoặc thị hiện đạo Thanh Văn thừa, Ðộc Giác thừa, Bồ Tát hạnh, Bồ Tát dũng mãnh, Bồ Tát tam muội, Bồ Tát tự tại, Bồ Tát trụ xứ, Bồ Tát quán sát, Bồ Tát sư tử tần thân, Bồ Tát giải thoát du hí.

Thị hiện những phương tiện thành thục chúng sanh như vậy.

Thiện tài thấy và nghe những sự trên đây, lòng rất vui mừng. Ðảnh lễ nơi chân Dạ Thần, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề. Lòng tôi trông mong nương thiện tri thức để được công đức pháp tạng của Như Lai. Xin dạy cho tôi đạo Nhứt thiết trí, tôi đi trong đó đến bực Thập lực.

Dạ Thần bảo Thiện Tài rằng :

Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi có thể thâm tâm kính thiện trí thức, thích nghe lời dạy và tu hành theo. Do tu hành nên quyết định sẽ được Vô thượng Bồ đề.

Này thiện nam tử ! Ta được môn giải thoát Bồ Tát pháp quang minh phá tất cả chúng sanh si ám.

Này thiện nam tử ! Ta ở nơi ác huệ chúng sanh khởi tâm đại từ, nơi chúng sanh bất thiện khởi tâm đại bi, nơi chúng sanh làm lành khởi tâm đại hỷ, nơi chúng sanh đủ hai hạnh thiện ác khởi tâm bất nhị, nơi chúng sanh tạp nhiễm ta khởi tâm làm cho họ thanh tịnh, nơi chúng sanh tà đạo ta khởi tâm làm cho họ sanh chánh hạnh, nơi chúng sanh hiểu biết kém ta khởi tâm làm cho họ được trí sáng suốt, nơi chúng sanh mến sanh tử ta khởi tâm làm cho họ bỏ luân chuyển, nơi chúng sanh an trụ Nhị thừa ta khởi tâm làm cho họ tu Nhứt thiết trí.

Này thiện nam tử ! Vì ta được môn giải thoát này nên thường tương ứng với những tâm như vậy.

Này thiện nam tử ! Ðêm tối yên lặng, lúc quỷ thần, trộm cướp, các ác chúng sanh du hành, lúc mây kính sương dầy gió to mưa lớn nhựt nguyệt tinh tú đều tối tâm, thấy có các chúng sanh hoặc vào biển, hoặc đi trong lục địa, nơi núi rừng hoang vu, những chỗ hiểm nạn, hoặc gặp trộm cướp, hoặc thiếu lương thực, hoặc lạc đường kinh hải lo buồn không thể thoát được. Ta liền dùng nhiều phương tiện để cứu giúp họ.

Vì chúng sanh bị nạn nơi biển mà hiện làm lái thuyền, làm Ngư vương, Mã vương, Quy vương, Tượng vương, A Tu La vương, Hải thần, vì họ mà ngăn mưa gió, dứt sóng mòi, dắt đường chỉ bờ cho họ thoát nạn. Nguyện đem thiện căn này ban cho tất cả chúng sanh đều được khỏi khổ.

Vì chúng sanh đi trong lục địa, đêm tối bị nạn mà hiện mặt nhựt, mặt nguyệt, tinh tú, ráng ban mai, chớp đêm tối, cho họ thấy ánh sáng, nhẫn đến hiện làm nhơn chúng nhà cửa, cho họ được khỏi nạn khủng bố. Nguyện đem thiện căn này ban cho tất cả chúng sanh thoát khỏi màn tối phiền não. Những chúng sanh tiếc thân mạng, chuộng danh tiếng, ham của báu, trọng quyền tước, đắm nam nữ, luyến thê thiếp, mà chưa toại theo sở cầu phải lo sợ, thời ta đều cứu giúp cho họ khỏi khổ.

Vì người đi trên núi hiễm mà bị nạn, thời ta làm thiện thần hiện hình thân cận, hoặc hiện làm chim đẹp kêu hót cho họ được vui, hoặc hiện làm linh dược soi sáng cho họ thấy cây trái, chỉ cho họ suối ngọt, chỉ cho họ đường sá bằng phẳng để họ thoát ách nạn.

Vì người bị nạn nơi đồng hoang rừng rậm mà hiện ra chỉ đường cho họ. Nguyện tất cả chúng sanh đốn rừng rậm kiến chấp, chặt lưới tham ái thoát đồng sanh tử, diệt tối phiền não, vào đường bằng thẳng Nhứt thiết trí, đến chỗ vô uý rốt ráo an lạc.

Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh ham tụ lạc, mến nhà cửa mà thường ở chỗ tối tăm bị khổ, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ nhàm lìa để được đầy đủ pháp lành, an trụ chánh pháp. Nguyện tất cả chúng sanh đều chẳng tham mến tụ lạc lục trần, mau được thoát khỏi cảnh giới sanh tử, rốt ráo an trụ nơi thành Nhứt thiết trí.

Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh đi đêm tối quên mất phương hướng, lạc đường lo sợ. Ta dùng phương tiện soi sáng cho họ. Nếu là người muốn ra khỏi, thời ta chỉ cửa nẻo, người muốn đi thì ta chỉ đường sá, người muốn qua sông thời ta chỉ cầu đò, người muốn đi sông biển thời ta cho thuyền bè, người thích xem phương hướng thời ta chỉ cho họ chỗ an nguy hiễm dễ, người muốn nghỉ ngơi thì ta chỉ cho họ thành ấp cội cây.

Ta nghĩ rằng : Như ở tại đây ta trừ đêm tối làm cho những thế sự đều được thứ tự hiển bài. Nguyện ta dùng ánh sáng trí huệ soi rõ khắp những chỗ tối tăm vô minh, đêm dài sanh tử.

