ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
7.- HƯU XẢ ƯU BÀ DI
Này thiện nam tử ! Môn giải thoát này tên là "LY ƯU AN ỔN TRÀNG".
Ta chỉ biết một môn giải thoát này.
Khi ấy Thiện tài đồng tử nhờ sức thiện tri thức, y lời dạy của
thiện tri thức, nhớ lời nói của thiện tri thức, thâm tâm mến thích thiện tri
thức. Tự nghĩ rằng : Nhơn thiện tri thức, làm cho tôi được thấy Phật. Nhơn
thiện tri thức làm cho tôi được nghe pháp. Thiện tri thức là thầy học của tôi,
vì chỉ dạy tôi những Phật pháp. Thiện tri thức là nhãn mục của tôi, vì làm cho
tôi thấy Phật như hư không. Thiện tri thức là chiếc đò của tôi, vì làm cho tôi
được vào ao hoa sen của chư Phật Như Lai.
Vừa suy gẫm vừa đi lần qua phương Nam đền xứ Hải Triều, thấy
vườn Phổ Trang Nghiêm, tường rào bằng các thứ bửu bao bọc. Tất cả cây báu hàng
liệt trang nghiêm. Tất cả cây bửu hoa rải những diệu hoa trải trên mặt đất. Tất
cả cây bửu hương mùi thơm ngào ngạt xông khắp mười phương. Tất cả cây tràng hoa
báu mưa tràng hoa báu lớn rủ xuống khắp nơi. Tất cả cây ma ni bửu vương mưa báu
đại ma ni rải đầy khắp nơi. Tất cả cây bửu y mưa y phục nhiều màu tùy sở nghi
giăng trải quanh vườn. Tất cả cây âm nhạc gió động thành tiếng êm dịu hơn thiên
nhạc. Tất cả cây đồ trang nghiêm mưa những vật trân ngoạn kỳ dịu trần thiết
nghiêm sức khắp nơi. Mặt đất trong vườn thanh tịnh không có cao thấp. Trong
vườn có trăm vạn điện đường xây bằng đại ma ni bửu. Có trăm vạn lâu các, vàng
diêm phù đàn che trùm phía trên. Trăm vạn cung điện, tỳ lô giá na ma ni bửu xen
lẫn trang nghiêm. Một vạn ao tắm các báu hiệp thành. Lan thuẫn bảy báu bao bọc
giáp vòng, thềm đường bảy báu phân bố bốn phía. Nước tám công đức đứng lặng đầy
ao, hơi thơm như thiên chiên đàn. Cát vàng trải đáy ao. Bửu châu thủy thanh xem
lẫn khắp nơi. Nhiều loại chim đẹp du ngoạn trong đó hót tiếng, hòa nhã. Cây bửu
đa la hàng liệt bao vòng, bửu võng giăng trùm, thòng những linh vàng, gió nhẹ
rung thường vang tiếng dịu. Giăng màn đại bửu. Dựng vô số ma ni bửu tràng quang
minh chiếu khắp trăm ngàn do tuần. Trong đó lại có trăm vạn ao, bùn hắc chiên
đàn ngưng đọng đáy ao. Tất cả diệu bửu làm hoa sen nở trên mặt nước. Hoa đại ma
ni màu sáng chiếu rực rở. Trong ao lại có cung điện rộng lớn tên là trang
nghiêm tràng hải tạng, diệu bửu làm nền, tỳ lưu ly bửu làm cột, diêm phù đàn
kim che trên, quang tạng ma ni dùng trang nghiêm, vô số bửu vương ánh sáng rực
rở. Lầu nhiều từng giáp với gác nhiều thứ trang sức a lô na hương vương, giác
ngộ hương vương, đều phát ra diệu hương xông khắp nơi.
