ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
30.- ÐỊA THẦN AN TRỤ
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết pháp môn "BẤT KHẢ HOẠI TRÍ HUỆ TẠNG" này.
Thiện Tài qua nước Ma Kiệt Ðề nơi Bồ Ðề Tràng, chỗ của ÐỊA THẦN AN TRỤ cùng ở với trăm vạn Ðịa
Thần.
Chư Thần bảo nhau :
Ðồng tử đến kia chính là Phật tạng. Tất sẽ vì khắp tất cả
chúng sanh mà làm chỗ sở y. tất đã khắp phá vỡ lốt vỏ vô minh của tất cả chúng
sanh. Người này đã sanh trong dòng Pháp Vương. Sẽ dùng lụa pháp vô ngại ly cấu
để vấn đầu. Sẽ mở kho trí huệ trân bửu lớn. Sẽ xô dẹp tất cả tà luận dị đạo.
Lúc đó An Trụ và trăm vạn Ðịa Thần phóng quang minh lớn chiếu
khắp cõi Ðại Thiên. Làm khắp đại địa đồng thời chấn động. Nơi nơi trang nghiêm
với những bửu vật chói sáng lẫn nhau. Tất cả lá cây đồng thời sanh lớn, tất cả
bông đồng thời đua nở, tất cả trái đồng thời chín, tất cả dòng nước chảy rót
lẫn nhau,tất cả ao đầm đều đầy nước.
Trời mưa nước thơm rửa khắp mặt đất, gió thổi rải hoa khắp
nơi. Vô số âm nhạc đồng thời trỗi. Ðồ trang nghiêm đều vang tiếng diệu.
Những Ngư vương, Tượng vương, Sư tử vương v.v…đều vui mừng
nhảy nhót rống gầm, như núi to chạm nhau vang tiếng lớn.
Trăm ngàn tạng báu tự nhiên hiện lên.
An Trụ Ðịa Thần bảo Thiện Tài :
Lành thay Ðồng tử ! Tại chỗ này ngươi đã từng gieo thiện căn.
Ta vì ngươi mà hiện. Ngươi muốn thấy chân ?
Thiện Tài liền đảnh lễ chân Ðịa Thần, hữu nhiễu vô số vòng,
chắp tay cung kính thưa rằng :
Bạch đức Thánh ! Tôi muốn được thấy.
Ðịa Thần lấy chân ấn đất, trăm ngàn ức vô số bửu tạng tự nhiên
trồi lên. Rồi bảo rằng :
Này thiện nam tử ! Những bửu tàng này theo ngươi luôn. Ðây là
quả báo do thiện căn thuở xưa của ngươi. Ðây là phước lực của ngươi nhiếp thọ.
Ngươi nên tùy ý tự tại thọ dụng.
Này Thiện nam tử ! Ta được Bồ Tát giải thoát tên là " Bất
khả hoại trí huệ tạng", ta thường dùng pháp này để thành tựu chúng sanh.
Này Thiện nam tử ! Ta nhớ từ Phật Nhiên Ðăng đến nay, ta
thường theo Bồ Tát cung kính thủ hộ, quán sát Bồ Tát chỗ có những tâm hành,
cảnh giới trí huệ, tất cả thệ nguyện, những hạnh thanh tịnh, tất cả tam muội,
thần thông quảng đại, thần lực tự tại, những pháp bất hoại, qua khắp tất cả
Phật độ, được khắp tất cả Như Lai thọ ky,ù chuyển pháp luân của tất cả chư
Phật, diễn rộng tất cả môn tu đa la, đại pháp quang minh soi sáng khắp nơi,
giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh, thị hiện thần biến của tất cả chư Phật.
Tất cả những công đức như trên của Bồ Tát ta đều có thể lãnh
thọ, đều có thể ghi nhớ.
Này thiện nam tử ! Thuở xưa quá Tu Di sơn vi trần số kiếp, có
một kiếp tên Trang Nghiêm, thế giới tên Nguyệt Tràng, Phật hiệu Diệu Nhãn.
Chính ở chỗ đức Phật Diệu Nhãn mà ta được pháp môn này.
Này thiện nam tử ! Ta ở nơi pháp môn này, hoặc nhập, hoặc
xuất, tu tập tăng trưởng thường thấy chư Phật chưa từng bỏ rời.
Từ lúc mới được nhẫn đến Hiền kiếp này, khoảng thới gian đó ta
gặp bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Như Lai Ðẳng Chánh Giác.
