ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
2.- HẢI VÂN TỲ KHEO
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết “PHỔ NHÃN PHÁP MÔN” này.
Thiện Tài đồng tử nhứt tâm suy gẫm lời dạy của thiện tri thức.
Chánh niệm quán sát trí huệ quang minh môn, Bồ Tát giải thoát môn, Bồ Tát tam
muội môn, Bồ Tát đại hải môn, chư Phật hiện tiền môn, chư Phật phương sở môn,
chư Phật quỹ tắc môn, chư Phật đẳng hư không giới môn, chư Phật xuất hiện thứ
đệ môn, chư Phật sở nhập phương tiện môn.
Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam đến nước Hải Môn, đến
chỗ HẢI VÂN TỲ KHEO, đảnh lễ chân
Hải Vân, hữu nhiễu xong, chắp tay bạch rằng :
Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, muốn nhập
tất cả trí hải vô thượng, mà chưa biết Bồ Tát thế nào có thể bỏ nhà thế tục
sanh vào nhà Như Lai ? Thế nào có thể qua khỏi biển sanh tử vào được biển Phật
trí ? Thế nào lìa được hàng phàm phu vào được hàng Như Lai ? Thế nào dứt được
dòng sanh tử vào được dòng Bồ Tát hạnh ? Thế nào phá được xe sanh tử thành xe
Bồ Tát nguyện ? Thế nào diệt được cảnh giới ma hiển dược cảnh giới Phật ? Thế
nào cạn được biển ái dục thêm lớn biển đại bi ? Thế nào đóng được cửa các nạn
các ác đạo mở được cửa đại Niết bàn ? Thế nào ra khỏi thành tam giới vào được
thành Nhứt thiết trí ? Thế nào vất bỏ được tất cả vật ngoạn hảo để đem lợi ích
tất cả chúng sanh ?
Hải Vân Tỳ Kheo bảo Thiện Tài đồng tử rằng :
- Thiện nam tử ! Người đã
phát tâm Vô thượng Bồ đề rồi ư ?
Thiện Tài thưa :
- Vâng, tôi đã phát tâm Vô
thượng Bồ đề.
Hải Vân Tỳ Kheo nói :
-Thiện nam tử ! Nếu
các chúng sanh chẳng gieo lành thời chẳng có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề. Cần
phải được phổ môn thiện căn quang minh, đủ chơn thiệt đạo tam muội trí quang,
xuất sanh những phước hải quảng đại, tăng trưởng pháp bạch tịnh không có lười
nghỉ, thờ thiện trí thức chẳng mỏi nhàm, chẳng kể thân mạng, không thề cất
chứa, tâm bình đẳng như mặt đất không có niệm cao hạ, tánh thường từ mẫn với
tất cả chúng sanh, nơi các loài sanh tử chuyên niệm chẳng bỏ, hàng thích quán
sát cảnh giới Như Lai. Có như vậy mới phát được tâm Vô thượng Bồ đề.
Phát Bồ đề tâm là phát tâm đại bi, vì cứu khắp tất cả chúng sanh. Là phát tâm đại từ, vì khắp giúp tất cả thế gian. Là phát tâm an lạc, vì làm cho tất cả chúng sanh diệt tất cả khổ. Phát tâm lợi ích, vì làm cho tất cả chúng sanh lìa ác pháp. Phát tâm ai mẫn, vì có ai kinh sợ thời đều giữ gìn. Phát tâm vô ngại, vì rời bỏ tất cả chướng ngại. Phát tâm quảng đại, vì tất cả pháp giới đều đầy khắp. Phát tâm vô biên, vì khắp cõi hư không đều qua đến. Phát tâm rộng rãi, vì đều thấy tất cả Như Lai. Phát tâm thanh tịnh, vì trí không trái với pháp tam thế. Phát tâm trí huệ, vì vào khắp biển nhứt thiết trí huệ.
Này thiện nam tử ! Ta ở nước Hải Môn này đã mười hai năm,
thường dùng đại hải làm cảnh giới.
