ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



19.- BẤT ÐỘNG ƯU BÀ DI

 

Bất Ðộng Ưu bà di nói : Ta chỉ được  "CẦU NHỨT THIẾT PHÁP VÔ YỂM TÚC TAM MUỘI QUANG MINH" này, vì tất cả chúng sanh mà nói vi diệu pháp đều làm cho hoan hỷ.


 

Lúc đó Thiện Tài đồng tử ra khỏi thành Diệu Quang đi theo đường lớn về phía Nam, chánh niệm tư duy ý nghĩa của vua Ðại Quang đã dạy, nhớ môn Bồ Tát đại từ tràng hạnh, tư duy môn Bồ Tát tùy thuận thế gian tam muội quang minh. Tăng trưởng sức phước đức tự tại nguyện bất tư nghì đó. Kiên cố trí bất tư nghì thành tựu chúng sanh đó. Quán sát đại oai đức bất tư nghì cộng thọ dụng đó. Ghi nhớ tướng bất tư nghì sai biệt đó. Suy gẫm quyến thuộc thanh tịnh bất tư nghì đó. Suy xét công hạnh bất tư nghì đó sanh tâm hoan hỉ, tâm tịnh tín, tâm mãnh lợi, tâm hân duyệt, tâm dũng dước, tâm khánh hạnh, tâm vô trược uế, tâm thanh tịnh, tâm kiên cố, tâm quảng đại, tâm vô tận.

Thiện Tài tư duy như vậy buồn khóc rơi lệ, nghĩ thiện tri thức thiệt là hi hữu, là chỗ xuất sanh tất cả công đức, xuất sanh tất cả Bồ Tát hạnh, xuất sanh tất cả Bồ Tát tịnh niệm, xuất sanh tất cả đà la ni luân, xuất sanh tất cả tam muội quang minh, xuất sanh tất cả chư Phật tri kiến, mưa khắp tất cả chư Phật pháp vũ, hiển thị tất cả Bồ Tát nguyện môn, xuất sanh nan tư trí huệ quang minh, tăng trưởng gốc mầm tất cả Bồ Tát.

Thiện Tài lại nghĩ rằng : Thiện tri thức có thể cứu hộ khắp tất cả ác đạo, có thể diễn thuyết khắp các pháp bình đẳng, có thể hiển thị khắp những đường bằng đường hiểm, có thể khai xiển khắp áo nghĩa Ðại thừa, có thể khắp khuyên phát những hạnh Phổ Hiền, có thể khắp dẫn đến thành Nhất thiết trí, có thể làm cho vào khắp pháp giới đại hải, có thể làm cho thấy khắp tam thế pháp hải, có thể khắp trao cho chúng Thánh đạo tràng, có thể khắp tăng trưởng tất cả bạch pháp.

Lúc Thiện Tài bi ai tư niệm như vậy, đức Như Lai khiến Thiên Vương hiện trên hư không bảo rằng :

Này thiện nam tử ! Có ai tu hành đúng lời dạy của thiện tri thức, chư Phật Thế Tôn thảy đều hoan hỷ. Có ai tùy thuận theo lời của thiện tri thức thời được gần bậc Nhứt thiết trí. Có ai đối với lời của thiện tri thức không nghi hoặc thời thường gặp gỡ tất cả thiện hữu. Có ai phát tâm nguyện thường chẳng rời thiện trì thức thời được đầy đủ tất cả nghĩa lợi.

Này thiện nam tử ! Ngươi nên đến Vương đô An Trụ sẽ được gặp BẤT ÐỘNG ƯU BÀ DI đại thiện tri thức.

Thiện Tài từ tam muội trí quang minh dậy, đi lần đến thành An Trụ tìm hỏi Bất Ðộng Ưu bà di.

Ðại chúng bảo rằng Bất Ðộng Ưu bà di là đồng nữ ở nhà với cha mẹ, mẹ cùng với quyến thuộc vô lượng nhơn chúng diễn nói diệu pháp.

Thiện Tài nghe nói lòng rất hoan hỷ như được gặp cha mẹ, liền đến nhà Bất Ðộng Ưu ba di.

Vào trong nhà thấy ánh sáng màu chơn kim chiếu khắp nơi, người gặp ánh sáng này thời thân tâm mát mẻ.

Ánh sáng chiếu đến thân, Thiện Tài liền chứng được năm trăm môn tam muội. Như là môn tam muội rõ tất cả tướng hy hữu, môn tam muội nhập tịch tịnh, môn tam muội xa lìa tất cả thế gian, môn tam muội phổ nhãn xả đắc, môn tam muội Như Lai tạng, v.v…

Do được năm trăm môn tam muội nên thân tâm nhu nhuyến như thai bảy ngày.

Lại nghe mùi hương, cõi trời cõi người không có được.

Thiện Tài đến chỗ Ưu bà di cung kính chắp tay nhất tâm quán sát, thấy hình sắc của Ưu bà di đoan trang xinh đẹp. Tất cả nữ nhơn trong mười phương thế giới không ai sánh kịp huống là có người hơn. Chỉ trừ đức Như Lai và chư quán đảnh Bồ Tát. Miệng Ưu bà di phát ra diệu hương.

Cung điện rất trang nghiêm và quyến thuộc của Ưu bà di này không đâu sánh bằng.

Tất cả chúng sanh không ai sanh tâm nhiễm trước đối với Ưu bà di này.

Nếu ai được tạm thời thấy Ưu bà di này thời tất cả phiền não thãy đều tự tiêu diệt, ví như trăm ngàn Ðại Phạm Thiên Vương, quyết định chẳng sanh phiền não cõi Dục.

Thập phương chúng sanh nhìn xem Ưu bà di này đều không nhàm chán. Chỉ trừ bậc đầy đủ đại trí tuệ.

Lúc đó Thiện Tài đồng tử cung kính chắp tay chánh niệm quán sát, thấy thân hình bất động Ưu bà di tự tại bất tư nghì, sắc tướng dung nhan thế gian không sánh kịp, quang minh chiếu suốt không vật gì ngăn được, vì khắp chúng sanh mà làm lợi ích. Lỗ lông nơi thân Ưu bà di thường phát ra diệu hương. Quyến thuộc vô biên, cung điện đệ nhất, công đức vô lượng không ngằn mé.

Thiện Tài vui mừng hớn hở nói kệ tán thán:

Giử gìn giới thanh tịnh

Tu hành nhẫn rộng lớn

Tinh tấn chẳng thối chuyển

Quang minh chiếu thế gian.

