ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
VÀ ĐỒNG NỮ HỮU ÐỨC
Nầy Thiện-nam-tử!
Huyễn-cảnh tự-tánh bất-tư-nghì.
Chúng ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT HUYỄN TRỤ”nầy.
Thiện-Tài đi lần đến thành
Diệu-Ý-Hoa-Môn, đảnh lễ ĐỒNG TỬ ÐỨC SANH
VÀ ĐỒNG NỮ HỮU ÐỨC, hữu nhiễu cung kính chắp
tay bạch rằng:
Ðức Thánh! Tôi đã phát tâm
vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu
bồ-tát-đạo. Xin đức Thánh từ mẫn chì dạy.
Ðức-Sanh và Hữu-Ðức nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Chúng ta
chứng được bồ-tát giải-thoát tên là huyễn-trụ.
Vì được môn giải-thoát nầy
nên thấy:
Tất cả thế-giới đều là
huyễn trụ, do nhơn-duyên mà sanh khởi.
Tất cả chúng-sanh đều là
huyễn trụ, do nghiệp phiền-não mà khởi.
Tất cả chúng-sanh đều là
huyễn trụ do nghiệp phiền-não mà sanh khởi.
Tất cả thế-gian đều là
huyễn trụ, do vô-minh, hữu, ái xoay vần làm duyên sanh khởi.
Tất cả pháp đều là huyễn
trụ, do những huyễn-duyên ngã-kiến, vân vân, sanh khởi.
Tất cả tam thế đều là
huyễn trụ, do những điên đảo trí ngã-kiến vân-vân sanh khởi.
Tất cả chúng-sanh sanh
diệt, sanh lão bịnh tử ưu bi khổ não đều là huyễn trụ, do hư-vọng phân-biệt
sanh khởi.
Tất cả quốc-độ đều huyễn
trụ, do tưởng-đảo, tâm-đảo, kiến-đảo và vô-minh hiện khởi.
Tất cả Thanh-Văn và
Bích-Chi-Phật đều là huyễn trụ, do trí-đoạn phân-biệt mà thành.
Tất cả Bồ-Tát đều là huyễn
trụ, do những hạnh nguyện hay tự điều phục và giáo-hóa chúng-sanh mà thành.
Tất cả Phật Bồ-Tát
chúng-hội biến-hoá điều-phục, những công-hạnh đều là huyễn-trụ, do
nguyện-trí-huyễn mà thành.
Nầy Thiện-nam-tử!
Huyễn-cảnh tự-tánh bất-tư-nghì. Chúng ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT HUYỄN TRỤ” nầy.
Như chư đại Bồ-Tát khéo
nhập vô-biên sự huyễn. Chúng ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh
đó.
Ðồng-Tử và Ðồng-Nữ nói môn
giải-thoát của mình đã chứng xong, dùng sức thiện-căn bất-tư-nghì làm cho thân
Thiện-Tài được nhu nhuyến bóng sáng, mà nói rằng:
Nầy Thiện-nam-tử! Phương
nam đây có nước Hải-Ngạn. Trong nước ấy có khu vườn Ðại-Trang-Nghiêm. Trong
vườn có một tòa lâu các rộng lớn tên là Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm Tạng.
Lâu các nầy có ra là do
bồ-tát thiện-căn quả báo, do bồ-tát niệm-lực, nguyện-lực, tự-tại-lực, thần
thông-lực, do bồ-tát thiện-xảo phương-tiện, do bồ-tát phước-đức trí tuệ.
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát
trụ bất-tư-nghì giải-thoát dùng tâm đại-bi vì các chúng-sanh mà hiện cảnh-giới
như vậy, chứa họp những trang-nghiêm như vậy.
Di-Lặc đại Bồ-Tát ở trong
lâu các ấy để nhiếp thọ phụ mẫu quyến-thuộc và nhơn-dân làm cho họ được thành-thục.
Lại muốn cho những chúng-sanh đồng thọ-sanh, đồng tu-hành ở trong đại-thừa được
kiên-cố. Lại muốn cho tất cả chúng-sanh ấy, tùy bậc tùy thiện-căn, đều được
thành-tựu.
Lại cũng muốn vì ngươi mà
hiển-thị môn bồ-tát giải-thoát, hiển thị Bồ-Tát khắp tất cả chỗ thọ-sanh
tự-tại, hiển-thị Bồ-Tát dùng nhiều thân hiện khắp nơi thường giáo hóa
chúng-sanh, hiển-thị Bồ-Tát dùng sức đại-bi nhiếp tất cả tài sản thế-gian mà
chẳng nhàm, hiển-thị tu đủ tất cả công-hạnh biết rõ tất cả hạnh lìa các tướng,
hiển-thị Bồ-Tát thọ sanh khắp nơi vì biết rõ tất cả sanh đều vô-tướng.
Ngươi đến đó hỏi: Bồ-Tát
thế nào thật hành bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo, thế nào học bồ-tát-giới,
thế nào tịnh bồ-tát-tâm, thế nào phát bồ-tát-nguyện, thế nào chứa nhóm bồ-tát
trợ-đạo, thế nào nhập bậc bồ-tát, thế nào thành-mãn bồ-tát ba-la-mật, thế nào
được bồ-tát vô-sanh-nhẫn, thế nào đủ bồ-tát công-đức, thế nào thờ bồ-tát
thiện-tri-thức?