Những chúng sanh không có trí nhãn bị che đậy bởi tâm tưởng kiến chấp điên đảo : vô thường tưởng là thường, vô lạc tưởng là lạc, vô ngã tưởng là ngã, bất tịnh tưởng là tịnh, chấp chặt những ngã, nhơn, chúng sanh, uẩn, xứ, giới, mê lầm nhơn quả, chẳng biết thiện ác, sát hại chúng sanh nhẫn đến tà kiến, chẳng hiếu với cha mẹ, chẳng kính Sa Môn, Bà la môn, chẳng biết người ác người lành, ham ác sự, trụ pháp tà, hủy báng Như Lai, phá hoại chánh pháp, sỉ nhục thương hại chư Bồ Tát, khinh đạo Ðại thừa, dứt tâm Bồ đề, hại người ơn, oán kẻ thù, khinh rẻ Hiền Thánh, gần gũi bạn ác, trộm vật của chùa tháp, làm tội ngũ ngịch, chẳng bao lâu sẽ bị đọa ba ác đạo. Nguyện tôi mau dùng ánh sáng đại trí phá màn tối vô minh của những chúng sanh đó, khiến họ mau phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Họ đã phát tâm, tôi liền chỉ hạnh Phổ Hiền, mở đường thập lực, chỉ cảnh giới Như Lai pháp vương, cũng hiển thị thành trì nhất thiết trí của chư Phật. Chư Phật thật hành, chư Phật tự tại, chư Phật thành tựu, chư Phật tổng trì, tất cả chư Phật chung đồng một thân, tất cả chư Phật bình đẳng một chỗ, đều làm cho họ được an trụ.

Này thiện nam tử ! tất cả chúng sanh hoặc bị bịnh y buộc ràng, hoặc bị già xâm lấn, hoặc khổ vì nghèo cùng, hoặc gặp hoạn nạn, hoặc phạm pháp vua bị gia hình, ta đều cứu giúp cho họ được an ổn.

Ta lại nghĩ rằng : Nguyện dùng chánh pháp nhiếp khắp chúng sanh cho họ giải thoát tất cả phiền não, sanh gìa bệnh chết, ưu bi khổ hoạn. Thường được gần thiện tri thức, thật hành pháp thí, siêng tu hạnh lành, mau được pháp thân thanh tịnh của Như Lai, an trụ nơi rốt ráo không biến đổi.

Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sanh vào rừng kiến chấp, trụ nơi đạo tà, nơi các cảnh giới khởi tà phân biệt, thân khẩu ý thường làm sự bất thiện, vọng làm những sự khổ hạnh. Nơi chẳng phải chánh giác tưởng là chánh giác. Nơi chánh giác tưởng là chẳng phải chánh giác. Bị ác tri thức nhiếp thọ. Do họ khởi ác kiến sắp đọa ác đạo, ta dùng nhiều môn phương tiện cứu hộ họ, cho họ an trụ nơi chánh kiến sanh trong Nhơn Thiên.

Lại tự nghĩ rằng : Như ta cứu những chúng sanh sắp đọa ác đạo, nguyện ta cứu tất cả chúng sanh, đều làm cho họ giải thoát tất cả khổ, an trụ nơi Ba la mật Thánh đạo xuất thế. Nguyện ta được chẳng thối chuyển nơi nhất thiết trí, đủ nguyện Phổ Hiền, gần Nhứt thiết trí, chẳng rời bỏ hạnh Bồ Tát, thường siêng giáo hóa tất cả chúng sanh.

Bấy giờ BÀ SAN BÀ DIỄN ÐỂ CHỦ DẠ THẦN muốn tuyên lại nghĩa giải thoát này, thừa thần lực của Phật, quán sát mười phương, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng :

 

Môn giải thoát của ta

Sanh tịnh pháp quang minh

Phá được tối ngu si

Chờ thời mà diễn thuyết.

Ta từ vô biên kiếp

Siêng tu đại từ tâm

Che chở khắp thế gian

Phật tử nên tu học.

Biển đại bi tịch tịnh

Xuất sanh tam thế Phật

Hay diệt khổ chúng sanh

Ngươi nên nhập môn này.

Hay sanh thế gian vui

Cũng sanh vui xuất thế

Khiến lòng ta hoan hỷ

Ngươi nên nhập môn này.

Ðã bỏ họa hữu vi

Cũng xa Thanh Văn quả

Tịnh tu chư Phật lực

Ngươi nên nhập môn này.

Mắt ta rất thanh tịnh

Thấy khắp mười phương cõi

Cũng thấy Phật trong đó

Ngồi dưới cây Bồ đề.

Thân tướng tốt trang nghiêm

Vô lượng chúng câu hội

Trong mỗi lỗ chân lông

Phóng ra nhiều tia sáng.

Thấy những loài quần sanh

Chết đây mà sanh kia

Luân hồi trong năm loài

Thường thọ vô lượng khổ.

Tai ta rất thanh tịnh

Nghe thấu đến mười phương

Tất cả biển ngữ ngôn

Ðều nghe hay ghi nhớ.

Chư Phật chuyển pháp luân

Tiến Phật diệu vô tỷ

Bao nhiêu những văn tự

Ðều có thể ghi nhớ.

Mũi ta rất thanh tịnh

Nơi pháp không chướng ngại

Tất cả đều tự tại

Ngươi nên nhập môn này.

Lưỡi ta rất rộng dài

Sạch tốt hay nói năng

Tùy nghi diễn diệu pháp

Ngươi nên nhập môn này.

Thân ta rất thanh tịnh

Tam thế đồng như như

Tùy tâm các chúng sanh

Tất cả thảy đều hiện.