Ta đều phụng thờ cung kính cúng dường. Ta cũng thấy chư Phật ngồi tòa Bồ đề
hiện đại thần lực. Cũng thấy những công đức thiện căn của chư Phật.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết pháp môn "BẤT KHẢ HOẠI TRÍ HUỆ TẠNG" này.
Như chư đại Bồ Tát thường theo chư Phật, có thể thọ trì tất cả
lời dạy của chư Phật, vào trí huệ thậm thâm của chư Phật, mỗi niệm đầy khắp tất
cả pháp giới, đồng thân Như Lai, sanh tâm chư Phật, đủ pháp chư Phật, làm những
Phật sự.
Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.
Này thiện nam tử ! Trong thành Ca Tỳ La có Chủ Dạ Thần tên là
Bà San Bà Diễn Ðể.
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ
Tát đạo ?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Ðịa Thần hữu nhiễu vô số vòng,
ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
13 tháng 05 1990
30.- ÐỊA THẦN AN TRỤ
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết pháp môn "BẤT KHẢ HOẠI TRÍ HUỆ TẠNG" này.
Hôm nay là buổi
thuyết giảng thứ 108 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này.
Chúng tôi xin
thông báo với quí vị rằng: Ở trong ban Hoa Nghiêm này có hai vị, là ông Trị
và Bà Dung- hai vợ chồng- đã được Hòa Thượng Tâm châu cắt tóc cho, để chờ đến
cuối tháng sáu thì làm lễ thọ giới. Chúng tôi xin chúc hai vị được nhiều cơ
duyên thuận tiện và nhiều sức tinh tấn trên đường tu học. Trước kia, ở trong
ban Lăng Nghiêm, khi kết thúc ban kinh, cũng có hai vị xuất gia, ông Minh Chiếu
và cụ Tịnh Quang. Tới nay, khi sắp kết thúc kinh Hoa nghiêm cũng có hai vị nảy
tâm xuất gia. Chúng tôi cũng mong rằng sau này, khi chúng ta qua Đại Bát Nhã, đến
khi kết thúc cũng sẽ có hai vị khác nữa nảy tâm xuất gia. Vì thực ra, sự xuất
gia rất cần thiết, để vượt cửa ải dục giới mới có thể thênh thang đi trên con
đường bồ tát đạo được. Trong nhà Phật, thường có ba môn học, đó là giới
học, định học và huệ học. Giới học cốt vượt
cửa ải dục giới, định học để vượt sắc giới, và huệ
học là để vượt cõi vô sắc giới.
Lần trước chúng
tôi đương giảng về vị thiện tri thức thứ 30, ngài Địa thần An Trụ. Nhưng trước
khi đi vào kinh, tôi cũng xin trả lời mấy câu hỏi của một vị Phật tử ở đây, vì
câu hỏi này cũng rất hay.
HỎI: Nếu
trong khi tu tập mà mong cầu thần thông thì có lỗi lầm gì không? Mà chúng ta tu
tập đến chừng nào thì xứng đáng được thần thông?
ĐÁP: Đạo Phật căn cứ trên trí huệ Bát
Nhã, tâm đại từ bi và tâm vô sở cầu hạnh, nên một hành giả tu mà giữ tâm đúng mức
thì không bao giờ mong cầu một điều gì vị kỷ mà chỉ mong cầu những cái tự tha
vô ngại. Như mong cầu sang Cực Lạc để sau này có đủ sức trí huệ và đại bi để độ
sanh, về vấn đề thần thông cũng vậy, thường thường một số người đọc kinh Phật
mà chưa đọc kỹ, (nhất là chưa đọc kinh Đại Thừa), họ hay hiểu lầm về chuyện thần
thông, nhưng phải hiểu, trong đạo Phật, khi một hành giả bắt đầu tu còn ở thấp
thì khác, lên cao lại khác. Dưới thấp Đức Phật quở trách các vị đệ tử là không
được phô trương thần thông, vì hành vi đó rất sai, chỉ giúp cho tâm ngã mạn dễ
nổi lên. Nhưng lên cao, ngài lại nói khác, bằng cớ rằng trong kinh Hoa Nghiêm,
chỉ toàn nói đến thần thông. Và Hoa Nghiêm dạy rằng, phải có thần thông mới độ
sanh được, chúng tôi vẫn thường nói rằng, theo đạo Phật mọi cơ sự trong pháp giới
đều vận hành theo con đường xoáy trôn ốc. Nên về thần thông, khi tâm một hành
giả càng thanh tịnh bao nhiêu thì tự nhiên lại càng có nhiều thần thông bấy
nhiêu, nhất là hành giả không gấp gáp, không mong cầu, tự nhiên thần thông sẽ đến.