Nầy Thiện-nam-tử! Di-Lặc
Bồ-Tát thông đạt tất cả bồ-tát-hạnh, biết rõ tâm chúng-sanh, thường hiện thân trước
họ để giáo hóa điều phục.
Di-Lặc Bồ-Tát đã viên-mãn
tất cả ba-la-mật, đã ở tất cả bậc bồ-tát, đã chứng tất cả bồ-tát-nhẫn, đã nhập
tất cả bồ-tát-vị, đã được Phật thọ ký, đã du tất cả cảnh bồ-tát, đã được
thần-lực của tất cả Phật, đã được đức Như-Lai đem pháp-thủy cam-lộ
nhất-thiết-trí quán đảnh.
Nầy Thiện-nam-tử! Di-Lặc
Bồ-Tát có thể nhuận trạch thiện-căn của ngươi, có thể tăng trưởng tâm bồ-đề của
ngươi, có thể kiên-cố chí của ngươi, có thể thêm pháp lành cho ngươi, có thể
lớn căn bồ-tát cho ngươi, có thể chỉ bày pháp vô-ngại cho ngươi, có thể làm cho
ngươi vào bậc phổ-hiền, có thể nói nguyện bồ-tát cho ngươi, có thể nói hạnh
phổ-hiền cho ngươi, có thể vì ngươi mà nói tất cả bồ-tát-hạnh-nguyện làm thành
công-đức.
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi
chẳng nên tu một điều lành, chiếu một pháp, hành một hạnh, phát một nguyện,
được một thọ-ký, trụ một nhẫn mà cho là rốt ráo.
Ngươi chớ nên đem tâm có
hạn lượng mà thật hành lục-độ, trụ nơi thập-địa, tịnh phật-độ, thờ
thiện-tri-thức.
Tại sao vậy?
Nầy Thiện-nam-tử! Vì Bồ-Tát
phải gieo vô-lượng thiện-căn, phải chứa vô-lượng bồ-đề-cụ, phải tu vô-lượng
bồ-đề nhơn, phải học vô-lượng xảo hồi-hướng, phải giáo hóa vô-lượng
chúng-sanh-giới, phải biết vô-lượng chúng-sanh-tâm, phải biết vô-lượng
chúng-sanh-căn, phải rõ vô-lượng chúng-sanh-giải, phải quán vô-lượng
chúng-sanh-hạnh, phải điều-phục vô-lượng chúng-sanh, phải đoạn vô-lượng
phiền-não, phải tịnh vô-lượng nghiệp tập, phải diệt vô-lượng tà kiến, phải trừ
vô-lượng tâm tạp nhiễm, phải phát vô-lượng tâm thanh-tịnh, phải nhổ vô-lượng
tên độc khổ, phải cạn vô-lượng biển ái dục, phải phá vô-lượng tối vô-minh, phải
xô vô-lượng núi ngã mạn, phải bức đứt vô-lượng dây sanh tử, phải qua khỏi
vô-lượng giòng hữu-lậu, phải khô vô-lượng biển thọ sanh, phải làm cho vô-lượng
chúng-sanh ra khỏi bùn lầy ngũ-dục, phải khiến vô-lượng chúng-sanh lìa ngục tù
tam-giới, phải đặt vô-lượng chúng-sanh ở trong thánh-đạo, phải tiêu diệt
vô-lượng hạnh tham dục, phải trừ sạch vô-lượng hạnh sân hận, phải phá trừ
vô-lượng hạnh ngu-si, phải siêu vô-lượng lưới ma, phải lìa vô-lượng nghiệp ma,
phải rửa sạch bồ-tát vô-lượng dục lạc, phải tăng trưởng bồ-tát vô-lượng
phương-tiện, phải xuất sanh bồ-tát vô-lượng căn tăng-thượng, phải sáng sạch
bồ-tát vô-lượng quyết-định-giải, phải xu nhập bồ-tát vô-lượng bình-đẳng, phải thanh-tịnh
bồ-tát vô-lượng công-đức, phải tu tập bồ-tát vô-lượng công-hạnh, phải thị-hiện
bồ-tát vô-lượng hạnh tùy thuận thế-gian, phải sanh vô-lượng sức tịnh tín, phải
trụ vô-lượng sức tinh-tấn, phải thanh-tịnh vô-lượng sức chánh-niệm, phải
thành-mãn vô-lượng sức tam-muội, phải khởi vô-lượng sức tịnh-huệ, phải kiên-cố
vô-lượng sức thắng-giải, phải tích tập vô-lượng sức phước-đức, phải lớn
vô-lượng sức trí-huệ, phải phát khởi vô-lượng sức bồ-tát, phải viên-mãn
vô-lượng sức Như-Lai, phải phân-biệt vô-lượng pháp-môn, phải rõ biết vô-lượng
pháp-môn, phải thanh-tịnh vô-lượng pháp-môn, phải sanh vô-lượng pháp
quang-minh, phải làm vô-lượng pháp chiếu-diệu, phải chiếu vô-lượng phẩm
loại-căn, phải biết vô-lượng phiền-não bịnh, phải chứa vô-lượng diệu-pháp-dược,
phải chữa vô-lượng bịnh của chúng-sanh, phải sắm sửa vô-lượng đồ cúng cam-lộ,
phải đến vô-lượng phật-độ, phải cúng-dường vô-lượng Như-Lai, phải vào vô-lượng
bồ-tát-hội, phải thọ vô-lượng phật-giáo, phải nhẫn vô-lượng tội chúng-sanh,
phải diệt vô-lượng nạn ác-đạo, phải khiến vô-lượng chúng-sanh sanh về
