ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



42.- THIÊN NỮ THIÊN CHỦ QUANG

 

Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết

MÔN GIẢI THOÁT VÔ NGẠI NIỆM THANH TỊNH TRANG NGHIÊM” nầy.


 

Thiện-Tài đến Thiên-Cung Ðao-Lợi, đảnh lễ THIÊN NỮ THIÊN CHỦ QUANG, hữu nhiễu cung kính, chắp tay thưa rằng:

Ðại-Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?

Tôi nghe Ðại-Thánh khéo có thể dạy bảo, xin chỉ dạy cho.

Thiện-Nữ nói:

Nầy Thiện-nam-tử! Ta được bồ-tát giải-thoát-môn tên là vô-ngại-niệm thanh-tịnh trang-nghiêm.

Nầy Thiện-nam-tử! Ta ở nơi thế-lực của môn giải-thoát nầy, ghi nhớ quá-khứ có một kiếp tên là thanh-liên-hoa.  Trong kiếp đó, ta cúng-dường hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.

Chư Như-Lai ấy từ khi mới xuất gia, ta đều săn sóc kính thờ kiến tạo tăng-già-lam, sắm sửa vật dụng.

Lại lúc chư Phật ấy làm Bồ-Tát ở thai mẹ, lúc đản-sanh, lúc đi bảy bước, lúc đại sư-tử-hống, lúc làm đồng-tử ở tại cung, lúc đến cội bồ-đề thành Ðẳng-Chánh-Giác, lúc chuyển pháp-luân hiện thần-biến giáo-hóa điều phục chúng-sanh, tất cả sự việc nhẫn đến pháp-tận, ta đều ghi nhớ rõ không sai sót.

Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thiện-Ðịa, trong kiếp ấy ta cúng-dường mười hằng-hà-sa-số chư Phật Nhu-Lai.

Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Diệu-Ðức, trong kiếp ấy ta cúng-dường một phật-sát vi-trần-số chư Phật Như-Lai.

Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Vô-Sở-Ðắc, trong kiếp ấy ta cúng-dường tám mươi bốn ức trăm ngàn na-do-tha chư Phật Như-Lai.

Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thiện-Quang trong kiếp ấy ta cúng-dường diêm-phù-đề vi-trần-số chư Phật Như-Lai.

Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Vô-Lượng-Quang, trong kiếp ấy ta cúng-dường hai mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.

Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Tối-Thắng-Ðức, trong kiếp ấy ta cúng-dường một hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.

Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thiện-Bi, trong kiếp ấy ta cúng-dường tám mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.

Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thắng-Du, trong kiếp ấy ta cúng-dường sáu mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.

Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Diệu-Nguyệt, trong kiếp ấy ta cúng-dường bảy mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.

Nầy Thiện-nam-tử! Ghi nhớ quá-khứ hằng-hà-sa-số kiếp như vậy, ta thường chẳng bỏ rời chư Phật Như-Lai Chánh-Ðẳng-Giác.

Ở chỗ chư Như-Lai như vậy ta nghe môn giải-thoát bồ-tát vô-ngại-niệm thanh-tịnh trang-nghiêm nầy thọ trì tu hành hằng chẳng quên mất.

Những kiếp trước như vậy có bao nhiêu đức Như-Lai từ sơ Bồ-Tát nhẫn đến pháp tận, tất cả sự việc của chư Phật đã làm, ta dùng sức giải-thoát thanh-tịnh trang-nghiêm, đều ghi nhớ rõ ràng như hiện trước mắt, và ta giữ gìn tùy thuận tuân hành từng không bỏ phế.

Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết  MÔN GIẢI THOÁT VÔ NGẠI NIỆM THANH TỊNH TRANG NGHIÊM” nầy.

Như chư đại Bồ-Tát ra khỏi đêm sanh tử, sáng suốt rời hẳn si tối, chưa từng mê ngủ, tâm không bị che chướng, thân luôn khinh an, thanh tịnh biết rõ các pháp-tánh, thành tựu thập-lực khai ngộ quần sanh.

Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó.

Nầy Thiện-nam-tử! Thành Ca-Tỳ-La có Ðồng-Tử-Sư tên là Biến-Hữu. Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-đạo.