Trong cung điện đó lại có vô lượng tòa bửu liên hoa trần thiết
giáp vòng. Như là tòa bửu liên hoa ma ni chiếu sáng mười phương. Tòa tỳ lô giá
na ma ni bửu liên hoa. Tòa ma ni bửu liên hoa chiếu sáng thế gian. Tòa diệu
tạng ma ni bửu liên hoa. Tòa sư tử tạng ma ni bửu liên hoa. Tòa ly cấu tạng ma
ni bửu liên hoa. Tòa phổ môn ma ni bửu liên hoa. Tòa quang nghiêm ma ni bửu
liên hoa. Tòa an trụ đại hải tạng thanh tịnh ma ni vương bửu liên hoa. Tòa kim
cang sư tử ma ni bửu liên hoa.
Trong vườn lại có trăm vạn thứ màn. Như là màn y phục, màn
tràng hoa, màn hương, màn hoa, màn cành, màn ma ni, màn chơn kim, màn đồ trang
nghiêm, màn âm nhạc, màn tượng vương thần biến, màn mã vương thần biến, màn ma
ni bửu của Thiên Ðế đeo.
Lại có trăm vạn mành lưới đại bửu giăng che phía trên. Như là
lưới bửu linh, lưới bửu cái, lưới bửu thân, lưới hải tạng chơn châu, lưới cám
lưu ly ma ni bửu, lưới sư tử ma ni, lưới nguyệt quang ma ni, lưới thơm nhiều
hình tượng, lưới bửu quang, lưới bửu anh lạc.
Lại có trăm vạn đại quang minh chiếu sáng. Như Lai quang minh
diệm quang ma ni bửu. Quang minh nhựt ma ni bửu. Quang minh nguyệt tràng ma ni
bửu. Quang minh hương diệm ma ni bửu. Quang minh thắng tạng ma ni bửu. Quang
minh liên hoa tạng ma ni bửu. Quang minh diệm tràng ma ni bửu. Quang minh đại
đăng ma ni bửu. Quang minh ma ni bửu chiếu khắp mười phương. Quang minh hương
quang ma ni bửu.
Thường mưa trăm vạn đồ trang mghiêm, trăm vạn hương hắc chiên
đàn vang ra âm thanh vi diệu, trăm vạn hoa mạn đà la hơn hoa cõi trời, trăm vạn
chuỗi ngọc hơn chuỗi cõi trời để trang nghiêm, trăm vạn tràng hoa báu đẹp hơn
cõi trời thòng xuống khắp nơi, trăm vạn y phục nhiều màu hơn cõi trời, trăm vạn
ma ni bửu nhiều màu ánh sáng chiếu khắp nơi, trăm vạn Thiên Tử vui mừng chiêm
ngưỡng đầu mặt đảnh lễ, trăm vạn Thiên nữ ở giữa hư không bay xuống, trăm vạn
Bồ Tát cung kính thân cận thường thích nghe pháp.
Lúc ấy, Hưu Xả Ưu bà di ngồi tòa chơn kim, đội mão hải tạng
chơn châu võng, đeo bửu xuyến chơn kim hơn cõi trời, rủ tóc xanh biếc, đại ma
bửu trang nghiêm trên đầu, sư tử khẩu ma ni bửu làm bông tai, như ý ma ni bửu
vương làm chuỗi ngọc, bửu võng trùm trên thân. Trăm ngàn ức na do tha chúng
sanh cúi mình cung kính.
Phương Ðông có vô lượng chúng đến chỗ Ưu bà di. Như là Phạm
Thiên, Phạm Chúng Thiên, Ðại Phạm Thiên, Phạm Phụ Thiên, Tự Tại Thiên, nhẫn đến
tất cả hạng người và phi nhơn. Chín phương kia cũng như vậy.
Có ai thấy Ưu bà di này thời tất cả bệnh khổ đều trừ diệt, lìa
phiền não hết kiến chấp, xô núi chướng ngại, nhập nơi cảnh giới vô ngại thanh
tịnh, thêm lớn tất cả những thiện căn, trưởng dưỡng các căn, vào tất cả môn trí
huệ, vào tất cả môn tổng trì, tất cả môn tam muội, tất cả môn đại nguyện, tất
cả môn diệu hạnh, tất cả môn công đức đều được hiện tiền. Tâm họ rộng lớn đầy
đủ thần thông, thân không chướng ngại đến khắp mọi xứ.
