ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
36.- DẠ THẦN THỦ HỘ NHẤT THIẾT THÀNH
Nầy
thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT THẬM THÂM TỰ TẠI DIỆU ÂM” nầy, làm cho các thế gian rời hí-luận-ngữ,
chẳng nói nhị-ngữ, thường chơn-thiệt-ngữ, hằng thanh-tịnh-ngữ.
Thiện-Tài tùy thuận lời dạy của Chủ-Dạ-Thần Tịch-Tịnh-Ấm-Hải,
quán-sát pháp-môn của Dạ-Thần vừa nói mỗi câu mỗi chữ đều không quên sót.
Nơi vô-lượng thâm-tâm, vô-lượng pháp-tánh, tất cả phương-tiện,
thần-thông trí-huệ, nghĩ nhớ suy chọn tiếp nối không dứt, tâm niệm quảng đại
chứng nhận an-trụ.
Thiện-Tài đi đến chỗ DẠ
THẦN THỦ HỘ NHẤT THIẾT THÀNH.
Thấy Dạ-Thần nầy ngồi trên tòa sư-tử
nhất-thiết-bửu-quang-minh-ma-ni-vương, vô-số Dạ-Thần vây quanh, hiện thân
nhứt-thiết-chúng-sanh-sắc-tướng, hiện thân đối khắp tất cả chúng-sanh, hiện
thân chẳng nhiễm tất cả thế-gian, hiện thân số bằng tất cả chúng-sanh, hiện
thân siêu quá tất cả thế-gian, hiện thân thành thục tất cả chúng-sanh, hiện
thân mau đến tất cả mười phương, hiện thân nhiếp khắp tất cả mười phương, hiện
thân rốt ráo như-lai thể tánh, hiện thân rốt ráo điều-phục chúng-sanh.
Thiện-Tài xem thấy hớn hở vui mừng đảnh lễ nơi chân Dạ-thần,
hữu-nhiễu vô-lượng vòng, chắp tay cung kính mà thưa rằng :
Bạch đức thánh ! Tôi đã phát tâm vô-thượng-bồ-đề, mà chưa biết
Bồ-Tát lúc tu bồ-tát-hạnh thế nào lợi ích chúng-sanh, thế nào dùng pháp nhiếp
vô-thượng để nhiếp chúng-sanh, thế nào thuận theo lời dạy của Phật, thế nào gần
ngôi Pháp-Vương ?
Ngưỡng mong từ mẫn tuyên nói cho.
Dạ-Thần nói :
Nầy Thiện-nam-tử ! Ngươi vì cứu hộ tất cả chúng-sanh, vì
nghiêm-tịnh tất cả phật-độ, vì cúng-dường tất cả Như-Lai, vì muốn trụ tất cả
kiếp để cứu chúng-sanh, vì muốn giữ-gìn tất cả phật-chủng, vì muốn vào khắp
mười phương để tu những công-hạnh, vì muốn vào khắp tất cả pháp-môn-hải, vì
muốn dùng tâm bình-đẳng khắp tất cả, vì muốn thọ khắp tất cả phật-pháp, vì muốn
tùy khắp sở-thích của tất cả chúng-sanh mà mưa pháp-vũ, nên ngươi hỏi pháp-môn
của Bồ-Tát tu hành.
Nầy thiện-nam-tử ! Ta được môn giải-thoát bồ-tát thậm thâm
tự-tại diệu-âm. Làm Đại-Pháp-Sư không còn chướng-ngại, vì có thể khéo khai thị
pháp-tạng của chư Phật. Đủ thệ nguyện lớn, sức đại từ-bi, vì làm cho tất cả
chúng-sanh an trụ tâm bồ-đề. Có thể làm tất cả sự lợi cho chúng-sanh, vì chứa
nhóm thiện-căn không thôi nghỉ. Làm Điều-Ngự-Sư cho tất cả chúng-sanh, vì khiến
tất cả chúng-sanh an trụ đạo nhất-thiết-trí. Làm pháp-nhật thanh-tịnh cho tất
cả thế-gian, vì chiếu khắp thế-gian khiến sanh căn lành. Tâm bình-đẳng với tất
cả thế gian, vì khắp làm cho chúng-sanh tăng-trưởng pháp lành. Tâm thanh-tịnh
nơi tất cả cảnh giới vì trừ diệt tất cả nghiệp bất-thiện. Thệ nguyện lợi ích
tất cả chúng-sanh, vì thân hằng hiện khắp tất cả quốc độ. Thị-hiện tất cả
bổn-sự nhơn duyên, vì làm cho các chúng-sanh an-trụ hạnh lành. Hằng thờ tất cả
thiện-tri-thức, vì khiến chúng-sanh an-trụ phật pháp.
Nầy thiện-nam-tử ! Ta dùng pháp-thí ban bố cho chúng-sanh,
khiến họ sanh bạch-pháp cầu nhất-thiết-trí. Tâm được kiên cố như kim-cang
na-la-diên tạng, hay quán-sát phật-lực, ma-lực, thường được gần-gũi
thiện-tri-thức, dẹp phá tất cả núi hoặc nghiệp chướng, họp pháp trợ-đạo
nhất-thiết-trí, tâm hằng chẳng bỏ bậc nhất-thiết-trí.
Nầy thiện-nam-tử ! Ta dùng tịnh-pháp quang-minh như vậy để lợi
ích tất cả chúng-sanh. Lúc nhóm pháp trợ-đạo thiện-căn, khởi mười thứ quán-sát
pháp-giới :
Một là ta biết pháp-giới vô-lượng, vì chứng được trí
quang-minh quảng đại.
Hai là ta biết pháp-giới vô-biên, vì thấy chỗ thấy biết của
tất cả Phật.
Ba là ta biết pháp-giới vô-hạn, vì vào khắp tất cả phật-độ
cung kính cúng-dường chư Như-Lai.
Bốn là ta biết pháp-giới không mé, vì thị-hiện tu hành bồ-tát
hạnh khắp trong tất cả thế-giới-hải.
Năm là ta biết pháp-giới không dứt, vì nhập nơi trí bất-đoạn
của Như-Lai.
Sáu là ta biết pháp-giới một tánh vì Như-Lai một âm-thanh mà
tất cả chúng-sanh đều rõ biết.
Bảy là ta biết pháp-giới tánh-tịnh, vì rõ Như-Lai nguyện độ
khắp tất cả chúng-sanh.
Tám là ta biết pháp-giới khắp chúng-sanh, vì diệu-hạnh
Phổ-Hiền đều cùng khắp.
Chín là ta biết pháp-giới một trang-nghiêm, vì diệu hạnh
Phổ-Hiền khéo trang-nghiêm.