Ngược lại, nếu có tâm mong cầu thần thông để độ sanh, thì điều đó cũng là một
điều tốt, nhưng đôi khi, hành giả lúc có thần thông rồi, thì cái tâm lại chuyển
biến ra cách khác, lúc đó có thể sinh ngã mạn, thấy mình độ sanh được nhiều, chữa
được bịnh, đuổi được quỉ, có được một chút biện tài thuyết pháp v.v… nên sanh
tâm ngã mạn, hoặc sanh tà kiến, cho rằng ta là nhất và chư Phật chính là mình,
hoặc cho rằng hành dục là phương tiện để đưa đến Niết Bàn v.v… Đó là hoàn toàn đi
vào tà đạo. Ngược lợi, khi hành giả tu tập giữ được tấm vô ngã thì tự khắc vó
thần thông, nếu tâm còn chấp ngã thì chưa nên có thần thông. Vì còn ngã thì cái
ngã sẽ sai sử hành giả mong thần thông áp dụng vào những trường hợp vị kỷ, rồi
càng ngày càng lệch lạc, cao thì làm Thiên Ma, thấp thì làm ma dân, (như trong
kinh Lăng Nghiêm đã dạy).
Nên đừng
tưởng rằng có thần thồng là một điều tốt, vì nếu không đủ phước đức trí huệ,
thì thần thông đó đôi khi lại làm hại giới thần huệ mạng của mình. Thần thông
như con dao hai lưỡi, nếu không sử dụng khéo cũng có thể làm hại mình như chơi.
HỎI:
Trong thế gian này có nhiều đạo, mà đạo nào cũng khen đạo mình là chính đạo, gọi
những đạo khác là ngoại đạo. Đạo Phật cũng thế, gọi kinh mình là nội kinh, là rốt
ráo, là tột cao, còn tất cả nhưng đạo khác đều là ngoại đạo, chưa đến chỗ rốt
ráo, tuyệt vời. Vậy thì, thế nào phân biệt được rằng đạo nào là đạo đưa đến chỗ
rốt ráo?
ĐÁP: Ngày xưa tôi cũng thắc mắc tại sao
đạo Phật lại tự nhận mình như thế, cho rằng các đạo khác đều là ngoại đạo và
chưa đi đến một mức độ rốt ráo. Nhưng về sau, đọc kinh lâu, tôi thấy trong đạo
Phật có những lý do rất chính đáng khiến cho chỉ riêng đạo Phật mới có thể tự
nhận mình là chánh pháp, còn tất cả những đạo khác đều là ngoại pháp. Đạo Phật
sỡ dĩ tự nhận mình ở đỉnh cao chót vót như đỉnh Tuyết Sơn là vì chân lý của các
đạo khác chưa đạt đến mức tuyệt vời, mà chỉ riêng đạo Phật là có chân lý tuyệt
vời, vậy tuyệt vời ở chỗ nào?
Thứ nhất
là về giới. Nếu chúng ta giở lại những cuốn sách giới luật trong nhà Phật như
luật tỳ ni, sa di ni, thì ta sẽ thấy việc giữ giới đến nơi đến chốn, trong khi
ngoại đạo lại không bằng. Như có những trường hợp ngoại đạo cho uống rượu, cho
nói dối, và có những trường hợp ngoại đạo cho ăn thịt, như có thể ăn cá, ăn trứng
v.v… Còn đạo Phật thì không, theo đạo Phật không thể dùng thân mình làm mồ chôn
chúng sanh, dù là chúng sanh nhỏ nhít đến đâu đi chăng nữa, nên giữ giới là phải
rốt ráo. Như Ấn Độ giáo cho phép nói dối, trong trường hợp nguy hiểm đến tính mạng,
có thể nói dối được. Đạo Phật thì không, ngay cả tính mạng cũng phải bỏ đi chứ
không thể nói dối, vì đạo Phật dạy rất rõ, thân này chỉ là huyễn mộng mà thôi.