Những là suy gẫm đại hải quảng đại vô lượng. Suy gẫm đại hải
rất sâu khó lường. Suy gẫm đại hải lần lần sâu rộng. Suy gẫm đại hải vô lượng
châu báu kỳ diệu trang nghiêm. Suy gẫm đại hải chứa vô lượng nước. Suy gẫm đại
hải màu nước chẳng đồng không thể nghĩ bàn. Suy gẫm đại hải là chỗ ở vô lượng
chúng sanh. Suy gẫm đại hải dung thọ những chúng sanh thân to lớn. Suy gẫm đại
hải nạp thọ được nước của trận mưa lớn. Suy gẫm đại hải không tăng không giảm.
Này thiện nam tử ! Lúc suy gẫm như vậy, ta lại nghĩ rằng
:Trong thế gian còn có gì rộng lớn hơn đại hải này chăng ? Còn có gì vô lượng
hơn đại hải này chăng ? Còn có gì rất sâu hơn đại hải này chăng ? Còn có gì báu
lạ hơn đại hải này chăng ?
Này thiện nam tử ! Lúc ta suy gẫm như vậy, bỗng có đại liên
hoa xuất hiện.
Liên hoa này cọng bằng vô năng thắng nhơn đà la ni la bửu,
cánh bằng phệ lưu ly bửu, lá bằng vàng diêm phù đàn, đài bằng trầm thủy, tua
bằng mã não, nở thơm lan khắp trùm che cả đại hải.
Trăm vạn A Tu La Vương cầm lấy cọng hoa.
Trăm vạn châu ma ni kết lưới trang nghiêm giăng che trên hoa.
Trăm vạn Long Vương mưa nước thơm.
Trăm vạn Ca Lâu La Vương ngậm những chuỗi ngọc và dải lụa báu
rủ thòng bốn phía.
Trăm vạn La Sát Vương từ tâm quán sát.
Trăm vạn Dạ Xoa Vương cung kính đảnh lễ.
Trăm vạn càn Thát Bà Vương nhiều thứ âm nhạc tán thán cúng
dường.
Trăm vạn Thiên vương mưa những thiên hoa, thiên man, thiên
hương, thiên thiêu hương, thiên đồ hương, thiên mạt hương, thiên y phục , thiên
tràng, thiên phan, thiên cái.
Trăm vạn Phạm Vương đảnh lễ và cung kính.
Trăm vạn Tịnh Cư Thiên chắp tay làm lễ.
Trăm vạn Chuyển Luân Vương cúng dường thất bửu trang nghiêm.
Trăm vạn Hải Thần đồng xuất hiện cung kính đảnh lễ.
Trăm vạn vị quang ma ni bửu quang minh chiếu khắp.
Trăm vạn tịnh phước ma ni bửu dùng để trang nghiêm.
Trăm vạn phổ quang ma ni bửu làm tạng thanh tịnh.
Trăm vạn thù thắng ma ni bửu ánh sáng rực rỡ.
Trăm vạn diệu tạng ma ni bửu quang chiếu vô biên.
Trăm vạn diêm phù đàn ma ni bửu thứ đệ bày hàng.
Trăm vạn kim cang sư tử ma ni bửu chẳng thể phá hoại thanh
tịnh trang nghiêm.
Trăm vạn nhật tạng ma ni bửu quảng đại thanh tịnh.
Trăm vạn khả lạc ma ni bửu đủ mọi màu.
Trăm vạn như ý ma ni bửu trang nghiêm vô tận, quang minh chiếu
rực.
Liên hoa lớn này có ra là do thiện căn xuất thế của Như Lai.
Tất cả Bồ Tát đều sanh lòng tin mến. Thập phương thế giới đều hiện tiền. Từ như
huyễn pháp mà sanh, như mộng pháp mà sanh, thanh tịnh nghiệp mà sanh. Trang
nghiêm bằng pháp môn vô tránh. Nhập ấn vô vi. Trụ môn vô ngại. Sung mãn tất cả
quốc độ mười phương. Tùy thuận cảnh giới thậm thâm của chư Phật.
Trong vô số trong ngàn kiếp ca ngợi công đức đó cũng không hết
được.
Lúc đó ta thấy trên liên hoa lớn ấy có một đức Như Lai ngồi
kết già. Thân Phật từ đây cao đến trời Hữu Ðảnh.