thiện-đạo, phải dùng pháp tứ-nhiếp để nhiếp vô-lượng chúng-sanh, phải tu
vô-lượng môn tổng-trì, phải sanh vô-lượng môn đại-nguyện, phải tu vô-lượng sức
đại-từ đại-nguyện, phải siêng cầu vô-lượng phật-pháp thường không thôi dứt,
phải khởi vô-lượng sức tư-duy, phải khỏi vô-lượng sự thần-thông, phải tịnh
vô-lượng trí quang-minh, phải qua đến vô-lượng loài chúng-sanh, phải thọ
vô-lượng đời trong các cõi, phải hiện vô-lượng thân sai-biệt, phải biết
vô-lượng pháp ngôn-từ, phải nhập vô-lượng tâm sai-biệt, phải biết bồ-tát đại
cảnh-giới, phải trụ bồ-tát đại cung-điện, phải quán bồ-tát thậm-thâm diệu-pháp,
phải biết cảnh-giới khó biết của Bồ-Tát, phải thật-hành những hạnh khó làm của
Bồ-Tát, phải đầy đủ oai-đức tôn trọng của Bồ-Tát, phải đi theo chánh-vị khó
nhập của bồ-Tát, phải biết những hạnh của Bồ-Tát, phải hiện thần-lực phổ-biến
của Bồ-Tát, phải thọ pháp-vân bình-đẳng của Bồ-Tát, phải làm rộng vô-biên hạnh
của Bồ-Tát, phải viên-mãn vô-biên ba-la-mật của Bồ-Tát, phải thọ vô-lượng
ký-biệt của Bồ-Tát, phải nhập vô-lượng nhẫn-môn của Bồ-Tát, phải tu vô-lượng
địa-vị của Bồ-Tát, phải thanh-tịnh vô-lượng pháp-môn của Bồ-Tát, phải đồng với
chư Bồ-Tát, trụ vô-biên kiếp cúng-dường vô-lượng Phật, nghiêm-tịnh
bất-khả-thuyết phật-độ, xuất sanh bất-khả-thuyết bồ-tát nguyện.
Nầy Thiện-nam-tử! Tóm lại,
phải khắp tu bồ-tát-hạnh, phải khắp giáo-hóa chúng-sanh-giới, phải khắp vào tất
cả kiếp, phải khắp sanh tất cả xứ, phải khắp biết tất cả thế, phải khắp thật
hành tất cả pháp, phải khắp tịnh tất cả cõi, phải khắp mãn tất cả nguyện, phải
khắp cúng tất cả Phật, phải khắp đồng tất cả bồ-tát nguyện, phải khắp thờ tất
cả thiện-tri-thức.
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi
cầu thiện-tri-thức chẳng nên nhàm mỏi. Ngươi thỉnh hỏi thiện-trí-thức chớ sợ
khổ nhọc. Ngươi gần gũi thiện-tri-thức chớ có thối chuyển. Ngươi cúng-dường
thiện-tri-thức chớ có thôi nghỉ. Ngươi lãnh thọ lời dạy của thiện-tri-thức chớ
có lầm lộn. Ngươi học hạnh của thiện-tri-thức chớ có nghi hoặc. Ngươi nghe
thiện-tri-thức diễn nói môn ly chẳng nên dụ dự. Thấy thiện-tri-thức tùy
phiền-não hành chớ có hiềm lạ. Ở chỗ thiện-chi-trức phải sanh lòng thâm tín tôn
kính chẳng nên biến đổi.
Tại sao vậy?
Nầy Thiện-nam-tử! Vì
Bồ-Tát do nơi thiện-tri-thức mà được nghe tất cả bồ-tát-hạnh, thành-tựu tất cả
bồ-tát công-đức, xuất sanh tất cả bồ-tát đại-nguyện, dẫn phát tất cả bồ-tát
thiện-căn, tích tập tất cả bồ-tát trợ-đạo, khai phát tất cả bồ-tát
pháp-quang-minh, hiển thị tất cả bồ-tát xuất-ly-môn, tu học tất cả bồ-tát
thanh-tịnh-giới, an-trụ tất cả bồ-tát công-đức-pháp, thanh-tịnh tất cả bồ-tát
quảng-đại-chí, tăng trưởng tất cả bồ-tát kiên-cố-tâm, đầy đủ tất cả bồ-tát
đà-la-ni biện-tài môn, được tất cả bồ-tát thanh-tịnh-tạng, sanh tất cả bồ-tát
định-quang-minh, được tất cả bồ-tát thù-thắng-nguyện, cùng tất cả Bồ-Tát đồng
một nguyện, nghe tất cả bồ-tát thù-thắng-pháp, được tất cả bồ-tát bí-mật-xứ,
đến tất cả bồ-tát pháp bửu sở, thêm tất cả bồ-tát mầm thiện-căn, lớn tất cả
bồ-tát thân trí-huệ, hộ tất cả bồ-tát tạng thâm-mật, trì tất cả bồ-tát
phước-đức-tụ, tịnh tất cả bồ-tát thọ-sanh-đạo, thọ tất cả bồ-tát
chánh-pháp-vân, nhập tất cả bồ-tát đại-nguyện-lộ, đến tất cả như-lai bồ-đề-quả,
nhiếp thủ tất cả bồ-tát diệu-hạnh, khai thị tất cả bồ-tát công-đức, qua tất cả
phương thính thọ diệu-pháp, khen tất cả bồ-tát oai-đức quảng đại, sanh tất cả
bồ-tát đại-từ-bi-lực, nhiếp tất cả bồ-tát thắng tự-tại-lực, sanh tất cả bồ-tát
bồ-đề phần, làm tất cả bồ-tát lợi-ích-sự.