Mười là ta biết pháp-giới chẳng thể hư hoại, vì thiện-căn
nhất-thiết-trí sung-mãn pháp-giới chẳng thể hoại.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ta khởi mười thứ quán-sát pháp-giới trên
đây để nhóm họp những thiện-căn, hoàn tất pháp trợ-đạo, biết rõ oai-đức
quảng-đại của chư Phật, thâm-nhập cảnh-giới nan tư của Như-Lai.
Lại nầy Thiện-nam-tử ! Ta chánh niệm tư-duy như vậy, được
Như-Lai mười môn đại-oai-đức đà-la-ni-luân.
Những là : đà-la-ni-luân vào khắp tất cả pháp.
Đà-la-ni-luân trì khắp tất cả pháp.
Đà-la-ni-luân nói khắp tất cả pháp.
Đà-la-ni-luân niệm khắp tất cả Phật mười phương.
Đà-la-ni-luân nói khắp danh hiệu của tất cả Phật.
Đà-la-ni-luân vào khắp nguyện-hải của tam thế Phật.
Đà-la-ni-luân vào khắp tất cả những thừa-hải.
Đà-la-ni-luân nhập khắp tất cả chúng-sanh nghiệp-hải.
Đà-la-ni-luân mau chuyển tất cả nghiệp.
Đà-la-ni-luân mau sanh nhất-thiết-trí.
Nầy Thiện-nam-tử ! Mười đà-la-ni-luân này dùng mười ngàn
đà-la-ni-luân làm quyến-thuộc, hằng vì chúng-sanh diễn nói diệu-pháp.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ta vì chúng-sanh hoặc nói văn-huệ-pháp,
tư-huệ-pháp, tu-huệ-pháp. Hoặc nói một hữu-pháp, hoặc nói tất cả hữu-pháp. Hoặc
vì họ mà nói danh-hải-pháp của một Như-Lai. Hoặc nói danh-hải-pháp của tất cả
Như-Lai. Hoặc vì họ mà nói một thế-giới-hải-pháp. Hoặc nói tất cả
thế-giới-hải-pháp. Hoặc nói một Phật thọ ký-hải-pháp. Hoặc nói tất cả Phật
thọ-ký-hải-pháp. Hoặc nói chúng-hội đạo-tràng-hải-pháp của một Như-Lai. Hoặc
nói chúng hội đạo-tràng của tất cả Như-Lai. Hoặc vì họ mà nói
pháp-luân-hải-pháp của một Như-Lai. Hoặc nói pháp-luân-hải-pháp của tất cả
Như-Lai. Hoặc nói tu-đa-la-pháp của một Như-Lai. Hoặc nói tu-đa-la-pháp của tất
cả Như-Lai. Hoặc nói tập-hội-pháp của một Như-Lai. Hoặc nói tập-hội-pháp của
tất cả Như-Lai. Hoặc nói tâm-hải-pháp của một trí. Hoặc nói tâm-hải-pháp của
nhất-thiết-trí. Hoặc nói pháp xuất-ly của một thừa. Hoặc nói xuất-ly-pháp của
tất cả thừa. Ta vì chúng-sanh mà nói bất-khả-thuyết pháp-môn như vậy.
Nầy thiện-nam-tử ! Ta nhập Như-Lai vô-sai-biệt
pháp-giới-môn-hải, nói pháp vô-thượng nhiếp khắp chúng-sanh, tận vị-lai kiếp
trụ hạnh phổ-hiền.
Nầy thiện-nam-tử ! Ta thành-tựu môn giải-thoát thậm-thâm
tự-tại diệu-âm nầy, ở trong mỗi niệm tăng trưởng tất cả những môn giải-thoát,
niệm niệm sung mãn tất cả pháp-giới.
Thiện-Tài thưa :
Lạ lùng thay, bạch đức thánh ! Môn giải-thoát nầy hi-hữu như
vậy Đức thánh chứng được đã bao lâu ?
Dạ-Thần nói :
Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa, quá thế-giới-chuyển vi-trần số
kiếp có kiếp tên là Ly-Cấu-Quang-Minh, có thế-giới tên là Công-Đức-Vân, thể
chất bằng hiện-nhất-thiết-chúng-sanh nghiệp-ma-ni-vương-hải, hình như liên-hoa,
trụ trong tứ-thiên-hạ vi-trần-số hương-ma-ni tu-di-sơn-võng, trang-nghiêm với
xuất-nhất-thiết-như-lai bổn-nguyện-âm liên-hoa, tu-di-sơn vi-trần-số liên-hoa
làm quyến-thuộc, xen lẫn với tu-di-sơn vi-trần-số hương-ma-ni. Thế-giới đó có
tu-di-sơn vi-trần tứ-thiên hạ. Mỗi tứ-thiên-hạ có trăm ngàn ức na-do-tha
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thành.
Trong đó có một tứ-thiên-hạ tên là Diệu-Tràng, có Vương-Đô tên
là Phổ-Bửu-Hoa-Quang. Cách không xa có Bồ-Đề tràng tên là
Phổ-Hiển-Hiện-Pháp-Vương-Cung-Điện. Tu-di-sơn vi-trần-số Như-Lai xuất hiện
trong đó. Tối-sơ Phật hiệu là Pháp-Hải-Lôi-Ấm-Quang-Minh-Vương.
Lúc đức Phật đó xuất thế có Chuyển-Luân-Vương tên là
Thanh-Tịnh-Nhựt-Quang-Minh-Diện, Thọ trì tất cả phát-hải-triền tu-đa-la của
Phật.
Sau khi đức Phật nhập niết-bàn, nhà vua xuất gia hộ-trì
chánh-pháp.
Lúc pháp sắp diệt có ngàn bộ dị-chúng thuyết-pháp ngàn thứ.
Gần lúc mạt-kiếp nghiệp hoặc chướng nặng, các ác Tỳ-Kheo nhiều
sự đấu tranh, thích chấp cảnh-giới chẳng cầu công-đức. Thích nói vương-luận,
tặc-luận, nữ-luận, quốc-luận, hải-luận, nhẫn đến tất cả thế-gian-luận.
Lúc đó Vương Tỳ-Kheo bảo họ rằng : Lạ thay khổ thay, đức Phật
trong vô-lượng kiếp-hải chứa nhóm ngọn đuốc pháp nầy sao các người lại cùng
nhau hủy diệt.
Nói xong, Vương Tỳ-Kheo bay lên hư-không cao bảy cây đa-la,
thân phóng ra vô-lượng những mây màu sáng, những lưới đại quang-minh nhiều màu,
làm cho vô-lượng chúng-sanh trừ nóng phiền-não, làm cho vô-lượng chúng-sanh
phát tâm bồ-đề. Nhờ nhân duyên nầy nên giáo-pháp của Như-Lai được hưng thạnh
thêm sáu vạn năm ngàn năm.