Nhờ nghe pháp, Thiện-Tài vui mừng hớn hở thiện-căn bất-tư-nghì tự-nhiên thêm lớn rộng, bèn đảnh lễ nơi chân Thiên-Nữ Thiên-Chủ-Quang, hữu nhiễu vô-số vòng từ tạ mà đi.



Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


24 tháng 06, 1990

42.- THIÊN NỮ THIÊN CHỦ QUANG

 

Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết

MÔN GIẢI THOÁT VÔ NGẠI NIỆM THANH TỊNH TRANG NGHIÊM” nầy.

 

KINH: Này thiện nam tử,  thế giới này, nơi Đao Lợi Thiên, có Thiên vương tên là Chánh Niệm. Thiên vương có người con gái tên là Thiên Chủ Quang. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Thiện Tài đến thiện cung Đao Lợi…

GIẢNG: Trong kinh nói khơi khơi như thế mà không giải thích Thiện Tài đến Thiên Cung bằng cách nào, có thể là xuất thần thức đến thiên cung, hoặc cũng có thể đem cả báo thân lên thiên cung.

KINH: Đảnh lễ Thiên Nữ Thiên chủ Quang, hữu nhiễu cung kính chắp tay thưa rằng. Bạch đại thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học bồ tát hạnh, thế nào tu bồ tát đạo. Thiên nữ nói, này thiện nam tử, ta được môn Bồ Tát thoát môn tên là Vô ngại niệm thanh tịnh trang nghiêm.

GIẢNG: Vô ngại là không bị ngăn ngại, niệm là nhớ nghĩ. Có nghĩa rằng ngài có được môn tam muội luôn có những niệm nhớ nghĩ thanh tịnh, trang nghiêm một cách vô ngại. Rồi ngài kể cho Thiện Tài nghe, từ vô số kiếp lâu xa về trước, trong kiếp ấy, ngài thường cúng dường hằng hà sa Chư Phật. Rồi bao nhiêu kiếp về sau, có bao nhiêu na do tha Như Lai ngài cũng đều cúng thờ ghi nhớ hết, sau ngài đắc được môn giải thoát ấy. Có nghĩa rằng ngài ghi nhớ dòng thần lực bất tận làm hiện khởi lên tất cả Chư Phật từ diệu tâm ấy trong bao nhiêu kiếp.

KINH: Này thiện nam tử, thành Ca Tỳ La có đồng tử tên là Biến Hữu. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.

GIẢNG: Từ đây trở đi, có năm, bảy vị dạy Thiện Tài rất ngắn…

Đến đây tôi xin ngưng và dành một chút thì giờ xem có vị nào muốn hỏi xin cứ hỏi.

HỎI: Trong kinh, (và ông cũng giảng rất nhiều lần) về danh từ bất nhị. Vậy nó có đồng nghĩa với chữ bát nhã không?

ĐÁP: Bất nhị, cũng chính là bát nhã, cũng chính là trung đạo. Khi nào ông thấy các pháp đều không phải sanh, không phải diệt, không phải khổ, không phải vui, không phải ngã, không phải vô ngã, không phải là mình, không phải là người, cũng không phải chánh báo, không phải là y bảo v.v… thì lúc bấy giờ ông đã bắt đầu trụ trong Bát Nhã rồi vậy. Còn chấp có cái này là cái này, cái kia là cá kia thì như vậy là vẫn còn rơi vào nhị biên, chưa vào được trung đạo. Và tâm còn động. Vì tất cả cũng là mình và cũng… không phải là mình. Nói như thế ta thấy có vẻ mâu thuẫn, nhưng khi suy nghĩ kỹ ông sẽ thấy cái lý tuyệt vời của nó. Vì hai cái đó bất nhị. Nên cuối cùng, kinh dạy phải nhập pháp giới, lúc đó chánh bảo và y bảo là một. Bất nhị là trạng thái tâm như như của Bát Nhã.