Vì thế, đạo Phật rốt ráo ở chỗ đó. Thứ nhì là về những cơn tam muội. Vị giáo chủ
nhập cơn tam muội càng sâu bao nhiêu thì càng có nhiều thứ “mắt” bấy nhiêu, nên
mới nói giáo lý rốt ráo. Ấn Độ giáo đâu có nhiều tam muội, mà chỉ có hai thứ
tam muội, một thứ tam muội có đối tượng, và một thứ tam muội không đối tượng-không
đối tượng thì cao hơn, Ấn Độ giáo thường thường tu đến cơn định của cõi sắc, đến
tầng trời Phạm Thiên, tầng trời Quang Âm v.v…, cao hơn nữa thì đến tầng trời
cõi Vô Sắc, có thể vào được định gọi là Phi tưởng phi phi tướng xứ định, nhưng
không thể lên cao hơn nữa. Kinh Đại Bát Niết Bàn nói rõ rằng, đó chỉ là những
cơn tam muội nông cạn, và hay khởi tâm đảo điên. Như một vị lu sĩ Ấn Độ giáo,
ngồi thiền định khi vào đến tầng trời Phạm Thiên, thấy sung sướng quá, lại
nhìn thấy ngài Phạm Thiên vương oai quang rực rỡ, hào quang chói lòa, đồng thời,
thấy ngài có nhiều thần thông biến hóa nên khởi tâm đảo điên, cho rằng ngài là
người sanh ra vũ trụ này, thì đó đạo Phật gọi là ý tưởng đảo điên. Còn những
cơn tam muội của nhà Phật thì sao? Đó là những định rất sâu, lặn vào đáy tầng
tâm thức, không những đến cõi sắc và cõi vô sắc, lên trên nữa, lọt vào thức ấm,
vào nhiều cơn tam muội chánh niệm vô trụ. Vì vậy đạo Phật mới nói rằng các đạo
khác chưa đi đến nơi, và gọi là ngoại đạo. Mà sở dĩ đức Phật ra đời ở Ấn Độ bên
Tây Trúc, chính là vì nơi đó có rất nhiều ngoại đạo, đã vào được những cơn định
rồi nhưng chưa được giải thoát, và hết phước báo ấy lại phải rơi xuống luân hồi,
vì vậy Phật mới ra đời ở đó để chỉ cho ngoại đạo biết rằng, các ông chưa diệt hết
tất cả những vọng tưởng nên chưa thể giải thoát. (Mà tất cả những đệ tử của đức
Phật đều từ ngoại đạo mà ra). Điểm thứ ba, chính các nhà ngoại đạo cũng không
hiểu, là chỉ có đạo Phật mới ra khỏi ba cõi, còn những đạo khác thì vẫn triền
miên trong tầng trời cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc, chưa giải thoát được. Vì vậy,
trong kinh đức Phật nói rằng: ” Đạo của ta, giáo lý của ta đưa đến chỗ tốt lành
và vĩnh cửu.” Còn đạo khác chỉ đưa lên được đến những từng trời thôi. Tầng trời
đó có thể tồn tại khoảng mấy tỷ năm, nhưng vẫn còn trong vòng luân hồi. Đó là
những điểm chính yếu khác biệt giữa đạo Phật và các tôn giáo khác. Hiểu như vậy,
ta có thể vui mừng vì đã có túc duyên gặp một giáo lý rốt ráo, cao siêu, nhưng
đầy khó khăn, vì vậy nên chúng ta cần rất nhiều sự gia trì của chư Phật và chư
Đại Bồ Tát. Nên sự xuất gia rất cần thiết để ra khỏi dục giới, và có thể bay bổng
tuyệt vời được. Ở trong vô sắc (là cõi cao nhất trong dục giới) rất vui và an lạc,
nhưng thường bị hai ám chướng, đó là nghi và mạn . Nghĩ rằng mình ghê gớm quá,
nghĩ rằng mình đã đến bến rồi nên không thể đi tới được nữa, nên cần có trì huệ
mới hiểu được giáo lý đại thừa, biết rằng đây chưa phải là bến mà còn phải đi
thêm nữa .
Trong
kinh Phật thường nói, đạo lý của ta là con dường dài xa khổ nhọc, phải người có
căn cơ nhiều kiếp, cúng dường na do tha Phật rồi mới chịu khó mà đi, còn phần
đông người thế gian, căn cơ thấp kém, chỉ thích đi những con đường ngắn, gần
gũi mà thôi. Bằng cớ là, nhìn chung quanh, những đạo nào nói thiển cận nhất thì
đạo đó có nhiều người theo, như đạo hồi chẳng hạn, cùng lắm là chỉ đến được
thiên đường có cây cảnh, vườn tược rất đẹp, cũng có thiên nữ đứng chờ v.v… và
đó chỉ đến tầng trời dục giới, chưa phải giải thoát.