Tòa bửu liên hoa bất tư nghì. Ðạo tràng chúng hội bất tư nghì.
Những tướng hảo thành tựu bất tư nghì. Tùy hảo viên mãn bất tư nghì. Thần thông
biến hóa bất tư nghì. Sắc tướng thanh tịnh bất tư nghì. Vô kiến đảnh tướng bất
tư nghì. Tướng lưỡi rộng dài bất tư nghì. Ngôn thuyết thiện xảo bất tư nghì. Âm
thanh viên mãn bất tư nghì. Lực vô biên tế bất tư nghì. Thanh tịnh vô úy bất tư
nghì. Biện tài quảng đại bất tư nghì.
Ta lại nghĩ nhớ đức Phật đó thuở xưa tu hành bất tư nghì. Tự
tại thành đạo bất tư nghì. Diệu âm diễn pháp bất tư nghì. Phổ môn thị hiện các
thứ trang nghiêm bất tư nghì. Tùy hai bên thấy Phật đều sai khác bất tư nghì.
Tất cả sự lợi ích đều làm cho viên mãn bất tư nghì.
Lúc đó, đức Như Lai ấy liền đưa tay hữu rờ đảnh đầu của ta, vì
ta mà diễn nói phổ nhãn pháp môn, khai thị cảnh giới tất cả Như Lai, hiển pháp
tất cả hạnh Bồ Tát, xiển minh tất cả diệu pháp của chư Phật, tất cả pháp luân
đều nhập trong đó. Có thể thanh tịnh tất cả Phật độ. Có thể dẹp tất cả dị đạo
tà luận. Có thể diệt tất cả quân ma. Có thể làm cho chúng sanh đều sanh hoan
hỷ. Có thể soi tất cả tâm hành của các chúng sanh. Có thể biết những căn cơ của
tất cả chúng sanh, tùy tâm chúng sanh đều làm cho được khai ngộ.
Ở nơi đức Như Lai ấy, ta được nghe pháp môn này, thọ trì đọc
tụng ghi nhớ quán sát.
Giả sử có người dùng nước mực nhiều như nước đại hải, cây viết
chất đống lớn như núi Tu Di, biên chép pháp môn phổ nhãn này, một môn trong một
phẩm, một pháp trong một môn, một nghĩa trong một pháp, một câu trong một nghĩa
cũng viết chẳng được ít phần huống là có thể viết hết.
Này thiện nam tử ! Ở nơi đức Phật ấy, ta thọ trì pháp môn phổ
nhãn như vậy trọn một ngàn hai trăm năm. Trong mỗi ngày, ta dùng văn trì đà la
ni quang minh lãnh thọ vô số phẩm. Dùng tịch tịnh môn đà la ni quang minh xu
nhập vô số phẩm. Dùng vô biên triền đà la ni quang minh vào khắp vô số phẩm.
Dùng tùy tha quán sát đà la ni quang minh phân biệt vô số phẩm . Dùng oai lực
đà la ni quang minh nhiếp khắp vô số phẩm. dùng liên hoa trang nghiêm đà la ni
quang minh dẫn phát vô số phẩm. Dùng thanh tịnh ngôn âm đà la ni quang minh
khai diễn vô số phẩm. Dùng hư không tạng đà la ni quang minh hiển thị vô số
phẩm. Dùng quang tụ đà ni quang minh thêm rộng vô số phẩm. Dùng hải tạng đà la
ni quang minh luận biện phân tích vô số phẩm.
Nếu có chúng sanh từ mười phương đến, hoặc Thiên, hoặc Thiên
Vương, hoặc Long, hoặc Long Vương, hoặc Dạ Xoa, hoặc Dạ Xoa Vương, hoặc Càn
Thát Bà, hoặc Càn Thát Bà Vương, hoặc A Tu La, hoặc A Tu La Vương, hoặc Ca Lâu
La, hoặc Ca Lâu La Vương, hoặc Khẩn Na la, hoặc Khẩn Na La Vương, hoặc Ma Hầu
La Già, hoặc Ma Hầu La Già Vương, hoặc Nhơn, hoặc Nhơn Vương, hoặc Phạm hoặc
Phạm Vương. Tất cả đại chúng như vậy đều đến chỗ ta. Ta đều vì họ mà khai thị
giải thích xưng dương tán thán. Ðều làm cho họ mến thích xu nhập an trụ quang
minh phổ nhãn pháp môn này.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết “PHỔ NHÃN PHÁP MÔN” này.
