ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



10.- TỪ HẠNH ĐỒNG NỮ


 Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết  “MÔN BÁT NHÃ BA LA MẬT PHỔ TRANG NGHIÊM”.


Thiện Tài đối với thiện tri thức sanh lòng rất tôn trọng. Sanh trí hiểu quảng đại thanh tịnh. Thường nhớ Ðại thừa chuyên cầu Phật trí. Nguyện thấy chư Phật, quán pháp cảnh giới. Trí vô ngại thường hiện tiền. Quyết định biết rõ thiệt tế của các pháp, thường trụ tế, tất cả tam thế những sát na tế, như hư không tế, vô nhị tế, tất cả pháp vô phân biệt tế, tất cả nghĩa vô chướng ngại tế, tất cả kiếp vô thất hoại tế, tất cả Như Lai vô tế chi tế. Với tất cả Phật tâm vô phân biệt. Phá những lưới tưởng. Lìa những chấp trước. Chẳng lấy chúng hội đạo tràng của chư Phật, cũng chẳng lấy cõi nước thanh tịnh của chư Phật. Biết các chúng sanh đều không có ngã. Biết tất cả tiếng thảy đều như vang. Biết tất cả sắc thảy đều như bóng.

Thiện Tài đi lần về phương Nam đến thành Sư Tử Phấn Tấn tìm TỪ HẠNH ĐỒNG NỮ. Nghe nói đồng nữ là con gái của Vua Sư Tử Tràng, năm trăm đồng nữ hầu hạ, ở điện Tỳ Lô giá Na Tạng, ngồi trên tòa Long Thắng Chiên Ðàn Túc Kim Tiền Võng Thiên Y mà thuyết diệu pháp.

Thiện Tài đến cửa Vương cung, thấy vô lượng đại chúng đi vào cung bèn hỏi : Các Ngài hôm nay vào Vương cung có việc gì thế ?

Ðại chúng đáp : Chúng tôi muốn đến nghe Từ Hạnh đồng nữ thuyết diệu pháp.

Nghe xong, Thiện Tài cũng đi vào Vương cung, thấy điện Tỳ Lô Giá Na Tạng, đất bằng pha lê, cột bằng lưu ly, vách bằng kim cang, tường rào bằng vàng diêm phù đàn, trăm ngàn ánh sáng làm cửa nẻo, trang nghiêm với vô số báu, ma ni. Gương bửu tạng ma ni trang nghiêm giáp vòng. Dùng ma ni bửu tối thượng ở thế gian để trang sức. Vô số lưới báu giăng che phía trên. Trăm ngàn linh vàng vang tiếng vi diệu.

Từ Hạnh đồng nữ da màu huỳnh kim, mắt tím biếc, tóc xanh biếc, dùng phạm âm thanh để thuyết pháp.

Thiện Tài đồng tử thấy xong, đảnh lễ chân Từ Hạnh đồng nữ hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh tu Bồ Tát đạo ? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo. Xin vì tôi mà giảng giải.

Ðồng nữ bão Thiện Tài rằng :

Này thiện nam tử ! Người nên quát sát cung điện trang nghiêm của ta đây.

Thiện Tài vâng lời đảnh lễ, quán sát khắp cung điện. Thấy trong mỗi vách, mỗi cột, mỗi gương, mỗi tướng, mỗi hình, mỗi ma ni bửu, mỗi đồ trang nghiêm, mỗi linh, mỗi cây báu, mỗi hình tượng báu, mỗi bửu anh lạc đều hiện pháp giới tất cả Như Lai từ sơ phát tâm tu hạnh Bồ Tát thành mãn đại nguyện, đầy đủ công đức, thành Ðẳng Chánh Giác, chuyển diệu Pháp luân, nhẫn đến thị hiện nhập Niết bàn. Tất cả ảnh tượng như vậy đều hiện rõ cả. Như trong nước thanh tịnh đứng lặng, thấy khắp hư không nhựt nguyệt tinh tú. Ðây là do sức thiện căn trong đời quá khứ của Từ Hạnh đồng nữ.

