ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



15.- TRƯỞNG GIẢ BỬU KẾ


Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết  “MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT VÔ LƯỢNG PHƯỚC ĐỨC BỬU TẠNG” này.

 

Thiện Tài đồng tử ở chỗ Minh Trí Cư sĩ được nghe môn giải thoát này rồi, thời du hành biển phước đức đó, sửa sang ruộng phước đức đó, ngưỡng vọng núi phước đức đó, xu hướng bến phước đức đó, khai phát tạng phước đức đó, quán sát pháp phước đức đó, thanh tịnh xe phước đức đó, ham muốn đống phước đức đó, phát sanh sức phước đức đó, thêm thế lực phước đức đó.

Thiện Tài đi lần đến thành Sư Tử tìm TRƯỞNG GIẢ BỬU KẾ, thấy Trưởng giả này ở trong chợ. Thiện Tài vội đến đảnh lễ nơi chân Trưởng giả, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Lành thay đức Thánh ! Xin vì tôi mà giảng nói các Bồ Tát đạo. Ðể tôi thừa đạo này mà đến Nhứt thiết trí.

Lúc đó Trưởng giả cầm tay Thiện Tài, dắt đến chỗ ông ở, chỉ nhà của ông mà bảo Thiện Tài xem.

Thiện Tài thấy nhà của Trưởng giả thanh tịnh quang minh làm bằng chơn kim, vách bằng bạch ngân, điện bằng pha lê, lưu ly bửu màu biếc dùng làm lầu gác, trụ bằng xa cừ diệu bửu, khắp nơi trang nghiêm với trăm ngàn diệu bửu, sư tử tòa bằng xích châu ma ni. Màn ma ni và lưới chơn châu giăng phía trên. Ao bằng mã não bửu đầy nước thơm. Vô lượng cây báu bày hàng khắp nơi.

Nhà đó rộng rãi mười từng, tám cửa.

Khi đã vào nhà, Thiện Tài theo thứ đệ mà quán sát.

Thấy từng dưới hết, thí những đồ uống ăn.

Thấy từng thứ hai thí những bửu y.

Thấy từng thứ ba bồ thí tất cả đồ báu trang nghiêm.

Thấy từng thứ tư thí những thế nữ và tất cả trân bửu thượng diệu.

Thấy từng thứ năm có chư Bồ Tát nhẫn đến Ngũ địa Bồ Tát vân tập, diễn nói các pháp lợi ích chúng sanh, thành tựu tất cả đà la ni môn các tam muội ấn, các tam muội hạnh, trí huệ quang minh.

Thấy từng thứ sáu có chư Bồ Tát đều đã thành tựu trí huệ thậm thâm, minh liễu thông đạt nơi pháp tánh thành tựu môn tổng trì tam muội quảng đại không chướng ngại, chỗ làm vô ngại chẳng trụ hai pháp. Ở trong bất khả thuyết diệu trang nghiêm đạo tràng mà cùng tập hội phân biệt hiển thị môn Bát Nhã Ba la mật :

Những là môn Bát Nhã Ba la mật tịch tịnh tạng. Môn Bát nhã Ba la mật khéo phân biệt trí của các chúng sanh. Môn Bát nhã ba la mật chẳng thể động chuyển. Môn Bát nhã ba la mật ly dục quang minh. Môn Bát nhã ba la mật chẳng thể hàng phục. Môn Bát nhã ba la mật chiếu chúng sanh luân. Môn hải tạng Bát nhã Ba la mật. Môn Bát nhã ba la mật phổ nhãn xả đắc. Môn Bát nhã Ba la mật nhập vô tận tạng. Môn Bát nhã ba la mật nhập tất cả phương tiện hải. Môn Bát nhã ba la mật nhập tất cả thế gian hải. Môn Bát nhã Ba la mật vô ngại biện tài. Môn Bát nhã Ba la mật tùy thuận chúng sanh. Môn Bát nhã Ba la mật vô ngại quanh minh. Môn Bát Ba la mật thường quán túc duyên mà bủa mây pháp. Diễn thuyết trăm vạn vô số môn Bát nhã Ba la mật như vậy.