Như chư đại Bồ Tát thâm nhập tất cả Bồ Tát hạnh hải, vì tùy
duyên nguyện lực mà tu hành. Nhập đại nguyện hải vì ở thế gian trong vô lượng
kiếp số. Nhập tất cả chúng sanh hải, vì tùy tâm sở thích của họ để rộng lợi
ích. Nhập nhứt thiết chúng sanh tâm hải, vì xuất sanh thập phương vô ngại trí
quang. Nhập nhứt thiết chúng sanh căn hải, vì đáng tùy cơ nghi giáo hóa đều làm
cho điều phục. Nhập tất cả sát hải, vì thành mãn bổn nguyện nghiêm tịnh Phật
độ. Nhập tất cả Phật hải, vì nguyện thường cúng dường chư Như Lai. Nhập tất cả
pháp hải, vì có thể dùng trí huệ đều ngộ nhập. Nhập tất cả công đức hải, vì mỗi
mỗi tu hành cho được đầy đủ. Nhập tất cả chúng sanh ngôn từ hải, vì ở tất cả cả
cõi chuyển chánh pháp luân.
Như thế thời ta làm sao biết được nói được công đức hạnh đó.
Này thiện nam tử ! Từ đây qua phương Nam sáu mươi do tuần, bên
đường Lăng Già, có một tụ lạc tên là. Hải Ngạn. Ở đó có Tỳ Kheo tên là Thiện
Trụ. Ngươi nên đến đó hởi : Bồ Tát phải thế nào tịnh Bồ Tát hạnh ?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Hải Vân Tỳ Kheo, hữu nhiễu chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
4 tháng Ba 1990
2.- HẢI VÂN TỲ KHEO
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết “PHỔ NHÃN PHÁP MÔN” này.
Kinh:
Này
thiện nam tử, phương Nam có một nước tên Hải Môn, nơi đó có Tỳ Kheo tên Hải
Vân, ngươi đến đó hỏi Hải Vân rằng, Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.
Giảng:
Trên kia, lúc đầu
ngài Thiện Tài đến nước Thắng Lạc, núi Diệu Phong, còn đây thì chỉ đến nơi Hải
Môn, đó là tên của một cửa bể. Nghĩa bóng của nó chính là cái biển của tâm, và
tên Hải Vân là mây ở trên bể. Mây ở trên bể tức là những thiện căn quảng đại,
và vị Hải Vân sẽ dạy Thiện Tài cách đắc các thứ thiện căn quảng đại… Ngài Thiện
Tài bèn lễ ngài Đức Vân, để từ tạ mà đi. Trong khi đi, ngài quán sát cái “trí tuệ
quang minh môn,” có nghĩa là lúc ấy ngài Thiện Tài hiểu rõ rằng, tất cả pháp giới
này chỉ được dệt nên bằng quang minh mà thôi. Vì sao? Vì thấy Phật là thấy đại
quang minh, và Phật cũng là Tạng quang minh biến hóa không cùng tràn đầy thế
gian. Ngài Thiện Tài tin chắc như vậy, vì lòng tin đó nên mới có cái sức mà đi.
