ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
42.- THIÊN NỮ THIÊN CHỦ
QUANG
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ
biết
“MÔN GIẢI THOÁT VÔ NGẠI
NIỆM THANH TỊNH TRANG NGHIÊM” nầy.
Thiện-Tài đến Thiên-Cung
Ðao-Lợi, đảnh lễ THIÊN NỮ THIÊN CHỦ QUANG,
hữu nhiễu cung kính, chắp tay thưa rằng:
Ðại-Thánh! Tôi đã phát tâm
vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu
bồ-tát-đạo?
Tôi nghe Ðại-Thánh khéo có
thể dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Thiện-Nữ nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ta được
bồ-tát giải-thoát-môn tên là vô-ngại-niệm thanh-tịnh trang-nghiêm.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta ở nơi
thế-lực của môn giải-thoát nầy, ghi nhớ quá-khứ có một kiếp tên là
thanh-liên-hoa. Trong kiếp đó, ta cúng-dường hằng-hà-sa-số chư Phật
Như-Lai.
Chư Như-Lai ấy từ khi mới
xuất gia, ta đều săn sóc kính thờ kiến tạo tăng-già-lam, sắm sửa vật dụng.
Lại lúc chư Phật ấy làm
Bồ-Tát ở thai mẹ, lúc đản-sanh, lúc đi bảy bước, lúc đại sư-tử-hống, lúc làm
đồng-tử ở tại cung, lúc đến cội bồ-đề thành Ðẳng-Chánh-Giác, lúc chuyển
pháp-luân hiện thần-biến giáo-hóa điều phục chúng-sanh, tất cả sự việc nhẫn đến
pháp-tận, ta đều ghi nhớ rõ không sai sót.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ
tên là Thiện-Ðịa, trong kiếp ấy ta cúng-dường mười hằng-hà-sa-số chư Phật
Nhu-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ
tên là Diệu-Ðức, trong kiếp ấy ta cúng-dường một phật-sát vi-trần-số chư Phật
Như-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ
tên là Vô-Sở-Ðắc, trong kiếp ấy ta cúng-dường tám mươi bốn ức trăm ngàn na-do-tha
chư Phật Như-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ
tên là Thiện-Quang trong kiếp ấy ta cúng-dường diêm-phù-đề vi-trần-số chư Phật
Như-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ
tên là Vô-Lượng-Quang, trong kiếp ấy ta cúng-dường hai mươi hằng-hà-sa-số chư
Phật Như-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ
tên là Tối-Thắng-Ðức, trong kiếp ấy ta cúng-dường một hằng-hà-sa-số chư Phật
Như-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ
tên là Thiện-Bi, trong kiếp ấy ta cúng-dường tám mươi hằng-hà-sa-số chư Phật
Như-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ
tên là Thắng-Du, trong kiếp ấy ta cúng-dường sáu mươi hằng-hà-sa-số chư Phật
Như-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ
tên là Diệu-Nguyệt, trong kiếp ấy ta cúng-dường bảy mươi hằng-hà-sa-số chư Phật
Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử! Ghi nhớ
quá-khứ hằng-hà-sa-số kiếp như vậy, ta thường chẳng bỏ rời chư Phật Như-Lai
Chánh-Ðẳng-Giác.
Ở chỗ chư Như-Lai như vậy
ta nghe môn giải-thoát bồ-tát vô-ngại-niệm thanh-tịnh trang-nghiêm nầy thọ trì
tu hành hằng chẳng quên mất.
Những kiếp trước như vậy
có bao nhiêu đức Như-Lai từ sơ Bồ-Tát nhẫn đến pháp tận, tất cả sự việc của chư
Phật đã làm, ta dùng sức giải-thoát thanh-tịnh trang-nghiêm, đều ghi nhớ rõ
ràng như hiện trước mắt, và ta giữ gìn tùy thuận tuân hành từng không bỏ phế.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết “MÔN GIẢI
THOÁT VÔ NGẠI NIỆM THANH TỊNH TRANG NGHIÊM” nầy.
Như chư đại Bồ-Tát ra khỏi
đêm sanh tử, sáng suốt rời hẳn si tối, chưa từng mê ngủ, tâm không bị che
chướng, thân luôn khinh an, thanh tịnh biết rõ các pháp-tánh, thành tựu
thập-lực khai ngộ quần sanh.
Ta thế nào biết được nói
được công-đức-hạnh đó.