Thấy từng nhà thứ bảy có chư Bồ Tát được như hưởng nhẫn, dùng phương tiện trí phân biệt quán sát mà được xuất ly, đều có thể nghe và thọ trì chánh pháp của chư Phật.

Thấy từng thứ tám có vô lượng Bồ Tát cùng hội họp trong đó, đều được thần thông không còn thối đọa. Có thể dùng một âm thanh khắp mười phương cõi. Thân của các Ngài hiện khắp tất cả đạo tràng, cùng khắp pháp giới. Vào khắp Phật cảnh, thấy khắp thân Phật. Ở trong tất cả Phật chúng hội mà làm thượng thủ, diễn thuyết các pháp.

Thấy từng lầu thứ chín chư Bồ Tát nhất sanh bổ xứ tập hội trong đó.

Thấy từng lầu thứ mười, chư Phật Như Lai ngự đầy trong đó.

Từ sơ phát tâm tu Bồ Tát hạnh siêu xuất sanh tử, thành mãn đại nguyện và thần thông lực, tịnh Phật độ và đạo tràng chúng hội chuyển chánh pháp luân điều phục chúng sanh.

Ðều làm cho được thấy rõ tất cả như vậy.

Thiện Tài thấy sự như vậy rồi, bạch rằng :

Bạch đức Thánh ! Do duyên gì mà thành chúng hội thanh tịnh này ?

Gieo căn lành gì mà được báu như vậy ?

Trưởng giả nói :

Này thiện nam tử ! Ta nhớ thuở quá khứ, quá Phật sát vi trần số kiếp, có thế giới tên là Viên Mãn Trang Nghiêm. Phật hiệu là Vô Biên Quang Minh Pháp Giới Phổ Trang Nghiêm Vương Như Lai, đầy đủ mười hiệu.

Ðức Phật đó vào thành, ta tấu nhạc và đốt một nén hương cúng dường. Ta đem công đức ấy hồi hướng ba chỗ.

Xa lìa tất cả nghèo cùng khốn khổ.

Thường thấy chư Phật và thiện tri thứ.

Hằng nghe chánh pháp.

Do nhơn duyên đó mà được báu này.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết “MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT VÔ LƯỢNG PHƯỚC ĐỨC BỬU TẠNG” này.

Như chư đại Bồ Tát được bất tư nghì công đức bửu tạng, nhập vô phân biệt Như Lai thân hải, thọ vô phân biệt vô thượng pháp vân, tu vô phân biệt công đức đạo cụ, khởi vô phân biệt Phổ Hiền hạnh võng, nhập vô phân biệt tam muội cảnh giới, đồng vô phân biệt Bồ Tát thiện căn, trụ vô phân biệt sở trụ của Như Lai, chứng vô phân biệt tam thế bình đẳng, tru vô phân biệt phổ nhãn cảnh giới, trụ tất cả kiếp không có mỏi nhàm.

Ta làm sao biết được được nói được công đức hạnh đó.

Này thiện nam tử ! Phướng Nam đây có một nước tên là Ðằng Căn. Nước đó có thành tên là Phổ Môn. Trong thành có một Trưởng giả tên là Phổ Nhãn.

Ngươi đến đó hỏi : Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân của Trưởng giả Pháp Bửu Kế, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.



Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

 

10 tháng Tư 1990

 

15.- TRƯỞNG GIẢ BỬU KẾ


Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết  “MÔN GIẢI THOÁT BỒ TÁT VÔ LƯỢNG PHƯỚC ĐỨC BỬU TẠNG” này.

 

Kinh:

Này thiện nam tử, phương Nam đây có một thành lớn tên là Sư Tử Cung. Nơi đó có một Trưởng Giả tên là Pháp Bửu Kế.

Giảng: Thành Sư Tử Cung tức là cái cung của tâm mình, tức là vào gần đến một mức độ thành tựu viên mãn nào đó, có một vị tên Pháp Bửu Kế, vị này có viên hạt châu dắt trên mái tóc, viên ngọc đó tức là pháp bảo. VỊ này là một CƯ sĩ.