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát
do thiện-tri-thức nhiệm trì nên chẳng đọa ác-đạo, do thiện-tri-thức nhiếp thọ
mà chẳng thối đại-thừa, do thiện-tri-thức hộ-niệm mà chẳng phạm bồ-tát-giới, do
thiện-tri-thức thủ-hộ mà chẳng theo ác-tri-thức, do thiện-tri-thức dưỡng-dục mà
chẳng khuyết bồ-tát-pháp, do thiện-tri-thức nhiếp thủ mà siêu-việt hạng
phàm-phu, do thiện-tri-thức giáo hối mà siêu-việt bực nhị thừa, do
thiện-tri-thức dìu-dắt mà được ra khỏi thế-gian, do thiện-tri-thức trưởng-dưỡng
mà có thể chẳng nhiễm thế-pháp, do kính thờ thiện-tri-thức mà tu tất cả
bồ-tát-hạnh, do cúng-dường thiện-tri-thức mà đủ tất cả pháp trợ-đạo, do
thân-cận thiện-tri-thức mà chẳng bị nghiệp hoặc nhiếp phục, do nương dựa
thiện-tri-thức mà thế-lực kiên-cố chẳng sợ ma-chúng, do y chỉ thiện-tri-thức mà
tăng-trưởng tất cả pháp bồ-đề-phần.
Tại sao vậy?
Nầy Thiện-nam-tử! Vì
thiện-tri-thức có thể trừ sạch các điều chướng ngại, có thể diệt các tội, có
thể dứt các nạn, có thể ngăn các ác, có thể phá đêm dài tối tăm vô-minh, có thể
làm sập đổ lao ngục kiên cố kiến-chấp, có thể thoát khỏi thành sanh tử, có thể
bỏ nhà thế-tục, có thể cắt lưới ma, có thể nhổ tên khổ, có thể lìa chỗ hiểm nạn
vô-trí, có thể ra khỏi đồng hoang rộng lớn tà-kiến, có thể qua khỏi dòng
hữu-lậu, có thể lìa những tà-đạo, có thể chỉ đường bồ-đề, có thể dạy pháp
bồ-tát, có thể khiến an trụ bồ-tát-hạnh, có thể khiến xu-hướng nhất-thiết-trí,
có thể tịnh mắt trí-huệ, có thể lớn tâm bồ-đề, có thể sanh đại-bi, có thể diễn
diệu-hạnh, có thể nói ba-la-mật, có thể tẩn ác tri-thức, có thể khiến trụ các
bậc, có thể khiến được các nhẫn, có thể khiến tu tập các thiện-căn, có thể
khiến thành xong tất cả đạo-cụ, có thể thí cho tất cả công-đức lớn, có thể
khiến đến ngôi nhất-thiết-chủng-trí, có thể khiến hoan hỉ nhóm công-đức, có thể
khiến hớn hở tu các công hạnh, có thể khiến xu-nhập nghĩa thậm-thâm, có thể
khiến khai thị môn xuất ly, có thể khiến trừ tuyệt các ác-đạo, có thể dùng
pháp-quang chiếu diệu, có thể dùng pháp-vũ nhuận trạch, có thể khiến tiêu diệt
tất cả phiền-não, có thể khiến bỏ lìa tất cả kiến chấp, có thể khiến
tăng-trưởng tất cả phật-trí-huệ, có thể khiến an-trụ tất cả phật pháp-môn.
Nầy Thiện-nam-tử!
Thiện-tri-thức như từ-mẫu, vì xuất sanh phật-chủng. Như từ-phụ, vì lợi ích rộng
lớn. Như nhũ-mẫu vì thủ hộ chẳng cho làm ác. Như giáo-sư, vì dạy sở-học của
Bồ-Tát. Như đạo-sư, vì hay chỉ đường ba-la-mật. Như lương-y, vì hay chữa bịnh
phiền-não. Như Tuyết-Sơn, vì tăng-trưởng thuốc nhất-thiết-trí. Như dũng-tướng,
vì dẹp trừ tất cả sự bố-úy. Như người đưa đò, vì làm cho ra khỏi dòng sanh-tử.
Như lái thuyền, vì khiến đến bửu-sở-trí-huệ.
Nầy Thiện-nam-tử! Thường
phải chánh-niệm suy nghĩ thiện-tri-thức là như vậy.
Lại nầy Thiện-nam-tử!