Thiện Tài đồng tử vào vườn Phổ Trang Nghiêm, xem xét khắp nơi,
thấy HƯU XẢ ƯU BÀ DI ngồi diệu tòa,
liền đến đảnh lễ chân Ưu bà di rồi hữu nhiễu vô số vòng, thưa rằng :
Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết
Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Tôi nghe đức Thánh khéo có thể dạy bảo, xin vì tôi mà giảng
giải.
Ưu bà di nói :
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được một môn giải thoát của Bồ Tát.
Nếu có ai thấy nghe nhớ nghĩ đến ta, cùng ta ở chung, cung cấp
cho ta thời không luống công.
Này thiện nam tử ! nếu có chúng sanh chẳng gieo căn lành,
chẳng được thiện hữu nhiếp thọ, chẳng được chư Phật hộ niệm, kẻ đó chẳng thấy
được ta.
Này thiện nam tử ! Có chúng sanh nào được thấy ta thời đều
được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Này thiện nam tử ! Chư Phật phương đông thường đến đây, nhự
trên bửu tòa vì ta mà thuyết pháp. Chư Phật chín phương kia cũng vậy.
Này thiện nam tử ! Ta thường chẳng rời thấy Phật, nghe pháp,
cùng chư Bồ Tát ở chung.
Này thiện nam tử ! Nơi vường này có tám muôn bốn ngàn ức na do
tha đại chúng cùng ta đồng hành, đếu bất thối chuyển nơi Vô thượng bồ đề. Những
chúng sanh khác ở trong vườn này cũng đều nhập bậc bất thối chuyển.
Thiện Tài thưa : Bạch đức Thánh ! Ngài phát tâm Vô thượng Bồ
đề được bao lâu ?
Ưu bà di nói : Này thiện nam tử ! Ta nhớ quá khứ ở chỗ đức
Nhiên Ðăng Phật, ta tu hành phạm hạnh, cung kính cúng dường nghe pháp thọ trì.
Trước đó ở chỗ đức Ly Cấu Phật, ta xuất gia học đạo thọ trì chánh
pháp.
Trước đó ở chỗ đức Diệu Tràng Phật. Trước nữa ở chỗ Thắng Tu
Di Phật. Trước nữa ở chỗ đức Liên Hoa Ðức Tạng Phật. Trước nữa ở chỗ đức Tỳ Lô
Giá Na Phật. Trước nữa chỗ đức Phổ Nhãn Phật. Trước nữa ở chỗ đức Phạm Thọ
Phật. Trước nữa ở chỗ đức Kim Cang Tê Phật. Trước nữa ở chỗ đức Bà Lâu Na Thiên
Phật.
Này thiện nam tử ! Ta nhớ thuở quá khứ vô lượng kiếp, trong vô
lượng đời, thứ đệ như vậy ở chỗ ba mươi sáu hằng hà sa đức Phật, ta đều thờ
kính cúng dường nghe pháp thọ trì tịnh tu phạm hạnh. Quá đây về trước thời Phật
trí mới biết được, chẳng phải trí của ta có thể lường đến.
Này thiện nam tử ! Bồ Tát mới phát tâm không có hạn lượng, vì
sung mãn tất cả pháp giới.
Bồ Tát đại bi môn không hạn lượng, vì vào khắp tất cả thế
gian.
Bồ Tát đại nguyện môn không hạn lượng, vì rốt ráo mười phương
pháp giới.
Bồ Tát đại từ môn không hạn lượng, vì che khắp tất cả chúng
sanh.
Bồ Tát tu hành không hạn lượng, vì tu tập trong tất cả cõi tất
cả kiếp.
Bồ Tát tam muội lực không hạn lượng, vì làm cho Bồ Tát đạo
chẳng thối chuyển.
Bồ Tát tổng trì lực không hạn lượng, vì có thể nhiếp trì tất
cả thế gian.
Bồ Tát trí quang lực không hạn lượng, vì có thể chứng nhập
khắp tam thế.