Nói kệ xong, Thiện Tài thưa :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Tôi nghe đức Thánh khéo chỉ bảo, xin dạy cho.

Bất Ðộng Ưu bà di dùng lời nhu nhuyến duyệt ý của Bồ Tát an ủi Thiện Tài rằng :

Lành thay, lành thay ! Thiện nam tử đã phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Này thiện nam tử ! Ta được môn giải thoát Bồ Tát nan tồi phục trí huệ tạng. Ta được Bồ Tát kiên cố thọ trì hạnh giải thoát môn. Ta được Bồ Tát nhất thiết pháp bình đẳng địa tổng trì môn. Ta được Bồ Tát chiếu minh nhất thiết pháp biện tài môn. Ta được Bồ Tát cầu nhất thiết pháp vô bì yểm tam muội môn.

Thiện Tài thưa : Bạch đức Thánh ! Cảnh giới của Bồ Tát nan tồi phục trí huệ tạng giải thoát môn nhẫn đến cảnh giới của Bồ Tát cầu nhất thiết pháp vô bì yểm tam muội môn như thế nào ?

Bất Ðộng đồng nữ nói : Này thiện nam tử ! Chỗ này khó biết.

Thiện Tài thưa : Mong đức Thánh thừa Phật thần lực giảng giải cho. Tôi sẽ nhơn thiện tri thức mà tin được, thọ được, biết được, rõ được, có thể xu nhập, quán sát, tu tập, tùy thuận, rời các phân biệt rốt ráo bình đẳng.

Bất Ðộng nói : Này thiện nam tử ! Quá khứ có một kiếp tên là Ly Cấu, Phật hiệu Tu Tý.

Thuở đó có Quốc Vương tên là Ðiển Thọ chỉ sanh một gái, chính là tiền thân của ta.

Một đêm khuya kia, lúc dẹp âm nhạc, vương phụ, vương mẫu, vương huynh, vương đệ và năm trăm đồng nữ đều đã ngủ.

Công nương ở trên lầu ngước xem tinh tú, ở trong hư không thấy đức Tu Tý Như Lai như tòa bửu sơn hai bên có vô lượng vô biên Thiên, Long, Bát Bộ và chúng Bồ Tát hầu hạ.

Thân Phật phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương không chướng ngại. Toàn thân Phật, các lỗ lông đều phát diệu hương.

Công nương nghe diệu hương của Phật thân thể nhu nhuyến, lòng hoan hỷ, bèn xuống lầu đứng trên đất, chắp mười ngón tay đảnh lễ đức Phật. Công nương lại quán sát vô kiến đảnh tướng của đức Phật, thấy thân Phật phía tả phía hữu không biết được ngằn mé. Tư duy các tướng tùy hảo của Phật không nhàm chán. Tự nghĩ thầm :

Ðức Phật Thế Tôn đây thật hành công hạnh gì mà được thân tướng tốt đẹp viên mãn quang minh đầy đủ, quyến thuộc thành tựu, cung điện trang nghiêm tốt đẹp, phước đức trí huệ thảy đều thanh tịnh, tổng trì tam muội chẳng thể nghĩ bàn, thần thông tự tại, biện tài vô ngại.

Ðức Phật biết tâm niệm của Công nương nên bảo rằng : Ngươi nên phát tâm bất khả hoại, diệt các phiền não. Nên phát tâm vô năng thắng, phá các chấp trước. Nên phát tâm không thối khiếp, nhập các pháp môn. Nên phát tâm nhẫn nại, cứu chúng sanh ác. Nên phát tâm không mê hoặc, thọ sanh khắp các loài. Nên phát tâm không nhàm đủ, cầu thấy chư Phật không thôi ngớt. Nên phát tâm không biết đủ, lãnh thọ tất cả pháp vũ của Như Lai. Nên phát tâm chánh tư duy, sanh khắp tất cả Phật pháp quang minh. Nên phát tâm đại trụ trì, chuyển khắp tất cả chư Phật pháp luân. Nên phát tâm rộng lưu thông, tùy sở thích của chúng sanh mà ban cho pháp bửu.

Công nương nghe Phật dạy những pháp như vậy liền phát tâm cầu Nhứt thiết trí, cầu Phật thập lực, cầu Phật biện tài, cầu Phật quang minh, cầu Phật sắc thân, cầu Phật tướng hảo, cầu Phật chúng hội, cầu Phật quốc độ, cầu Phật oai nghi, cầu Phật thọ mạng.

Tâm của Công nương như kim cang, tất cả phiền não nhẫn đến Nhị thừa đều không phá hoại được.

Này thiện nam tử ! Từ đời làm Công nương phát tâm như vậy đến nay, trải qua Diêm Phù Ðề vi trần số kiếp, ta còn chẳng móng một tâm niệm ái dục, huống là làm sự ấy. Trong những kiếp ấy, đối với quyến thuộc chẳng khởi một niệm sân hận, huống là với chúng sanh khác. Trong những kiếp ấy, đối với tự thân không có một niệm ngã kiến, huống là có niệm ngã sở đối với đồ vật. Từ những kiếp ấy, lúc chết lúc sanh và lúc ở trong bào thai chưa từng mê muội sanh trưởng chúng sanh và tâm vô ký, huống là những lúc khác. Trong những kiếp đó, tùy thấy một đức Phật nào, chưa từng quên mất, huống là Bồ Tát thập nhãn ngó thấy. Trong những kiếp ấy, thọ trì tất cả Như Lai chánh pháp, chưa từng quên sót một chữ một câu, nhẫn đến tất cả ngôn từ của thế tục còn chẳng quên mất, huống là lời từ kim khẩu của đức Như Lai. Trong những kiếp ấy, thọ trì tất cả Như Lai pháp hải, không một câu một chử nào mà chẳng tư duy quán sát nhẫn đến tất cả pháp thế tục cũng như vậy. Trong những kiếp ấy, thọ trì tất cả pháp hải như vậy chưa từng ở trong một pháp mà chẳng được tam muội, nhẫn đến những kỹ thuật thế gian, mỗi mỗi pháp cũng đều như vậy. Trong những kiếp ấy, trụ trì tất cả Như Lai pháp luân, tùy pháp đã trụ trì chưa từng bỏ một chữ một câu, nhẫn đến chưa sanh thế trí, chỉ trừ khi vì muốn điều phục chúng sanh. Trong những kiếp ấy, thấy chư Phật hải chưa từng ở chỗ một đức Phật nào mà chẳng thành tựu đại nguyện thanh tịnh, nhẫn đến ở chỗ Hóa Phật cũng như vậy. Trong những kiếp ấy, thấy chư Bồ Tát tu hành diệu hạnh không có một hạnh nào mà chẳng thành tựu. Trong những kiếp ấy, có bao nhiêu chúng sanh, không có một chúng sanh nào mà ta chẳng khuyên phát tâm Vô thượng Bồ đề, chưa từng khuyên ai phát tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật. Trong những kiếp ấy, nơi tất cả Phật pháp, nhẫn đến chẳng nghi hoặc có một câu một chữ. Cũng chẳng có tưởng sai khác, chẳng có tưởng phân biệt, chẳng có các thứ tưởng chẳng có tưởng chấp trước, chẳng có tưởng thắng liệt, chẳng có tưởng yêu ghét.