Như kinh nói “Chư Phật hiện tiền môn, quang minh môn…” tức là làm thế nào cho
mình thấy được những quang minh đó. Thế rồi, ngài Thiện Tài đi lần đến xứ Hải
Môn. Thì vẫn có hai nghĩa, vẫn có một xứ tên là Hải Môn thật, và một vị Tỳ Kheo
là Hải Vân. Nhưng vẫn có một nghĩa tượng trưng đó là cửa biển của tâm. Lúc đó,
ngài Thiện Tài lễ vị Tỳ Kheo Hải Vân và cầu vị đó chỉ cho biết thế nào tu Bồ
Tát đạo, và hành Bồ Tát hạnh, như trong kinh nói, (đây là lời của ngài Thiện
Tài): “Thế nào bỏ nhà thế tục mà sanh vào nhà Như Lai? Thế nào cạn được biển ái
dục mà sanh vào biển đại bi?”…) ở đây, quí vị cũng nên để ý rằng kinh thường nhắc
đến chữ đại bi, nhiều hơn nhắc đến chữ bát nhã, vì ở giai đoạn này là bước vào
giả quán, và bát nhã của các ngài đã chuyển thành đại bi rồi, thì như vậy mới độ
sanh được nhiều. Trong kinh cũng hay dùng chữ “đại bi” hoặc “trang nghiêm” hoặc
“phổ trang nghiêm” hay “diệu trang nghiêm” v.v… mà mỗi chữ đều có một ý nghĩa
khác nhau. Lúc gặp, ngài Hải Vân Tỳ Kheo trước hết tán tụng Bồ Đề Tâm trước đã,
(mà phần đông ngài nào cũng làm thế cả), sau đó ngài mới dạy…
Kinh:
Này
thiện nam tử, ta ở nước Hải Môn này đã mười hai năm thường dùng đại hải làm cảnh
giới, những là suy gẫm dại hải quảng đại vô lượng, suy gẫm đại hải rất sâu khó
lường, suy gẫm đại hải lần lần sâu rộng, suy gẫm đại hải vô lượng châu báu kỳ
diệu trang nghiêm, suy gẫm đại hải chứa vô lượng nước, suy gẫm đại hải màu nước,
chẳng động, không thể nghĩ bàn. Suy gẫm đại hải là chỗ ở của vô lượng chúng
sanh, suy gẫm đại hải dung thọ những chúng sanh thân to lớn, suy gẫm đại hải nạp
thọ nước của trận mưa lớn, suy gẫm đại hải không tăng không giảm.
Giảng:
Một mặt, ngài dạy
rằng có một cái biển thực như vậy, nghĩa là có nhiều sự kỳ diệu của nó. Thí dụ
nó có thể chứa vô lượng chúng sanh, chứa tất cả nước mưa mà không bao giờ đầy
vơi cả. Ngài nói rằng “ta ở nơi đây mười hai năm,” thì ta có thể hiểu rằng mười
hai năm ở đây có một nghĩa sâu hơn. Trong kinh hay dùng những con số như một,
mười hoặc mười hai. số mười hai là chỉ cho sự viên mãn của một chu kỳ, chẳng hạn
như ngài nói rằng ngài quán cái biển này mười hai năm, cũng như trong kinh Pháp
Hoa có ngài Nhất Thiết chúng Sanh Hỉ Kiến Bồ Tát, kinh hành tụng kinh Pháp Hoa
trong một nghìn hai trăm năm, tức là một chu kỳ lớn hơn, nhưng cũng có ý viên
mãn một chu kỳ. Và trong kinh Hoa Nghiêm, có rất nhiều chỗ dùng mười hai năm,
như ngài Thiện Tài đi từ ngài thứ tư đến ngài thứ năm đi mất mười hai năm, thì
cũng thế, đó cũng là một chu kỳ viên mãn, chứ không phải là mười hai năm thường.
Trở về với kinh, ngài thiện tri thức thứ hai này nói ta ở cửa biển này mười hai
năm mà ta thường quán cái biển này, tức là quán biển tâm của ngài. Ngài nói đại
hải đó rất sâu, mà lại quảng đại rộng lớn vô lượng, thì cũng như cái tâm vậy.
Đôi khi, tâm ấy còn rộng lớn vô lượng hơn nữa. Ngài suy ngẫm đại hải này dung
chứa tất cả thứ nước, thì cũng như cái tâm, nó dung chứa tất cả pháp giới. Đại
hải này dung chứa tất cả chúng sanh, ngay cả những chúng sanh râ’t to lớn, cũng
thế, tâm cũng dung chứa hết tất cả pháp giới này, và có một điều rất kỳ lạ là
tâm đó không bao giờ đầy, không bao giờ vơi cả, mà thật ra nó cũng chẳng có, chẳng
không…
Kinh:
Này
thiện nam tử, lúc suy gẫm như vậy, ta lại nhớ rằng thế gian này có gì rộng lớn
hơn đại hải không? Còn có gì vô lượng hơn đại hải chăng? Còn có gì sâu hơn
chăng? Còn có gì lạ hơn đại hải này chăng?