Ở đây,
tôi biết rằng có nhiều người thao thức, muốn dấn thân vào rừng đạo lý, nên tôi
nói như vậy để quí vị phân biệt rõ khi đi qua Ấn Độ giáo cùng các tôn
giáo khác thì đỡ bị lạc. Vì giáo lý của những tôn giáo ngoại đạo nói khá
giống nhau, cùng là làm lành tránh dữ, nhưng mục đích và hướng đi có khác nên một
người sơ cơ không thể phân biệt nổi.
Nay,
xin đi vào kinh Hoa Nghiêm…
Có một vấn đề
chúng ta cần phải nói rõ thêm là Thiện Tài là người xuất gia hay tại gia? vấn đề
này cũng không quan trọng lắm, nhưng nhân thể đây có hai vị sắp xuất gia vì vậy
nên tôi xin nói thêm ít điểm cho rõ.
Kinh Hoa Nghiêm là
một bộ kinh lớn, ở mức độ cao, nên xuất gia hay tại gia không thành vấn đề nữa,
vì vậy trong kinh không nói rõ Thiện Tài là người xuất gia hay tại gia. Người đọc
có thể nghĩ Thiện Tài là người xuất gia, hay tại gia cũng được. Vì sao? Như
chúng tôi đã nói nhiều lần ở đây, xuất gia rất cần thiết ở mức độ phàm phu, muốn
ra khỏi cõi dục thì cần phải xuất gia. Còn như những cư sĩ tại gia, dù có tinh
tấn cách mấy cũng chỉ có thể đạt được ba quả thánh đầu thôi, quả thánh thứ tư
là quả A La Hán thì không thể đạt nổi, mà chỉ có những vị đã xuất gia mới đạt
được. Hơn nữa, hàng xuất gia dễ ra khỏi dục giới hơn. Nhưng lên trên cao, thì
không cần phải xuất gia hay tại gia, song lên đến mức độ tột cao thì trong kinh
lại nói đến những người xuất gia. Như trong kinh Hoa Nghiêm, khi Thiện Tài đi
qua 53 vị thiện tri thức, lúc đầu đi gặp ba ngài đầu: ngài Đức Vân, ngài Hải
Vân và ngài Thiện Trụ, ba vị này trong kinh nói rõ đều là Tỳ Kheo cả.
Như vậy kinh muốn
nói rằng, bước đầu tu tập cần phải xuất gia. Sau đến ngài thứ tư là ngài Giải
Thoát Trưởng Giả, rồi đến ngài Di Già trưởng giả v.v… toàn là cư sĩ, sau đó đến
vị thứ sáu mới trở lại là tỳ kheo, rồi từ đó trở đi tỳ kheo rất ít mà chỉ toàn
là tại gia, cư sĩ, trưởng giả, Ưu bà di, Ưu bà tắc v.v… và cả ngoại đạo nữa mà
không thấy vị nào xuất gia, hoặc là rất ít. Tám vị chủ dạ thần cùng các vị khác
đều là … thần, đâu phải là người xuất gia. Hơn nữa, những vị trên cao, thường
thọ sanh trên cõi trời sắc giới, mà trên đó làm gì có chùa, làm gì có tăng, các
vị đó chỉ suốt ngày có ngồi thiền, đắm mình trong những cơn định an lạc, thỉnh
thoảng các ngài cũng đi nghe pháp Phật thuyết pháp. Trong 53 vị chỉ có khoảng
10 vị là xuất gia, 40 vị còn lại không phải là tỳ kheo vì lên đến tầng mức
tương đối cao lại không cần, nhưng đến cuối cùng, tới ngài Di Lặc, ngài Văn Thù
v.v… thì các ngài lại là những vị xuất gia. cần nói rõ rằng, trần gian này thuộc
cõi dục giới của Ma Vương, chúng ta đang sống trong thế giới của Ma Vương,
chung quanh đều là những duyên, có rất ít duyên tốt, gặp bạn bè chỉ toàn thấy
nói chuyện tiền nong, nhà cửa, danh vọng, ăn uống v.v… mà thôi.
Khi nào chúng ta
còn thai sanh thì cần phải xuất gia, hóa sanh lại không cần lắm. Tất cả vấn đề
xuất gia, giữ giới v.v… là vì cái thân bất tịnh này, nó ô trọc quá, rất khó
chuyển.