Này thiện nam tử ! Từ ấy đến nay, ta thường thấy chư Phật, thường thất Bồ Tát, thường thấy chơn thiện tri thức, thường nghe chư Phật nguyện, thường nghe Bồ Tát hạnh, thường nghe Bồ Tát na la mật môn, thường nghe Bồ Tát địa trí quang minh môn, thường nghe Bồ Tát vô tận tạng môn, thường nghe nhập vô biên thế giới võng môn, thường nghe xuất sanh vô biên chúng sanh giới nhơn môn. Thường dùng trí huệ quang minh thanh tịnh diệt trừ tất cả chúng sanh phiền não. Thường dùng trí huệ sanh trưởng tất cả chúng sanh thiện căn. Thường tùy chúng sanh sở thích mà hiện thân. Thường dùng ngôn âm thượng diệu thanh tịnh khai ngộ pháp giới tất cả chúng sanh.

Này thiện nam tử ! Ta được Bồ Tát cầu nhất thiết pháp vô yểm túc trang nghiêm môn. Ta được nhất thiết pháp tổng trì môn hiện bất tư nghì tự tại thần biến. Ngươi muốn thấy chăng ?

Thiện Tài thưa :

Vâng ! Bạch đức Thánh ! Tôi muốn được thấy.

Lúc đó Bất Ðộng Ưu bà di ngồi trên tòa long tạng sư tử, nhập cầu nhất thiết pháp vô yểm túc trang nghiêm tam muội môn, bất không luân trang nghiêm tam muội môn, thập lực trí luân hiện tiền tam muội môn, Phật chủng vô tận tạng tam muội môn, nhập một vạn tam muội môn như vậy.

Lúc Ưu bà di nhập tam muội môn này, mười phương đều có bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới chấn động sáu cách, đều bằng lưu ly đều thanh tịnh.

Trong mỗi mỗi thế giới có trăm ức ức tứ thiên hạ, trăm ức Như Lai, hoặc trụ Ðâu suất Thiên, nhẫn đến nhập Niết bàn, mỗi mỗi Như Lai phóng quang minh võng chiếu khắp pháp giới, đạo tràng chúng hội thanh tịnh vây quanh chuyển diệu pháp luân khai ngộ quần sanh.

Bất Ðộng Ưu bà di xuất tam muội, hỏi Thiện Tài :

Ngươi có thấy chăng ?

Thiện Tài thưa :

Vâng ! Tôi đã thấy.

Bất Ðộng Ưu bà di nói :

Ta chỉ được "CẦU NHỨT THIẾT PHÁP VÔ YỂM TÚC TAM MUỘI QUANG MINH" này, vì tất cả chúng sanh mà nói vi diệu pháp đều làm cho hoan hỷ.

Như chư đại Bồ Tát du hành hư không vô ngại như Kim Sí Ðiểu, có thể vào tất cả chúng sanh đại hải, thấy có ai thiện căn đã thành thục, liền bắt lấy để trên bờ Bồ đề.

Lại như thương gia vào đại bửu đảo lượm lấy Như Lai thập lực trí bửu.

Lại như nhà chài lưới cầm lưới chánh pháp vào biển sanh tử ở trong nước ái lược bắt chúng sanh.

Như A Tu La Vương có thể khắp khuấy động khắp tam hữu đại thành những biển phiền não.

Lại như mặt nhựt xuất hiện hư không chiếu nước ái dơ làm cho khô cạn.

Lại như mặt trăng tròn xuất hiện hư không làm cho người đáng hóa độ, tâm hoa được khai nở.

Lại như đại địa đều bình đẳng với tất cả, tất cả chúng sanh nương ở nơi đó được tăng trưởng gốc mầm tất cả pháp lành.

Lại như đại phong thổi vô ngại, có thể nhổ trốc tất cả cây lớn kiến chấp.

Như Chuyển Luân Vương du hành thế gian, dùng Tứ nhiếp pháp nhiếp các chúng sanh.

Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh ấy.

Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một đại thành tên là Vô Lượng Ðô Tát La. Trong thành đó có một xuất gia ngoại đạo tên là Biến Hành.

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Bất Ðộng Ưu bà di, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi.



Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


Pháp giới này không phải được dệt nên bằng những vi trần, mà chỉ được TREO trên đầu một sợi lông, trên đầu MỘT TÂM NIỆM. Cho nên không gian và thời gian không phải là những thực tại khách quan tồn tại độc lập, mà chỉ là những vọng tưởng hàm số của tâm thức mỗi loài chúng sanh.

Và ngài Thiện Tài đi ta bà các cõi, cũng chỉ là đi trong lỗ lông của ngài Phổ Hiền, mà cũng chỉ là đi quanh quẩn trong Tàng thức của mình mà thôi.

 

 15 tháng Tư 1990

 

Hôm nay là buổi thuyết giảng thứ 106 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này. Trong những lần trước, chúng tôi đã nói đến vị Thiện Tri Thức thứ 18, tức vị vua Đại Quang. Hôm nay, chúng ta lại tiếp tục đi vào kinh để gặp vị thiện tri thức thứ 19 là vị Ưu Bà Di Bất Động.

Nhưng trước khi đi vào kinh, tôi cũng xin dành một chút thì giờ để trả lời một số câu hỏi của một vị Phật tử tuần trước.


HỎI: Đến bao giờ thì có đức Di Lặc và hội Long Hoa?