Lúc đó có Tỳ-Kheo-Ni tên là Pháp-Luân-Hóa-Quang, vốn là con
gái của Chuyển-Luân-Vương, trăm ngàn Tỳ-Kheo-Ni làm quyến thuộc, nghe lời-nói
của Phụ-vương và thấy thần-lực, liền phát tâm bồ-đề không thối-chuyển, được
tam-muội tên là nhất-thiết-phật-giáo-đăng, lại được môn giải-thoát thậm-thâm
tự-tại diệu-âm này, thân tâm nhu-nhuyến, liền được thấy tất cả thần-lực của đức
Pháp-Hải-Lôi Ấm Quang-Minh Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử ! Chuyển-Luân-Vương Tỳ-Kheo xưa kia chính là
Phổ-Hiền Bồ-Tát, Vương-Nữ Tỳ-Kheo-Ni chính là ta.
Thuở ấy ta thủ-hộ phật-pháp làm cho mười vạn Tỳ-Kheo-Ni được
chẳng thối-chuyển nơi vô-thượng bồ-đề, lại được hiện thấy tất cả phật tam-muội,
lại được tất cả phật pháp-luân kim-cang quang-minh đà-la-ni, lại được bát-nhã
ba-la-mật vào khắp tất cả pháp-môn-hải.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Ly-Cấu-Pháp-Quang-Minh.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Luân-Quang-Minh-Kế.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Nhật-Công-Đức-Vân.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Hải-Diệu-Ấm-Vương.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Nhật-Thí-Huệ-Đăng.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Hoa-Tràng-Vân.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Diệm-Sơn-Tràng-Vương.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Thậm-Thâm Pháp-Công-Đức-Nguyệt.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Trí-Phổ-Quang-Tạng.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Khai-Thị-Phổ-Trí-Tạng.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Công-Đức-Tạng-Sơn-Vương.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Phổ-Môn-Tu-Di-Hiền.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Nhất-thiết-Pháp-Tinh-Tấn-Tràng.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Phát Bửu-Hoa-Công-Đức-Vân.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Tịch-Tịnh-Quang-Minh-Kế.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Pháp-Quang-Minh-Từ-Bi-Nguyệt.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Công-Đức-Diệm-Hải.
Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Trí-Nhựt-Phổ-Quang-Minh.
Kế đó có chư Phật đây thứ đệ nối tiếp xuất thế:
Phổ-Hiền-Viên-Mãn-Trí Phật. Thần-Thông-Trí-Quang-Vương Phật.
Phước-Đức-Hoa-Quang-Đăng Phật. Trí-Sư-Tử-Tràng-Vương Phật.
Nhật-Quang-Phổ-Chiếu-Vương Phật. Tu-Di-Bửu-Trang-Nghiêm-Tướng Phật, Nhật-Quang-Phổ-Chiếu
Phật. Pháp-Vương-Công-Đức-Nguyệt Phật. Khai-Phu-Liên-Hoa-Diệu-Ấm-Vân Phật.
Nhựt-Quang-Minh-Tướng Phật. Phổ-Quang-Minh-Pháp-Ấm Phật.
Sư-Tử-Kim-Cang-Na-La-Diên-Vô-Úy Phật. Phổ-Trí-Dũng-Mãnh-Tràng Phật. Phổ
Khai-Pháp-Liên-Hoa-Thân Phật. Công-Đức-Diệu-Hoa-Hải Phật.
Đạo-Tràng-Công-Đức-Nguyệt Phật. Pháp-Cự-Xí-Nhiên-Nguyệt Phật. Phổ-Quang-Minh-Kế
Phật. Pháp-Tràng-Đăng Phật. Kim-Cang-Hải-Tràng-Vân Phật.
Danh-Xưng-Sơn-Công-Đức-Vân Phật. Chiên-Đàn-Diệu-Nguyệt Phật.
Phổ-Diệu-Quang-Minh-Hoa Phật. Chiếu-Nhất-Thiết-Chúng-Sanh-Quang-Minh-Vương
Phật. Công-Đức-Liên-Hoa-Tạng Phật. Hương-Diệm-Quang-Minh-Vương Phật.
Ba-Đầu-Ma-Hoa-Nhơn Phật. Chúng-Tướng-Sơn-Phổ-Quang-Minh Phật.
Phổ-Danh-Xưng-Tràng Phật. Tu-Di-Phổ-Môn-Quang Phật. Công-Đức-Pháp-Thành-Quang
Phật. Đại-Thọ-Sơn-Quang-Minh Phật. Phổ-Đức-Quang-Minh-Tràng Phật.
Công-Đức-Kiết-Tường-Tướng Phật. Dũng-Mãnh-Pháp-Lực-Tràng Phật.
Pháp-Luân-Quang-Minh-Ấm Phật. Công-Đức-Sơn-Trí-Huệ-Quang Phật.
Vô-Thượng-Diệu-Pháp-Nguyệt Phật. Pháp-Liên-Hoa-Tịnh-Quang-Tràng Phật. Bửu-Liên-Hoa-Quang-Minh-Tạng
Phật. Quang-Diệm-Vân-Sơn-Đăng Phật. Phổ-Giác-Hoa Phật.
Chủng-Chủng-Công-Đức-Diệm-Tu-Di-Tạng Phật. Viên-Mãn-Quang-Sơn-Vương Phật.
Phước-Đức-Vân-Trang-Nghiêm Phật. Pháp-Sơn-Vân-Tràng Phật.
Công-Đức-Sơn-Quang-Minh Phật. Pháp-Nhựt-Vân-Đăng-Vương Phật.
Pháp-Vân-Danh-Xưng-Vương Phật. Pháp-Luân-Vân Phật.
Khai-Ngộ-Bồ-Đề-Trí-Quang-Tràng Phật. Phổ-Chiếu-Pháp-Luân-Nguyệt Phật.
Bửu-Sơn-Oai-Đức-Hiền Phật. Hiền-Đức-Quảng-Đại-Quang Phật. Phổ-Trí-Vân Phật.
Pháp-Lực-Công-Đức-Sơn Phật. Công-Đức-Hương-Diệm-Vương Phật. Kim-Sắc
Ma-Ni-Sơn-Diệu-Ấm-Thanh Phật. Đảnh-Kế-Xuất-Nhất-Thiết-Pháp-Quang-Minh-Vân Phật.
Pháp-Luân-Xí-Thạnh-Quang Phật. Vô-Thượng-Công-Đức-Sơn Phật.
Tinh-Tấn-Cự-Quang-Minh-Vân Phật. Tam-Muội-Ần-Quang-Đại-Quang-Minh-Quang Phật.
Bửu-Quang-Minh-Công-Đức-Vương Phật. Pháp-Cự-Bửu-Cái-Ấm Phật.
Phổ-Chiếu-Hư-Không-Giới-Vô-Úy-Pháp-Quang-Minh Phật.
Nguyệt-Tướng-Trang-Nghiêm-Tràng Phật. Quang-Minh-Diệm-Sơn-Vân Phật.