Tâm ta tịnh vô ngại

Như không chứa muôn vật

Khắp nhớ tất cả Phật

Mà cũng chẳng phân biệt.

Biết rõ vô lượng cõi

Tất cả biển tâm tánh

Các căn và dục lạc

Mà cũng chẳng phân biệt.

Ta dùng đại thần thông

Chấn động vô lượng cõi

Thân mình đến khắp nơi

Phục kia chúng khó phục

Phước ta rất rộng lớn

Như hư không vô tận

Cúng dường chư Như Lai

Lợi ích tất cả chúng.

Trí ta rộng thanh tịnh

Biết rõ biển các pháp

Trừ diệt chúng sanh mê

Ngươi nên nhập môn này.

Ta biết tam thế Phật

Và biết tất cả pháp

Cũng biết phương tiện kia

Môn này khắp vô thượng.

Thấy trong mỗi vi trần

Tam thế tất cả cõi

Cũng thấy chư Phật kia

Ðây là phổ môn lực.

Trong thập phương sát trần

Ðều thấy Lô Xá Na

Ngồi dưới cây Bồ đề

Thành đạo diễn diệu pháp

 

Thiện Tài thưa rằng :

Ðức Thánh pháp tâm Vô thượng Bồ đề được bao lâu ? Ðược môn giải thoát này hồi nào mà có thề lợi ích chúng sanh như vậy ?

Chủ Dạ Thần nói :

Này thiện nam tử ! Thuở xưa quá Tu Di sơn vi trần số kiếp, có một kiếp tên là Tịch Tịnh Quang, thế giới tên Xuất Sanh Diệu Bửu, có năm ức Phật xuất hiện trong đó.

Trong thế giới Xuất Sanh Diệu Bửu có tứ thiên hạ tên Bửu Nguyệt Ðăng Quang, có thành tên Liên Hoa Quang, vua hiệu Pháp Thiện Ðộ dùng pháp trị dân, đầy đủ thất bửu. Vua có phu nhơn tên là Pháp Huệ Nguyệt giữa đêm đang ngủ.

Thành Ðông có khu rừng lớn tên là Tịch Trụ, trong rừng có cây Bồ đề lớn tên là Nhứt Thiết Quang Ma Ni Vương Trang Nghiêm Thân thường xuất sanh thần lực quang minh của tất cả Phật.

Bấy giờ có đức Phật thành Ðẳng Chánh Giác dưới cây Bồ đề này hiệu là Nhứt Thiết Pháp Lôi Âm Vương, phóng quang minh rộng lớn vô lượng màu chiếu khắp thế giới Xuất Sanh Diệu Bửu.

Trong thành Liên Hoa Quang có Chủ Dạ Thần tên Tịnh Nguyệt đến cung, động chuỗi ngọc để đánh thức phu nhơn Pháp Huệ Nguyệt mà bảo rằng :

Này phu nhơn ! Nơi rừng Tịch Trụ, đức Nhứt Thiết Pháp Lôi Âm Vương Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác.

Dạ Thần lại vì phu nhơn mà nói công đức thần lực tự tại của Phật, hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, cho phu nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề đến cúng dường Phật và chư Bồ Tát cùng chúng Thanh Văn.

Này thiện nam tử ! Phu nhơn Pháp Huệ Nguyệt thuở xưa chính là tiền thân của ta.

Từ thuở đó ta phát tâm Vô tận Bồ đề gieo căn lành, trải qua Tu Di sơn vi trần số kiếp chẳng sanh trong các ác đạo, dũng chẳng sanh nơi nhà hạ tiện. Ở trong nhân thiên ta được phước đức thù thắng, chẳng sanh ác thế, thường chẳng rời Phật và chư Bồ Tát đại thiện tri thức gieo trồng căn lành. Trải qua tám mươi Tu Di sơ vi trần số kiếp thường được an lạc, mà chưa đầy đủ chư căn của Bồ Tát. Lại trải qua vạn kiếp trước Hiền kiếp, có một kiếp tên là Vô Ưu Biến Chiếu, thế giới tên là Vô Cấu Diệu Quang. Trong thế giới đó tịnh uế xen lẫn, có năm trăm đức Phật xuất hiện trong đó.

Ðức Phật đệ nhứt hiệu là Tu Di Tràng Tịch Tịnh Diệu Nhãn.

Lúc đó ta là con gái của Trưởng giả Danh Xưng, tên là Diệu Huệ Quang Minh, dung nhan đoan chánh.

Tịnh Nguyệt Dạ Thần vì bổn nguyện mà sanh trong vương thành Diệu Trang nơi một tứ thiên hạ ở Ly Cấu thế giới, làm Chủ Dạ Thần tên là Thanh Tịnh Nhãn.

Một đêm ta nằm ngủ bên cha mẹ. Thanh Tịnh Nhãn Dạ Thần đến chấn động nhà ta, phóng quang minh hiện thân ca ngợi công đức của Phật và cho hay rằng : Diệu Nhãn Như Lai ngồi tòa Bồ đề mới thành Chánh Giác. Dạ Thần khuyên ta cùng cha mẹ và quyến thuộc mau đến gặp Phật. Rồi Dạ Thần tự làm tiền đạo dẫn đến chỗ Phật cúng dường.

Ta vừa thấy Phật liền được tam muội tên là "Xuất sanh kiến Phật điều phục chúng sanh tam thế trí quang minh luân". Do được tam muội này nên có thể nhớ Tu Di sơn vi trần số kiếp. Cũng thấy chư Phật xuất hiện trong những kiếp đó. Ta ở chỗ chư Phật nghe diệu pháp. Do nghe pháp nên được môn giải thoát pháp quang minh phá tối của tất cả chúng sanh này.