Thiện Tài ghi nhớ những tướng chư Phật đã được thấy, đứng chắp tay chiêm ngưỡng đồng nữ.

Ðồng nữ bảo Thiện Tài rằng :

Này thiện nam tử ! đây là môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm. Ta ở chỗ ba mươi sáu hằng hà sa chư Phật cầu được pháp này. Chư Phật Như Lai đều dùng môn khác nhau làm cho ta nhập môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm này. Pháp của một đức Phật diễn nói, chư Phật khác chẳng nói lập lại.

Thiện Tài thưa :

Bạch đức Thánh ! Cảnh giới của môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm này như thế nào ?

Từ Hạnh nói :

Này thiện nam tử ! Ta nhập môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm này, tùy thuận xu hướng tư duy quán sát ghi nhớ phân biệt liền được phổ môn đà la ni, trăm vạn vô số môn đà la ni đều hiện tiền.

Như là : Môn Phật sát đà la ni, môn Phật đà la ni, môn pháp đà la ni, môn chúng sanh đà la ni, môn quá khứ đà la ni, môn vị lai đà la ni, môn hiện tại đà la ni, môn thường trụ tế đà la ni, môn phước đức đà la ni, môn phước đức trợ đạo cụ đà la ni, môn trí huệ đà la ni, môn tri huệ trợ đạo cụ đà la ni, môn chư nguyện đà la ni, môn phân biệt chư nguyện đà la ni, môn tập chư hạnh đà la ni, môn thanh tịnh hạnh đà la ni, môn viên mãn hạnh đà la ni, môn nghiệp đà la ni, môn nghiệp bất thất hoại đà la ni, môn nghiệp lưu chú đà la ni, môn nghiệp sở tác đà la ni, môn xả ly ác nghiệp đà la ni, môn tu tập chánh nghiệp đà la ni, môn nghiệp tự tại đà la ni, môn thiện hạnh đà la ni, môn tam muội đà la ni, môn tùy thuận tam muội đà la ni, môn quán sát tam muội đà la ni, môn tam muội cảnh giới đà la ni, môn tùng tam muội khởi đà la ni, môn thần thông đà la ni, môn tâm hải đà la ni, môn chủng chủng tâm đà la ni, môn trực tâm đà la ni, môn chiếu tâm trù lâm đà la ni, môn điều tâm thanh tịnh đà la ni, môn đà la ni biết chúng sanh từ đâu sanh, môn đà la ni biết chúng sanh phiền não hiện hành, môn đà la ni biết chúng sanh tập khí, môn đà la ni biết phiền não phương tiện, môn đà la ni biết chúng sanh giải, môn đà la ni biết chúng sanh hạnh, môn đà la ni biết chúng sanh hạnh chẳng đồng, môn đà la ni biết chúng sanh tánh, môn đà la ni biết chúng sanh dục, môn đà la ni biết chúng sanh tưởng, môn đà la ni thấy khắp mười phương, môn thuyết pháp đà la ni, môn đại bi đà la ni, môn đại từ đà la ni, môn tịch tịnh đà la ni, môn ngôn ngữ đạo đà la ni, môn phương tiện phi phương tiện đà la ni, môn tùy thuận đà la ni, môn sai biệt đà la ni, môn phổ nhập đà la ni, môn vô ngại tế đà la ni, môn phổ biến đà la ni, môn Phật pháp đà la ni, môn Bồ Tát pháp đà la ni, môn Thanh văn pháp đà la ni, môn Ðộc Giác pháp đà la ni, môn thế gian pháp đà la ni, môn thế giới thành đà la ni, môn thế giới hoại đà la ni, môn thế giới trụ đà la ni, môn tịnh giới đà la ni, môn cấu thế giới đà la ni, môn đà la ni nơi cấu thế giới hiện tịnh, môn đà la ni nơi tịnh thế giới hiện tịnh, môn thuần cấu thế giới đà la ni, môn thần tịnh thế giới đà la ni, môn bất bình thản thế giới đà la ni, môn bình thản thế giới đà la ni, môn phúc thế giới đà la ni, môn nhơn đà la võng thế giới đà la ni, môn thế giới chuyển đà la ni, môn đà la ni biết nương nơi tưởng mà an trụ, môn đà la ni tế vào thô, môn đà la ni thô vào tế, môn thấy chư Phật đà la ni, môn phân biệt thân Phật đà la ni, môn Phật quang minh trang nghiêm võng đà la ni, môn Phật viên mãn âm đà la ni, môn Phật pháp luân đà la ni, môn thành tựu Phật pháp luân đà la ni, môn sai biệt Phật pháp luân đà la ni, môn vô sai biệt Phật pháp luân đà la ni, môn giải thích Phật luân đà la ni, môn chuyển Phật pháp luân đà la ni, môn năng tác Phật sự đà la ni, môn phân biệt Phật chúng hội đà la ni, môn nhập Phật chúng hội hải đà la ni, môn phổ chiếu Phật lực đà la ni, môn chư Phật tam muội đà la ni, môn chư Phật tam muội tự tại dụng đà la ni, môn chư Phật sở trụ đà la ni, môn chư Phật sở trì đà la ni, môn chư Phật biến hóa đà la ni, môn chư Phật tri chúng sanh tâm hành đà la ni, môn chư Phật thần thông biến hiện đà la ni, môn đà la ni ở Ðâu Suất Thiên cung nhẫn đến nhập Niết bàn, môn đà la ni lợi ích vô lượng chúng sanh, môn đà la ni nhập pháp thậm thâm, môn đà la ni nhập pháp vi diệu, môn Bồ đề tâm đà la ni, môn khởi Bồ đề tâm đà la ni, môn trợ Bồ đề tâm đà la ni, môn chư nguyện đà la ni, môn chư hạnh đà la ni, môn thần thông đà la ni, môn xuất ly đà la ni, môn tổng trì thanh tịnh đà la ni, môn trí luân thanh tịnh đà la ni, môn trí huệ thanh tịnh đà la ni, môn Bồ đề vô lượng đà la ni, môn tự tâm thanh tịnh đà la ni.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết “MÔN BÁT NHÃ BA LA MẬT PHỔ TRANG NGHIÊM”.