HỎI: Thời Đức Phật còn tại thế, ngài cũng có giảng về Bát Nhã rồi, có điều làm cho các Phật tử sơ cơ mới bước chân vào đạo, khi nói đến Bát Nhã, thường là rơi vào tình trạng sợ hãi hoang mang. Vì từ lâu đời lâu kiếp, ta đã quen với những gì gọi là “có” rồi, như có bạn bè, vợ con, kinh sách, có Phật, có Bồ Tát, có cõi tịnh, cõi uế, có hoa tạng thế giới, có cõi Cực Lạc v.v… thì bây giờ Phật dạy, tu đến một lúc nào, những thứ đó không có nữa, hoàn toàn là… không cả, vậỵ thì còn ai chứng đắc, và còn cái gì gọi là quả vị chứng đắc?

ĐÁP: Ông nên luôn nhớ đến cái bí ẩn lắt lay của tâm thức. Bí ẩn tâm thức chúng ta là ở chỗ nhị đế, và tùy theo lối nhìn của mỗi loài chúng sanh. Cùng cái tâm ấy, phàm phu chúng ta nhìn theo đầu đằng này, thì thấy là có, còn quay lại nhìn đầu đằng kia thì thấy là không. Bồ Tát là những bậc hơn người thường, và hơn cả hàng Thanh Văn là vì biết nhìn theo lối song chiếu. Vừa hiểu nó là không, đồng thời vẫn làm tất cả những Phật sự như là có. Hiểu tất cả Cực Lạc, đường tu, bạn hữu, thầy dạy v.v… đều là mộng cả, nhưng vẫn cứ theo đó để làm, để đi sâu vào tột cùng của tâm thức, chỗ tột cùng của tâm thức là tột không, nhưng từ chỗ tột không ấy sẽ nở ra diệu hữu. Không biết câu trả lời ấy, có làm ông thỏa mãn chưa?

HỎI: Nhưng Lục TỔ trong nhà thiền nói rằng: “Bổn lai vô nhất vật,” thì ta phải có đối tượng và chủ thể. Nói một cách rõ hơn nếu không quán chiếu, nghĩ nhớ đến ngài Quán Thế Ấm, và không có người quán chiếu thì sao? tu hành là tu thế nào? làm gì để biết được cái gọi là “lắt lay tâm thức” như ông vừa nói? Vì ít ra, ta phải là một cái gì thì mới tu được, còn không có cái đó thì lấy gì để suy nghĩ, lấy gì để tụng niệm, lấy gì để cầu mong về Cực Lạc, lấy gì để nhìn thấy đức A Di Đà?

ĐÁP: Sao ông biết là không có cái đó ? Cái đó là cái gì? Trong tất cả kinh đều nói đến cái không, khiến chúng ta nghe thấy sợ hãi, vì cứ tưởng sẽ rơi vào cái không suông. Nhưng ngược lại, cái không này rất mầu nhiệm, tương tự như cái gương, có thể hiện hình các vật giả có. Nên cái bí ẩn của đạo Phật là gì? Là phải biết song chiếu. Vì nếu chỉ đi hoàn toàn về Bát Nhã cũng sai, mà phải có Đại Bi. Ngược lại, nếu chỉ nói hoàn toàn về đại bi cũng sai, mà phải có Bát Nhã. Nếu ông chỉ tu theo sự từ bi thì dễ sa vào bệnh “bi lụy hồ đồ,” lúc nào cũng thương cảm, khóc lóc, ngay cả trông thấy con muỗi, con mòng chết cũng cảm thấy sót sa rơi nước mắt (đó là theo trong Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy thế), còn tu theo con đường bát nhã không thì sẽ rơi vào Càn Tuệ Địa, huệ khô, phải thấm nước đại bi mới được. Nên phải luôn luôn giữ tâm song chiếu. Thấy người kia vừa có, vừa không. “Có,” để trưởng dưỡng tâm đại bi. “Không,” để vào được cái trí như huyễn của chư Phật, vì tất cả chỉ là ảnh hiện, đủ duyên thì hiện lên, hết duyên thì ẩn đi.     ‘

HỎI: Thú thực mà nói, tôi vẫn chưa … thỏa mãn lắm về câu trả lời của ông, hay nói cho đúng tôi vẫn thấy hình như còn hơi… vấp thế nào. Vì sao? Vì ít ra phải có chủ thể và khách thể thì mới thực hiện được đại bi và bát nhã, nhưng ông lại nói rằng chấp có ta cũng hỏng, chấp không có ta cũng hỏng, thì… thú thật tôi vẫn còn hoang mang lắm.