HỎI: Cực
Lạc có phải cõi trời sắc giới không?
ĐÁP:
Không, trong kinh có nói rõ, Cực Lạc là một thế giới ra khỏi ba cõi. Người được
vãng sanh Cực Lạc sẽ không bị luân hồi sanh tử mà vào ngay được ngôi “bất thối
chuyển.”
HỎI: Nếu
vậy thì chắc chắn không phải bị đầu thai lại làm người nữa hay sao?
ĐÁP:
Chắc chắn! Trừ phi do nguyện lực, muốn trở lại cõi Ta Bà để độ sanh.
HỎI: Nếu
vậy thì bao nhiêu nợ nần từ kiếp trước đến kiếp này ai trả thế cho mình?
ĐÁP:
Các Chư Đại Bồ Tát, do nguyện, sẽ gánh và trả cho mình. Mà thật ra, chính những
tội tánh đều là không cả. Nếu chúng ta còn chấp có, còn chấp cái thân này, còn
tất cả những điên đảo tưởng thì còn tất cả tội. Nhưng đến khi nào tâm trở thành
vô ngã, thấy rõ thân là huyễn mộng, thành không thì tất cả tội đều tiêu dung.
Nhưng không phải như thế là mình quịt nợ đâu, vì sau này chúng ta sẽ độ những
người chủ nợ đó. Trong kinh nói rất nhiều lần, Đức A Di Đà nói rằng:
“Cõi của
ta vi diệu hơn các tầng trời rất nhiều.”
Nói
theo kinh Lăng Nghiêm, cõi trần gian thuộc về sắc ấm, cõi trời dục giới và địa
ngục ở thọ ấm, cõi trời sắc giới trở lên ở tưởng ấm, cõi trời vô sắc giới ở
hành ấm, còn cõi Cực Lạc ở thức ấm. Vì vậy, sang đó có được thần thông ngay…
Ông hỏi như vậy vì còn nghĩ rằng tội báo là có, nhưng thực ra, nó chẳng có, chẳng
không, tùy theo sự bập bềnh của tâm thức mà hóa thành có, không mà thôi. Tới
khi ông quán được cái không, đắc được “không tam muội” thì tất cả tội đều rơi rụng
hết, đó gọi là “Vô sanh sám hối”
… Đừng
nói đâu xa, ông chỉ cần đọc kinh Lăng Nghiêm cho thật kỹ, hiểu và giảng giải
cho người khác nghe, thì tội tánh cũng được tiêu diệt rất nhiều. Đức Thật nói
trong kinh Lăng Nghiêm rằng:
“Này A
Nan, nếu có người nào khởi tâm mang giáo pháp này giảng dạy cho người khác nghe
thì dù tội người đó chất đầy hư không, tội nặng đến độ phải đọa dịa ngục, đến
kiếp hoại phải chuyển qua địa ngục khác cho đến khi thế giới thành lập lại rồi
phải trở lại địa ngục này, mà nếu đọc tụng, biên chép, hiểu rõ nghĩa lý rồi giảng
nói cho người khác nghe thì các tội đều dược chuyển thành nhân sang Cực Lạc.”
Nay,
xin trở về phẩm Nhập pháp giới…
Chúng ta đã tới vị
thiện trí thức thứ 30, là vị Địa Thần tên An Trụ. Muốn gặp ngài, Thiện Tài phải
đi ngược đường trở lại Bồ Đề Đạo Tràng, tức là về phương Bắc. Trở về Bồ Đề Đạo
Tràng tức là trở về cái tâm của mình, rồi gặp vị địa thần, tức là trở về cái
nhân địa, cái tâm địa của mình. Vì vậy, sau khi Thiện Tài đi rất nhiều nơi,
ngài lại phải trở về tâm ấy.
Lúc đầu mới đi,
Thiện Tài vào được Tàng thức, nó vốn là tàng thức sơ năng biến có cả chân lẫn vọng.
Sau khi đi dần dần qua hai mươi chín vị thiện tri thức, thì ngài đã lọc được gần
hết cái vọng, bây giờ mới đi vào cái chân để đi đến “Bạch Tịnh Thức.” Vì
vậy, mới có vị địa thần tên là An Trụ ở Bồ Đề Đạo Tràng. Vị
thiện tri thức thứ 30 chỉ có nghĩa như vậy thôi. Đây là lần thứ nhất ngài trở về
Bồ Đề Đạo Tràng, về chân tâm..