Còn như chư đại Bồ Tát tâm lượng quảng đại khắp cõi hư không nhập vào pháp giới phước đức thành mãn, an trụ pháp xuất thế, xa hạnh thế gian, trí nhãn thanh tịnh xem khắp pháp giới. Huệ tâm quảng đại như hư không. Thảy đều thấy rõ tất cả cảnh giới. Ðược bực vô ngại tạng đại quang minh. Khéo hay phân biệt tất cả pháp nghĩa. Làm công hạnh thế gian mà chẳng nhiễm thế pháp. Hay lợi ích thế gian chẳng bị thế gian làm hoại. Khắp làm y chỉ cho tất cả thế gian. Biết khắp tâm hành của tất cả thế gian, tùy sở nghi mà vì họ thuyết pháp. Trong tất cả thời gian hằng được tự tại.

Như thế thời ta làm sao biết được nói được hết công đức hạnh đó.

Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một nước tên là Tam Nhãn. Xứ đó có Tỳ Kheo tên là Thiện Kiến. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân của Từ Hạnh đồng nữ, hữu nhiễu vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.



Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


18 tháng Ba 1990


10.- TỪ HẠNH ĐỒNG NỮ


 Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết  “MÔN BÁT NHÃ BA LA MẬT PHỔ TRANG NGHIÊM”.



Kinh:

Thiện Tài đi lần về phương Nam đến thành Sư Tử Phân Tấn tìm Từ Hạnh Đồng Nữ. Nghe nói đồng nữ là con gái của vua Sư Tử Tràng, năm trăm đồng nữ hầu hạ, ỗ điện Tỳ Lô Giá Na Tạng, ngồi trên tòa long-thắng- chiên-đàn-túc kim-tiền-võng thiên y mà thuyết diệu pháp.