Chiếu-Vô-Chướng-Ngại-Pháp-Hư-Không Phật. Khai-Hiển-Trí-Quang Thân Phật.
Thế-Chủ-Đức-Quang-Minh-Ấm Phật. Nhứt-Thiết-Pháp-Tam-Muội-Quang-Minh-Ấm Phật.
Pháp-Ấm-Công-Đức-Tạng Phật. Xí-Nhiên-Diệm-Pháp-Hải-Vân Phật.
Phổ-Chiếu-Tam-Thế-Tướng-Đại-Quang-Minh Phật. Phổ-Chiếu-Pháp-Luân-Sơn Phật.
Pháp-Giới-Sư-Tử-Quang Phật. Tu-Di-Hoa-Quang-Minh Phật. Nhứt-Thiết-Tam-Muội-Hải-Sư-Tử-Diệm
Phật. Phổ-Trí-Quang-Minh-Đăng Phật.
Có tu-di-sơn vi-trần-số chư Phật Như-Lai như vậy thứ đệ tiếp
nối xuất thế.
Tối hậu Phật hiệu là Pháp-Giới-Thành-Trí-Huệ-Đăng, cũng xuất
thế trong kiếp Ly-Cấu-Quang-Minh.
Với tất cả chư Phật trên đây ta đều kính thờ thân-cận
cúng-dường nghe pháp thọ-trì và xuất-gia học đạo hộ-trì pháp-giáo, nhập môn
giải-thoát bồ-tát thậm-thâm tự-tại diệu-âm nầy, dùng nhiều phương-tiện giáo-hóa
thành-thục vô-lượng chúng-sanh.
Từ đó đến nay trải qua phật-sát vi-trần-số kiếp, có bao nhiêu
chư Phật xuất thế, ta đều kính thờ cúng-dường thọ-hành giáo-pháp.
Nầy thiện-nam-tử ! Từ đó đến nay, ta ở trong chúng-sanh
vô-minh tăm tối sanh tử mà riêng mình giác ngộ, làm cho chúng-sanh thủ hộ
tâm-thành, bỏ tam-giới-thành mà an-trụ nơi pháp-thành nhất-thiết-trí vô-thượng.
Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT THẬM THÂM TỰ TẠI DIỆU ÂM” nầy, làm cho các thế gian
rời hí-luận-ngữ, chẳng nói nhị-ngữ, thường chơn-thiệt-ngữ, hằng thanh-tịnh-ngữ.
Như chư đại Bồ-tát có thể biết tự-tánh của tất cả ngữ ngôn.
Trong mỗi niệm tự-tại khai ngộ tất cả chúng-sanh. Vào biển ngôn âm của tất cả
chúng-sanh. Đều biết rõ được tất cả ngôn từ. Thấy rõ tất cả pháp-môn. Đã được
tự-tại nơi phổ-nhiếp-nhất-thiết-pháp đà-la-ni, tùy chỗ nghi của tâm chúng-sanh
mà vì họ thuyết pháp, rốt ráo điều phục tất cả chúng-sanh, có thể nhiếp thọ
khắp tất cả chúng-sanh, khéo tu những nghiệp vô-thượng của Bồ-Tát. Thâm nhập
những trí vi-tế của Bồ-Tát. Có thể khéo quán-sát bồ-tát-tạng. Có thể tự-tại
diễn thuyết những bồ-tát-pháp.
Tại sao vậy ?
Vì đã được thành-tựu nhất-thiết-pháp-luân-đà-la-ni. Ta đâu
biết được nói được công-đức-hạnh đó.
Nầy thiện-nam-tử ! Trong phật-hội nầy có Chủ-Dạ-Thần tên là
Khai-Phu-Nhất-Thiện-Thọ-Hoa.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học nhất-thiết-trí, thế nào an
lập tất cả chúng-sanh trụ nhất-thiết-trí.
Thủ-Hộ-Nhất-Thiết-Thành Chủ-Dạ-Thần muốn tuyên lại nghĩa nầy,
vì Thiện-Tài mà nói kệ rằng :
Bồ-Tát giải-thoát sâu khó thấy
Hư-không như bình-đẳng-tướng
Thấy khắp trong vô-biên pháp-giới
Tất cả tam thế Phật Như-Lai.
Xuất sanh vô-lượng thắng công-đức
Chứng-nhập nan-tư chơn pháp-tánh
Tăng trưởng nhất-thiết-trí tự-tại
Khai thông tam-thế đạo giải-thoát.
Quá xưa sát chuyển vi-trần kiếp
Bấy giờ có kiếp tên Tịnh-Quang,
Thế-giới tên là Pháp-Diệm-Vân,
Có thành hiệu là Bửu-Hoa-Quang.
Trong đó chư Phật nối xuất thế
Số đến vô-lượng tu-di-trần :
Tối sơ Phật hiệu Pháp-Hải-Ấm.
Ở trong kiếp nầy xuất hiện trước.
Trong kiếp Tịnh-Quang tối-hậu Phật.
Hiệu là Pháp-Giới-Diệm Đăng Vương.
Tất cả chư Như-Lai trên đây
Ta đều cúng-dường thính thọ pháp.
Ta thấy Pháp-Hải Lôi-Ấm-Phật
Thân Phật chói rực màu chơn kim
Các tướng trang-nghiêm như bửu-sơn
Phát tâm nguyện được thành phật quả.
Ta tạm thấy thân Như-Lai kia
Liền phát tâm bồ-đề quảng-đại
Thệ-nguyện siêng cầu nhất-thiết-trí
Tánh cùng pháp-giới hư-không đồng.
Do đây thấy khắp tam thế Phật
Và cùng tất cả chúng Bồ-Tát
Cũng thấy quốc-vương và chúng-sanh
Duyên đó nên khởi tâm đại-bi
Tùy các chúng-sanh tâm sở-thích
Thị hiện đủ loại vô-lượng thân
Cùng khắp mười phương các quốc độ
Động địa phóng quang ngộ hàm-thức.
Thấy đệ-nhị Phật kính thân-cận
Cũng thấy mười phương sát-hải Phật
Nhẫn đến tối-hậu Phật ra đời
Tu-di-sơn trần-số như vậy.
Trải qua sát-chuyển vi-trần kiếp
Có những Như-Lai Chiếu-Thế-Đăng
Ta đều gần-gũi mà kính thờ
Cho môn giải-thoát nầy thanh-tịnh.
Bấy giờ Thiện-Tài Đồng-Tử được nhập môn giải-thoát bồ-tát
thậm-thâm tự-tại diệu-âm nên nhập vô biên tam-muội-hải, nhập quảng-đại tổng-trì
hải, được bồ-tát đại thần-thông, được bồ-tát đại-biện-tài.