ĐÁP: Muốn hiểu điều này rõ ràng, chúng ta phải nói đến kiếp tăng và kiếp giảm tức là một chu kỳ của đạo Phật. Theo đạo Phật, chúng ta đang ở kiếp giảm, tức là cứ mỗi một trăm năm thì tuổi thọ của chúng sinh trung bình giảm di một tuổi. Như ở thời đức Thích Ca Mâu Ni Phật cách dây 2500 năm, tuổi thọ con người khoảng độ trăm tuổi, dần dần cứ một trăm năm bớt di một tuổi, bây giờ tuổi thọ chỉ còn từ độ bảy chục đến bảy mươi lăm tuổi thôi. Nhưng nó không dừng lại ở con số này, một trăm năm nữa tuổi thọ lại tụt thêm một tuổi cho đến khi xuống tới mười tuổi, thì lúc bấy giờ đến kiếp hoại. Lúc đó, nhân loại chỉ sống mười năm nhưng vẫn làm đủ tất cả mọi sự mà chúng ta làm bây giờ, cũng lớn lên, cũng lấy vợ, cũng sinh con và cũng chết v.v… Đừng tưởng rằng pháp giới này là do chúng ta tạo dựng nên đâu, như trong sự cầy cấy chẳng hạn, đừng tưởng chỉ do công lao cầy cấy của chính mình mà có. Sở dĩ có được là do phước lực của mình, nên các vị quỉ thần tạm để cho mưa thuận gió hòa thì chúng ta mới có lúa gạo mà ăn. Nhưng đến khi phước hết, các vị quỉ thần sẽ làm tất cả các thiên tai, và lúc đó chúng ta không còn gì để ăn cả. Nên phải hiểu, pháp giới rất linh động, nhân lực chỉ làm được có một phần nhỏ thôi, còn lại là do trí huệ và phước đức mà ra cả. Lúc đó trong kiếp hoại, đất cát khô cằn, thiên tai nổi lên khắp nơi, binh đao loạn lạc, không có gì để ăn. Theo như kinh kể thì người ta phải kiếm những xương của người chết gặm gân khô mà ăn. Qua thời kỳ kiếp giảm sẽ sang đến thời kỳ kiếp hoại rồi sau đó sẽ đến kiếp tăng, lúc bây giờ tuổi thọ của chúng sanh từ mười tuổi lại tăng dần lên đến một trăm tuổi, đến một ngàn tuổi, đến vạn tuổi rồi đến tám vạn tuổi thì lúc bấy giờ đức Di Lặc ra đời. Trong đạo Phật nói rất lạ, không có một tôn giáo nào nói như thế cả, và phải hiểu rằng chúng ta chỉ có một đôi mắt thịt, căn cơ lại kém, trí huệ nông cạn, chỉ có thể nhìn được một khúc thời gian rất ngắn. Dù khoa học có mò mẫm tìm kiếm cũng chỉ có thể dựa trên những dữ kiện để đoán biết vài nghìn năm về quá khứ là cùng mà không thể đoán biết được nhiều về tương lai. Trái lại, trong đạo Phật, các ngài là những bậc Đại Giác đã có đủ ngũ nhãn, có thể nhìn thấy vô lượng kiếp, nên các ngài bảo cho chúng ta biết như thế. Không đâu xa, trong phẩm Nhập Pháp Giới, chúng ta thường gặp những danh từ như “từ vi trần số kiếp về trước…” điều này chúng ta nên khởi lòng tin, nếu tin được như vậy, tâm chúng ta có thể mở ra rất rộng.

Lúc đó đức Di Lặc từ cung trời Đâu Xuất xuống thị hiện làm một vị Hoàng Tử, lớn lên đi tu, sau đắc đạo. Nhưng tất cả chỉ là thị hiện mà thôi. Ngài hiện giờ đương ngồi trên cung trời Đâu Xuất, nhìn xuống nhân gian xem gia đình nào có đầy đủ phước đức để mang thai ngài, gọi là vào thai nhưng vẫn là hóa sanh. Lúc bấy giờ, cõi Ta Bà này đã chuyển biến, càng ngày càng đi lên, trang nghiêm và đẹp đẽ hơn bây giờ rất nhiều, chúng sanh cũng nhiều phước đức hơn, nên không phải khổ sở làm lụng vất vả như chúng ta bây giờ.

Nếu làm một con tính từ giờ đến khi ngài Di Lặc ra đời thì còn khoảng tám triệu năm nữa. Trong tám triệu năm, cõi Ta Bà dần dần bớt ô uế, lúc bấy giờ Đức Di Lặc sẽ mở nhiều hội Long Hoa để thuyết pháp. Hội Long Hoa đầu tiên ngài thuyết pháp có chín chục ngàn người đắc đạo, hội Long Hoa thứ hai có chín mươi tư ngàn người đắc đạo, rồi đến hội thứ ba cũng có rất nhiều v.v…, đại khái là vậy. Vì sao chúng sanh đắc đạo được nhiều và dễ thế? Vì lúc đó, phước lực và trí lực của chúng sanh đã cao rồi, nên tuổi thọ mới cao. Sau đó, cõi Ta Bà dần dần được ngài Di Lặc chuyển hóa thành cõi Tịnh Độ mà là tịnh độ ở nhân gian. Nếu so với cõi Tịnh Độ của ngài A Di Đà, thì cõi A Di Đà được kết bằng quanh minh vi diệu hơn, vì sao? Vì ở cõi Tịnh Độ Nhân Gian của ngài Di Lặc, chúng sinh vẫn còn phải mang một sắc thân máu mủ thô kệch, vẫn phải đi đại và tiểu tiện, vẫn có nam nữ .v.v… nên không thể bằng cõi Cực Lạc của ngài A Di Đà. Nhưng không phải vì vậy mà ngài Di Lặc kém ngài A Di Đà đâu, mà vì mỗi loại chúng sanh, có cộng nghiệp thế nào thì các ngài hóa hiện thế giới ấy cũng tương ưng mà thôi. Vì cộng nghiệp thế nào thì y báo luôn luôn tương ưng, chứ không phải Đức Phật này kém Đức Phật nọ.

Phần đông các vị Cao Đài thường hay có ý tưởng chủ quan, nói rằng pháp hội Long Hoa sắp tới rồi, như vậy không đúng, vì dựa theo trong kinh, (và nhiều người cũng đồng ý với con số tính toán như vậy) là phải tắm triệu năm nữa ngài Di Lặc mới ra đời.


HỎI: Có phải ngài Diêm Vương dưới Địa ngục thị hiện tra tấn các tội nhân như Vua Vô Yểm Túc trong phẩm Nhập Pháp Giới không?