Nầy Thiện-nam-tử! Thành
Ca-Tỳ-La có Ðồng-Tử-Sư tên là Biến-Hữu. Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học
bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-đạo.
Nhờ nghe pháp, Thiện-Tài
vui mừng hớn hở thiện-căn bất-tư-nghì tự-nhiên thêm lớn rộng, bèn đảnh lễ nơi
chân Thiên-Nữ Thiên-Chủ-Quang, hữu nhiễu vô-số vòng từ tạ mà đi.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
24 tháng 06, 1990
42.- THIÊN NỮ THIÊN CHỦ QUANG
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết
“MÔN GIẢI THOÁT VÔ NGẠI NIỆM THANH TỊNH TRANG NGHIÊM” nầy.
KINH: Này
thiện nam tử, ở thế giới này, nơi Đao Lợi Thiên, có Thiên
vương tên là Chánh Niệm. Thiên vương có người con gái tên là Thiên Chủ
Quang. Ngươi đến đó hỏi
Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Thiện
Tài đến thiện cung Đao Lợi…
GIẢNG: Trong kinh nói khơi khơi như thế
mà không giải thích Thiện Tài đến Thiên Cung bằng cách nào, có thể là xuất thần
thức đến thiên cung, hoặc cũng có thể đem cả báo thân lên thiên cung.
KINH: Đảnh
lễ Thiên Nữ Thiên chủ Quang, hữu nhiễu cung kính chắp tay thưa rằng. Bạch đại
thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học bồ tát
hạnh, thế nào tu bồ tát đạo. Thiên nữ nói, này thiện nam tử, ta được môn Bồ Tát
thoát môn tên là Vô ngại niệm thanh tịnh trang nghiêm.
GIẢNG: Vô ngại là không bị ngăn ngại, niệm
là nhớ nghĩ. Có nghĩa rằng ngài có được môn tam muội luôn có những niệm nhớ
nghĩ thanh tịnh, trang nghiêm một cách vô ngại. Rồi ngài kể cho Thiện Tài nghe,
từ vô số kiếp lâu xa về trước, trong kiếp ấy, ngài thường cúng dường hằng hà sa
Chư Phật. Rồi bao nhiêu kiếp về sau, có bao nhiêu na do tha Như Lai ngài cũng đều
cúng thờ ghi nhớ hết, sau ngài đắc được môn giải thoát ấy. Có nghĩa rằng ngài
ghi nhớ dòng thần lực bất tận làm hiện khởi lên tất cả Chư Phật từ diệu tâm ấy
trong bao nhiêu kiếp.
KINH: Này
thiện nam tử, thành Ca Tỳ La có đồng tử tên là Biến Hữu. Ngươi đến đó hỏi Bồ
Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.
GIẢNG: Từ đây trở đi, có năm, bảy vị dạy
Thiện Tài rất ngắn…
Đến
đây tôi xin ngưng và dành một chút thì giờ xem có vị nào muốn hỏi xin cứ hỏi.
HỎI:
Trong kinh, (và ông cũng giảng rất nhiều lần) về danh từ bất nhị. Vậy nó có đồng
nghĩa với chữ bát nhã không?
ĐÁP: Bất nhị, cũng chính là bát nhã,
cũng chính là trung đạo. Khi nào ông thấy các pháp đều không phải sanh, không
phải diệt, không phải khổ, không phải vui, không phải ngã, không phải vô ngã,
không phải là mình, không phải là người, cũng không phải chánh báo, không phải là
y bảo v.v… thì lúc bấy giờ ông đã bắt đầu trụ trong Bát Nhã rồi vậy. Còn chấp
có cái này là cái này, cái kia là cá kia thì như vậy là vẫn còn rơi vào nhị
biên, chưa vào được trung đạo. Và tâm còn động. Vì tất cả cũng là mình và cũng…
không phải là mình. Nói như thế ta thấy có vẻ mâu thuẫn, nhưng khi suy nghĩ kỹ
ông sẽ thấy cái lý tuyệt vời của nó. Vì hai cái đó bất nhị. Nên cuối cùng, kinh
dạy phải nhập pháp giới, lúc đó chánh bảo và y bảo là một. Bất nhị là trạng
thái tâm như như của Bát Nhã.