Ngươi kính thờ tất cả thiện-tri-thức phải phát tâm như đại-địa, vì gánh vác
trọng-nhiệm không mỏi nhọc. Phải phát tâm như kim-cang vì chí nguyện kiên-cố
chẳng hư hoại, phải phát tâm như núi Thiết-vi vì tất cả các sự khổ không lay
động. Phải phát tâm như người hầu hạ, vì đều tùy thuận theo lời dạy. Phải phát
tâm như đệ-tử, vì không chống trái lời dạy bảo. Phải phát tâm như tôi tớ, vì
tất cả lao vụ không nhàm. Phải phát tâm như dưỡng-mẫu, vì chịu những sự cần khổ
không biết nhọc. Phải phát tâm như người làm thuê, vì không trái chỗ sai bảo.
Phải phát tâm như người hốt phân, vì lìa kiêu-mạn. Phải phát tâm như cây lúa đã
chín, vì có thể hạ thấp. Phải phát tâm như lương-mã, vì lìa ác-tánh. Phải phát
tâm như xe lớn, vì có thể chở nặng. Phải phát tâm như voi điều thuận, vì hằng
phục tùng. Phải phát tâm như núi Tu-Di, vì chẳng khuynh động. Phải phát tâm như
lương-khuyển, vì chẳng phản hại chủ. Phải phát tâm như chiên-đà-la, vì lìa
kiêu-mạn. Phải phát tâm như kiện-ngưu, vì không hung giận. Phải phát tâm như
ghe thuyền, vì qua lại chẳng mỏi. Phải phát tâm như cầu đò, vì tế độ không biết
nhọc. Phải phát tâm như hiếu-tử, vì thừ thuận nhan sắc. Phải phát tâm như
vương-tử, vì tuân hành giáo-mạng.
Lại nầy Thiện-nam-tử! Với
tự-thân, ngươi phải tưởng là bịnh khổ. Với thiện-tri-thức, ngươi phải tưởng là
y-vương. Với pháp của thiện-tri-thức dạy, ngươi phải tưởng là lương-dược. Với
chỗ tu hành, tưởng trừ được bịnh.
Lại phải ở nơi tự-thân,
tưởng là đi xa. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là đạo-sư. Nơi pháp của
thiện-tri-thức dạy, tưởng là con đường chánh. Nọi chỗ tu hành, tưởng là đến
được xa.
Lại phải ở nơi tự thân,
tưởng cầu được độ. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là người lái thuyền. Nơi pháp của
thiện-tri-thức dạy, tưởng là thuyền, là chèo. Nơi chỗ tu hành, tưởng là đến bờ
kia.
Lại phải ở nơi tự-thân,
tưởng là lúa mạ. Nơi thiện-tri-thức tưởng là Long-Vương. Nơi pháp của
thiện-tri-thức dạy, tưởng là mưa đúng thời tiết. Nơi chỗ tu hành tưởng là có
thể thành thục.
Lại phải ở nơi tự-thân,
tưởng là nghèo cùng. Nơi thiện-tri-thức tưởng là Tỳ-Sa-Môn Thiên-Vương. Nơi
pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là của cải châu báu. Nơi chỗ tu hành, tưởng
là giàu có.
Lại phải ở nơi tự-thân,
tưởng là đệ-tử. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là thợ khéo. Nơi pháp của
thiện-tri-thức dạy, tưởng là nghề khéo. Nơi chỗ tu hành, tưởng là biết rõ.
Lại phải ở nơi tự-thân,
tưởng là chỗ đáng sợ hãi. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là người dũng kiện. Nơi
pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là dao gậy. Nơi chỗ tu hành, tưởng là dẹp
trừ được kẻ oán địch.
Lại phải ở nơi tự-thân,
tưởng là người đi buôn. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là đạo-sư. Nơi pháp của
thiện-tri-thức dạy, tưởng là trân-bửu. Nơi chỗ tu hành, tưởng là lượm châu báu.
Lại phải ở nơi tự-thân,
tưởng là con cái. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là cha mẹ. Nơi pháp của
thiện-tri-thức dạy, tưởng là gia nghiệp. Nơi chỗ tu hành, tưởng là nối nghiệp
nhà.
Lại phải ở nơi tự-thân,
tưởng là vương-tử. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là đại-thần. Nơi pháp của
thiện-tri-thức dạy, tưởng là lịnh của vua. Nơi chỗ tu hành, tưởng là đội mão
vua, mặc áo vua, cột đai vua, ngồi điện vua.
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi
phải phát tâm như vậy, suy nghĩ như vậy để gần thiện-tri-thức.
Tại sao vậy? Vì có tâm như
vậy để gần thiện-tri-thức thời chí nguyện trọn được thanh-tịnh.
Lại nầy Thiện-nam-tử!
Thiện-tri-thức làm lớn các thiện-căn, như núi Tuyết sanh lớn các dược-thảo.
Thiện-tri-thức là pháp-khí
của Phật, như đại-hải nhận thọ các dòng nước.
Thiện-tri-thức là chỗ
công-đức, như đại-hải xuất sanh các châu báu.
Thiện-tri-thức thanh-tịnh
tâm bồ-đề, như lửa hừng luyện chơn-kim.
Thiện-tri-thức vượt hơn
thế-pháp như núi Tu-Di vọt lên mặt đại-hải.