Ðược môn giải thoát này, ta liền thấy thân mình đến Phật sát vi trần số thế giới, cũng thấy tất cả chư Phật trong những thế giới đó.

Ta lại thấy thân mình ở chỗ chư Phật. Ta cũng thấy tất cả chúng sanh trong những thế giới đó, hiểu ngôn âm của họ, biết căn tánh của họ, biết họ thuở quá khứ đã từng được thiện hữu nhiếp thọ. Tùy sở thích của họ mà hiện thân cho họ hoan hỷ. Nơi môn giải thoát đã được, niệm niệm ta được tăng trưởng không ngớt.

Ta lại thấy thân mình đến khắp trăm Phật sát vi trần số thế giới, tâm giải thoát kia cũng vẫn liên tục.

Ta lại thấy thân mình đến khắp ngàn Phật sát, trăm ngàn Phật sát, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, cũng thấy tất cả Như Lai trong những thế giới, cũng thấy chính mình nghe chư Phật thuyết pháp, ghi nhớ thọ trì, quán sát giải quyết. Cũng biết những biển bổn sự, bổn nguyện của chư Phật đó.

Chư Như Lai đó nghiêm tịnh Phật độ, ta cũng nghiêm tịnh.

Ta cũng thấy tất cả chúng sanh trong những thế giới đó, tùy cơ nghi của họ mà hiện thân giáo hóa điều phục. Trong thời gian đó, môn giải thoát này niệm niệm tăng trưởng. Như vậy nhẫn đến sung mãn pháp giới.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn "BỒ TÁT PHÁ NHỨT THIẾT CHÚNG SANH ÁM PHÁP QUANG MINH GIẢI THOÁT".

Như chư đại Bồ Tát thành tựu Phổ Hiền vô biên hạnh nguyện, vào khắp tất cả pháp giới hải, được Bồ Tát kim cang trí tràng tự tại tam muội, xuất sanh đại nguyện , trụ trì Phật chủng, ở trong mỗi niệm thành mãn biển tất cả công đức lớn, nghiêm tịnh tất cả thế giới rộng lớn, dùng trí tự tại giáo hóa thành thục tất cả chúng sanh, dùng trí huệ nhật, diệt trừ tất cả thế gian ám chướng, dùng trí dũng mãnh giác ngộ giấc ngủ của tất cả chúng sanh, dùng trí huệ nguyệt quyết rõ sự nghi hoặc của tất cả chúng sanh, dùng thanh tịnh âm dứt trừ tất cả sự hữu lậu, thị hiện tất cả thần lực tự tại trong mỗi vi trần nơi tất cả pháp giới, trí nhãn thanh tịnh thấy khắp tam thế.

Ta thế nào biết được diệu hạnh đó, nói được công đức đó, vào được cảnh giới đó, thị hiện được tự tại đó.

Này thiện nam tử ! Trong Bồ đề tràng đây có Chủ Dạ Thần tên là Phổ Ðức Tịnh Quang. Ta vốn từ Thần đó phát tâm Vô thượng Bồ đề, thường dùng diệu pháp khai ngộ cho ta.

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Thiện Tài đồng tử cung kính hướng về Dạ Thần Bà San Bà Diễn Ðể mà nói kệ rằng :

 

Thấy Ngài thân thanh tịnh

Tướng hảo hơn thế gian,

Như Văn Thù Sư Lợi

Cũng như Bửu Sơn Vương.

Pháp thân Ngài thanh tịnh

Tam thế đều bình đẳng

Vào tất cả thế giới

Thành hoại không chướng ngại,

Tôi xem tất cả loài

Ðều thấy hình tượng Ngài

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Tinh nguyệt đều phân bố

Tâm Ngài rất quảng đại

Như không khắp mười phương

Chư Phật đều vào trong

Thanh tịnh vô phân biệt.

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Ðều phóng vô số quang

Chỗ chư Phật mươi phương

Khắp rưới đồ trang nghiêm.

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Ðều hiện vô số thân

Khắp quốc độ mười phương

Phương tiện độ chúng sanh.

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Thị hiện vô lượng cõi

Tùy sở thích chúng sanh

Cho họ được thanh tịnh.

Nếu có các chúng sanh

Nghe danh và thấy thân

Ðều được công đức lợi

Thành tựu Bồ đề đạo.

Nhiều kiếp ở ác đạo

Mới được thấy nghe Ngài

Cũng nên hoan hỷ họ

Vì để diệt phiền não.

Ngàn cõi vi trần kiếp

Khen Ngài chút công đức

Kiếp số có cùng tận

Ðức Ngài không cùng tận

 

Thiện Tài nói kệ xong, đảnh lễ nơi chân Dạ Thần, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.



Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


13 tháng 05 1990


31.- BÀ SAN BÀ DIỄN ÐỂ CHỦ DẠ THẦN

 

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn 

"BỒ TÁT PHÁ NHỨT THIẾT CHÚNG SANH ÁM PHÁP QUANG MINH GIẢI THOÁT".