HỎI:
Thời Đức Phật còn tại thế, ngài cũng có giảng về Bát Nhã rồi, có điều làm cho
các Phật tử sơ cơ mới bước chân vào đạo, khi nói đến Bát Nhã, thường là rơi vào
tình trạng sợ hãi hoang mang. Vì từ lâu đời lâu kiếp, ta đã quen với những gì gọi
là “có” rồi, như có bạn bè, vợ con, kinh sách, có Phật, có Bồ Tát, có cõi tịnh,
cõi uế, có hoa tạng thế giới, có cõi Cực Lạc v.v… thì bây giờ Phật dạy, tu đến
một lúc nào, những thứ đó không có nữa, hoàn toàn là… không cả, vậỵ thì còn ai
chứng đắc, và còn cái gì gọi là quả vị chứng đắc?
ĐÁP: Ông nên luôn nhớ đến cái bí ẩn lắt
lay của tâm thức. Bí ẩn tâm thức chúng ta là ở chỗ nhị đế, và tùy theo lối nhìn
của mỗi loài chúng sanh. Cùng cái tâm ấy, phàm phu chúng ta nhìn theo đầu đằng
này, thì thấy là có, còn quay lại nhìn đầu đằng kia thì thấy là không. Bồ Tát
là những bậc hơn người thường, và hơn cả hàng Thanh Văn là vì biết nhìn theo lối
song chiếu. Vừa hiểu nó là không, đồng thời vẫn làm tất cả những Phật sự như là
có. Hiểu tất cả Cực Lạc, đường tu, bạn hữu, thầy dạy v.v… đều là mộng cả, nhưng
vẫn cứ theo đó để làm, để đi sâu vào tột cùng của tâm thức, chỗ tột cùng của
tâm thức là tột không, nhưng từ chỗ tột không ấy sẽ nở ra diệu hữu. Không biết
câu trả lời ấy, có làm ông thỏa mãn chưa?
HỎI:
Nhưng Lục TỔ trong nhà thiền nói rằng: “Bổn lai vô nhất vật,” thì ta phải có đối
tượng và chủ thể. Nói một cách rõ hơn nếu không quán chiếu, nghĩ nhớ đến ngài
Quán Thế Ấm, và không có người quán chiếu thì sao? tu hành là tu thế nào? làm
gì để biết được cái gọi là “lắt lay tâm thức” như ông vừa nói? Vì ít ra,
ta phải là một cái gì thì mới tu được, còn không có cái đó thì lấy gì để suy
nghĩ, lấy gì để tụng niệm, lấy gì để cầu mong về Cực Lạc, lấy gì để nhìn thấy đức
A Di Đà?
ĐÁP: Sao ông biết là không có cái đó ?
Cái đó là cái gì? Trong tất cả kinh đều nói đến cái không, khiến chúng ta nghe
thấy sợ hãi, vì cứ tưởng sẽ rơi vào cái không suông. Nhưng ngược lại, cái không
này rất mầu nhiệm, tương tự như cái gương, có thể hiện hình các vật giả có. Nên
cái bí ẩn của đạo Phật là gì? Là phải biết song chiếu. Vì nếu chỉ đi hoàn toàn
về Bát Nhã cũng sai, mà phải có Đại Bi. Ngược lại, nếu chỉ nói hoàn toàn về đại
bi cũng sai, mà phải có Bát Nhã. Nếu ông chỉ tu theo sự từ bi thì dễ sa vào bệnh
“bi lụy hồ đồ,” lúc nào cũng thương cảm, khóc lóc, ngay cả trông thấy con muỗi,
con mòng chết cũng cảm thấy sót sa rơi nước mắt (đó là theo trong Kinh Lăng
Nghiêm Phật dạy thế), còn tu theo con đường bát nhã không thì sẽ rơi vào Càn Tuệ
Địa, huệ khô, phải thấm nước đại bi mới được. Nên phải luôn luôn giữ tâm song
chiếu. Thấy người kia vừa có, vừa không. “Có,” để trưởng dưỡng tâm đại bi.
“Không,” để vào được cái trí như huyễn của chư Phật, vì tất cả chỉ là ảnh hiện,
đủ duyên thì hiện lên, hết duyên thì ẩn đi. ‘
HỎI:
Thú thực mà nói, tôi vẫn chưa … thỏa mãn lắm về câu trả lời của ông, hay
nói cho đúng tôi vẫn thấy hình như còn hơi… vấp thế nào. Vì sao? Vì ít ra phải
có chủ thể và khách thể thì mới thực hiện được đại bi và bát nhã, nhưng ông lại
nói rằng chấp có ta cũng hỏng, chấp không có ta cũng hỏng, thì… thú thật tôi vẫn
còn hoang mang lắm.