Giảng:

Ở đây, kinh nói đến thành Sư Tử Phấn Tấn, vua tên là Sư Tử Tràng, người con gái tên là Từ Hạnh, tức là nghĩa đen ở ngoài thì thật có những vị này, nghĩa bóng là Thiện Tài đã đi sâu vào trong tàng thức sơ năng biến, đến chỗ SưTử Phấn Tân, tượng trưng cho định huệ, có người con gái tên Từ Hạnh, tượng trưng cho Đại Bi. VỊ này ngồi trên một tòa rất đẹp, thuyết diệu pháp càng ngày càng đi sâu vào tàng thức. Ta cần nhớ rằng, khi một hành giả càng đi sâu vào tàng thức để trở thành Bạch Tịnh Thức thì càng ngày càng thấy nhiều sự kỳ diệu.

Kinh:

Thiện Tài đến cửa vương cung thấy vô lượng đại chúng đi vào cung bèn hỏi: Các ngài hôm nay vào vương cung có việc gì thế? Đại chúng đáp: Chúng tôi muốn đến nghe Từ Hạnh Đồng Nữ thuyết diệu pháp. Nghe xong, Thiện Tài cũng đi vào vương cung, thây điện Tỳ Lô Giá Na Tạng, đất bằng pha lê, cất bằng luư ly, vách bằng kim cang, tường rào bằng vàng diêm phù đàn, trăm ngàn ánh sáng làm cửa nẻo, trang nghiêm với vô số báu ma ni. Gương bửu tạng ma ni trang nghiêm giáp vòng. Dùng ma ni bửu tối thượng  thế gian để trang sức. Vô sấ lưới báu giăng che phía trên. Trăm ngàn linh vàng vang tiếng vi diệu.

Giảng:

Ở đây, kinh tả đến y báo của Từ Hạnh Đồng Nữ. Sau đây là tả đến chánh báo của ngài.

Kinh:

Từ Hạnh Đồng Nữ da mầu huỳnh kim, mắt tim biếc, dùng phạm âm thanh để thuyết pháp.

Thiện Tài Đồng Tử thấy xong đảnh lễ chân Từ Hạnh Đồng Nữ hữu nhiễu vô số vòng, chấp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo. Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo. xin vì tôi mà giảng giải. Đổng nữ bảo Thiện Tài rằng: Này thiện nam tử, ngươi nên quán sát cung điện trang nghiêm của ta đây.

Giảng:

Vẫn là chữ trang nghiêm, mà cung điện trang nghiêm ở đây chính là tàng thức của ngài Từ Hạnh hóa hiện ra cả. Ý nói rằng, vị này nhập pháp giới đến một mức có thể hóa hiện ra những cảnh giới trang nghiêm như thế này.

Kinh:

Thiện Tài vâng lời đảnh lễ, quán sát khắp cung điện. Thấy trong mỗi vách, mỗi cột, mỗi gương, mỗi tướng, mỗi hình, mỗi ma ni bửu, mỗi đồ trang nghiêm, mỗi linh, mỗi cây báu, mỗi bửu anh lạc đều hiện pháp giới tất cả như lai từ sơ phát tâm tu hạnh Bồ Tát thành mãn đại nguyện, dầy đủ công đức, thành đẳng chánh giác, chuyển diệu pháp luân, nhẫn đến thị hiện nhập Niết Bàn. Tất cả ảnh tượng như vậy đều hiện rõ cả. Như trong nước thanh tịnh đứng lặng, thây khắp hư không nhựt nguyệt tinh tú. Đây là do sức thiện căn trong đời quá khứ của Từ Hạnh Đồng Nữ.

