ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



27.- BỒ TÁT QUÁN TỰ TẠI

 

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn Bồ Tát “ĐẠI BI HẠNH” này.

 

 

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nhất tâm tư duy lời dạy của Cư sĩ. Nhập tạng Bồ Tát giải thoát ấy. Ðược suất Bồ Tát tùy niệm ấy. Thọ trì thứ lớp danh hiệu của chư Phật ấy. Quán sát diệu pháp của chư Phật ấy nói. Biết chư Phật ấy đầy đủ trang nghiêm. Thấy chư Phật ấy thành Ðẳng Chánh Giác. Rõ bất tư nghì nghiệp của chư Phật ấy.

Thiện Tài đi lần đến núi Phổ Ðà tìm BỒ TÁT QUÁN TỰ TẠI.

Trong gành đá phía Tây, suối chảy lóng lánh, rừng cây rậm rợp, cỏ thơm mềm nhuyễn trải mặt đất.

Ðức Quán Tự Tại Bồ Tát ngồi kiết già trên tảng đá kim cang bửu. Xung quanh có vô lượng Bồ Tát cũng ngồi trên bửu thạch.

Bồ Tát Quán Tự Tại vì chúng Bồ Tát mà tuyên nói pháp đại từ bi, khiến nhiếp thọ tất cả chúng sanh.

Thiện Tài xem thấy vui mừng hớn hở, chắp tay nhìn kỹ, mắt không nháy, tự nghĩ rằng :

Thiện tri thức là Như Lai. Thiện tri thức là mây tất cả pháp. Thiện tri thức là tạng công đức. Thiện tri thức rất khó gặp. Thiện tri thức là nhơn duyên sanh Thập lực. Thiện tri thức là đuốc trí vô tận. Thiện tri thức là mầm gốc phước đức. Thiện tri thức là cửa Nhứt thiết trí. Thiện tri thức là trí hải Ðạo Sư. Thiện tri thức là công cụ trợ đạo đến Nhứt thiết trí.

Nghĩ xong, Thiện Tài đến chỗ Quán Tự Tại Bồ Tát.

Bồ Tát thấy Thiện Tài liền nói :

Lành thay thiện nam tử ! Ngươi phát tâm Ðại thừa nhiếp khắp chúng sanh. Ngươi khởi tâm chánh trực chuyên cầu Phật pháp. Ngươi có đại bi thâm trọng cứu hộ tất cả. Phổ Hiền diệu hạnh nối tiếp hiện tiền. Ðại nguyện thâm tâm viên mãn thanh tịnh. Siêng cầu Phật pháp có thể lãnh thọ tất cả. Chứa nhóm thiện căn hằng không nhàm đủ. Ngươi thuận thiện tri thức chẳng trái lời dạy. Từ biển lớn công đức trí huệ của Văn Thù Sư Lợi mà sanh. Tâm ngươi thành thục được thế lực của Phật. Ðã được tam muội quang minh quản đại. Chuyên tâm mong cầu diệu pháp thậm thâm. Thường thấy chư Phật tâm rất hoan hỷ. Trí huệ thanh tịnh như hư không. Ðã tự sáng tỏa lại vì người mà diễn nói. An trụ trí huệ quang minh của Như Lai.

Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Quán Tự Tại Bồ Tát, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.

Bồ Tát nói :

Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Này thiện nam tử ! Ta đã thành tựu Bồ Tát đại bi hạnh giải thoát môn.

Này thiện nam tử ! Ta dùng môn Bồ Tát đại bi hạnh này bình đẳng giáo hóa tất cả chúng sanh tiếp nối chẳng dứt.

Này thiện nam tử ! Ta trụ nơi môn đại bi hạnh này thường ở chỗ tất cả chư Phật, hiện khắp trước tất cả chúng sanh. Hoặc dùng bố thí, hoặc dùng ái ngữ, lợi hành, đồng sự để nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc hiện sắc thân nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc hiện những sắc bất tư nghì quang minh thanh tịnh để nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc dùng âm thanh, hoặc dùng oai nghi, hoặc vì họ thuyết pháp, hoặc hiện thần biến, làm cho tâm họ tỏ ngộ mà được thành thục. Hoặc vì họ mà hiện thân đồng loại cùng họ ở chung mà thành thục họ.

Này thiện nam tử ! Ta tu hành môn đại bi hạnh này, nguyện thường cứu hộ tất cả chúng sanh, nguyện tất cả chúng sanh khỏi sợ con đường hiểm, khỏi sợ nhiệt não, khỏi sợ mê hoặc, khỏi sợ trói buộc, khỏi sợ sát hại, khỏi sợ nghèo cùng, khỏi sợ chẳng sống, khỏi sợ tiếng xấu, khỏi sợ sự chết, khỏi sợ đại chúng, khỏi sợ ác thú, khỏi sợ tối tâm, khỏi sợ dời đổi, khỏi sợ ái biệt ly, khỏi sợ oán thù gặp, khỏi sợ thân bức bách, khỏi sợ tâm bức bách, khỏi sợ lo buồn.