KINH: Này thiện nam tử, trong thành Ca Tỳ La có chủ dạ thần tên là Bà San Bà Diễn Để…

GIẢNG: Thành Ca Tỳ La là nơi đức Phật Thích Ca đản sanh. Từ đây trở đi, chúng ta sẽ gặp luôn liên tiếp 8 vị chủ dạ thần, sau đó có khoảng mấy vị nữa, hoặc Chủ dạ thần, hoặc Lâm Thần, đều thị hiện làm nữ nhân cả. Chủ Dạ Thần là vì các vị này luôn luôn độ chúng sanh bằng cách thay đổi tiềm thức chúng sanh. Như Chủ Nhật Thần là Mặt Trời, cho chúng sanh sức nóng, thay đổi trên sắc ấm, là mức độ thô kệch nhất, còn những Chủ Dạ Thần thì độ chúng sanh trên phần tiềm thức, khiến tiềm thức tăng trưởng thiện căn mà chính chúng sanh không hề hay biết. Nên trong kinh hay nói: các ông sẽ được những phước báo mà chính các ông không biết vì tiềm thức các ông thay đổi. Như một người đọc kinh nhiều, thì những chủng tử của kinh rớt vào tiềm thức tích lũy lâu dần thành những thiện căn mà chính người đó không biết, đến khi nó nở rầm rộ ra thì chỉ biết kết quả ấy thôi, chứ không biết nguyên do rốt ráo vì đâu ra cả. Vị chủ dạ thần nữ đầu tiên là Bà San Bà Diễn Để. “Bà San Bà Diễn Để” theo tiếng Phạn có nghĩa là “mùa xuân.” Ngài Thiện Tài đi vào tâm địa, vào mùa xuân, mà mùa xuân thì các bông trái nở ra, như trong tâm thức nở ra nhiều thứ diệu đức, diệu lực.

KINH: Thiện Tài đảnh lễ chân địa thần, nhất tâm tư duy về lời dậy đó…

GIẢNG: “… tư duy về lời dạy ấy…” tức là tư duy về tâm địa của mình.

KINH: Đi lần đến thành Ca Tỳ La vào cửa Đông, Thiện Tài đứng chờ chẳng bao lâu kế trời tối…

GIẢNG: “…vào của Đông…” có nghĩa là phát khởi các nguồn ánh sáng của tâm, cũng như mặt trời mọc phương Đông, “…chờ chẳng bao lâu thì trời tối…” có nghĩa là tâm ngài vẫn còn những tập khí si ám. Ở đây, ý kinh nói Thiện Tài đã vào được tàng thức, đi sâu vào trong, gột rửa nhiều phần vọng, nhưng vẫn còn những tập khí vi tế .

KINH: Thiện Tài tâm niệm tùy thuận lời dạy của chư Bồ Tát, khát ngưỡng muốn được thấy Chủ Dạ Thần. Nơi thiện trí thức tưởng như Phật…

GIẢNG: Thiện Tài vừa tư duy, vừa nghĩ đến vị chủ dạ thần này.

KINH: Thiện Tài lại nghĩ rằng, nhờ thiện tri thức mà được phổ biến nhãn, thấy rõ cảnh giới mười phương…

GIẢNG: Quán chiếu để được “phổ biến nhãn,” nhìn thấy thiện tri thức.

KINH: Nhờ thiện tri thức mà được quảng đại giải thấu rõ tất cả cảnh sở duyên. Nhờ thiện tri thức mà được tam muội nhãn quan sát tất cả pháp môn. Nhờ thiện tri thức mà được trí huệ nhãn soi sáng mười phương sát hải. Lúc suy nghĩ như vậy, Thiện Tài thấy trên hư không Dạ Thần ngồi trên tòa hương liên hoa tạng sư tử trong bửu lâu các. Thân màu chơn kim, mắt và tóc xanh biếc, hình mạo đoan nghiêm, những chuỗi ngọc báu dùng trang sức. Thân mặc y phục đỏ, đầu dội mão Phạm Thiên. Tất cả tinh tú hiện rõ trên thân…

GIẢNG: “Tất cả tinh tú hiện rõ trên thân,” là vị thần này thân rất lớn bao trùm nhiều khoảng hư không. Cũng như chúng ta ngồi đây, chỉ nhìn thấy vài cái cây ngoài kia, ngôi chùa này, và một chút hư không v.v…, nhưng chắc chắn, chúng ta đang ngồi trong thân của một vị thần linh nào đó, thân các ngài là cõi. Có thể đó là đức A Di Đà, cũng có thể là ngài Quán Âm Bồ Tát. Vì trăng, sao còn hiện trong thân các ngài mà. Khi chúng ta quán chiếu như thế đó lâu dần và thấy rằng “có thể tin được” thì lúc đó tâm thức của chúng ta đã tiến được đôi chút rồi, khi đó chúng ta sẽ cảm thây rất an lạc, dù có bị hoạn nạn gì cũng nghĩ rằng mình đang ở trong thân của các ngài. Nếu nghĩ được như thế thì cho dù có rơi xuống biển cũng không thể nào chết được, tự nhiên sẽ được thoát, hoặc cho dù có bị chết đi chăng nữa thì mất đi sắc thân thô kệch này ta cũng được một sắc thân khác tốt hơn ngàn lần. Cũng vậy, những con thi trùng ở trong thân ta mà chúng nó có biết gì đâu, cứ lổn ngổn bò trong thân ta, ăn uống, lăng xăng, lít xít. Nên cần nhớ rằng, cõi tức là thân, thân tức là cõi. Thân đức A Di Đà, thân ngài Quán Thế Âm là cõi, trong đó có vô lượng chúng sanh. Cũng vậy, thân của chúng ta là cõi đối với những con thi trùng trong người.

Thiện Tài quán một lúc lâu thì thấy hình ngài chủ Dạ Thần hiện trên hư không, thân bao trùm cả hư không, tinh tú hiện trong thân, đội mũ Phạm Thiên.

KINH: Mỗi lỗ lông trên thân của Dạ Thần đều hiện hóa độ vô lượng, vô số chúng sanh  ác dạo, cho họ thoát khỏi thân hình hiểm nạn…

GIẢNG: Trong kinh nói rõ, các ngài thường độ các chúng sanh, nhưng sở dĩ chúng ta không cảm thấy gì là vì nhiều khi mức độ tâm thức chưa tương Ưng, chưa khởi lòng tin, thân chưa thanh tịnh đủ .