Giảng:

Tất cả y báo trong này như cột, tường, vách, ma ni bửu v.v… đều là những mặt gương vì cái nào cũng bằng kim cang trong như pha lê. Những vật này tượng trưng cho Bát Nhã, bát nhã như mặt gương chiếu soi, tất cả đại bi hiện lên rõ những cảnh giới của chư Phật tu hành là những hạnh đại bi của chư Phật, từ sơ phát tâm đến thành chánh giác. Tức là trong tâm đó như bóng nước thanh tịnh, hiện lên những cảnh giới đại bi về sự tu hành của chư Như Lai, sở dĩ hiện lên được những cảnh giới như vậy thường là do tâm “vô sở cầu hạnh” mà ra.

Kinh:

Thiện Tài ghi nhớ những tướng chư Phật đã được thấy, đứng chắp tay chiêm ngưỡng đồng nữ. Đồng nữ bảo Thiện Tài rằng: Này thiện nam tử, đây là môn Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm. Ta  chỗ ba mươi sáu hằng hà sa chư Phật cầu được pháp này. Chư Phật Như Lai đều dùng môn khác nhau làm cho ta nhập môn Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm này. Pháp của một đức Phật diễn nói, chư Phật khác chẳng nói lập lại.

Giảng:

Con đường đi sâu vào tàng thức chĩ có Bát Nhã và Đại Bi, từ tàng thức sơ năng biến còn một chút vọng, sáng đến Bạch Tịnh Thức thì toàn là chân cả. Vào Như Lai Tạng Xuât Triền tức là Diệu Tâm thì chỉ có Bát Nhã, Đại Bi và vô sở cầu hạnh. Người nào cũng phải tu như thế, nhưng mỗi người tu một hạnh và một khía cạnh riêng.

Kinh:

Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh, cảnh giới của môn Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm này như thế nào? Từ Hạnh nói: Này thiện nam tử, ta nhập môn Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm này, tùy thuận, xu hướng, tư duy, quán sát ghi nhớ phân biệt liền được phổ môn đà la ni, trăm vạn vô số môn đà la ni đều hiện tiền.

Giảng:

Ngài Từ Hạnh kể rằng, sau khi ngài tu tập môn Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm này thì trong tâm ngài nở ra vô số những diệu đức, diệu đức là những khả năng của tâm thức, tu lâu sẽ biến thành diệu lực. Nhưng ngài chưa đến chỗ của đức Quán Thế Âm là “vô tác diệu đức và vô tác diệu lực.” Đà la ni cũng có nghĩa là những khả năng của tâm thức, nhớ những ngôn ngữ, hay nhớ tất cả những lời kinh. Như môn Phật sát đà là ni, tức là có khả năng biết tất cả những cõi Phật, môn Phật hiệu đà la ni, khả năng biết tất cả những danh hiệu chư Phật, môn pháp đà là ni, biết tất cả các pháp, môn chúng sanh đà la ni, môn quá khứ đà la ni, môn vị lai đà la ni v.v… biết tất cả những quá khứ, vị lai. Nói cho dễ hiểu ngài đã đắc được những thần thông này. Môn nghiệp bất thất hoại đà la ni, môn nghiệp lưu trú đà la ni, môn nghiệp sở tác đà la ni V.V…. Môn nghiệp bất thất hoại đà la ni là có khả năng biết rõ nghiệp không thể nào mất được. Có được trí biết về nghiệp rất khó, vì nghiệp biến hiện luôn luôn, chỉ có chư Phật biết rõ mà thôi, còn vị này, chỉ biết được rằng nghiệp không mất được, vì nghiệp nó “lưu trú,” tức là vừa chảy vừa biến từ cái này qua cái khác, môn đà la ni biết chúng sanh tập khí, tức là biết những chúng sanh có tập khí gì, tham dục, sân v.v… môn đà la ni chư Phật thần thông biến hiện, biết rõ thần thông của chư Phật, môn đà la ni ở Đâu Xuất thiên cung nhẫn đến nhập niết bàn, tức là biết rõ thây chư Phật ở cung trời Đâu Xuất, thị hiện xuống trần gian lúc nào, rồi xuất thai như thế nào, xuất gia như thế nào, thành đạo thế nào, chuyển pháp luân thế nào, rồi nhập Niết Bàn như thế nào v.v… tất cả chĩ đều là thị hiện cả. Môn trí luân thanh tịnh đà la ni, tức là trí thanh tịnh xoay tròn như cái bánh xe vậy, mà bánh xe càng xoay bao nhiêu thì càng nhìn thấy rõ và rộng bấy nhiêu.