Bồ Tát thần thông lực không hạn lượng, vì hiện khắp tất cả
cõi.
Bồ Tát biện tài lực không hạn lượng, vì một âm thanh mà tất cả
đều hiểu.
Bồ Tát thanh tịnh thân không hạn lượng, vì đều khắp tất cả cõi
Phật.
Thiện Tài thưa : Bạch đức Thánh ! Bao Lâu nữa Ngài sẽ chứng Vô
thượng Bồ đề ?
Hưu Xả Ưu bà di nói : Này thiện nam tử ! Bồ Tát chẳng vì giáo
hóa điều phục một chúng sanh mà phát Bồ đề tâm. Chẳng vì giáo hóa điều phục
trăm chúng sanh , ngàn chúng sanh, cho đến chẳng vì giáo hóa điều phục bất khả
thuyết bất khả thuyết chúng sanh mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì giáo hóa chúng sanh trong một thế giới nhẫn đến bất
khả thuyết bất khả thuyết thế giới mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì giáo hóa Diêm Phù Ðề vi trần số chúng sanh, Ðại Thiên
thế giới vi trần số chúng sanh, nhẫn đến chẳng vì giáo hóa bất khả thuyết bất
khả thuyết thế giới vi trần số thế giới chúng sanh mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì cúng dường một đức Như Lai, nhẫn đến bất khả thuyết
bất khả thuyết đức Như Lai mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì cúng dường chư Như Lai thứ đệ xuất thế trong một thế
giới nhẫn đến trong bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì cúng dường chư Như Lai thứ đệ xuất thế trong Ðại
Thiên thế giới vi trần số thế giới, nhẫn đến trong bất khả thuyết bất khả
thuyết vi trần số thế giới mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì nghiêm tịnh một số thế giới nhẫn đến bất khả thuyết
bất khả thuyết thế giới mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì nghiêm tịnh một Ðại Thiên thế giới vi trần số thế
giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vi trần số thế giới mà
phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì trụ trí giáo pháp của một đức Như Lai nhẫn đến của
bất khả thuyết bất khả thuyết đức Như Lai mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì trụ trì giáo pháp của một thế giới Như Lai nhẫn đến
bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới Như Lai mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì trụ trì giáo pháp của một Diêm Phù Ðề vi trần số thế
giới Như Lai nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế
giới Như Lai mà phát Bồ đề tâm.
Như vậy lược nói, chẳng vì mãn thệ nguyện của một Như Lai,
chẳng vì đến một Phật độ, chẳng vì nhập một Phật chúng hội, chẳng vì trì một
Phật pháp nhãn, chẳng vì chuyển một Phật pháp luân, chẳng vì biết những kiếp
thứ đệ trong một thế giới, chẳng vì biết một chúng sanh tâm hải, chẳng vì biết
một chúng sanh căn hải, chẳng vì biết một chúng sanh nghiệp hải, chẳng vì biết
một chúng sanh hạnh hải, chẳng vì biết một chúng sanh phiền não hải, chẳng vì
biết một chúng sanh phiền não tập hải, nhẫn đến chẳng vì biết bất khả thuyết
bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh phiền não tập hải mà phát Bồ đề
tâm.
Mà chính vì muốn giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh không để
sót thừa nên phát Bồ đề tâm.
Vì muốn cúng dường tất cả chư Phật không để sót nên phát Bồ đề
tâm.
Vì muốn nghiêm tịnh tất cả Phật độ không để sót nên phát Bồ đề
tâm.
Vì muốn hộ trì chánh pháp của tất cả chư Phật không để sót nên
phát Bồ đề tâm.
Vì muốn thành mãn đại nguyện của tất cả Như Lai không để sót
mà phát Bồ đề tâm.
Vì muốn đến tất cả Phật độ không để sót mà phát Bồ đề tâm.
Vì muốn nhập tất cả Phật chúng hội không để sót mà phát Bồ đề
tâm.
Vì muốn biết những kiếp thứ đệ trong tất cả kiếp không để sót
mà phát Bồ đề tâm.