Kinh:

Thiện Tài Đổng Tử vui mừng hớn hở, cung kính tôn trọng giữ lễ đệ tử đối với cư sĩ.

Giảng: Câu này có thể giải thích một cách hơi sai khác nhau, thí dụ như Thượng Tọa Thanh Từ ông y cứ vào câu này để nói rằng, Thiện Tài là một người xuất gia, nhưng vẫn lễ vị Cư sĩ này. Nhưng trong kinh thường để nhiều chỗ lơ lửng, không quyết xác một điều gì nhất định, nên nghĩa trong kinh cũng rất biến hóa để tùy theo tâm thức mỗi người.

Kinh:

Thiện Tài Đồng Tử ở chỗ Minh Trí cư sĩ được nghe môn giải thoát này rồi, thời du hành biển phước đức đó… Thiện Tài đi lần đến thành Sư Tử tìm Trưởng Giả Bửu Kế, thấy trưởng giả này ở trong chợ. Thiện Tài vội đến đảnh lễ nơi chân trưởng giả, hữu nhiễu vô số vòng, chấp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo…

Giảng: Xin nhắc lại rằng, đầu tiên, khi Thiện Tài đến gặp thiện tri thức Tỳ Mục Cù Sa thì được 5 tam muội, đến ngài Thắng Nhiệt được 2 tam muội, còn vị trưởng giả này lại cầm tay Thiện Tài dắt đến chỗ ông ở, chỉ nhà của ông bảo Thiện Tài xem, tức là ngài muốn chỉ cho Thiện Tài thây sự biến hiện của tâm thức mình biến thành những y báo bên ngoài, và cái gì cũng trang nghiêm cả.

Kinh:

Thiện Tài thấy nhà cửa của trưởng giả thanh tịnh quang minh làm bằng chơn kim, vách băng bạch ngân, điện bằng pha lê, lưu ly bửu mầu biếc,… nhà đó rộng rãi mười từng, tám cửa…

Giảng: Mười từng là mười độ, tám cửa là tám con đường giải thoát, tức là bát chánh đạo…

Kinh:

Khi đã vào nhà, Thiện Tài theo thứ đệ mà quán sát. Thấy từng dưới hết thí những đồ uống ăn, thấy từng thứ hai thí những bửu y, thấy từng thứ ba bố thí tất cả đồ báu trang nghiêm, thấy từng thứ tư thí những thể nữ và tất cả trân bửu thượng diệu, thấy từng thứ năm có chư Bồ Tát nhẫn đến ngũ địa Bồ Tát vân tập diễn nói các pháp lợi ích chúng sanh, thành tựu tất cả đà la ni môn các tam muội ấn, các tam muội hạnh, trí huệ quang minh, thấy từng thứ sáu có chư Bồ Tát đều đã thành tựu trí huệ thậm thâm, minh liễu thông dạt nơi pháp tánh, thành tựu môn tổng trì tam muội quảng dại không chướng ngại, chỗ làm vô ngại chẳng trụ hai pháp, ở trong bất khả thuyết diệu trang nghiêm đạo tràng mà cùng tập hội phân biệt hiển thị môn bát nhã ba la mật: những là môn bát nhã ba la mật tịch tịnh tạng…, môn bát nhã ba la mật chẳng thể động chuyển…, môn bát nhã ba la mật ly dục quang minh,… môn bát nhã ba la mật phổ nhãn xả đắc,… môn bát nhã ba la mật nhập tất cả thế gian hải, v.v…

Giảng: ở vị thiện tri thức thứ 6 là ngài Hải Tràng Tỳ Kheo nói rằng, ngài đắc được môn gọi là “Phổ Nhãn xả đắc,” tức là “Bát Nhã Ba La Mật thanh tịnh cảnh giới quang minh,” tức là “Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm,” còn vị này thì đắc được nhiều môn bát nhã ba la mật, (tôi chỉ đọc lược mà không đọc hết được, muốn biết thêm, quí vị về nhà mở kinh để đọc cho hết), vì vậy ta nên hiểu rằng, mỗi tâm thức làm óng ánh lên một thứ về Bát Nhã và về đại bi, vị nầy, tâm thức ngài óng ánh lên nhiều thứ. Tâ’t cả những môn bát nhã này đều dính liền với đại bi cả…