ĐÁP: Chúng ta phải nhớ đến câu trong kinh Hoa Nghiêm rằng “Tất cả pháp giới đều tạo dựng nên bằng thần lực hải của Chư Phật, bằng nguyện lực hải của Chư Đại Bồ Tát và bằng nghiệp lực hải của chúng sanh.” Thân căn chúng ta đây tạo dựng bằng nghiệp lực, còn những tội nhân hóa thần của Vua Vô Yểm Túc tạo dựng bằng chính thần lực và nguyên lực của ngài, vì vậy hai loại chúng sanh ấy khác nhau, tuy đều gọi là chúng sanh cả, vì sao? Vì tội nhân của Vua Vô Yểm Túc là những người huyễn, huyễn tức là không có nghiệp lực mà chỉ có thần lực và nguyện lực tạo nên thôi, nên dù rằng cưa, xẻ, chặt đầu, moi ruột, móc óc, mổ sẻ v.v… thì những người huyễn đó không thọ đau đớn. Đó chỉ là những hình thức phương tiện làm gương để hóa độ những chúng sanh can cường khiến chúng cảm thấy sợ thôi. Còn cõi Địa Ngục do ngài Diêm Vương cai quản, thì cũng như mọi sự vật trong pháp giới đều không thực không hư, nhưng vì chúng ta mang nghiệp lực u mê, ám chướng, mờ mịt, nên địa ngục vẫn là thật đối với ta. Vì vậy, xuống Địa Ngục bị cưa chẻ vẫn thọ sự khổ và đau đớn khôn cùng, dầu thế, nhưng lại không chết. Còn nếu khi một hành giả quán được như huyễn tam ma đề, thì cảnh địa ngục không còn lưu ngại nữa. Trong kinh Đại Bát Nhã, ở phẩm “Hóa nhân thính pháp” nói rõ rằng, trong những pháp hội cao siêu, nếu pháp hội đó không có người nghiệp lực đến nghe, thì các vị Bồ Tát sẽ hiện những hóa thân xuống nghe, nghe để làm gương cho người khác. Hóa nhân không có nghiệp lực, nhưng hóa nhân đó vẫn có thể làm đủ thứ như người thường vậy, vẫn ăn, uống, đại tiện, tiểu tiện v.v… và tất cả chỉ đều là thị hiện. Nhưng vì không có nghiệp lực nên không có sự thọ, tức là không yêu, không ghét, không đau đớn, không vui sướng v.v… mà chỉ là do tâm lực của vị Bồ Tát đó suy động thôi. Trong kinh Hoa Nghiêm lại nói rõ rằng, (phẩm Ly thế gian trang 1405) với một vi Bồ Tát lớn, thì ngay hóa thần đó cũng có thể tạo vô lượng hóa thân để độ sanh được, hóa thân lại tạo hóa thần vô cùng tận.


HỎI: Ngài A Nan lâu thành tựu quả A La Hán vì học nhiều, đa văn mà thiếu hành, vậy chữ “hành” ở đây có phải là thiền không?

ĐÁP: Theo tôi nghĩ, nhiều phần là ngài A Nan thị hiện sự giải đãi ấy. Cũng nên nhớ rằng, các ngài Thanh Văn thường chỉ tu giới và thiền, nên có thể về giới ngài giữ không được kỹ lưỡng lắm, nhưng vẫn chỉ là thị hiện cả, thứ nữa là ngài hơi thiếu về thiền, tức là về hành thiền. Trong thiền của ngài, ngài đã vượt sắc ấm rồi, nhưng ngài cứ lãng đãng trong thọ ấm, tưởng ấm mà không vào đến hành ấm, không tiêu dung cái ngã của mình, nên không vào được đến thức ấm và không đắc được quả A La Hán. Nhưng ta cũng phải hiểu rằng những điều đó chỉ là thị hiện, vì sau này, khi Phật diệt độ, ngài bị ngài Ca Diếp quở trách, và ngài chỉ cần tu hai đêm là đắc ngay được quả A La Hán.

Thanh Văn tu hành chỉ có giới lực và định lực mà ít huệ lực, nhưng riêng đối với ngài A Nan thì ngài có nhiều huệ lực.

Đại khái đó là những câu hỏi tương đối quan trọng, còn những câu hỏi khác, tôi nghĩ rằng nếu chị nghe lâu dần dần sẽ vỡ ra thôi.


Bây giờ chúng ta xin trở về kinh…


Trước hết tôi xin tóm lược từ vị thứ 11 đến vị thứ 18 trong những lần giảng trước…

Trong các vị thiện tri thức, các ngài thường đều quán chiếu như huyễn, quán chiếu như huyễn tức là quán chiếu không thật không hư, quán chiếu vừa không, vừa giả, nhưng mỗi vị quán chiếu theo hạnh của mình. Như một vị làm hạnh bố thí, cũng vẫn là quán chiếu như huyễn, trong khi ngài bố thí đưa bát hứng đồ ăn cho mọi người, thì ngài vẫn quán thân này là huyễn, các chúng sanh đến thọ thực cũng huyễn, mà ngay cả cái bát đựng tất vô lượng đồ ăn, khởi từ điểm không hư lên cũng là huyễn mộng. Quán như vậy thì phước đức mới vô lượng, mà đồ bố thí mới vô lượng. Như vị vua Đại Quang, quán chiếu đại từ hạnh, quán đến mức tất cả cây cỏ phải nghiêng về mình, các thú dữ đổi tâm ác thành từ bi, nhưng dù vậy vẫn phải quán như huyễn, quán lòng từ khởi lên chỉ như huyễn, quán tất cã chúng sanh cũng là huyễn mộng, mà dùng pháp huyễn để trị những huyễn kia. Như trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật nói đến Từ Tam Muội, ngài kể rằng lúc đó, có năm trăm tên cướp bị vua Ba Tư Nặc khoét mắt rồi đẩy vào rừng sâu, vừa đi, vừa khóc. Đức Phật thấy những người đó có nhân duyên cũ từ nhiều kiếp trước, ngài bèn nhập từ tam muội, sau đó tự nhiên có luồng gió mát thổi đến, quyện vào mắt của năm trăm tên cướp khiến được lành lặn. Rồi Ngài nói rằng đó chỉ là do lực của từ tam muội làm thành. Vì vậy, ta phải hiểu rằng, trong bất cứ việc làm nào của một bậc Đại Giác, các ngài không bao giờ nói đến cái ta cả, vì sao? Vì nói đến cái Ta tức là còn chấp có, không, còn chấp có tự, có tha. Các ngài chỉ nói đó là sức của tam muội là như vậy mà thôi. Do đó, một vị hành giả đi con đường đạo, dù viết sách, hay giảng kinh, hoặc vào tam muội, hay ngồi tụng kinh, hoặc thọ bát quan trai v.v…nếu vẫn còn chấp có mình làm thì còn thấp, mà phải biết quán như huyễn thì cái quả mới trở nên ghê gớm, vì vậy ta phải mang tâm như huyễn để cúng dường Chư Phật là như vậy. Tất cả diễn trình của thiền định đều phải xả, xả thì mới nhiếp được lục căn trở về bên trong.