Lần thứ hai trở về,
là để gặp ngài Phổ Hiền. Trở về Bồ Đề Đạo Tràng cũng có một nghĩa nữa là trở về
cái căn bản trí của mình, còn trong khi đi thì ngài dùng cái hậu đắc trí. Căn bản
trí là cái tâm linh minh sáng chói trong biển diệu tâm-là diệu tâm-nhưng cái
tâm đó trải qua nhiều kiếp mình quên đi, nên sống kiếp chúng sanh chìm nổi
trong sáu nẻo luân hồi. Đến một lúc nào đó, mình khởi tâm muốn trở về bến cũ của
mình, tức về cái diệu tâm, về căn bản trí. Lúc đó gọi là thủy giác, bắt đầu hiểu
đạo và muốn trở về bổn giác đó. Vì vậy, hậu đắc trí cũng gọi là thủy giác và
căn bản trí gọi là bổn giác. Nó mang nhiều tên, tùy theo trường hợp để gọi,
nhưng vẫn chỉ cho cái diệu tâm ấy thôi.
KINH: Thiện
Tài qua nước Ma Kiệt Đề nơi Bồ Đề Đạo Tràng, chỗ của địa thần An Trụ cùng với
trăm vạn Địa Thần, chư thần bảo nhau: Đồng tử đến kia chính là Phật tạng … Lúc
đó An Trụ và trăm vạn địa thần phóng quanh minh lớn chiếu khắp cõi đại thiên.
Làm khắp đại địa đồng thời chân động…
GIẢNG: Lúc này, sau khi Thiện Tài đi qua
29 vị thiện tri thức, đã đạt đến một mức độ đạo hạnh cao rồi, nên khi Thiện Tài
vừa đến thì An Trụ địa thần cùng các vì địa thần khác phóng quang tiếp đón. Thường
các vị tu hành cao khi phóng quang hay cất tay, nhấc chân đi qua, hay làm chấn
động đại địa, (chấn động đây là chấn dộng trong tầng lớp sâu, chứ không phải
trong tầng lớp thô kệch), nên chỉ có những vị nào vào định thì mới thấy chấn động
đó.
KINH: …nơi
nơi trang nghiêm với những bửu vật chói sáng lẫn nhau. Tất cả lá cây đồng thời
sanh lớn, tất cả bông đồng thời đua nở, tất cả trái đồng thời chín, tất cả dòng
nước chảy rót lẫn nhau, tất cả ao đầm đều đầy nước.
GIẢNG: Khi nào có một vị tu hành lớn đi
qua, thiên nhiên hay có những triệu chứng cát tường đón chào như vậy. Hoa lá
không phải mùa vẫn cứ nở, cây cỏ, trái cây đều đua nhau lúc lỉu trên cành. Nên
ta thấy rõ rằng, tất cả chuyện mùa màng gặt hái, cây cối lớn sinh hoa, trổ lá
v.v… đều là do các vị địa thần làm ra. Người có thể làm được đôi chút về việc
trồng trọt, có thể thêm được hoa trái nhưng cũng chẳng nhiều được bao nhiêu, vì
còn tùy vào phước đức của chính mình chiêu cảm nữa. Còn nếu có sức gia trì của
các vị địa thần thì không cần phải làm nhiều, tự nhiên mưa thuận gió hòa, được
mùa rất thuận tốt. Nên phải hiểu, tất cả những gì ta được trên thế gian này, chỉ
có khoảng hai phần mười là do nhân lực tạo ra, còn lại tám phần mười đều là do
phước đức cũ của mình mà có, và ta cũng thấy hiển nhiên, tại sao có những người
làm rất khổ cực mà không kiếm được bao nhiêu, vì họ không có nhiều phước báo.
KINH: Trời
mưa nước thơm rửa khắp mặt đất, gió thổi trải hoa khắp nơi. Vô số âm nhạc đồng
thời trổi. Đồ trang nghiêm đều vang tiếng vi diệu. Những Ngưu vương, Tượng
Vương, Sư Tử vương v.v… đều vui mừng nhảy nhót rống gầm, như núi to chạm nhau
vang tiếng lớn… Trăm ngàn tạng báu tự nhiên hiện lên.