Vì muốn biết tất cả chúng sanh tâm hải không sót nên phát Bồ
đề tâm.
Vì muốn biết tất cả chúng sanh căn hải không sót nên phát Bồ
đề tâm.
Vì muốn biết tất cả chúng sanh nghiệp hải không sót nên phát
Bồ đề tâm.
Vì muốn biết tất cả chúng sanh hạnh hải không sót nên phát Bồ
đề tâm.
Vì muốn diệt tất cả chúng sanh phiền não hải không sót nên
phát Bồ đề tâm.
Vì muốn trừ tất cả chúng sanh phiền não tập hải không sót nên
phát Bồ đề tâm.
Này thiện nam tử ! Tóm lược mà nói, Bồ Tát dùng vô lượng trăm
ngàn vô số phương tiện hạnh như vậy mà phát Bồ đề tâm.
Này thiện nam tử ! Bồ Tát hạnh vào khắp tất cả pháp, vì đều
chứng được. Vào khắp tất cả cõi, vì đều nghiêm tịnh.
Vì thế nên thiện nam tử ! Khi nghiêm tịnh hết tất cả thế giới
thời nguyện của tôi mới hết.
Khi dứt hết phiền não tập khí của tất cả chúng sanh thời
nguyện của tôi mới mãn.
Thiện Tài thưa : Bạch đức Thánh ! Môn giải thoát này tên là gì
?
Hưu Xả Ưu bà di nói : Này thiện nam tử ! Môn giải thoát này tên là "LY ƯU AN ỔN TRÀNG".
Ta chỉ biết một môn giải thoát này. Như chư đại Bồ Tát, tâm
như biển cả có thể đều dung thọ tất cả Phật pháp. Như núi Tu Di, chí ý kiên cố
chẳng bị lay động. Như vị thuốc thiện kiến, hay trừ những bệnh nặng phiền não
của các chúng sanh. Như mặt nhựt sáng sạch, hay phá chúng sanh vô minh ám
chướng. Dường như đại địa, hay làm chỗ y tựa cho tất cả chúng sanh. Như gió
tốt, hay làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Như đèn sáng, hay vì chúng sanh mà
sanh trí huệ quang. Như đại vân, hay vì chúng sanh mà mưa đại pháp tịch diệt.
Như minh nguyệt hay vì chúng sanh mà phóng phước đức quang. Như Thiên Ðế, đều
hay thủ hộ tất cả chúng sanh.
Như thế thời ta làm sao biết được hết, nói được hết những công
đức đó.
Này thiện nam tử ! Phương Nam Xứ Hải Triều đây có một nước tên
là Na La Tố. Trong đó có tiên nhơn tên là Tỳ Mục Cù Sa. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát
thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?
Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Hưu Xả Ưu bà di, hữu
nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, buồn khóc rơi lệ. Tự nghĩ rằng được Bồ
đề khó, gần thiện tri thức khó, gặp thiện tri thức khó, được gặp đồng hành
thiện tri thức khó, đúng lý quán sát khó, y giáo tu hành khó, Bồ Tát căn khó,
tịnh Bồ Tát căn khó, gặp gở xuất sanh thiện tâm phương tiện khó, gặp gở thêm
lớnNhứt thiết trí pháp quang minh khó.
Nghĩ xong, Thiện Tài từ tạ Ưu bà di mà đi.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
18 tháng Ba 1990
7.- HƯU XẢ ƯU BÀ DI
Này thiện nam tử ! Môn giải thoát này tên là "LY ƯU AN ỔN TRÀNG".
Ta chỉ biết một môn giải thoát này.