Ta lại phát nguyện : Nguyện tất cả chúng sanh hoặc nhớ đến ta, hoặc xưng tên ta, hoặc thấy thân ta, thời đều được khỏi tất cả sự bố úy.

Này thiện nam tử ! Ta dùng phương tiện này làm cho chúng sanh khỏi sự bố úy, lại dạy họ phát tâm Vô thượng Bồ đề trọn chẳng thối chuyển.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn Bồ Tát “ĐẠI BI HẠNH” này.

Như chư đại Bồ Tát đã thanh tịnh tất cả nguyện Phổ Hiền, đã an trụ tất cả hạnh Phổ Hiền, thường thật hành tất cả thiện pháp, thường nhập tất cả tam muội, thường trụ tất cả vô biên kiếp, thường biết tất cả tam thế pháp, thường đến tất cả vô biên cõi, thường dứt tất cả chúng sanh ác, thường lớn tất cả chúng sanh thiện, thường tuyệt dòng sanh tử của chúng sanh.

Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.

Bấy giờ phương Ðông có Bồ Tát tên là Chánh Thu từ hư không đến thế giới Ta Bà trên đảnh núi Luân Vi Sơn, Bồ Tát này lấy chân ấn đất. Ta bà thế giới chấn động sáu cách, biến thành thất bửu trang nghiêm.

Chánh Thu Bồ Tát phóng ánh sáng nơi thân che chói tất cả mặt nhựt mặt nguyệt. Tất cả quang minh của Thiên, Long, Bát Bộ, Ðế Thích, Phạm Vương Hộ Thế đều như đống mực đen.

Quang minh của Bồ Tát chiếu khắp tất cả địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, Diêm La Vương, làm cho chúng sanh nơi ác đạo hết khổ, chẳng khởi phiền não, đều rời lo buồn.

Lại khắp tất cả Phật độ mưa tất cả hoa, hương anh lạc, y phục, tràng phan, bửu cái, những đồ trang nghiêm để cúng dường chư Phật.

Lại tùy sở thích của các chúng sanh mà hiện thân khắp trong tất cả cung điện, ai thấy cũng đều hoan hỷ.

Sau đó Chánh Thu Bồ Tát mới đến chỗ của Quán Tự Tại Bồ Tát.

Quán Tự Tại Bồ Tát bảo Thiện Tài rằng :

Ngươi thấy Chánh Thu Bồ Tát đến pháp hội chăng ?

Ngươi nên đến hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?


Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


29 tháng Tư 1990


27.- BỒ TÁT QUÁN TỰ TẠI

 

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn Bồ Tát “ĐẠI BI HẠNH” này.

 

KINH: Này thiện nam tử phương nam đây có tòa núi tên là Bổ Đặc Lạc Ca. Núi ấy có Bồ tát tên Quán Tự Tại. Ngươi nên đến hỏi bồ tát thế nào học bồ tát hạnh, tu bồ tát đạo. Cư Sĩ liền nói kệ rằng:

Trên biển có núi tên Thánh Hiền
Châu báu làm thành rất thanh tịnh
Hoa quả rừng cây đều sung mãn.
Suối chảy, ao mát đều đầy đủ
Dũng mãnh trượng phu Quán Tự Tại
Vì độ chúng sanh ở núi này
Ngươi nên đến hỏi các công đức
Bồ tát sẽ dạy đại phương tiện.

GIẢNG: Đặc biệt với ngài Quán Thế Âm thì Cư Sĩ Tỳ Sắc Chi La lại nói bài kệ, vì ngài Quán Thế Âm cao siêu quá, ngài Quán Thế Âm không phải là đại thiện tri thức mà là đại đại thiện tri thức. Nhưng tuy thế, khi Thiện Tài đến gặp ngài Quán Thế Âm, ngài lại dạy rất đơn sơ, bình dị, không có gì ghê gớm cả, rồi sau đó, chỉ sang người khác dạy bảo bí quyết của mình, về nhiều vị thiện thức khác, kinh tả những y báo rất lộng lẫy đẹp đẽ nhưng đến ngài Quán Thế Âm lại rất đơn sơ.