Ngài thứ 11 tức là một vị Tỳ Kheo tên là Thiện Kiến. Kinh nói rằng khi Thiện Tài đến gặp ngài Thiện Kiến thấy ngài Thiện Kiến còn rất trẻ, đi kinh hành không mau không chậm, người rất đẹp, có đến ba mươi tướng tốt. Ở đây, chúng ta nên nhớ rằng, tất cả những thân trang nghiêm tốt đẹp, hay giàu có phần đông đều do sự bố thí mà ra cả. Ngài Thiện Kiến nói rằng, ta tuổi còn trẻ, xuất gia chưa được lâu, nhưng ta tu tập từ vô lượng kiếp, ngay nơi đức Phật này, ta đã tu na-do-tha kiếp, thì ta phải hiểu rằng thời gian ở đây không thành vấn đề nửa. Sau ngài lại nói rằng ta đắc được quả giải thoát gọi là “tùy thuận đăng giải thoát.” Tùy thuận đăng là cái đèn tùy thuận căn cơ của chúng sanh mà chiếu soi, tức là ngài chuyên về bố thí pháp. Nhưng chắc chắn là trong khi bố thí pháp, ngài đồng thời cũng biết pháp đó chỉ là huyễn mộng, như vết chim bay, mà chính ngài cũng chỉ là huyễn mộng hiện lên để độ sanh, và những chúng sanh vì mê muội cứ tưởng mình là thật mà cũng chỉ là huyễn mộng mà thôi. Vì vậy, chúng ta đi trên đường Bồ Tát Đạo, thường không cần phải đi đâu xa xôi, hay làm một chuyện gì ghê gớm, mà chỉ cần độ ngay chúng sanh trước mắt mình, đó mới là quan trọng, và lúc nào chúng ta cũng có thể làm được cả. Đồng thời phải hiểu tất cả việc làm ấy đều huyễn hiện, người cho, kẻ nhận đều chập chùng ẩn hiện và nên luôn luôn phải nghĩ đến tâm từ làm lợi ích chúng sanh, cũng như không chấp ở những việc làm đó mới được. Như thế, dần dần tâm ta ngày càng lớn, càng kiên cố, xa lìa hết tất cả sự sợ hãi, và không còn có điều gì có thể lưu ngại được ta nữa.

Đến vị thứ 12, vị này là Đồng Tử Tự Tại Chủ, ngài thị hiện như một đứa trẻ nhỏ chỉ khoảng độ mười một tuổi, đứng bên bờ sông (tượng trưng cho bờ sông sanh tư), ngài đương đếm một đống cát để chơi, tức là đếm những phiền não của chúng sanh. Ngài nói rằng, ta ở nơi ngài Văn Thù Sư Lợi học được môn gọi là Nhái thiết công xảo trí chúng nghệ, tức là học tất cả những công nghệ ở thế gian, từ tướng số, chữa bệnh, toán pháp .v.v.., ngài nói về toán số cũng tương tự như trong phẩm A-tăng-kỳ mà Đức Phật nói, đại ý là khi tâm mình mở rộng vô lượng thì cũng biết được những con số vô lượng, và ngài học những công xảo này chỉ để độ cho chúng sanh, và vẫn phải quán chiếu như huyễn. Sau đó, ngài chỉ đến vị thiện tri thức khác là bà ưu Bà Di Cụ Túc. Khi Thiện Tài đến gặp vị này thì ngài đã có thiên nhãn, ngài có phước trí trang nghiêm tương ưng, nên Thiện Tài nhìn thấy y báo của vị ưu Bà Di Cụ Túc rất đẹp. Kinh tả vị này đã lớn tuổi, nhưng vẫn xinh đẹp đoan trang, mặc áo trắng, áo trắng nghĩa là ngài tu hành đã chuyển dần tàng thức của mình thành Bạch Tịnh Thức, và ngài để rủ tóc, không đeo hạt châu trên búi tóc. Cũng nên hiểu rằng thường thường hạt châu trên búi tóc tượng trưng cho pháp bảo, nhưng ngài lại không đeo, và không đeo trang sức. Trong nhà thì rỗng rang, chỉ có một cái bát nhỏ, bát đó tượng trưng cho cái điểm không hư (tức hưtâm), và ở nơi đó có thể khởi tất cả pháp giới này, vì vậy ngài đã dùng bát đó làm hiện ra đồ ăn để bố thí cho chúng sanh. Ngài bảo rằng ngài đã đắc được pháp môn gọi là Vô Tận Tạng Phước Đức Giải Thoát Môn, vì sao? Vì ngài lấy trong Diệu Tâm ấy vô số đồ cần dùng cho chúng sanh mà không bao giờ hết. chúng tôi đã giải thích nhiều lần về điểm này, vì khi vào sâu đến Bạch Tịnh Thức, hành giả có thể lấy ra vô lượng những cõi kim cương, hoặc trăm ngàn thiên nữ. Sau đó, Thiện Tài đến một vị khác là Minh Trí, ngài này cũng tu theo hạnh bố thí, nhưng có lẽ cao hơn vị trước một bậc, vì ngài Minh Trí ngồi ở giữa đường, ngoài chợ, tức là cơ duyên trí bình đẳng về cơ duyên cao hơn. Vì sao? Vì ở trong nhà thì cơ duyên gần hơn, có quen biết mới được mời tới, còn vị này thì ngồi ngay giữa chợ, cơ duyên nào đi qua cũng tiếp cả, đều độ hết, tức là tâm bình đẳng trí cao hơn. Ngài Minh Trí bảo rằng vì bố thí như vậy nên ngài đắc được môn Tùy Niệm Xuất Sanh Phước Đức Tạng. Tùy niệm có nghĩa rằng khi ngài muốn bô’ thí thì không cần đến ngoại vật như dùng đến cái bát nữa, mà chỉ cần nhiếp niệm ngẩng mặt lên hư không, thì tự nhiên sẽ có những đồ cần dùng tùy niệm của ngài mà mưa xuống để bố thí cho chúng sanh. Sau đó đến một vị khác là vị Pháp Bửu Kế, ngài cũng tu Vô lượng xuất sanh phước đức tạng, sau đó đến vị Phổ Nhãn, rồi đến vị vua Vô Yểm Túc, tức là vị vua ngồi xử những tội nhân, thị hiện rất nhiều hình phạt ghê sợ, nhưng tất cả chỉ là những hóa nhân, ngài thị hiện để răn dạy chúng sanh thôi, nên ngài tu theo Giải thoát như huyễn. Đến vị thiện tri thức sau là Vua Đại Quang, ngài nhập Đại Từ Tràng Hạnh thì tất cả chúng sanh chung quanh ngài đều khởi tâm từ cả, ngay cả cây cỏ cũng ngả xuống để hướng về ngài. Cũng như ngài Huyền Trang đi Tây Du về, cây tùng ở trong chùa ngài trụ trì đều ngả về phía Tây để đón ngài, như những vị thiền SƯ ngồi trong rừng quán tâm từ lên đến mức độ cao, thì thú dữ đều đến chầu hầu hết, chim chóc đi kiếm những hoa lạ đem đến cúng dường. Nhưng đó cũng còn thấp, quán tâm từ đến mức độ cao ghê gớm hơn nhiều, như Đức Phật, khi ngài khởi tâm từ thì có một luồng gió nổi lên chữa lành cho năm trăm tên cướp khỏi cảnh mù lòa. Trong đạo Phật, đường tu hành thì lắt lay xa vời, nhưng khi tới lại rất ghê gớm, thần biến không cùng. Nên ta thấy trong kinh, các vị thiện tri thức đều nói rằng ta tu từ vô lượng vô số kiếp, không có vị nào nói mới tu đây mà được những thần biến như vậy, rồi thì tu mãi, sẽ có cái tâm không mỏi nhàm, mà không xả bỏ, cứ làm hoài mà không còn nghĩ đến thời gian nữa.