Kinh:
Khi ấy
Thiện Tài Đồng Tử nhờ sức thiện tri thức, y lời dạy của thiện tri thức, nhớ lời
nói của thiện tri thức, thâm tâm mến thích thiện tri thức. Tự nghĩ rằng: Nhân
thiện tri thức làm cho tôi được thấy Phật, được nghe pháp, thiện tri thức là thầy
học của tôi… (Bỏ một
đoạn nói đến sự tư duy và tán thán của Thiện Tài về thiện tri thức)… vừa suy
ngẫm vừa đi lần qua phương Nam đến xứ Hải Triều, thấy vườn phổ trang nghiêm, tường
rào bằng các thứ bửu bao bọc. Tất cả cây báu hàng liệt trang nghiêm… (Bỏ một
đoạn kinh tả về sự y báo trang nghiêm của ngài Ưu Bà Di Huti Xã) …Lúc ấy,
Hưu Xả Ưu Bà Di ngồi tòa chơn kim, đội mão hải tạng chơn châu võng, đeo bửu xuyến
chơn kim hơn cõi trời, rũ tóc xanh biếc, đài ma ni bửu trang nghiêm trên đầu,
sư tử khẩu ma ni bửu là bông tai, như ý ma ni bửu vương làm chuỗi ngọc, bửu
võng trùm trên thân. Trăm ngàn ức na do tha chúng sanh cúi mình cung kính…
Giảng:
Theo tôi nghĩ, mỗi
vị tu đi sâu vào tàng thức của mình, đều tu theo một hạnh nguyện riêng. Ngài Hải
Tràng tu theo hạnh nguyện hiện những hóa thân để độ sanh, còn ngài Hưu Xả Ưu Bà
Di thì tu theo lối muốn cho tất cả y báo của mình đều thanh tịnh đẹp đẽ như những
cõi thanh tịnh vậy. Vì vậy, khi Thiện Tài đến, (một phần do sức gia trì của
ngài Hưu Xả, một phần do tịnh nhãn của Thiện Tài) nên Thiện Tài trông thây rõ tất
cả cảnh giới y báo của ngài. Ví dụ, nếu một người thường đi qua đó, thì chắc họ
sẽ không trông thấy gì cả, chỉ thây đất cát, nhà cửa bình thường mà thôi. (Cũng
như khi niệm Phật đi sâu vào thức â’m rồi, thì sẽ mở tâm nhãn và thấy được cõi
Cực Lạc với đầy đủ diệu trang nghiêm). Ngài Hưu Xả này cũng là “phổ trang
nghiêm” nhưng hơi khác với ngài Hải Tràng vì ngài Hải Tràng hiện sắc thân (tức
là chánh báo) vô lượng trang nghiêm để độ sanh, còn ngài Hưu Xả thì hiện đầy những
cảnh giới rất đẹp đẽ (y báo) để độ sanh. Đồng thời ngài cũng có những thứ khác,
như “Hưu Xả Ưu Bà Di đeo bửu xuyến chơn kim hơn cõi trời, phương đông
có vô lượng chúng đến chỗ Ưu Bà Di. Như là Phạm Thiên, Phạm Chúng Thiên, Tự Tại
Thiên, nhẫn đến tất cả hàng người và phi nhơn. Chín phương kia cũng vậy.” Ngài
Hưu xả này có lẽ ở địa thứ mười của Bồ Tát, vì trong kinh nói rõ ai thấy ngài bệnh
tật đều tiêu trừ, phiền não chướng đều diệt sạch, thanh tịnh thêm lớn thiện căn
v.v… ở đây, ta cũng phải hiểu theo hai nghĩa, nếu người có túc duyên đủ, nhìn
thây ngài thì lìa phiền não và hết kiến chấp v.v… nhưng lại có một nghĩa khác
là những người nào tu hành vào đến tàng thức, đến mức độ này thì lìa tất cả kiến
chấp, phiền não, thấy tất cả cảnh giới đều vô ngại, thanh tịnh, tâm rộng lớn đầy
đủ thần thông v.v…
Kinh:
Thiện
Tài Đồng Tử vào vườn Phổ Trang Nghiêm, xem xét khắp nơi, thây Hưu xả Ưu Bà Di
ngồi diệu tòa, liền đến đảnh lễ chân Ưu Bà Di rồi hữu nhiễu vô số vòng,
thưa rằng: Bạch đức Thánh, tôi đã phát tâm vô lượng bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát
thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo… Ưu Bà Di nói, này thiện nam tử,
ta chỉ được một môn giải thoát của Bồ Tát…
Giảng:
Ngài nói như vậy
thôi, chứ chưa nói môn giải thoát Bồ Tát là môn gì, rồi ngài nói sang chuyện
khác. Sau đó Thiện Tài Đồng Tử mới tò mò hỏi kỹ rằng: “Bạch đức Thánh,
ngài phát tâm vô thượng bồ đề được bao lâu?”