KINH: …lại trong mỗi lỗ lông thị hiện những phương tiện giáo hóa, hoặc hiện thân, hoặc thuyết pháp, hoặc thị hiện đạo Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa, bồ tát hạnh, bồ tát dũng mãnh, bồ tát tam muội, bồ tát tự tại, bồ tát trụ xứ, bồ tát quán sát, bồ tát sư tử tần thân, bồ tát giải thoát du hí…

GIẢNG: Trên lịch trình tu đạo của Thiện Tài, trước hết ngài chưa có nhãn lực mấy đỗi, nhưng dần dần nhãn lực nhãn lực của ngài lên mức độ ghê gớm được gọi là “trí vi tế” mà trong thập hồi hướng có nói, trí vi tế tức là pháp nhãn. Càng ngày, trí vi tế của ngài càng cao, lúc trước trong kinh không nói ngài nhìn thấy mỗi lổ lông, tới đây thì nói ngài nhìn thấy mỗi lỗ lông có cả một thế giới, trong ấy, hiện không biết bao nhiêu hóa thân để độ sanh. Dần dần về sau, ngài lại thấy trong mỗi vi trần có tất cả cõi Phật, tức là pháp nhãn của ngài ngày càng tăng tiến, nếu ta để ý, thì thấy rất rõ có một mức đi lên dần dần, sau cùng thì ngài vào hẳn lỗ lông của ngài Phổ Hiền đi trong đó mười hai năm rồi ngài mới “nhập pháp giới.” Trở về đoạn kinh này, Thiện Tài đang đứng nhìn ngài Chủ Dạ Thần thấy những lỗ lông biến hóa một cách thần kỳ.

KINH: Bạch đức thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề. Lòng tôi trông mong nương thiện tri thức để được công đức pháp tạng của Như Lai. Xin dạy cho tôi đạo nhất thiết trí, tôi đi trong đó đến bực thập lực.

GIẢNG: Chúng ta thấy rõ lúc trước Thiện Tài hỏi rất khiêm tốn, thường thường ngài hỏi “xin dạy tôi bồ tát đạo, tu bồ tát hạnh…” Nhưng đến đây, thì Thiện Tài nói “xin dạy tôi đạo nhất thiết trí,” để đi đến bực thập lực. Như vậy tâm Thiện Tài ngày càng mở rộng, nên câu hỏi ngày càng lớn.

KINH: Dạ Thần liền bảo Thiện Tài rằng, lành thay, lành thay, này thiện nam tử, ngươi có thể thâm tâm kính thiện tri thức, thích nghe lời dạy tu hành theo. Do tu hành nên quyết định sẽ được vô thượng bồ đề.

Nầy thiện nam tử, ta được môn giải thoát bồ tát pháp quang minh phá tất cả chúng sanh si ám.

GIẢNG: Ngài Dạ Thần này được môn giải thoát chỉ chuyên tác động vào tiềm thức chúng sanh, ngài hiện thân trên hư không, phóng quang minh chiếu vào tất cả chúng sanh để gột tất cả si ám trong tàng thức của họ (chứ không phải si ám trong ý thức). Phần nhiều các vị thần linh lớn độ sanh như vậy, tức là phóng quang minh, mỗi loại quang minh gột một thứ trần trược nào đó, chẳng hạn như gột sân, hoặc si, v.v… ở đây, Thiện Tài đã vượt qua mức tham dục rồi, sân cũng không còn nữa, mà ngay cái si thô cũng đã tiêu diệt, chỉ còn những si ám rất vi lố trong tàng thức, thì vị Dạ Thần này gột hết cho Thiện Tài.

KINH: Này thiện nam tử, ta ở nơi ác huệ chúng sanh, khởi tâm đại từ, nơi chúng sanh bất thiện khởi tâm đại bi, nơi chúng sanh làm lành khởi tâm đại hỉ.

GIẢNG: Khi ở nơi chúng sanh ác ngài khởi tâm đại từ, khi ở nơi chúng sanh bất thiện ngài khởi tâm đại bi. Còn nơi chúng sanh làm lành ngài khởi tâm đại hỉ, không cần phải dạy dỗ nữa mà ngài khởi tâm đại hỉ để cùng vui mừng…

KINH: Nơi chúng sanh đủ hai hạnh thiện ác khởi tâm bất nhị…

GIẢNG: Thường chúng sanh như chúng ta luôn luôn có đủ những tâm thiện và tâm ác, thì ngài khởi tâm bất nhị để dạy cho chúng ta giáo lý bình đẳng vô nhị. Vì sao? Vì thiện ác cũng là từ do cái tâm ấy khởi lên, mà vấn đề là chúng ta phải chuyển cái ác ấy sang thiện, rồi đi tới trạng thái Như Như Bất Nhị.

KINH: Này thiện nam tử, đêm tối yên lặng, lúc quỉ thần trộm cướp, các ác chúng sanh du hành, lúc mây kín sương dầy, gió to mưa lớn nhựt nguyệt tinh tú đều tối tăm, thấy có các chúng sanh hoặc vào biển, hoặc đi trong lục địa, nơi núi rừng hoang vu, những chỗ hiểm nạn, hoặc gặp trộm cướp, hoặc thiếu lương thực, hoặc lạc đường kinh hãi lo buồn không thể thoát được. Ta liền dùng nhiều phương tiện để cứu giúp họ.

GIẢNG: Ở đây cũng có hai nghĩa. Nghĩa đen là có những chúng sanh đi đêm có nhiều sự hiểm nạn thì ngài giúp cho. Còn nghĩa bóng là trong tâm thức các chúng sanh vẫn còn nhiều si ám, vì vậy trong tâm thức đen tối ấy như đêm dài sanh tử, có những niệm ác lởn vởn trong tâm thức chúng sanh thì ngài chiếu quang minh gột sạch những thứ ấy. Ngài dạ thần này chỉ dạy có vậy thôi.