Thiện-tri-thức chẳng nhiễm
thế-pháp, như hoa sen chẳng dính nước.
Thiện-tri-thức chẳng thọ
các điều ác, như đại-hải chẳng chứa tử-thi.
Thiện-tri-thức tăng trưởng
pháp lành, như trăng tròn quang sắc viên-mãn.
Thiện-tri-thức soi sáng
pháp-giới, như mặt nhựt chiếu khắp thế-gian.
Thiện-tri-thức làm lớn
thân Bồ-Tát, như cha mẹ nuôi nấng con cái.
Nầy Thiện-nam-tử! Tóm lại,
Bồ-Tát nếu có thể tùy thuận lời dạy của thiện-tri-thức, thời được mười
bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha công-đức, thời thanh-tịnh mười
bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha thâm-tâm, thời lớn mười bất-khả-thuyết
trăm ngàn ức na-no-tha bồ-tát-căn, thời thành mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức
na-do-tha bồ-tát lực, thời dứt mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức
a-tăng-kỳ-chướng, thời siêu mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức a-tăng-kỳ ma-cảnh,
thời nhập mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức a-tăng-kỳ pháp-môn, thời mãn mười
bất-khả-thuyết trăm ngàn ức a-tăng-kỳ trợ-đạo, thời tu mười bất-khả-thuyết trăm
ngàn ức a-tăng-kỳ diệu-hạnh, thời phát mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức
a-tăng-kỳ đại-nguyện.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta lại
lược nói bồ-tát-hạnh, tất cả bồ-tát ba-la-mật, tất cả bồ-tát địa, tất cả
bồ-tát-nhẫn, tất cả bồ-tát tổng-trì-môn, tất cả bồ-tát tam-muội-môn, tất cả
bồ-tát thần-thông-trí, tất cả bồ-tát hồi-hướng, tất cả bồ-tát nguyện, tất cả
bồ-tát thành-tựu phật-pháp, đều do sức của thiện-tri-thức. Ðều dùng
thiện-tri-thức làm căn-bổn. Ðều nương thiện-tri-thức mà sanh. Ðều nương
thiện-tri-thức mà ra. Ðều nương thiện-tri-thức mà lớn. Ðều nương thiện-tri-thức
mà trụ. Ðều do thiện-tri-thức làm nhân-duyên. Ðều do thiện-tri-thức hay phát
khởi.
Bấy giờ Thiện-Tài Ðồng-Tử
nghe thiện-tri-thức có công-đức như vậy, có thể khai-thị vô-lượng diệu-hạnh
bồ-tát, có thể thành-tựu phật-pháp quảng đại, nên vui mừng hớn hở đảnh lễ
Ðức-Sanh và Hữu-Ðức, hữu-nhiễu vô-số vòng, ân cần chiêm-ngưỡng từ tạ đi qua
phương nam.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
24 tháng 06, 1990
VÀ ĐỒNG NỮ HỮU ÐỨC
Nầy Thiện-nam-tử! Huyễn-cảnh tự-tánh bất-tư-nghì.
Chúng ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT HUYỄN TRỤ”nầy.
KINH:
Này thiện nam tử, phương nam đây có thành tên là Diệu Ý Hoa Môn…
GIẢNG: “Gặp người
Thiên Nữ thần thông, Tung hoa diệu ý toại lòng sót thương.”
“Diệu
Ý Hoa Môn” môn là cái cửa,
trong cửa ấy có một đóa hoa, đóa hoa ấy là đóa hoa Diệu Ý. Diệu là tượng trưng
cho bi, diệu hạnh. Ý là tượng trưng cho trí, bát nhã. Trong sự tu hành của vị
thiện tri thức này, đã đến diệu ý hoa môn ấy, bi trí của ngài kết lẫn với nhau,
nở ra đóa hoa có thể tạo bất cứ thứ gì. Từ chúng sanh, khí thế giới, các cõi
v.v… vì cái đó là diệu ý hoa môn.
KINH:
Có đồng tử tên là Đức Sanh, có đồng nữ tên là Hữu Đức…
GIẢNG: Ý muốn nói
đến Bát nhã và đại bi. Như tôi đã nói với quí vị nhiều lần, trong kinh bao giờ
cũng có hai nghĩa, là có vị Đồng tử thật tên Đức Sanh, và đồng nữ là Hữu Đức,
nhưng nghĩa tượng trưng thì vị đồng tử Đức Sanh là Trí, và vị Đồng nữ Hữu Đức
kia là Bi. Ta luôn nhớ rằng giữa pháp giới bên ngoài (y báo) và cái báo thân
này (chánh báo) bao giờ cũng hết sức tương Ưng. Bên trong có những chủng tử khởi
lên tâm niệm gì thì bên ngoài cũng có những vật tương Ưng. Đó là điểm rất sâu của
đạo Phật. Như trong thân từ vô lượng kiếp có chủng tử tham chẳng hạn, thì khi
chín mùi, ngoài kia lập tức có nhân duyên tới ngay. Nên nếu chuyển được những
chủng tử trong A Lại Da thức, thì tất cả y báo bên ngoài cũng chuyển theo. Như
trong kinh Kim Cang nói, phải độ tất cả chúng sanh mà không có chúng sanh nào
được độ. Nếu chỉ nói rằng, những chúng sanh ấy là những tâm tướng, chỉ cần bặt
những tâm tưởng ấy đi, thì chỉ nói được mặt nội tâm của chúng ta thôi, mà không
nói đến điểm nội tâm ấy lại tương Ưng với pháp giới, trong này nó là tâm tưởng,
nhưng ngoài kia là những chúng sanh thực. Tâm như cái gương soi, bên trong có
cái gì, thì thế gian hiện lên rõ cái đó. Tỉ dụ như nghiệp đời trước có làm mù mắt
một người nào, thì bên ngoài pháp giới sẽ có một ngoại duyên nào đó nổi lên làm
cho mình mù mắt. Hiểu như thế thì chúng ta mới biết sợ nhân quả.