Kinh:
Ta nhớ
quá khứ, ở thời đức Phật Nhiên Đăng, ta tu hành phạm hạnh cung kính cúng dường
nghe pháp thọ trì…
Giảng:
Ngài muốn nói rằng
ngài phát tâm bồ đề đã lâu lắm rồi, chỉ kể từ thời Phật Nhiên Đăng trở về sau
thôi, còn trước thì khó thể tính đếm, “chỉ có Phật trí mới biết được chẳng
phải trí của ta có thể biết đến.”Vả lại, trong đạo Phật, những vị tu
cao ít khi khẳng định một điều gì, vì đều tùy theo tâm của mình cả, có thể có
những vị tu rất nhanh, hoặc có vị tu qua vô lượng vô số kiếp, thời gian theo
kinh là một thời gian rất co giãn, vì TÙY THEO TÂM. Tâm trệ ngại
thì thời gian rất lê thê. Tâm thanh tịnh, thời gian trôi nhanh.
Kinh:
Bạch đức
Thánh bao lâu nữa ngài sẽ chứng vô thượng bồ đề?
Giảng:
Các vị Bồ Tát ít
khi khẳng định còn bao nhiêu thời gian nữa ta sẽ chứng được vô thượng bồ đề cả.
Mà các ngài thường nói đại khái rằng, khi nào chúng sanh hết, thì ta mới chứng
vô thượng bồ đề.
Kinh:
Vì thế
nên thiện nam tử, khi nghiêm tịnh hết tất cả thế giới thời nguyện của tôi mới hết.
Khi dứt hết phiền não tập khí của tất cả chúng sanh thời nguyện của tôi mới
mãn.
Giảng:
Ngài này có một đặc
điểm là ngài rất tán thán Bồ Đề tâm. Nhấn mạnh vào Nguyện, — nguyện vô tận như
Hư Không.
Kinh:
Bạch đức
Thánh, môn giải thoát này tên là gì? Xả ưu Bà Di nói: Này thiện nam tử,
môn giải thoát này tên là “Ly ưu an ổn tràng.”
Giảng:
Ly ưu là lìa sự ưu
lo, mà tâm thức an ổn. Ngài tên là Hưu Xả, có nghĩa là sao? Hưu là hượm lại, Xả
là xả Bồ Đề Tâm, các ông phải hượm lại, không bao giờ xả Bồ Đề Tâm cả, không
bao giờ bỏ Đại Bi. ở mục này, tuy đã cao rồi, nhưng các ngài vẫn luôn luôn nhắc
Thiện Tài nhớ kỹ điều đó, không được bao giờ bỏ Bề Đồ Tâm. Vì
vậy, khi đã quyết giữ Bồ Đề Tâm và Đại Bi cho đến tột vị lai tế, thì tâm đó lúc
bây giờ rất rộng lớn, không sợ hãi. Vì sao? Vì hành giả quyết
đi đến bờ mé của Tận – vô tận, nên môn giải thoát này tên là “ly ưu an ổn tràng”
vì phải làm cho tâm thật vững, thật an ổn để có thể độ thoát hoài hoài, không hề
khởi niệm sợ hãi, hoặc thối thất. Trong 53 vị thiện tri thức, có đến năm, bảy vị
nhắc đi nhắc lại tán thán Bồ Đề Tâm, nhâ’t là ngài Di Lặc. Tất cả tinh hoa là
chỗ đó, nếu ta giữ được Bồ Đề Tâm, không nói là nhiều chỉ cần chút ít cũng là
khá lắm rồi. Đạo Phật luôn luôn chú trọng ở lối dụng tâm, phải
dụng tâm Bát Nhã và Đại Bi thì mới được, còn tu hành thì có thể tu gấp rút hoặc
tu vừa phải, nhưng lúc nào cũng giữ tâm có ít nhiều Bát Nhã, Đại Bi và vô sở cầu
hạnh, còn pháp môn chỉ là những phương tiện tiến tu thôi. Khi dụng tâm như vậy
thì kết quả sẽ tốt đẹp, rộng lớn, và đem lại nhiều lợi ích. Còn nếu dụng tâm lệch
lạc thì sẽ thành Thiên Ma ngay. Đó là sự khác biệt giữa đạo Phật và các ngoại đạo.