Thiện-Tài rất hoan-hỉ, ngắm nhìn Thủ-Hộ-Nhất-Thiết-Thành
Chủ-Dạ-Thần rối nói kệ khen rằng :
Đã đi biển diệu-huệ quảng-đại
Đã qua vô biên biển tam hửu
Thân trí-tạng trường thọ không khổ
Oai-đức quang-minh ở chúng nầy.
Liễu đạt pháp-tánh như hư-không
Vào khắp tam thế đều vô-ngại
Niệm niệm phan-duyên tất cả cảnh
Tâm tâm dứt hẳn các phân-biệt.
Liễu đạt chúng-sanh không tự-tánh
Nhưng với chúng-sanh khởi đại-bi
Thâm-nhập Như-Lai môn giải-thoát
Rộng độ quần mê vô-lượng chúng.
Quán-sát tư-duy tất cả pháp
Biết rõ chứng nhập các pháp-tánh
Như vậy tu hành Phật trí-huệ
Giáo hóa chúng-sanh khiến giải-thoát,
Ngài là Đạo-Sư của chúng-sanh
Khai thị đạo trí-huệ của Phật
Khắp vì pháp-giới các chúng-sanh
Nói những hạnh thoát thế-gian khổ.
Ngài đã trụ Như-Lai đại nguyện
Đã thọ bồ-đề pháp quảng đại
Đã tu tất cả biến-hành-lực
Đã thấy mười phương Phật tự-tại,
Đức thánh tâm tịnh như hư-không
Lìa khắp tất cả những phiền-não
Biết rõ tam thế vô-lượng cõi
Chư-Phật, Bồ-tát và chúng-sanh.
Đức Thánh một niệm đều biết rõ
Ngày, đêm, tháng, năm vi-trần kiếp,
Cũng biết tất cả chúng-sanh-loại
Nhiều loại danh tướng đều sai-biệt.
Mười phương chúng-sanh chỗ sanh tử
Có Sắc, Vô-Sắc, Tưởng, Phi-Tưởng
Tùy thuận thế-tục đều biết rõ
Dẫn dắt cho vào đường bồ-đề.
Đã sanh nhà Như-Lai thệ nguyện
Đã nhập biển chư Phật công-đức
Phát-thân thanh-tịnh tâm vô-ngại
Tùy theo chúng-sanh mà hiện thân.
Nói kệ xong, Thiện-Tài đảnh lễ chân Dạ-Thần, hữu nhiễu
vô-lượng vòng, ân-cần chiêm-ngưỡng từ-tạ mà đi.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
27 tháng 05 1990
36.- DẠ THẦN THỦ HỘ NHẤT THIẾT THÀNH
Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT THẬM THÂM TỰ TẠI DIỆU ÂM” nầy, làm cho các thế gian rời hí-luận-ngữ, chẳng nói nhị-ngữ, thường chơn-thiệt-ngữ, hằng thanh-tịnh-ngữ.
KINH: Này
thiện nam tử, trong hội bồ đề tràng của đức Như Lai đây có chủ dạ thần tên là
Thủ Hộ Nhất Thiết Thành Tăng Trưởng Oai Lực.
GIẢNG: “Thủ hộ nhất thiết thành” tức
là thủ hộ thành trì của tâm ấy. Sau khi ngài nói như vậy thì
Thiện Tài cảm động thấm thía quá, nên Thiện Tài nói một bài kệ rất hay, chỉ tiếc
là không có thì giờ đọc hết, Thiện Tài nói kệ để tán thán ngài Chủ Dạ Thần và đồng
thời để tạ ơn ngài, xin đọc lược vài đoạn…
Tôi do
Thiện Hữu dạy,
Đến chỗ Chủ Dạ Thần
Thấy Thần ngồi bửu tòa
Thân lượng lớn vô biên
Những người chấp sắc tướng
Chấp các pháp là có
Kẻ trí kém hiểu cạn
Chẳng biết cảnh giới thần…
GIẢNG: Thiện Tài nói người nào dùng con mắt thịt
mà nhìn thì không thể thấy những vị đó được, chấp sắc tướng không thể thấy được,
mà cũng không thể hiểu được cảnh giới thần lực biến hóa của các ngài Chủ Dạ Thần…
KINH:
…Tâm
nhóm vồ biên nghiệp
Trang nghiêm các thế gian…
GIẢNG: Tâm chúng ta nhóm họp biết bao
nhiêu nghiệp, vì mỗi một kiếp của ta có một số nghiệp nở ra, nó trang nghiêm thế
gian này, nếu tâm chúng ta có những chủng tử nghiệp xấu thì thế gian trở thành
xấu, toàn hầm hố, gai góc. Đất thì khô cằn, khó cầy cấy, giặc giã binh đao cứ nổi
lên bời bời. Còn tâm chúng sanh tốt thì nở toàn những chủng tử tốt, trang
nghiêm các thế gian.
KINH: Biết
thế gian là tâm.
GIẢNG: Biết được rằng tất cả mọi sự vật
trên thế gian này đều là tâm ánh ra cả, từ tiền bạc, nhà cửa, vợ, con, máy móc,
xe hơi v.v… đều là tâm mà ra cả.
KINH:
Hiện
thân khắp chúng sanh
Biết thế gian như mộng
Tất cả Phật như bóng
Các pháp đều như vang
Khiến người không chấp trước
Vì tam thế chúng sanh
Niệm niệm thị hiện thân
Mà tâm vô sở trụ
Mười phương khắp nói pháp
Vô biên những sát hải
Phật hải, chúng sanh hải
Đều ở trong một trần
Là giải thoát của Thần.
GIẢNG: Bài kệ ngài Thiện Tài nói rất hay,
chỉ cần “ôm” lấy bài kệ này cũng có thể làm chúng ta suy tư hằng
nhiều thời gian, mà khi “biết thế gian là tâm,” thì lúc đó đã
khá rồi, theo tôi nghĩ, công đức cũng ghê gớm, khó có gì sánh được. Vì khi ta
thấy như nước Mỹ này, gồ ghề toàn những máy móc, vật chất đầy rẫy, xe hơi chạy
như suối, tầu bay bay vù vù v.v. mà biết chắc thế giới này là tâm thì quả là …
rất khó. “Vô biên những sát hải, Phật hải, chúng sanh hải, đều ở trong
một trần, là giải thoát của Thần.” Biết tất cả những cái đó đều ở
trong một vi trần, nếu biết được như vậy thì người ấy có thần lực biết được cảnh
giới của Thần.
KINH: Thiện
Tài đi đến chỗ Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành.
GIẢNG: Tức là thủ hộ nhất thiết thành của
tâm ấy, tới đây chúng ta đã tới được tâm rồi, và phải giữ tâm ấy thật vi mật,
hiện tiền, ẩn mật trang nghiêm.
