ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



49.- TỐI TỊCH TỊNH

 

Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết

MÔN GIẢI THOÁT THÀNH NGUYỆN NGỮ” nầy.


 

Thiện-Tài đảnh lễ Trưởng-giả Vô-Thắng-Quân hữu nhiễu vô-số vòng luyến-mộ chiêm-ngưỡng từ tạ đi đến đảnh lễ TỐI TỊCH TỊNH, hữu nhiễu cung kính chắp tay thưa rằng:

Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo.

Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.

Bà-La-Môn nói:

Nầy Thiện-nam-tử! Ta được môn bồ-tát giải-thoát tên là Thành-Nguyện-Ngữ.

Chư Bồ-Tát quá-khứ hiện-tại và vị-lai do dùng lời nói chơn thành nầy nên được không  thối-chuyển đạo vô-thượng bồ-đề, không đã thối, không hiện thối, không sẽ thối.

Do ta trụ nơi lời nói thành-nguyện nên làm điều chi cũng được toại ý.

Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT THÀNH NGUYỆN NGỮ” nầy.

Như chư đại Bồ-Tát đi đứng đều chẳng trái với thành-nguyện-ngữ, lời nói ra quyết là chơn thành chưa bao giờ hư vọng, do đây xuất sanh vô-lượng công-đức. Ta làm sao biết được nói được công-đức-hạnh đó.

Nầy Thiện-nam-tử! Phương nam đây có thành tên là Diệu-Ý-Hoa-Môn. Nơi đó có Ðồng-Tử tên là Ðức-Sanh, lại có Ðồng-Nữ tên là Hữu-Ðức.

Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo.

Thiện-Tài đảnh lễ Tối-Tịch-Tịnh hữu nhiễu vô-số vòng, từ tạ đi qua phương nam. 



Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


24 tháng 06, 1990


49.- TỐI TỊCH TỊNH

 

Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết

MÔN GIẢI THOÁT THÀNH NGUYỆN NGỮ” nầy.


KINH: Này thiện nam tử, thành Nam có một tu lạc Chi Vi Pháp. Trong đó có một bà la môn tên là Tối Tịch Tĩnh.

GIẢNG: “Chi vi pháp” là pháp rất vi tế. “Tối Tịch Tĩnh” là đã vào đến chỗ cùng tột trong thức ấm, vào đến Chân Thức.

KINH: Bà La Môn nói, ta được môn giải thoát tên là Thành Nguyện Ngữ. Chư Bồ Tát quá khứ, hiện tại, và vị lai do dùng lời nói chân thành này nên được không thối chuyển đạo vô thượng bồ đề, không đã thối, không hiện thối, không sẽ thối. Do ta trụ nơi lời nói thành nguyện nên làm điều chi cũng được toại ý. Này thiện nam tử, ta chỉ biết môn giải thoát thành nguyện ngữ này. Như chư Đại Bồ Tát đi đứng đều chẳng trái với thành nguýện ngữ, lời nói ra quyết là chơn thành chưa bao giờ hư vọng, do đây xuất sanh vô lượng công đức. Ta làm sao biết được, nói được công đức hạnh dó.

GIẢNG: Vị này, được môn giải thoát bồ tát thành nguyện ngữ. Tức là ngài tu về Mật Tông. Trong Mật Tông thì vị tu cao mỗi lời nói của ngài đều thành sự thật.. Lời nói của ngài có một sức mạnh tác động gần như một câu thần chú vậy, như một cử chl dơ tay, một cái nháy mắt, dù đi, đứng, nằm, ngồi v.v… đều có oai lực như một kết ấn. Còn về ý, thì tùy việc mà khởi niệm “diệu quán tự tại,” nên phải biết tu về thân, khẩu, ý bên Mật Tông rất cao. Chỉ cần ngài nói một câu thôi, quỉ thần phải làm theo đúng ngay như vậy, như chữa bệnh cho một người mù, ngài chỉ cần nói rằng “anh hãy trông thấy đi,” thì quỉ thần lập tức phải thu xếp phóng những quang minh khiến cho mắt người mù được lành, và trông thấy được. Hay bảo người què, “anh hãy đứng dậy đi đi,” thì lập tức người què ấy đi được ngay. Vì lời nói chân thật rất ghê gớm, nó ở một mức độ cao có thể huy động và thay đổi quang minh khiến theo ý ngài muốn. Còn chúng ta, từ vô lượng kiếp, hay nói dối, nói lời đâm thọc, nói hai chiều v.v… nên lời nói ở một mức độ rất thô kệch và không có một uy lực nào cả.

Trong kinh Tâm Địa Quán, có kể một câu chuyện, có một vị Đại Bồ Tát tên Diệu Đắc, đi cùng với một bọn năm trăm người ra biển, đến một chỗ sóng nổi lên dữ dội, Ngài Bồ Tát Diệu Đắc đứng lên chỉ sóng và nói rằng, nếu quả thực tôi từ nhiều kiếp nói toàn là thực cả thì xin sóng ba đào này hãy yên đi. Vừa khi ngài nói xong câu ấy, sóng yên lặng lại ngay. Cũng như đức Christ, khi đi qua sông Jourdain có sóng nổi lên, ngài chỉ sóng thì sóng lặng ngay. Một hôm, đức christ đi qua một miền rất nóng nực, đến một cội cây định hái một trái để ăn, nhưng trên cây không có một trái nào, thì ngài quở rằng, sao cây này tệ quá không có đến một trái nào, sau khi ngài quở vậy thì cây đó tự nhiên héo khô mà chết. Đủ biết tâm lực ghê đến thế! Theo tôi nghĩ, đức Christ cũng là một bậc Bồ Tát ở đệ cửu địa. Vì trong kinh Đại Bát Nhã, Phật nói rõ, người nào dùng được nguyện ngữ như thế, chỉ cần một câu nói mà người què đứng dậy, người mù trông thấy được thì vị đó ở vào đệ cửa địa. Nhưng classify đức Christ như thế thì dĩ nhiên người Công Giáo không bằng lòng đâu, họ cho rằng ngài là bậc tối cao, không ai có thể so sánh bằng. Nhưng thực ra, trong thánh kinh không nói Đức christ làm được những phép lạ tập thể mà chỉ có thể chữa cho từng cá nhân một mà thôi. Trong khi kinh Đại Bát Niết Bàn kể rằng, Đức Phật chữa trị cho năm trăm tên cướp bị vua Ba Tư Nặc khoét mắt vất vào rừng. Ngài nhập từ tam muội chữa lành cho năm trăm đôi mắt vì do nhân duyên tu hành nhiều kiếp trước của 500 tên cướp này. Một trường hợp khác, có 2000 người phụ nữ dòng họ Thích bị vua Lưư Ly chặt chân, tay vất xuống hố, Ngài cũng nhập từ tam muội thì một luồng gió bỗng thổi đến và tất cả chân tay đều lành lại. Nhưng như thế cũng chưa ăn thua gì, vì trong kinh nói rõ, đức Phật có thể tạo vô lượng các cõi.

Khi nào chúng ta tu hành đến mức độ mở được tâm vô lượng, tâm bồ đề, đủ trí huệ Bát Nhã và Đại Bi thì lúc đó, mọi uy nghi đi đứng của chúng ta đều trở thành “ấn quyết,” nói bất cứ câu gì cũng thành thần chú, mà bất cứ một tâm niệm nào khởi lên tự nhiên nó cũng trở thành sự thật. Đó là “diệu quản tự thành.”


Comments

Popular posts from this blog