KINH:
Thiện Tài đi lần đến thành Diệu Ý Hoa Môn, đảnh lễ đồng tử Đức Sanh và đồng nữ
Hữu Đức, hữu nhiễu cung kính chắp tay bạch rằng. Bạch đức thánh, tôi đã
phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào
tu Bồ Tát đạo. Xin đức thánh từ mẫn chỉ dạy.
GIẢNG: Đáng lý ở
đây, Thiện Tài phải bạch hai đức thánh, nhưng ngài chỉ nói “Bạch đức thánh”
thôi, thì cái đó chỉ cho sự phối hợp viên mãn giữa Bi và Trí.
KINH:
Đức Sanh và Hữu Đức nói, này thiện nam tử, chúng ta chứhg được bồ tát giải
thoát tên là huyễn trụ.
GIẢNG: Cả hai vị
cùng nói đến môn giải thoát cuối cùng chỉ là huyễn trụ mà thôi, không có gì
khác cả. Ở đây, có một điểm tôi cần nhắcquívị. Thườngthường người ta nói đạo Phật
là đạo nói về lý nhân duyên, thì cũng đúng. Nhưng lý nhân duyên chỉ nói đến một
mức độ còn thấp thôi, vì cái cửa đầu đi vào Không hải là quán vô thường, xong rồi
quán nhân duyên, lên đến cùng là phải quán như huyễn. Nên trong kinh Hoa Nghiêm
mới nói rằng: “Tất cả các pháp đều là duyên khởi. Tất cả các pháp đều
là như huyễn. Tất cả các pháp đều Như Như. Tất cả các pháp đều là Tịch Tĩnh.” Nên
giáo lý nhân duyên chưa phải là giáo lý tột cùng của đạo Phật. Và tột cao là ở
chỗ “ảnh hiện,” khi tâm chúng sanh động thế nào, thì chiêu cảm
pháp giới hiện ra như vậy, vì vậy mới gọi là ảnh hiện, là như huyễn.
KINH:
Vì được môn giải thoát này nên thấy: Tất cả thế giới đều là huyễn trụ do nhân
duyên mà sanh khởi.
GIẢNG: Chúng ta
thường nghe thuyết nhân duyên rồi, là tất cả các vi trần tụ lại thành một cõi,
vì thế trong kinh Kim Cang nói rằng, cõi chẳng thật là cõi, chỉ tạm gọi là cõi
thôi. Vi trần cũng chẳng phải là vi trần chỉ tạm gọi là vi trần thôi. Trong Bát
Nhã nói đến pháp hiệp và pháp tan, khi nào nó hiệp lại thì thành cõi, khi nó
tan ra thì thành vi trần. Do đó không có gì gọi là thực có, vì hiệp lại thành
ra cái này, tan ra thì thành cái khác.
KINH:
Tất cả chúng sanh đều là huyễn trụ do nghiệp phiền não mà khởi.
GIẢNG: Chúng sanh
và mình đều là huyễn trụ cả, vì sao? Vì do nghiệp dẫn dắt, phiền
não khởi lên theo lối thập nhị nhân duyên. Trước hết là vô minh, đó là cái niệm
mê mờ từ vô thỉ, vì vốn là một biển uyên nguyên, tự nhiên muốn tách ra. Đó là
vô minh khởi lên. Vô minh ấy duyên thành hành, lúc đó khi đã tách ra rồi thì tự
nghĩ là có một cái gì cách biệt với cái kia, và muốn chiếu soi, do đó tạo nên
hành nghiệp. Từ hành ấy tạo ra thức, lúc đó có sự phân biệt, có-ta, có người,
nên thức đó tạo nên cái danh sắc. Khi có danh sắc thì chui vào bào thai,lúc ra
thì có cái thân. Vì thế, nhân có danh sắc mới có lục nhập. Lục nhập là mắt đối
với cảnh, tai. đối với thanh v.v… Lục nhập hoạt động tạo ra xúc, và có cảm
giác. Vì có cảm giác nên có sự thọ, cảm thây thích thú, sinh ra yêu (ái), ghét
(ố) v.v… Từ cái ái sinh ra thủ, muốn nắm giữ, rồi chấp cái đó là có thật. Nên
sinh ra hữu, từ hữu đó đưa chúng sanh luân chuyển, thành sanh, lão, tử v.v…
KINH:
Tất cả thế gian đều là huyễn trụ do vô minh, hũti, ái xoay vần làm duyên sanh
khởi. Tất cả pháp đều là huyễn trụ, do nhữhg huyễn duyên, ngã kiến v.v…
GIẢNG: Khi vô minh
khởi lên, chia thành có ta và phi ta, nên khởi nên có ngã. Từ cái có ngã ấy,
thành phân biệt có vô lượng pháp.