KINH: Thấy
Dạ Thần này ngồi trên tòa sư tử nhất thiết bửu quang minh ma ni vương, vô số Dạ
Thần vây quanh, hiện thân nhát thiết chúng sanh sắc tướng, hiện thân đối khắp tất
cả chúng sanh, hiện thân chẳng nhiễm tất cả thế gian, hiện thân thành thục tất cả
chúng sanh, hiện thân số bằng tất cả chúng sanh, hiện thân siêu quá tất cả thế
gian…
GIẢNG: Đại khái là như vậy, vị thần này
có thân rất lớn, mỗi lỗ lông hiện vô số hóa thân. Hoa Nghiêm chỉ có vậy thôi,
chỉ có hiện vô số hóa thân vượt không gian và thời gian. Nên chúng ta phải luôn
nghĩ đến những điều ấy, không có gì nhiều công đức bằng nghĩ đến những thứ đó,
dù nhiều chùa cũng không bằng, mà lại không mất đồng nào cả, chỉ dùng sức tâm
thôi. Dùng sức tâm tạo công đức mới lớn, còn dùng sức tiền tạo công đức chưa chắc
đã lớn, vì sức tâm mới đưa chúng ta vào suối vô tận, còn công đức tiền bạc chỉ
là hữu tận thôi. Có tiền bố thí hoặc xây chùa là một điều rất tốt, nhưng vẫn ở
trong phước báo hữu lậu, vẫn ở phạm vi sắc tướng.
KINH: Bạch
đức thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết bồ tát lúc tu bồ tát hạnh
thế nào lợi ích chúng sanh, thế nào dùng pháp nhiếp vô thượng để nhiếp chúng
sanh, thế nào thuận theo lời dạy của Phật, thế nào gần ngôi pháp vương?
GIẢNG: Thiện Tài hỏi đến câu “thế
nào gần ngôi pháp vương” thì đủ biết tâm thức của Thiện Tài nếu so
sánh từ vị thiện tri thức đầu đến giờ đã đi được rất xa rồi, tức là sắp đến chỗ
đẳng giác hoặc địa thứ mười rồi.
KINH: Này
thiện nam tử, ngươi vì cứu hộ tất cả chúng sanh, vì nghiêm tịnh tất cả Phật độ,
vì cúng dường tất cả Như Lai, vì muốn trụ tất cả kiếp để cứli chúng sanh, vì muốn
giữ gìn tất cả phật chủng…, vì muốn dùng tâm bình đẳng khắp tất cả, vì muốn tùy
khắp sở thích của tất cả chúng sanh mà mưa pháp vũ, nên ngươi hỏi pháp môn của
bồ tát tu hành.
Này
thiện nam tử, ta được môn giải thoát bồ tát thậm thâm tự tại diệu âm. Làm đại
pháp sư không còn chướng ngại vì có thể khéo khai thị pháp tạng của chư Phật.
GIẢNG: Vị này dùng “diệu âm” để
thuyết pháp, như trong phẩm thập địa có nói rõ, các ngài thuyết pháp không như
người thường, mà các ngài ngồi trong tam muội, khiến tất cả lỗ lông phát ra diệu
âm, ngay cả những cây cỏ đều phát diệu âm để tán thán cúng dường (hư Phật, có
khi các ngài chỉ nói một âm thanh thôi, nhưng âm thanh đó xoáy vào tâm thức
chúng sanh và tất cả đều hiểu được như là ngôn từ của mình vậy. Như thế mới gọi
là dùng diệu âm… Thường thường khi đức Phật ngồi thuyết pháp, dù là chúng sanh
ngồi gần hay ngồi xa lắc, người nào cũng cảm thấy như đức Phật ngồi trước mặt
mình, và như chỉ thuyết pháp cho riêng mình nghe vậy. Như vậy mới gọi là thuyết
pháp cao và dùng diệu âm. Còn người thuyết pháp thường thường, không có thần lực
chu biến như vậy, thuyết pháp thì người ngồi xa không nghe thấy và các loài hữu
tình khác như con chó, con bò không thể hiểu được… Trong khi các bật cao nói
thì tất cả đều hiểu, trong kinh có kể truyện con ngựa nghe pháp còn phải… khóc,
con khỉ thì vui mừng cúng dường vì các ngài dùng diệu âm.
KINH: Này
thiện nam tử, ta dùng tịnh pháp quang minh như vậy để lợi ích tất cả chúng
sanh. Lúc nhóm pháp trợ đạo thiện căn, khởi mười thứ quán sát pháp giới… Một là
ta biết pháp giới vô lượng vì chứng được trí quang minh quảng đại. Hai là ta biết
pháp giới vô biên, vì thấy chỗ thấy biết của tất cả chư Phật. Ba là ta biết
pháp giới vô hạn, vì vào khắp tất cả phật độ cung kính cúng dường chư Như Lai.
Bốn là ta biết pháp giới không mé…, năm là ta biết pháp giới không dứt…, sáu là
ta biết pháp giới một tánh…, bảy là ta biết pháp giới tánh tịnh… tám là ta biết
pháp giới khắp chúng sanh…, chín là ta biết pháp giới một trang nghiêm…, mười
là ta biết pháp giới chẳng thể hư hoại, vì thiện căn nhất thiết trí sung mãn
pháp giới chẳng thể hoại.
GIẢNG: Ngài dạy mười thứ này cũng tạm dễ
hiểu, vì pháp giới bao giờ cũng vô lượng, vô biên không ngằn mé. Mà pháp giới
phải quán là không bao giờ dứt cả, tuy rằng có pháp giới thành hoại thật, song
nó rơi vào cái “không’ đó, mà chính cái không đó là sự sung
mãn tràn đầy lại khởi lên pháp giới khác. Ngài dạy Thiện Tài quán pháp giới như
thế, nhưng chính là ngài dạy quán cái tâm, vì khi quán pháp giới nở ra vô lượng,
thì đồng thời biết rằng cái tâm cũng vô lượng, quán pháp giới này vô hạn, thì
tâm cũng vô hạn, vì chính tâm sinh ra pháp giới này. Cũng như ở vị thiện tri thức
thứ hai, ngắi quán biển tâm thì khởi lên pháp giới này, nở ra thành một bông
liên hoa. Vì vậy, tất cả đều là bông hoa cả. Giả dụ như có người giết trăm ngàn
thân xác này, nhưng không thể nào giết được cái tâm ây cả, không ai có thể giết
dược cái tâm, ngay cả chư Phật cũng không thể giết được vì chính Chư Phật cũng
từ tâm ấy mà ra. Nên vị thiện tri thức này dạy Thiện Tài rằng, ông phải giữ vững
tâm dó, và hiểu tâm ấy vô lượng, vô biên, vô hạn, không dứt, không thể hư hoại
được.