Có những ngoại đạo tu rất gay go, cần khổ, nhưng không có đạo nào nói kỹ đến
cái dụng tâm cho khéo cả, nên rất dễ lạc. Như chúng ta, nếu có thể mỗi ngày nuồi
một ít huệ Bát Nhã, một chút tâm từ, làm những hạnh vừa vừa trong khả năng của
mình mà có tính chất “vô sở cầu,” đều đặn giữ mãi tâm đó còn tốt hơn là tu hành
một cách gấp rút mà thiếu tâm ấy. Dụ như có người lễ Phật một ngày hai nghìn lễ
chẳng hạn, nhưng không giữ tâm Từ Bi và Bát Nhã mà cứ nghĩ mình quá giỏi rồi,
công đức vô lượng, lại vênh vang lên, thì cũng không bằng người hành trì một hạnh
trông thây rất nhỏ nhít, như cứu một con sâu, con kiến mà họ giữ được tâm như
huyễn tức là Bát Nhã và Từ Bi. Nên vì thế, những người tu ngoại đạo, như tu
tiên chẳng hạn, họ tu rất cam go và cần khổ, giữ giới rất khó nhưng lệch lạc,
không phải tâm Bát Nhã và Đại Bi mà chỉ giữ giới cầu mong cho chính mình thôi,
thì tâm đó vẫn còn râ’t hẹp hòi, hạn lượng, nếu có chứng đắc một chút thần
thông thì cũng nằm trong vòng hữu lậu thôi.
Vì vậy, ngài Hưu Xả nhắc lại
một lần nữa rằng, ông không bao giờ được xả Bồ Đề Tâm ấy. Vì Bồ Đề Tâm tức là
Bát Nhã và Đại Bi, vì nếu ông quyết tâm như thế, dù đi qua vô lượng kiếp vẫn
không thay đổi, thì ông sẽ đến chỗ rất an ổn, vững chắc, không có gì lay động nổi.
Vì vậy, ta được môn giải thoát gọi là “ly ưu an ổn tràng.”
Rồi ngài Hưu Xả lại
giới thiệu Thiện Tài đến một vị khác, vị này là một vị ngoại đạo rõ rệt.
Kinh:
Này
thiện nam tử, phương Nam xứ Hải Triều đây có một nước tên là Na La Tố. Trong đó
có tiên nhơn tên là Tỳ Mục Cù Sa. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh,
tu Bồ Tát đạo.
Lúc đó
Thiện Tài Đồng Tử đảnh lễ chân Hưu Xả Ưu Bà Di, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần
chiêm ngưỡng, buồn khóc rơi lệ. Tự nghĩ rằng được Bồ Đề khó, gần thiện tri thức
khó, gặp thiện tri thức khó, được gặp đồng hạnh thiện tri thức khó, đúng lý
quan sát khó, y giáo tu hành khó, Bồ Tát căn khó, tịnh Bồ Tát căn khó, gặp gỡ
xuất sanh thiện tâm phương tiện khó, gặp gỡ thêm lớn nhát thiết trí pháp quang
minh khó…
Nghĩ
xong Thiện Tài từ tạ Ưu Bà Di mà đi…
Giảng:
Đến ngài thứ 8 này
Thiện Tài đắc được nhiều tam muội, mà ngài này cũng chẳng giảng giải gì cả,
ngài là một vị tiên, thì hiểu rằng có nhiều vị Bồ Tát thị hiện làm tiên nhân…
Comments
Post a Comment