ĐÁP: Ông nên nhớ rằng, tất cả chỉ có một
điểm không hư là cái tâm ấy thôi, chứ còn chấp có ta là hỏng rồi, vì chấp có ta
là làm lệch điểm không hư ấy. Mà nó lại “bất khả thuyết,” không thể dùng danh từ
gì để có thể diển giảng nổi.
HỎI: Nếu
chỉ có cái “điểm không hư” ấy, thì tôi càng sợ hơn nữa vì tu lên đến mức tột
cùng chỉ còn cái không hư ấy thì, thì… chúng ta tu đến chỗ đó làm cái giống gì?
(Cả đạo tràng cười
ồ…)
ĐÁP: Như vậy là ông vẫn chấp theo lối
nhìn của phàm phu, tức là phải có một cái gì. Như chúng ta, sống trong cõi dục
giới này, mang một sắc thân máu mủ. Vậy những thú vui của thế gian là gì? Có phải
là ăn, chơi với bạn bè, gặp những đều như ý, có vợ đẹp, con ngoan, và cuối cùng
là vấn đề nam nữ là điều khoải lạc nhất? Thế mà trong kinh lại khẳng định rằng,
tất cả những thứ đó đều là phù du giả dối, vì phàm phu chúng ta chưa biết dùng
cái tâm, nó vốn là dòng suối nguyên sơ của hỷ lạc, mà chỉ chạy theo những thú
vui tầm thường của thế gian, một cái vui tùy thuộc ngoại vật. Nếu bây giờ một
người biết buông tất cả những thú vui thế gian đó đi, thì khi lên đến sơ thiền,
nhị thiền, tam thiền, lúc đó người ấy sẽ mở được cánh cửa vào vô lượng sự hỷ lạc.
Mà cái hỷ lạc của tam thiền chưa ăn thua gì cả, mà đến cái vui không thọ của Niết
Bàn mới ghê gớm hơn nhiều. Nhưng cái vui không thọ của Niết Bàn cũng chưa ăn
thua gì bằng cái vui vô động thường, lạc, ngã, tịnh của Đại Niết Bàn tịch tĩnh.
Ở mức độ này, cái tâm vẫn đó, nó là nguồn vui kỳ diệu mà chúng ta không hay biết,
cứ khóa chặt cánh cửa đó lại, chỉ chạy theo cái vui vô thường của thế gian. Nên
khi ngài Lục Tổ Huệ Năng nói “bổn lai vô nhất vật,” đó là những vật thô kệch có
hình tướng trong tam giới thôi, còn cái tâm vẫn đó. Đó là Phật tánh, là Chân
Như, nhưng muốn đạt đến cái chân như nguyên sơ đó phải bỏ luôn cả ý niệm có,
không đi. Vì sao? Vì khi chấp rằng “có tâm” thì vẫn còn gợn một niệm cuối cùng,
nên chưa lặn sâu vào cái tâm nhỏ nhiệm vi tế ấy, và phải đến chỗ cái tâm chẳng
phải có, chẳng phải không thì mới thực là thường, lạc, ngã, tịnh.
HỎI: Vậy
nếu mình đạt được đến tâm ấy thì ta được cái gì?
ĐÁP: Được cái an lạc vô biên, được thần
thông vô lượng. Vì như tôi đã nói ở trên, khi ông đạt đến cái “điểm không
hư” ấy, thì từ cái không hư nó sẽ nở ra vô cùng những diệu hữu, nở ra trùng
trùng điệp điệp tất cả pháp giới này. Mà tất cả chúng sanh đều trong thân ông cả.
Nói tóm lại, mục đích cuối cùng của cuộc đời là gì? Là đi kiếm cái hỉ lạc thôi,
nhưng cái hỉ lạc càng lên cao, thì càng vi diệu, càng thần thông biến hóa tràn
đầy thế gian, mà muốn ở mức độ đó thì phải ly tất cả, ngay cả ý niệm ly ấy ông
cũng phải từ bỏ thì lúc đó ông sẽ được tất cả. Lên đến tột cao của sự hỉ lạc,
ông sẽ có một niềm vui vô thọ, vô động. Đó là Đại Niết Bàn tịch diệt của Chư Phật.