KINH:…
lại này thiện nam tử, ta chánh niệm tư duy như vậy, được Như Lai mười môn đại
oai đức đà la ni luân…
GIẢNG: Trong đạo Phật bao giờ cũng dùng
chữ “luân.” Luân là bánh xe, cũng có nghĩa là xoay vần. Và đạo
lý vận hành của pháp giới là xoáy tròn trôn ốc.
KINH: Những
là đà la ni luân vào khắp tất cả pháp. Đà la ni luân trì khắp tất cả pháp. Đà
la ni luân nói khắp tất cả pháp. Đà la ni luân niệm khắp tất cả Phật mười
phương. Đà la ni luân nói khắp danh hiệu của tất cả Phật. Đà la ni luân vào khắp
nguyện hải của tam thế Phật. Đà la ni luân vào khắp tất cả những thừa hải. Đà
la ni luân nhập khắp tất cả chúng sanh nghiệp hải. Đà la ni luân mau chuyển tất
cả nghiệp. Đà la ni luân mau sanh nhất thiết trí.
GIẢNG: Tại sao trong kinh lại gọi
là “trí luân”? Vì đó là cái bánh xe của trí huệ. Thường thường
chúng ta dùng cái thức, là một ngọn sóng nổi lên trong tâm, khi chúng ta phân
biệt một sự vật nào thì ngọn sóng thức ấy tương tự như con dao cắt sự vật ra
làm hai, bên đen, bên trắng, bên có, bên không, và thức là con dao, phân biệt
trong phạm vi gọi là “nhị biên.” Nhưng đến khi thức ấy xoay
tròn như một bánh xe thì nó sẽ trở thành “trí”. Vì khi xoay
tròn như vậy thì thức tâm sẽ rơi vào “giáo lý bất nhị/’ biết rằng
cái thiện sẽ chuyển thành cái ác, cái sanh sẽ chuyển thành diệt, sát na sẽ chuyển
thành kiếp, cái gần sẽ chuyển thành cái xa v.v… Và “trí luân” là
ở chỗ đó. Trí ấy chuyển động tâm thức, song chiếu tất cả các mặt mà không trụ
vào một biên nào. Cũng như chữ “chuyển pháp luân,” đó là cái
bánh xe pháp, mà không ai nói là “con dao pháp” cả, vì nói thế
là vấp phải cái hữu biên. Phải chuyển thế nào mà nói đúng được chân lý ấy mà…
không ai mò được đầu đuôi. Hi..hi.., bánh xe pháp ấy quay vòng vòng, không ai
có thể mò ra được đầu đuôi…, hi..hi…, thế mới khó… Vì vậy, đọc kinh rất nhiều
người không hiểu được và rất… tức tối, vò đầu bứt tai, khổ sở…, đến khi vỡ ra
được thì lại rất sung sướng. Vì vậy, trong đạo phật bao giờ cũng nói đến chữ vô
thủy. Các tôn giáo ngoại đạo khác thường nói có thủy, có chung, mà không dám
nói vô thủy.
KINH: Này
thiện nam tử, ta thành tựu môn giải thoát thậm thâm tự tại diệu âm này, ở trong
mỗi niệm tăng trưởng tất cả những môn giải thoát, niệm niệm sung mãn tất cả thế
pháp giới.
GIẢNG: Khi nào chúng ta đến chỗ “niệm
niệm sung mãn tất cả pháp giới” là cao ghê lắm rồi. Chỉ cần một niệm
mà có thể làm sung mãn tất cả pháp giới.
KINH: Lạ
lùng thay, bạch đức thánh, môn giải thoát này hy hữu như vậy. Đức thánh chứng
được đã bao lâu?
GIẢNG: Ngài Dạ Thần này không nói như những
vị khác khi Thiện Tài hỏi ngài chứng được đã bao lâu, thường thường các vị khác
nói, việc này khó nói, khó bàn v.v… duy ngài này chỉ kể những bổn sanh, bổn sự
của những đời trước của ngài.
KINH: Này
thiện nam tử, thuở xưa, quá thế giới chuyển vi trần số kiếp có kiếp tên là Ly Cấu
Quang Minh, có thế giới tên là Công Đức Vân…, trong đó có thiên hạ tên là Diệu
Tràng, có vương đô tên là Phổ Bửu Hoa Quang. Cách không xa có Bổ Đề Đạo Tràng
tên là Phổ Hiển Hiện Pháp Vương Cung Điện…, tối sơ Phật hiệu là Pháp Hải Lôi Âm
Quang Minh Vương. Lúc đức Phật đó xuất thế có Chuyển Luân Vương tên là Thanh Tịnh
Nhật Quang Minh Diện, thọ trì tất cả pháp hải triền tu đa la của Phật. Sau khi
Đức Phật nhập Niết Bàn, nhà vua xuất gia hộ trì chánh pháp..
GIẢNG: Toàn là “chuyển luân,” những
kiếp trước ngài thường nói về những chuyện chuyển luân vương. Chuyển luân vương
là thế nào? Như thế nào thì có chuyển luân vương? Thời chúng ta đây có bao giờ
nghe nói có chuyển luân vương?
Chúng ta hiện giờ
thọ mạng khoảng một trăm tuổi thì không có chuyển luân vương. Khi nào tuổi thọ,
phước lực và trí lực của người lên đến mức hai, ba vạn tuổi lúc bấy giờ có chuyển
luân vương, chuyển luân vương không phải như vị vua bây giờ đâu, mà ngài chỉ
dùng giáo pháp hay chánh pháp để trị dân mà không cần phải dùng binh lực. Thường
thường, một vị chuyển luân vương có khoảng một vạn phu nhân và sinh ra một ngàn
con trai.
HỎI:
Thưa cụ, cháu có cái thắc mắc sao một ông chuyển luân vương lại có nhiều vợ con
thế? Tại sao ngài đạo đức cao như thế mà còn nhiều tham dục? Một phu quân chỉ cần
một phu nhân là đủ rồi sao lại phải có đến một vạn phu nhân?
ĐÁP:
Chị hỏi câu này rất hay, hi., hi…, có quí vị nào có ý kiến gì về câu hỏi này
không? Mà thật buồn cười, các vị chuyển luân vương, có một nghìn con trai, mà
thường là người thứ một nghìn mới kế nghiệp cha. Theo tôi nghĩ, các vị chuyển
luân vương thọ sanh là ở bậc bồ tát sơ địa, các vị này vẫn trong dục giới, có vạn
bà vợ, vẫn có một nghìn người con. Khi một vị chuyển luân lên ngôi thì tự nhiên
hiện ra bảy báu. Thứ nhất là luân bửu (một cải xe bay) để cho vua dùng đi cấc nơi,
chỗ nào có giặc giã thì vua dùng xe bay đến nơi thì tự nhiên giặc giả yên ngay
mà không cần phải dùng võ lực. Thứ hai là tạng bửu, vua có thể dùng cải đó mà
biết những kho báu trên mọi chỗ, vì phước đức của vua lớn quá. Riêng có một bửu
lạ nhất đó gọi là “bửu Nữ,” đó là một người con gái tuyệt trần xinh đẹp người
thế gian không ai bằng, lại rất giỏi, việc gì cũng biết, không có vấn đê nào
trên trời, dưới đất mà nàng không biết, để cố vấn cho nhà vua. Sở dĩ nàng
tới là vì trong nhiều kiếp nàng có tình duyên với vị vua chuyển luân này. Bửu Nữ
thường là hóa sanh, trong khi vị chuyển luân vương kia còn trong dục giới, còn
thai sanh. Bồ tát sơ địa vẫn còn nhục thân, cho đến bồ tát đệ bát địa mới có được
“pháp thân bồ tát,”hóa sanh, không còn nhục thân nữa.