ĐÁP: Ông nên nhớ rằng, tất cả chỉ có một điểm không hư là cái tâm ấy thôi, chứ còn chấp có ta là hỏng rồi, vì chấp có ta là làm lệch điểm không hư ấy. Mà nó lại “bất khả thuyết,” không thể dùng danh từ gì để có thể diển giảng nổi.

HỎI: Nếu chỉ có cái “điểm không hư” ấy, thì tôi càng sợ hơn nữa vì tu lên đến mức tột cùng chỉ còn cái không hư ấy thì, thì… chúng ta tu đến chỗ đó làm cái giống gì?

(Cả đạo tràng cười ồ…)

ĐÁP: Như vậy là ông vẫn chấp theo lối nhìn của phàm phu, tức là phải có một cái gì. Như chúng ta, sống trong cõi dục giới này, mang một sắc thân máu mủ. Vậy những thú vui của thế gian là gì? Có phải là ăn, chơi với bạn bè, gặp những đều như ý, có vợ đẹp, con ngoan, và cuối cùng là vấn đề nam nữ là điều khoải lạc nhất? Thế mà trong kinh lại khẳng định rằng, tất cả những thứ đó đều là phù du giả dối, vì phàm phu chúng ta chưa biết dùng cái tâm, nó vốn là dòng suối nguyên sơ của hỷ lạc, mà chỉ chạy theo những thú vui tầm thường của thế gian, một cái vui tùy thuộc ngoại vật. Nếu bây giờ một người biết buông tất cả những thú vui thế gian đó đi, thì khi lên đến sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, lúc đó người ấy sẽ mở được cánh cửa vào vô lượng sự hỷ lạc. Mà cái hỷ lạc của tam thiền chưa ăn thua gì cả, mà đến cái vui không thọ của Niết Bàn mới ghê gớm hơn nhiều. Nhưng cái vui không thọ của Niết Bàn cũng chưa ăn thua gì bằng cái vui vô động thường, lạc, ngã, tịnh của Đại Niết Bàn tịch tĩnh. Ở mức độ này, cái tâm vẫn đó, nó là nguồn vui kỳ diệu mà chúng ta không hay biết, cứ khóa chặt cánh cửa đó lại, chỉ chạy theo cái vui vô thường của thế gian. Nên khi ngài Lục Tổ Huệ Năng nói “bổn lai vô nhất vật,” đó là những vật thô kệch có hình tướng trong tam giới thôi, còn cái tâm vẫn đó. Đó là Phật tánh, là Chân Như, nhưng muốn đạt đến cái chân như nguyên sơ đó phải bỏ luôn cả ý niệm có, không đi. Vì sao? Vì khi chấp rằng “có tâm” thì vẫn còn gợn một niệm cuối cùng, nên chưa lặn sâu vào cái tâm nhỏ nhiệm vi tế ấy, và phải đến chỗ cái tâm chẳng phải có, chẳng phải không thì mới thực là thường, lạc, ngã, tịnh.

HỎI: Vậy nếu mình đạt được đến tâm ấy thì ta được cái gì?

ĐÁP: Được cái an lạc vô biên, được thần thông vô lượng. Vì như tôi đã nói ở trên, khi ông đạt đến cái “điểm không hư” ấy, thì từ cái không hư nó sẽ nở ra vô cùng những diệu hữu, nở ra trùng trùng điệp điệp tất cả pháp giới này. Mà tất cả chúng sanh đều trong thân ông cả. Nói tóm lại, mục đích cuối cùng của cuộc đời là gì? Là đi kiếm cái hỉ lạc thôi, nhưng cái hỉ lạc càng lên cao, thì càng vi diệu, càng thần thông biến hóa tràn đầy thế gian, mà muốn ở mức độ đó thì phải ly tất cả, ngay cả ý niệm ly ấy ông cũng phải từ bỏ thì lúc đó ông sẽ được tất cả. Lên đến tột cao của sự hỉ lạc, ông sẽ có một niềm vui vô thọ, vô động. Đó là Đại Niết Bàn tịch diệt của Chư Phật.