19.- BẤT ÐỘNG ƯU BÀ DI


Bất Ðộng Ưu bà di nói : Ta chỉ được  "CẦU NHỨT THIẾT PHÁP VÔ YỂM TÚC TAM MUỘI QUANG 

MINH" này, vì tất cả chúng sanh mà nói vi diệu pháp đều làm cho hoan hỷ.



Bây giờ chúng ta đi vào Vị Ưu Bà Di Bất Động thứ 19.

KINH: Này thiện nam tử, phương nam đây có một kinh đô tên là An Trụ, có Ưu Bà Di tên là Bất Động. Lúc đó Thiện Tài đồng tử ra khỏi thành Diệu Quang đi theo đường lớn về phía Nam… (bỏ một đoạn kinh...) Thiện Tài tư duy như vậy buồn khóc rơi lệ, nghĩ thiện tri thức thiệt là hy hữu, là chỗ xuất sanh tất cả công đức, xuất sanh tất cả bồ tát hạnh, xuất sanh tất cả bồ tát tịnh niệm, xuất sanh tất cả đà la ni luân…

GIẢNG: Đà la ni là những diệu đức của tâm thức, vì khi tâm thức vào sâu trong tàng thức, thì nó sẽ nở ra những diệu đức, lúc đó hành giả nhớ hết mọi thứ, như trông cái cây kia biết có bao nhiêu lá, trông con sông có thể biết có bao nhiêu giọt nữớc, nghe chim hót cũng hiểu nó nói cái gì, đó đều là những diệu đức đà la ni. Còn chữ luân có nghĩa là những cơn lốc xoáy mạnh, như khi tâm tưởng xoáy tròn thì hiện tướng ở giữa, nên xoáy tròn trôn ốc là sự chuyển động chung của pháp giới này. Nhất là tâm tưởng của chúng ta luôn luôn xoay tròn, không bao giờ có một tâm tưởng nào đi thẳng tắp cả mà phải đi theo vòng trôn ốc, vì xoay tròn nên hiện tướng, nên khi tu lên cao, nó sẽ hiện lên các thứ đà la ni. Nên phải biết rằng pháp giới này không có đường thẳng, đó chỉ là ảo tưởng của mắt thịt thô kệch này thôi, và trong kinh Phật hay dùng chữ “luân/’để chỉ tất cả mọi sự, mọi vật đều đi theo đường vòng trôn ốc cả.

KINH: Này thiện nam tử, ngươi nên đến Vương Đô An Trụ sẽ được gặp Bất Động Ưu Bà Di Đại thiện tri thức… Đại chúng bảo rằng Bất Động Ưu Bà Di là đồng nữ ở nhà với cha mẹ….

GIẢNG: “Ở nhà với cha mẹ…” cũng có nghĩa bóng là đối với một vị tu hành cao, người Mẹ tượng trưng cho Bát Nhã, còn người cha tượng trưng cho phương tiện huệ, luôn luôn hai thứ đó phải đi liền nhau như cha mẹ vậy. Như trong cuốn kinh Duy Ma Cật có nói rõ một bài kệ như sau:

Trí độ, mẹ Bồ Tát (trí độ tức là độ Bát Nhã)
Phương tiện ấy là cha
Đạo sư tất cả chúng
Đều do đấy mà ra
Pháp hỷ chính là vợ
Tâm từ bi là gái…

Nếu một hành giả đọc kinh mà được pháp hỷ, thì thấy còn thân thiết như người vợ mình, vì pháp hỷ đó không bao giờ ly mình cả. Còn tâm từ bi thì lúc nào cũng hằng khởi gần gũi như con gái mình vậy. Nên trong kinh Phật, chúng ta phải luôn nhớ lòng đại bi bình đẳng và cái tâm như huyễn.

KINH: Vào trong nhà thấy ánh sáng màu chân kim chiếu khắp nơi, người gặp ánh sáng này thời thân tâm mát mẻ…

GIẢNG: “Thân tấm mát mẻ…” nghĩa là những ánh sáng đó rất vi diệu, tác động mạnh vào tàng thức của mình nên lúc đó thấy thân tâm mát mẻ.