Ông
nói như trên cũng hơi có ý tưởng giống nhiều nhà ngoại đạo thời đức Phật còn tại
thế. Vì khi Phật nói không có ngã thì kẻ ngoại đạo nghe chán quá, không muốn
theo, đến khi Phật nói có cái thường, lạc, ngã, tịnh, thì lúc đó bọn ngoại đạo
mới bảo rằng: “À, khi lên đến tột không lại thành có ngã, nếu Sa Môn Cù Đàm trước
kia nói như thế thì chúng tôi đã theo ông từ lâu rồi, vì ông bảo không có ngã
nên không theo.” Đủ chứng tỏ rằng, tâm thức của chúng sanh rất lắt lay, nên thế
giới cũng lắt lay biến hiện theo tâm thức ấy, phải vượt khỏi lên trên những sự
lắt lay đó thì mới đạt đến mức tuyệt vời của chư Phật. Và ở chỗ đó là bờ mé các
bí ẩn của pháp giới, tức là bỏ hết mọi ý niệm, vì ý niệm nào cũng sai cả, vì
không có một ý niệm nào có thể áp dụng trọn vẹn cho cái diệu tâm, nên “bất
khả ngôn thuyết,” không thể nghĩ bàn…
Tôi
nói như thế, nhưng cũng không hy vọng gì ông hiểu ngay đâu. Chỉ mong ông về suy
nghĩ thêm, và thao thức đọc thêm một mớ kinh sách, rồi một ngày nào đó tâm thức
chui sâu vào có thể vỡ ra được vài phần, lúc đó mới thấy tuệ giác của nhà Phật
thật bao la kỳ diệu. Vì không có gì trong pháp giới này có thể ra ngoài lời
kinh.
Không biết còn vị
nào muốn hỏi nữa không?…
Nếu không ai còn
câu hỏi, tôi xin chấm dứt ở đây. Xin cảm ơn quí vị…
“BÁT-NHÃN TÂM-KINH” nói rằng :
Quán-tự-tại Bồ-tát “QUÁN THẤY”...
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức;
( không có ngũ-uẩn)
vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp;
( không có 12 nhập)
vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới;
(không có 18 giới)
vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận;
(không có 12 nhân duyên)
vô khổ, tập, diệt, đạo;
(không có 4 đế)
vô trí diệc vô đắc.
(không có TRÍ của Bồ-tát do tu Lục-độ, cũng không có ĐẮC qủa Phật)
Lại nói, Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
(Ba đời “Chư Phật” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA”)
Còn nói, Bát-nhã là Đại-thần, là đại minh, là vô-thượng, là vô đẳng đẳng chú... như lại phải nhờ thần-chú “Yết-đế Yết-đế, Ba-la yết-đế, Ba la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.”, để tiêu trừ vô-minh vi tế của “A-LẠI-DA THỨC” (sở tri chướng), mà thành tựu “ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ” hay “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”, TỨC THÀNH PHẬT.
Tóm lại, “QUÁN-TỰ-TẠI BỒ-TÁT” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA”
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức;
Lại nói, Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
Còn nói, Bát-nhã là Đại-thần, là đại minh, là vô-thượng, là vô đẳng đẳng chú... như lại phải nhờ thần-chú “Yết-đế Yết-đế, Ba-la yết-đế, Ba la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.”, để tiêu trừ vô-minh vi tế của “A-LẠI-DA THỨC” (sở tri chướng), mà thành tựu “ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ” hay “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”, TỨC THÀNH PHẬT.
Ma-ha Bát-nhã Ba la-mật-đa.
(3 lần)
Năm Thứ Mười Ba niên hiệu Đại Nghiệp, Đức Tứ Tổ Đạo Tín dẫn đồ chúng đến Cát Châu thì gặp bọn cướp vây thành bảy tuần (bảy mươi ngày) chẳng lui tan, mọi người đều sợ hãi.
Tổ thương xót, dạy bày niệm “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.” Khi ấy, bọn cướp nhìn lên trên thành như có thần binh, bèn bảo nhau: “Trong thành ắt có dị nhân, không thể đánh được”. Bèn lần lần bỏ đi.
( KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG)
MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH
Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thụ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thụ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát ba ha.
Ma-ha Bát-nhã Ba la-mật-đa.
(3 lần)
Comments
Post a Comment