Kinh:

Tầng thứ bảy có chư Bồ Tát được như hưởng nhẫn,… tầng thứ tám có vô lượng Bồ Tát cùng hội họp trong đó, đều được thần thông không còn thối đọa,… tầng thứ chín chư Bồ Tát nhất sanh bổ xứ tập hội trong đó,… tầng thứ mười chư Phật Như Lai ngự đầy trong đó…

Giảng: Vị thiện tri thức này, có lẽ ở mức độ Đẳng Giác. Sau khi quán sát, Thiện Tài hỏi rằng do duyên gì mà thành chúng hội thanh tịnh này, tức là thành tựu tất cả cảnh giới của chư đại Bồ Tát và chư Như Lai, và gieo căn lành gì mà được báo như vậy? Ngài trưởng giả trả lời một câu rất hay, tôi xin đọc lược cho quí vị nghe qua…

Kinh:

Này thiện nam tử, ta nhớ thưở quá khứ quá Phật sát vi trần số kiếp, có thế giới tên là Viên Mãn trang nghiêm. Phật hiệu vô biên quang minh pháp giới phổ nhãn trang nghiêm vương Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Đức Phật đó vào thành, ta tấu nhạc và đốt một nén hương cúng dương. Ta đem công đức ây hồi hướng ba chỗ. Một là xa lìa tất cả nghèo cùng khốn khổ. Hai là thường thấy chư Phật và thiện tri thức, ba là hằng nghe chánh pháp.

Giảng: Vị này chỉ tấu một bản nhạc và thắp một nén hương để cúng dường Phật thôi mà được phước báo như thế này. Trong đoạn kinh này thật khó hiểu,… ta nhớ thưở quá khứ quá Phật sát vi trần số kiếp…, tức là ở đây cũng có hai nghĩa một là ngài đã tu lâu lắm rồi từ rất xa xưa, hai là ngài vào được tam muội rất sâu… ta tấu nhạc và đốt một nén hương cúng dương…, tức là ngài tấu nhạc theo lối trong kinh Hoa Nghiêm phẩm thập địa ở địa thứ chín và địa thứ mười. Nghĩa là vị Bồ Tát đó ngồi quán chiếu như huyễn, dùng tâm lực của mình làm khởi lên từ các lỗ chân lông những âm thanh vi diệu để cúng dường Phật, đồng thời khiến tất cả các cõi những loài hữu tình và vô tình đều phát những diệu âm, như thế mới gọi là tấu nhạc. Đồng thời ngài lại đốt một nén hương, đó là nén hương này có ngũ phần pháp thân, tức là có đủ giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương và giải thoát tri kiến hương. Làm như vậy xong, ngài chĩ hồi hướng đến ba chỗ, là xa lìa tâ’t cả nghèo cùng khốn khổ; có nghĩa rằng, trong Phật pháp, một người “nghèo cùng khốn khổ” là người không có Bát Nhã, không Đại Bi, không có tam muội, nên ỏ đây, nghĩa là ngài xin được về sau có 7 thánh tài, và vô lượng thánh tài, ngài không cần đến của cải thế gian, mà chỉ xin được đầy đủ trang nghiêm Bát Nhã và Đại Bi và tam muội. Còn chỗ thứ hai là thường thấy chư Phật và thường nghe chánh pháp thì rõ nghĩa rồi không cần phải giảng thêm.

Kinh:

Này thiện nam tử, ta chỉ biết môn giải thoát Bồ Tát vô lượng phước đức bửu tạng này…

Giảng: Vị thiện tri thức trên đây thì được môn “Vô Tận Tạng Phước Đức,” vị sau được “Tùy Niệm Xuất Sanh phước đức,” còn vị này được môn “Bồ Tát vô lượng phước đức bửu tạng,” đủ thấy rằng dần dần có mức độ đi lên.


Comments

Popular posts from this blog