GIẢNG: Khi có một vị lớn đi qua, thiên
nhiên và tất cả chúng hữu tình đều hớn hở vui mừng như vậy. Phước báu của chúng
ta chỉ ở mức độ bình thường thì một nhà địa chất học phải đi kiếm mãi mới tìm
ra được một mỏ vàng, mỏ bạc hay mỏ dầu. Nhưng nếu phước báu cao sâu hơn thì chẳng
phải tìm kiếm gì cả, tự nhiên trăm ngàn tạng báu hiện lên.
KINH: An
Trụ địa thần bảo Thiện Tài: Lành thay đồng tử, tại chỗ này ngươi đã từng gieo
thiện căn. Ta vì ngươi mà hiện. Ngươi muốn thấy ta chăng?
GIẢNG: “Tại chỗ này ta vì ngươi mà hiện…” có
hai nghĩa, đó là tại chỗ đất này. Nghĩa thứ hai là tại đây cũng chính là cái
tâm của Thiện Tài, vì trong tâm Thiện Tài đã gieo trồng nhiều thiện căn nên bây
giờ hiện lên nhiều tạng báu.
KINH: Thiện
Tài liền đảnh lễ chân địa thần, hữu nhiễu vô số vòng chắp tay cung kính thưa rằng:
Bạch đức thánh, tôi muốn được thấy. Địa thần lấy chân ấn đất, trăm ngàn ức vô số
bửu tạng tự nhiên trồi lên. Rồi bảo rằng: này thiện nam tử, những bửu tàng này
theo ngươi luôn. Đây là quả báo do thiện căn thưở xưa của ngươi. Đây là
phước lực của ngươi nhiếp thọ, ngươi nên tùy ý tự tại thọ dụng… Này thiện nam tử,
ta được bồ tát giải thoát tên là “Bất khả hoại trí huệ tạng’…
GIẢNG: Ngài An Trụ địa thần cũng làm như
ngài Chành Thụ bồ tát, “lấy chân ấn đất,” thì cũng như lấy tâm
ấn tâm thôi, và trăm nghìn vô số bửu tạng tự nhiên trồi lên, vì những bửu tạng
này đều do phước thiện căn quả báo ngày xưa của Thiện Tài. Vị thiện tri thức
này muốn nói rằng: Thiện Tài đã trở về tâm địa của mình, vào tàng thức (vốn là
cái bóng mờ của chân tâm) rồi lặn sâu để vào được đến chân tâm. Chân tâm là tạng
trí huệ bất khả hoại.
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
THẬP HỒI HƯỚNG
A-nan, thiện-nam-tử đó đầy-đủ thần-thông, thành-tựu Phật-sự rồi,
toàn là một tinh-chân thuần-khiết, xa các lỗi-lầm, chính khi hóa-độ chúng-sinh
mà diệt tướng năng-độ, sở-độ, xoay tâm vô-vi hướng về đường Niết-bàn; gọi là
Cứu-hộ nhất-thiết chúng-sinh, Ly-chúng-sinh-tướng hồi-hướng.
Diệt-hoại tất-cả cái gì có thể diệt-hoại, viễn-ly các sự ly; gọi
là Bất-hoại hồi-hướng.
Tính bản-giác đứng-lặng, giác-ngộ bằng Phật; gọi là
Đẳng-nhất-thiết-Phật hồi-hướng.
Tinh-chân phát ra sáng-suốt, tâm-địa như Phật-địa, gọi là
Chí-nhất-thiết-xứ hồi-hướng.
Thế-giới và Như-lai, dung-hợp vào nhau, được không ngăn-ngại;
gọi là Vô-tận-công-đức-tạng hồi-hướng.
Nơi đồng với Phật-địa, trong ấy phát-sinh ra các nhân
thanh-tịnh, nương nhân ấy mà phát-huy, đi đến đạo Niết-bàn; gọi là
Tùy-thuận-bình-đẳng-thiện-căn hồi-hướng.
Chân-căn đã thành-tựu, thập phương chúng-sinh đều là bản-tính
của mình, bản-tính viên-mãn thành-tựu, không bỏ mất chúng-sinh; gọi là
Tùy-thuận-đẳng-quán-nhất-thiết chúng-sinh hồi-hướng.
Tức tất-cả pháp, ly tất-cả tướng, cả tức và ly, hai cái đều
không dính; gọi là Chân-như-tướng hồi-hướng.
Thật được như-như, mười phương không ngăn-ngại; gọi là
Vô-phược-giải-thoát hồi-hướng.
Tính-đức viên-mãn thành-tựu, lượng của pháp-giới diệt; gọi là Pháp-giới-vô-lượng hồi-hướng.
Comments
Post a Comment