KINH: Này thiện nam tử, nếu có chúng sanh ham tụ lạc, mến nhà của, thường  chỗ tối tăm bị khổ, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ nhàm lìa để được đầy đủ pháp lành, an trụ chánh pháp. Nguyên tất cả chúng sanh đều chẳng tham mến tụ lạc lục trần, mau được thoát khỏi cảnh giới sanh tử, rốt ráo an trụ nơi thành nhất thiết trí.

GIẢNG: Trong đạo Phật, chữ “tụ lạc” quan trọng lắm. Tụ lạc cũng có hai nghĩa, nghĩa trong và nghĩa ngoài. Nghĩa ngoài chữ tụ lạc là nơi chốn đông người, đông dân cư. Nghĩa trong tụ lạc tức là các căn của mình. Như cái mắt có quang minh phóng qua, các hình ảnh của vật chiếu vào, qua lại, giao thoa tụ tập với nhau, thì gọi là tụ lạc. Trong đạo Phật cho rằng, tất cả mọi vật đều chỉ là sự kết hợp tụ tập hay ly tán thôi. Thân căn là một tụ lạc, gồm rất nhiều tế bào tụ lại, như một cái chợ trong thân mình, mà thật ra, tất cả mọi vật cũng đều thế cả, như cái bàn này, nó cũng là tụ lạc của nhiều tế bào của gỗ, bao nhiêu cực vi. chúng ta thử nghĩ xem, tuệ giác của nhà Phật thật cao siêu, vì không có một vật gì là đơn thuần cả, vật nào cũng là sự nhóm họp lại mà thôi. Nên suy sét cho kỹ, những gì chúng ta yêu nhất, như cái thân này chẳng hạn, chính nó chỉ là những tế bào nhóm họp lại, gồm lúc nhúc những thi trùng trong đó. Vì vậy, đạo Phật mới gọi là huyễn, vì khi hết duyên thì nó tan rã ra. Nên trong kinh có câu, “nguyện tất cả chúng sanh chẳng tham mến tụ lạc lục trần,” vì tụ lạc cũng chính là sáu căn của mình. Đó là nhận thức quan của đạo Phật, tức là dùng pháp nhãn, phân tách các thứ vật, vật nào cũng là những phức thể gồm vô số những hạt tử li ti, vì vậy nên nó mới là huyễn. Và đó gọi là trí huệ bát nhã.

HỎI: Thưa ông, đó là ông giảng nghĩa chữ “tụ lạc” trên bình diện sắc ấm, còn trên bình diện thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm thì sao?

ĐÁP: Cũng thế, cũng đều nhóm họp lại mà thành, có điều nó được dệt bằng những quang minh vi tế hơn, thì sự “nhóm họp” cũng vi tế hơn. Trong tưởng ấm, thọ ấm ngay cả đến hành ấm ấy, cũng có những nhóm họp li ti vi tế, nhưng với mắt thịt và vài ba cái ống nhòm của khoa học thì không thể nào thấy được, phải có thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn mới nhìn thấy. Mà những phần tử li ti vi tế đó nó vừa là hạt tử, vừa là sóng, vừa là tia chớp nháng (flash) phụt lên… Ngay đến hư không cũng vậy, đối với khoa học ngày nay, cứ tưởng rằng trong hư không không có gì cả, nhưng chính trong đó có vô lượng những hạt tử mà những vị có thiên nhãn mới thấy, lại còn có hư những loại chúng sanh sống trong ấy nữa. Nói cho rõ hơn, khoa học ngày nay, chỉ mới đến ranh giới giữa sắc và hư không thôi, chứ chưa hiểu không là cái gì?

KINH: Những chúng sanh không có trí nhãn bị che đậy bởi những kiến chấp điên đảo: vô thường tưởng là thường, vô lạc tưởng là lạc, vô ngã tưởng là ngã, bất tịnh tưởng là tịnh…

GIẢNG: Trong đạo Phật có mấy loại tưởng điên đảo, chúng ta cũng cần nhớ. Trong kinh thường nói rằng chúng sanh bị bốn cái điên đảo tưởng che lòa, chẳng hạn như những gì vô thường thì ta tưởng là thường, đó là một điên đảo tưởng, như cái thân mình, nó rất vô thường, nếu nhìn theo pháp nhãn thì nó phụt lên từng tia chớp nháng một, mà từng tia chớp nháng đó vừa phụt lên lại bị diệt đi ngay, má chúng sanh cứ tưởng là thường, nên cả ngày cứ khởi tâm ưa thích, chăm sóc nó, làm đủ các điều bất thiện cũng vì nó, không hiểu được rằng, mang một sắc thân thai sanh này rất khổ. Lão Tử nói rằng: “Chúng ta có cái khổ lớn là vì có sắc thân này”. Mà thực vậy, nếu ngồi suy nghĩ kỹ thì thấy tất cả mọi sự khổ đều do sắc thân này mà ra cả, cứ phải đi làm cũng là để nuôi thân, sau phải lấy vợ, sinh con cũng vì cái thân này, rồi chạy theo danh vọng, làm đủ các chuyện cũng vì cái thân này v.v… Có thể nói chín mươi lăm phần trăm thời gian, (trừ thời gian ngủ) thì chúng ta chỉ lo đến sắc thân thôi, rất ít khi nghĩ đến tâm thức, hoặc bồi bổ tâm thức. Thân này như một ngọn nến, nó là sự “nhóm họp” của vô lượng vô số những flash phụt lên tạo thành một tổng tướng ảnh tượng là thân này, rồi lại tắt đi ngay, sau lại phụt lên một loạt gần y hệt như vậy, tương tợ tương tục, vì vậy chúng sanh mới tưởng là thường, tưởng rằng thân này có sự tồn tại hiện hữu riêng của nó. Tóm lại, thân này rất vô thường.