KINH: Thiện Tài đi lần đến núi Phổ Đà tìm bồ tát Quán Tự Tại. Trong gành đá phía tây, suối chảy lóng lánh, rừng cây rậm rợp, cỏ thơm mềm nhuyễn trải mặt đất. Đức Quán Tự Tại Bồ Tát ngồi kiết già trên tảng đá Kim Cương Bửu, chung quanh có vô lượng bồ tát cũng ngồi trên bửu thạch. Bồ tát Quán Tự Tại vì chúng bồ tát mà tuyên nói pháp đại từ bi, khiến nhiếp thọ tất cả chúng sanh. Thiện Tài xem thấy vui mừng hớn hở, chắp tay nhìn kỹ, mắt không nháy tự nghĩ rằng: Thiện tri thức là Như Lai, thiện tri thức là mây tất cả pháp…

GIẢNG: Trong kinh tả khi Thiện Tài đến chỗ Quán Tự Tại bồ tát thì tả vườn tược v.v… một cách rất đơn sơ, “rừng cây rậm rạp, cỏ thơm mềm nhuyễn v.v…” vì ngài cao quá không cần phải nói đến những thứ ấy. Sau một cuộc tiếp xúc ngắn ngủi, ngài Quán Thế Âm lại chỉ đến một vị thiện tri thức khác lạ, vị đó lại giải thích cho Thiện Tài nghe bí quyết của bồ tát Quán Thế Âm và của bồ tát giới. Tuy ngài Quán Thế Âm nói đơn sơ nhưng trong đó cũng có nhiều ý nghĩa ghê gớm, ẩn mật. Chúng ta nhớ lại những vị thiện tri thức trước, như bà Hưu Xả, hoặc ngài Bất Động Ưu Bà Di, hay ngài Từ Hạnh, hoặc ngài Sư Tử Tần Thân v.v.. đều có quyến thuộc hay đồng nữ, thể nữ đứng hầu chung quanh rất nhiều nhưng ở đây lại không nói như thế mà nói đơn sơ, nói đến những vị chung quanh, nói rằng có vô lượng bồ tát cùng ngồi trên bửu thạch, vậy thì sự khác nhau giữa đồng nữ đứng hầu và vô lượng Bồ Tát vây quanh chỗ nào? Trong kinh, chữ nào cũng đều mang theo một nghĩa ẩn, có rất nhiều vẻ. Đồng nữ có hai nghĩa, nghĩa ngoài thì có đồng nữ hầu thật, nghĩa trong thì tượng trưng cho cái hạnh của người tu. Như tu theo hạnh bố thí, tu lâu thì hạnh đó trở thành một diệu đức, rồi từ diệu đức ấy dần dần trở thành diệu lực, diệu đức và diệu lực gọi là đà la ni, tức là một khả năng của tâm thức. Tu lên cao nữa thì từ mức độ phi thần hóa chuyển thành một thứ thần hóa, tức thành một vị bồ tát hóa thân để đi độ sanh. Nên chúng ta phải hiểu mức độ cô đọng của tâm vô hình tướng chuyển thành thân có hình tướng. Đi từ chỗ phi thần hóa đến chỗ thần hóa. Tất cả pháp giới đều như thế. Tóm lại, ngài Quán Thế Âm cao quá rồi, khả năng tâm thức của ngài không còn là những diệu đức và diệu lực nữa, mà đã trở thành Vô tác diệu lực. Diệu lực thường chiêu cảm bên ngoài có đồng nữ đứng hầu (hơi giống thế gian). Còn Vô tác diệu lực lại chiêu cảm thành vô lượng Bồ Tát hóa thân bời bời độ sanh. Vì vậy trong kinh, ta cần để ý và hiểu từng chữ một, đến khi hiểu nghĩa rồi mà không thấy vướng thì lúc đó mới gọi là hiểu kinh.

KINH: Bồ tát thấy Thiện Tài nói: “Lành thay thiện nam tử, ngươi phát tâm đại thừa nhiếp khắp chúng sanh. Ngươi khởi tâm chánh trực chuyên cầu phật pháp. Ngươi có đại bi thâm trọng cứu hộ tất cả. Phổ Hiền diệu hạnh nối tiếp hiện tiền…”

GIẢNG: Ngài Quán Thế Âm cũng khác với những vị khác. Đối với các vị thiện tri thức khác, khi Thiện Tài hỏi thì các ngài mới trả lời, còn ngài Quán Thế Âm thì cao quá, Thiện Tài không cần phải hỏi, ngài đã tiếp dẫn luôn. Nhưng sau đó, Thiện Tài cũng hỏi thì ngài Quán Thế Âm nói rằng, “ta tu đại bi hạnh giải thoát môn. Ta dùng ái ngữ lợi hành, dùng bố thí, đồng sự v.v… để nhiếp thủ…” Tất cả cũng giống như trong Phổ Môn đã nói không có gì khác lạ. Nhưng có chỗ hay nhất là ngài chỉ cho Thiện Tài đến gặp vị chánh Thụ bồ tát. Trong kinh tả rất lạ, vị này từ đâu đến mà kinh chỉ nói có mấy chữ thôi (Bồ Tát lấy chân ấn đất), nói về việc khởi vọng, vì sao khởi vọng, tại sao hiện được thần thông…, ngài sẽ giải hết những bí quyết của ngài Quán Thế Âm là đại bồ tát biến hiện ra sao, chúng sanh khởi vọng ra sao?!

Comments

Popular posts from this blog