Ông nói như trên cũng hơi có ý tưởng giống nhiều nhà ngoại đạo thời đức Phật còn tại thế. Vì khi Phật nói không có ngã thì kẻ ngoại đạo nghe chán quá, không muốn theo, đến khi Phật nói có cái thường, lạc, ngã, tịnh, thì lúc đó bọn ngoại đạo mới bảo rằng: “À, khi lên đến tột không lại thành có ngã, nếu Sa Môn Cù Đàm trước kia nói như thế thì chúng tôi đã theo ông từ lâu rồi, vì ông bảo không có ngã nên không theo.” Đủ chứng tỏ rằng, tâm thức của chúng sanh rất lắt lay, nên thế giới cũng lắt lay biến hiện theo tâm thức ấy, phải vượt khỏi lên trên những sự lắt lay đó thì mới đạt đến mức tuyệt vời của chư Phật. Và ở chỗ đó là bờ mé các bí ẩn của pháp giới, tức là bỏ hết mọi ý niệm, vì ý niệm nào cũng sai cả, vì không có một ý niệm nào có thể áp dụng trọn vẹn cho cái diệu tâm, nên “bất khả ngôn thuyết,” không thể nghĩ bàn…

Tôi nói như thế, nhưng cũng không hy vọng gì ông hiểu ngay đâu. Chỉ mong ông về suy nghĩ thêm, và thao thức đọc thêm một mớ kinh sách, rồi một ngày nào đó tâm thức chui sâu vào có thể vỡ ra được vài phần, lúc đó mới thấy tuệ giác của nhà Phật thật bao la kỳ diệu. Vì không có gì trong pháp giới này có thể ra ngoài lời kinh.

Không biết còn vị nào muốn hỏi nữa không?…

Nếu không ai còn câu hỏi, tôi xin chấm dứt ở đây. Xin cảm ơn quí vị…



 “BÁT-NHÃN TÂM-KINH” nói rằng :



Quán-tự-tại Bồ-tát “QUÁN THẤY”...


Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức;

( không có ngũ-uẩn)

vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp;

( không có 12 nhập)

vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới;

(không có 18 giới)

vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận;

(không có 12 nhân duyên)

vô khổ, tập, diệt, đạo;

(không có 4 đế)

vô trí diệc vô đắc.

(không có TRÍ của Bồ-tát do tu Lục-độ, cũng không có ĐẮC qủa Phật)

Lại nói, Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

(Ba đời  “Chư Phật” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA”)

Còn nói, Bát-nhã là Đại-thần, là đại minh, là vô-thượng, là vô đẳng đẳng chú... như lại phải nhờ thần-chú  “Yết-đế Yết-đế, Ba-la yết-đế, Ba la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.”,  để tiêu trừ vô-minh vi tế của “A-LẠI-DA THỨC” (sở tri chướng),  mà thành tựu  “ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ” hay “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”, TỨC THÀNH PHẬT.

 

Tóm lại,  “QUÁN-TỰ-TẠI BỒ-TÁT” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA


Ma-ha Bát-nhã Ba la-mật-đa.

(3 lần)


 

Năm Thứ Mười Ba niên hiĐại Nghip, Đức Tứ Tổ Đạo Tín dđồ chúng đến Cát Châu thì gp bn cướp vây thành by tun (by mươi ngày) chng lui tan, mi ngườđều sợ hãi.

Tổ thương xót, dy bày ni“Ma Ha Bát Nhã Ba La MĐa.” Khi y, bn cướp nhìn lên trên thành như có thn binh, bèn bo nhau: “Trong thành t có dị nhân, không thể đánh được”. Bèn ln ln bỏ đi.


( KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG)



MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH



Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thụ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thụ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chân thật bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:

 

Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát ba ha.

 

Ma-ha Bát-nhã Ba la-mật-đa.

(3 lần)



Comments

Popular posts from this blog