Thứ hai là vô lạc tưởng là lạc, như ăn một miếng ngon thì khoái chí lắm, nhưng chính cái đó không ngon gì, vì chư thiên nhìn xuống thấy ta sống trong ăn uống, sắc dục v.v… giống như những con dòi trong thùng phân vậy.

HỎI: Theo như những tôn giáo khác nói rằng có một linh hồn trường cửu là như thế nào?

ĐÁP: Nếu nhìn theo con mắt tuệ của Phật giáo thì cái đó không đúng. Vì sao? Vì cái gọi là “linh hồn” đó, nhưng đó chỉ là “một trường lực” diễn biến, và lúc nào cũng thay đổi tùy theo tâm niệm và nghiệp lực chúng sanh. Nó chính là tàng thức sơ năng biến. Nó hằng, nhưng không bất biến, vì luôn luôn chuyển từng sát na. Nếu lấy con mắt thô mà nhìn thì ta cho rằng cái đó là “linh hồn,” nhưng chính lúc nào nó cũng biến hiện. Vì vậy, tôi đã nói ở đây nhiều lần, đạo Phật hơn đạo khác là có ngũ nhãn, nhìn rõ được pháp giới này. Trong khi ngoại đạo tưởng rằng có một linh hồn bất biến, thì đạo Phật nhìn thấy sự biến hiện rõ rệt. Vì vậy các tôn giáo khác so với đạo Phật tương tự như có một rặng núi, phần đông ngọn núi đều cao nhưng chưa tuyệt vời cao, chỉ riêng ngọn Tuyết Sơn là cao nhất, giao hợp với mây trời tuyệt vời thôi. Nên chỉ có đạo Phật mới đưa con người đến sự giải thoát rốt ráo, còn những tôn giáo khác chỉ đưa tâm thức con người lên một mức nào thôi, thường là lên các từng trời cõi dục, cõi sắc và vô sắc. Không có một tôn giáo nào dám nói có vô lượng cõi chỉ riêng đạo Phật nói có vô lượng cõi mà thôi. Tùy theo nhãn lực.

HỎI: Kinh thì khó hiểu, như trong kinh nói đến núi Tu Di chẳng hạn, mà chúng ta thì hoàn toàn không ai có thể thấy núi Tu Di. Nên khởi lòng tin rất khó, chưa kể các ngài lại nói đến nhiều cõi khác nữa. Tôi trộm nghĩ, chắc kinh chỉ để dành cho những vị phải có thiên nhãn mới lãnh hội được chăng?

ĐÁP: Núi Tu Di thuộc về thọ ấm. Ở đây tôi cũng xin nhắc với quí vị một điều, kinh là gần như nói ít đến cảnh giới của thế gian, còn toàn nói cảnh giới của thiên nhãn và pháp nhãn, như Hoa Nghiêm là cảnh giới của pháp nhãn. Vì thế mới khó tin, khó hiểu, khó vào. Nên đức Christ bên công giáo nói rằng: “Sung sướng thay cho kẻ nào không thấy mà tin.” Vì vậy cái tín tâm để đi vào đạo rất cần thiết, vì khởi được lòng tin mới có thể đi vào cảnh giới trùng trùng của pháp giới này.

Bây giờ xin trở lại kinh…

Bốn điên đảo tưởng nói trên khiến trong đạo Phật nói bốn pháp ấn là: các pháp đều là khổ, không, vô thường, vô ngã để trị bốn điên đảo tưởng của chúng sanh.

KINH: Bạch đức thánh, ngài phát tâm vô thượng bồ đề được bao lâu? Được môn giải thoát này hồi nào mà có thể lợi ích chúng sanh như vậy?

GIẢNG: Lúc nào cũng vậy, các ngài thường kể những kiếp từ thời xa xưa quá khứ của ngài cho Thiện Tài nghe, như vị chủ dạ thần này thì một kiếp làm một vị phu nhân, đang đêm đương ngủ có một vị chủ dạ thần đánh thức bà dậy, bằng cách động chuỗi ngọc, hoặc phóng quang minh, nói rằng có một bậc Như Lai đang thành chánh Đẳng Chánh Giác. Nên ngài vì cơ duyên đó mà tu hành nên được giải thoát môn này. Mà pháp môn của ngài chỉ cốt gột những si ám của chúng sanh. Giảng nghĩa thì có vậy thôi, nhưng trong kinh ngài kể nhiều chi tiết hơn. ở đây, ta nên hiểu qua về quan niệm thời gian của nhà Phật. Theo như trong kinh nói, vị nào cũng tu trong vô lượng kiếp, nhưng trong vô lượng kiếp ấy thì tùy theo tâm người tu mà thấy nó lâu hay mau. Như chúng ta là những người phàm phu, thô trọc, tâm thức chỉ đến thế thôi, thì ta sẽ thấy sự tu hành của các ngài là vô lượng kiếp, nhưng đối với các vị tu cao, thì “vô lượng kiếp” đó chỉ thu lại là một khoảng khắc mà thôi. Như chúng ta chạy tỵ nạn sang Mỹ mười mấy năm, đôi khi ngồi nghĩ lại những chuyện xảy ra trong mười mấy năm, có cảm giác như một cơn gió thoảng. Như vậy trong đạo Phật, thời gian là một sự tùy tâm biến hóa, là một vọng tưởng tùy theo tâm chúng sanh mà thành dài lê thê hay chỉ thoảng qua chóng vánh. Như một vị tu thiền vào định vài ngày, thấy thời gian qua như một khảy móng tay.

Comments

Popular posts from this blog