HỎI:
Trong sách của Nam Tông, những vị hóa sanh người thường không thể nhìn thấy. Có
đúng không?
ĐÁP:
Người thường vẫn nhìn thấy chứ, vì các ngài xuống để độ sanh.
Trở về
câu hỏi của vị Phật tử kia, vì sao một vị vua chuyển luân vương nhiều lòng dục
thế? Theo tôi nghĩ, có trường hợp thọ thai mà không có nhiều dục vọng, nếu có
chút lòng dục thì dục đó cũng thăng hoa lên rồi. Như trong sách có kể trường hợp
bố mẹ một năm chỉ gần nhau một lần, và gần nhau để chỉ sinh con thôi, chứ không
có chuyện say mê tình dục. Người thường đã thế, huống gì vua chuyển luân?! Vả lại,
trường hợp một vị cao, nên rất khó nói. Cũng như trong kinh kể, đức Thích Ca
Mâu Ni dòng họ trước cũng là vua chuyển luân, các vị tổ nhiều kiếp củng làm
chuyển luân vương, sau càng ngày phước lực kém nên trở thành “túc tắn chuyển
luân vương” (ông vua nhỏ), rồi sau mới hết ngôi chuyển luân vường. Ớ dấy là một
bình diện phía trên, nên khó nói cho rõ được. Chỉ biết là trong kinh nói như vậy.
Mà tôi tin chắc là kinh không bao giờ nói lời hư vọng cả. Ngay một vị tu hành
bình thường, khi họ di vào tình dục vợ, chồng, cũng không có những tham dục mấy,
huống hồ những vị trên cao. Nên có thể trong sự giao hợp tình dục, tâm các ngài
thanh thản, chứ không phải như người thế gian nghĩ đâu. Trong kinh, sau này có vị
Cù Ba kể lại tình duyên của ngài đối với đức Phật, trong nhiều kiếp ngài là một
vị Bửu Nữ, đức Phật là một vị Thải Tử, về sau hai người giao ước với nhau, nếu
có lấy nhau thì cứ lấy mà không có chuyện gì khác (tình dục), vị thải tử dặn
trước rằng, nếu sau này tôi đi trên con đường bồ tát đạo, làm hạnh bố thí,
thì tôi sẽ bố thí tất cả, ngay cả vợ con, thành ốc và cả đến thân thể của mình
nàng cũng phải chịu thì mới được. Thường là các vị người nữ đều nhận lời cả, cuối
cùng ngài Cù Ba mới thị hiện xuống làm người vợ thứ hai của Đức Phật, nhưng
chính ngài là vị Bồ Tát vào bậc thập địa. Nên những việc thị hiện của các vị
cao thì không thể nói hết được…. Có thể rằng một vạn bà phu nhân chỉ là những
chất liệu để Chuyển luân vương lựa chọn, đúc thành 1000 người con trai đủ cốt
khí và pháp khí để có thể kế vị. Vả lại trải vô lượng kiếp tu hành, sự dính mắc
những cuộc tình nửa đời, nửa đạo cũng nhiều. Nay cơ duyên chín mùi có lẽ họ tụ
lại thành chùm….
Trở lại
kinh…
Khi đức Phật diệt
độ thì vị chuyển luân vương xuất gia để giữ chánh pháp, lúc đó vào thời mạt kiếp,
có rất nhiều phe phái nổi lên.
KINH: Gần
lúc mạt kiếp hoặc chướng nặng, các ác tỳ kheo nhiều sự đấu tranh, thích chấp cảnh
giới chẳng cầu công đức. Thích nói vương luận, tặc luận, nữ luận, quốc luận, hải
luận, nhẫn đến tất cả thế gian luận.
GIẢNG: Lúc bấy giờ có những ác tỳ kheo tu
hành đọc kinh thì ít, nhưng lại thích nói những vương luận, (luận nói về trị nước),
tặc luận (nói về những sự bá đạo), nữ luận (luận về những người nữ), quốc luận
(nói về chính trị), và tất cả các thứ thế gian luận. Lúc này các vị tỳ kheo
không đọc kinh mấy mà chỉ toàn nói chuyện thế gian thôi.
KINH: Lúc
đó Vương tỳ kheo bảo họ rằng, lạ thay, khổ thay, đức Phật trong vô lượng kiếp hải
chứa nhóm ngọn đuốc pháp này sao các người lại cùng nhau hủy diệt? Nói xong
Vương tỳ kheo bay lên hư không cao bảy cây đa la, thân phóng ra vô lượng những
mây mầu sáng, những lưới đại quang minh nhiều màu, làm cho vô lượng chúng sanh
trừ nóng phiền não, làm cho vô lượng chúng sanh phát tâm bồ đề. Nhờ nhân duyên
này nên giáo pháp của Như Lai được hưng thạnh thêm sáu vạn năm ngàn năm.
GIẢNG: Vị này có thần thông nên các vị tỳ
kheo lại chịu khó tu hành nên chánh pháp của Như Lai lại được hưng thạnh 65,000
nữa.
KINH: Lúc
đó có tỳ kheo ni tên là Pháp Luân Hóa Quang, vốn là con gái của Chuyển Luân
vương, trăm ngàn tỳ kheo ni làm quyến thuộc, nghe lời nói của Phụ vương và thây
thần lực, liền phát tâm bồ đề không thối chuyển, được tam muội tên là nhất thiết
phật giáo đăng, lại được môn giải thoát thậm thâm tự tại diệu âm này, thân tâm
nhu nhuyễn, liền được thát tất cả thần lực của đức Pháp Hải Lôi Ầm Quang Minh
Như Lai.
GIẢNG: Ngài kể rằng ông vua Chuyển Luân
Vương chính là ngài Phổ Hiền Bồ Tát, còn vương Nữ Tỳ Kheo ni chính là ngài. Đại
khái kể toàn những chuyện như vậy để cho chúng ta biết các bổn sanh bổn sự của
các ngài mà noi gương đó để tu hành. Sau đó ngài lại chỉ đến một vị khác, cũng
là Chủ Dạ Thần.
Comments
Post a Comment