Hỏi: Theo ông nghĩ, vị nàỵ tu đến địa thứ mấỵ của thập địa Bồ Tát?

Đáp: Tôi cũng không thể quyết chắc, nhưng có lẽ vị này tu đến địa thứ mười chăng? Đó chỉ là ức đoán thôi, chưa chắc đã đúng.

Sự tu hành là vậy, là vào tàng thức ấy, khai triển tất cả các khả năng vô biên, cụ túc của nó.

Hôm nay, mới đi hết được mười vị thiện tri thức, có vị nào cần hỏi không, nếu không xin để kỳ sau sẽ giảng tiếp…

Hỏi: Thiện Tài là một vị trong kinh tả thân, ngữ, ý không lầm lỗi, ngài lại được ngài Văn Thù dạy rằng: “thờ thiện tri thức chớ có mỏi lười, phương tiện thiện xảo của thiện tri thức chớ có nghi hoặc,” trong kinh lại kể, tất cả các vị thiện tri thức Thiện Tài đến gặp đều do vị này giới thiệu đến vị khác, thì chắc chắn các vị thiện tri thức nầỵ đều là thực sự thiện tri thức cả, thì tại sao Thiện Tài lại khởi tâm nghi khi ngài đến gặp vị thiện tri thức Thắng Nhiệt?

Đáp: Người nào dù hoàn toàn đến đâu cũng còn lại một chút tì vết, đây là những tì vết rơi rớt cuối cùng của ngài Thiện Tài, nhất là thiện tri thức Thắng Nhiệt lại thị hiện làm một vị Bà La Môn nữa, cộng thêm phương tiện tu hành rất quái lạ, vì tất cả những duyên ấy làm cho Thiện Tài nở tâm nghi hoặc.

Vậy cảm ơn quí vị, xin để tiếp theo kỳ sau…


KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám


THẬP TRỤ

 

A-nan, thiện-nam-tử đó, dùng phương-tiện chân-chính phát được mười cái tâm ấy, tâm-tinh đã phát-huy, mười cái dụng ấy xen-lẫn với nhau, viên-thành một tâm; gọi là Phát-tâm-trụ.


Trong tâm phát ra sáng-suốt, như ngọc lưu-ly trong-sạch, ở trong hiện ra vàng-ròng; dùng cái diệu-tâm trước kia, sửa-sang thành chỗ nương-đứng; gọi là Trị-địa-trụ.


Tâm-địa biết khắp, đều được rõ-ràng, đi cùng mười phương, được không ngăn-ngại; gọi là Tu-hành-trụ.


Hạnh đồng với Phật, nhận khí-phần của Phật như thân trung-ấm tự cầu cha mẹ, âm-tín thầm-thông vào giống Như-lai; gọi là Sinh-quý-trụ.


Đã vào đạo-thai, chính mình nhờ được sự nuối-nấng của tính-giác, như cái thai đã thành, tướng người không thiếu; gọi là Phương-tiện-cụ-túc-trụ.


Hình-dáng như Phật, tâm-tướng cũng vậy; gọi là Chính-tâm-trụ.


Thân tâm hợp-thành, ngày càng tăng-trưởng; gọi là Bất-thối-trụ.


Linh-tướng mười thân, một thời đầy-đủ; gọi là Đồng-chân-trụ.


Hình đã thành, ra khỏi thai, chính mình làm Phật-tử; gọi là Pháp-vương-tử-trụ.


Nghi-biểu đã thành người lớn, như khi một quốc-vương, phân-công ủy-nhiệm cho thái-tử các việc nước, thì quốc-vương kia, lúc thái-tử trưởng-thành, bày ra lễ quán-đỉnh; gọi là Quán-đỉnh-trụ.



Comments

Popular posts from this blog