KINH: Ánh sáng chiếu đến thân, Thiện Tài liền chứng được năm trăm môn tam muội…

GIẢNG: Thiện Tài chứng được năm trăm tam muội vì ngài có thể vào sâu trong tàng thức sơ năng biến, vào sâu thì uyển chuyển thay những nhịp điệu rung động nên dễ dàng chuyển từ tam muội này sang tam muội khác mà không bao giờ dứt, vì vậy trong kinh nói lúc đó thân (âm nhu nhuyễn thư thai bảy ngày.

KINH: Thiện Tài đến chỗ Ưu bà di cung kính chắp tay nhất tâm quán sát, thấy hình sắc của Ưu bà di đoan trang xinh đẹp. Tất cả nữ nhân trong mười phương thế giới không ai sánh kịp huống là có người hơn. Chỉ trừ Đức Như Lai và chư quán đảnh bồ tát. Miệng Ưu Bà Di phát ra diệu hương.

GIẢNG: Trong tất cả các vị thiện tri thức, vị này được tả là vị xinh đẹp nhất, vì tất cả nữ nhân trong mười phương thế giới không ai sánh kịp, vị này hiện chánh báo rất đẹp, lại y báo thì có cung điện rất trang nghiêm.

KINH: … Lúc đó Thiện Tài đồng tử cung kính chắp tay chánh niệm quán sát, thấy thân hình bất động Ưu Bà Di tự tại bất tư nghi, sắc tướng dung nhan thế gian không sánh kịp. Quang minh chiếu suốt không vật gì ngăn dược, vì khắp chúng sanh làm lợi ích. Lổ lông nơi thân Ưu Bà Di thường phát ra diệu hương…

GIẢNG: Nói về những mùi hương thì chúng ta cần biết rằng, tất cả mọi chúng sanh, từ chư thiên, trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, người, quỉ v.v… đều phát ra mùi hương thơm hay không thơm, như hơi người chẳng hạn, vì chúng ta ngửi quen quá nên không còn nhận thấy nữa. Thí dụ như người hay uống rượu thì thân thể họ phát ra mùi hôi của rượu, người hay ăn tiết canh, thì phát ra mùi tanh của máu thịt, cũng vậy người ăn chay thì có một mùi thanh tịnh khác, còn người đồng nữ hay đồng nam cũng có mùi riêng của họ, nhưng chúng ta vì cái mũi thịt này quá thô nên không thể phân biệt rõ những mùi vị đó. Chúng ta thường chỉ nhận được một số mùi vị mà chúng ta hay chú ý đến, chẳng hạn như người nghiện rượu thì họ ngửi hơi rượu rất thính. Càng tu cao bao nhiêu thì mùi hương lại càng diệu hơn, thơm như mùi hương chiên đàn, hoặc như một mùi hoa trên trời, rất thơm, nếu có túc duyên một người nào có thể ngửi được những mùi hương này đều cảm thấy thân tâm nhu nhuyễn thanh tịnh.

Trở lại vị thiện tri thức Ưu Bà Di, ngài đắc được môn tam muội Giải thoát Bồ Tát nan tồi phục trí huệ tạng.

KINH: Này thiện nam tử, ta được môn giải thoát Bồ Tát nan tồi phục trí huệ tạng, Ta được bồ tát kiên cố thọ trì hạnh giải thoát môn. Ta được bồ tát nhất thiết pháp bình đẳng địa tổng trì môn. Ta được bồ tát chiếu minh nhất thiết pháp biện tài môn. Ta được bồ tát cầu nhất thiết pháp vô bì yểm tam muội môn…

GIẢNG: Vị này đắc được nhiều thứ môn nhưng chung qui chúng ta chỉ nhớ rằng vẫn là cái tâm thức ấy xoay vần thành nhiều môn tam muội. Như “Giải thoát bồ tát nan tồi phục trí huệ tạng” tức là trí huệ khó chế phục, nói cách khác, ngài được cái Phật tri kiến, tức là cái tâm mà ngoài cái đó chẳng còn cái gì khác. Vì vậy, ngài được “Bồ tát nhất thiết pháp bình đẳng địa tổng trì môn” cũng từ diệu tâm ấy mà ra, tâm thức xoay tròn một cách nào đó để nhập vào tam muội bình đẳng, thấy không có pháp nào hơn pháp nào cả, tất cả cảnh giới đều bình đẳng… Ngài lại được “Bồ tát chiếu minh nhất thiết pháp biện tài môn,” vì sao? Vì ngài nhìn rõ tất cả pháp nên có biện tài vô tận. Rồi ngài lại được “Bồ tát cầu nhất thiết pháp vô bì yểm tam muội môn,” cũng vậy, cầu tất cả pháp, biết tất cả pháp mà “vô bì yểm” tức là không mỏi nhọc. Rồi ngài lại kể cho Thiện Tài nghe khi ngài tu trong vô lượng kiếp, không bao giờ ngài khởi lên một niệm tham dục cả, và cũng không bao giờ có niệm ngã kiến, tức là không bao giờ nghĩ là có mình.

KINH: Trong những kiếp ấy trụ trì tất cả Như Lai pháp luân…

GIẢNG: Ngài nghe tất cả các pháp Như Lai, mà pháp nào cũng tu cùng trì.

KINH: Tùy pháp đó thụ trì chưa từng bỏ một chữ, một câu, nhẫn đến chưa từng ở trong một pháp mà chẳng được tam muội, nhẫn đến trong một chữ, một câu chưa hề sanh thế trí…

GIẢNG: “Chưa hề sanh thế trí…” tức là không dùng thế gian trí để phân biệt ý nghĩa vi diệu của lời kinh, mà lúc nào cũng dùng cái trí huệ mầu nhiệm vô phân biệt. Thí dụ như một người thường, trông thấy cái cây thì nghĩ rằng cái cây kia là vật, đẹp, xấu, Ưa thích hay không Ưa thích, dùng ý thức phân biệt chủ thể và khách thể có thể dùng vào việc gì nhưng cái nhìn của Bồ Tát lại khác, các ngài nhìn cái cây đó chỉ thây toàn là quang minh và những quang minh ấy đều mọc lên từ tâm, và nếu cây có nhiều bóng mát thì các ngài lại có thể đặt một nồi nước để cho những chúng sanh đi qua ngồi nghỉ mát có nước mà uống, và các ngài lại quán chiếu rằng cây đó cũng là huyễn, mà chính mình cũng huyễn, và giữa mình và cái cây ấy chẳng phải là một, cũng chẳng phải là khác, không bao giờ sanh thế trí cả, mà luôn luôn khởi sanh vô phân biệt trí.

Comments

Popular posts from this blog