KINH:
Tất cả tam thế đều là huyễn trụ, do những điên đảo trí ngã kiến v.v… sanh
khởi.
GIẢNG: Tất cả tam
thế là quá khứ, hiện tại, vị lại tức là thời gian. Nên thời gian cũng là vọng
tưởng huyễn trụ, do những điên đảo trí và ngã kiến v.v… sanh khởi. Vì sao? Vì
khi chúng ta chấp có ta, thì phải đặt cho nó ở một xứ sở nhất định, nên mới
phân biệtoca, gần, đây, kiav.v… dần dần tạo nên có vọng tưởng về không gian. Rồi
khi gặp một pháp nghe qua thấy thích, nghe xong thì nó đã qua mất rồi, vì có
cái ngã bập bềnh giao động, nên điên đảo nghĩ lầm rằng có sự việc đã qua và có
sự việc sẽ tới, vì vậy dệt nên vọng tưởng thời gian. “Trí điên đảo” là
những gì là vô thường thì chúng sanh cho là thường, những gì là phi thời gian
thì chúng sanh cho là có thời gian.
KINH:
Tất cả chúng sanh sanh, diệt, sanh lão bệnh tử, uli bi khổ não đều là huyễn trụ,
do hư vọng phân biệt sanh khởi.
GIẢNG: Vì chúng
sanh phân biệt lâu từ thời vô thủy nên thấy rằpg có Ưu bi khổ não thật, có sanh
lão bệnh tử thật, nhưng chính ra đều là hư vọng cả, vì các pháp vốn tịch tĩnh,
như như, và tâm chúng sanh luôn luôn lại bập bềnh giao động.
KINH:
Tất cả quốc độ đều huyễn trụ, do tưởng đảo, tâm đảo, kiến đảo và vô minh hiện
khởi.
GIẢNG: Ngay cả vũ
trụ này, cõi này, trái đất và thái dương hệ này cũng la huyễn trụ, vì do tưởng
đảo điên nghĩ sai lầm là có. Như trong kinh Kim Cang đức Phật dạy, vi trần chẳng
phải là vi trần, chỉ tạm gọi là vi trần thôi, vì từ vô lượng kiếp, chúng sanh cứ
nghĩ rằng hạt cát là nhỏ, so với những cái khác thì nhỏ, nên đặt tên cho nó là
vi trần, chứ kỳ thật nó cũng chẳng phải là vi trần, vì trong đó có vô lượng
cõi. Và những cõi kia, cũng chẳng phải là cõi, chúng sanh từ vô lượng kiếp cứ
chấp đó là cõi, nhưng một vị Đại Bồ Tát có thể cầm nhiều cõi trong bàn tay… Kiến
đảo là những gì chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, chẳng phải lai, chẳng phải khứ,
chẳng phải một, chẳng phải khác v.v… Nhưng chúng sanh chấp là có sanh, có diệt,
có thường, có đoạn, có lai, có khứ v.v…, pháp này đến xong lại đi v.v… Nhưng
chính thực nó không đến cũng không đi. Chỉ vì tâm thức chúng sanh bập bềnh giao
động thế nào thì nó hiện lên như vậy, mà khi nó biến đi cũng chẳng đi đâu. Tâm
đảo điên và vô minh hiện khởi ra thành như vậy.
KINH:
Tất cả Thanh Văn và Bích Chi Phật đều là huyễn trụ, do trí đoạn phân biệt mà
thành.
GIẢNG: Ngay cả
hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật cũng là huyễn trụ. Vì do tâm yêu thích Niết Bàn
và chán sinh tử mà thành ra như vậy.
KINH:
Tất cả Bồ Tát đều là huyễn trụ, do những hạnh nguyện hay tự điều phục và
giáo hóa chúng sanh mà thành.
GIẢNG: Trong kinh thường nói, Bồ Tát cũng là mộng, Chư Phật cũng là mộng, Bồ Tát cũng chỉ tu trong mộng mà thôi, tất cả những hạnh đều như mơ, như tia nắng quải, đều như ảo ảnh. Nên Bồ Tát cần làm mọi thứ hạnh mà không nghĩ rằng mình là Bồ Tát. Đạo Phật là đi ngược dòng sanh tử, nên tất cả những đạo sư nào ngồi yên hý hửng để cho các đệ tử lễ lạy sì sụp, hay vỗ ngực tự xưng mình đắc thế này, thế nọ v.v… thì dù các ông ây có nói thiên kinh, vạn quyển thì cũng đều là tà sư cả. Nhưng cũng có những vị Sư nhận lễ của tứ chúng không phải vì tâm vênh vang, mà vì tâm muốn gây thiện căn, muốn gieo trồng thêm phước đức và tín căn của phật tử, nên một đôi khi cũng rất khó phân biệt. Vì vậy, muốn phân biệt dễ nhất là chúng ta nên nhìn xem vị đạo sư ấy có nhiều ngã hay không, có hay khoe mình không, có sự từ bi và có sự hỉ xả không?
Comments
Post a Comment