Giảng:
Tức là sao? ở đây,
ta nên nhắc lại chuyện một vị Tổ thiền bên Ấn Độ, ngài đến thăm một vị vua.
Vua có một vị
hoàng tử tức là ngài Bồ Đề Đạt Ma sau này. Ngài hỏi ngay rằng: trong thế gian
này, cái gì ghê gớm nhất, sâu nhất, lớn nhất? Ngài Đạt Ma trả lời ngay rằng: đó
là cái tâm. Thì ở đây cũng thế, ngài suy ngẫm biển kia tuy là lớn, rộng, và sâu
nhưng cũng chưa lạ bằng cái tâm, vì tâm kia còn sâu hơn, lớn hơn, còn dung chứa
nhiều chúng sanh hơn, mà dung chứa cả pháp giới này. Và hơn nữa, nó mang một
tính chất cực kỳ lạ lùng và kỳ diệu, vì nó có khả năng biến hiện tất cả…
Kinh:
Này
thiện nam tử, lúc ta suy ngẫm như vậy, bỗng có đại liên hoa xuất hiện.
Giảng:
Ngài ngồi quán cái
biển tâm ấy, bỗng một ngày kia ngài nhìn thấy ở mặt biển mọc lên một cây đại
liên hoa. Thì cây này cũng rất lạ kỳ…
Kinh:
Liên
hoa này cọng bằng vô năng thắng nhơn đà la ni bửu, cánh bằng lưu ly, nở thơm
lan tràn khắp tất cả đại hải, trăm vạn A Ta La cầm cọng hoa, trăm vạn châu ma
ni kết lưới trang nghiêm, trăm vạn Long Vương mưa nước thơm, trăm vạn Ca Lâu La
Vương v.v… (tiếp
theo mấy trang nói như vậy…)
Giảng:
Bông liên hoa này
chính là pháp giới, vì ngài quán giả, ngài quán cái tâm kia, và cái tâm ấy nó
hiện ra pháp giới này, như vậy ngài quán từ không ra giả. cần nhớ rằng, ngài
thiện tri thức đầu tiên dạy cho ngài Thiện Tài chỉ quán đức Phật để vào niệm Phật
tam muội thôi. Đến đây, ngài thiện tri thức thứ hai dậy ngài Thiện Tài đi sâu
hơn nữa về quán giả, là quán cái biển tâm để thấy rõ ràng biển tâm ấy hiện ra
pháp giới này. Đây là các ngài chỉ cho ngài Thiện Tài những pháp môn tu hành
chính. Và pháp môn này tên là “Phổ Nhãn pháp môn” tức là trông rõ các pháp, và
pháp giới là do tâm biến hiện…
Nếu đọc hết thì rất
dài, nên ở đây, tôi chỉ nêu lên ý chính mà thôi. Để tóm lại, ngài thiện tri thức
đầu dạy Ức Niệm Nhứt Thiết chư Phật, còn ngài thứ hai thì dạy Quang Minh Phổ
Nhãn Pháp Môn, tất cả chỉ toàn là quang minh.
Kinh:
Này
thiện nam tử, ở nơi đức Phật ấy (tức là sau khi ngài nhìn thấy trong Liên Hoa đó có một vị Phật ngồi),
ta thọ trì pháp môn phổ nhãn như vậy trọn một ngàn hai trăm năm (cũng là một
chu kỳ viên mãn), trong mỗi ngày ta dùng văn trì đà la ni quang minh lãnh thọ
vô số phẩm, dùng tịch tịnh môn đà la ni quang minh xu nhập vô số phẩm, dùng vô
biên triền đà la ni quang minh vào khắp vô số phẩm…
Giảng:
Tức là ngài quán
chiếu luôn luôn Phổ Nhãn Quang Minh đó đến độ tâm thức ngài mở ra, làm nở nhiều
thứ diệu đức, gọi là “đà la ni,” tức là tâm thức nở ra rất nhiều bông hoa.
Kinh:
Dùng
quang tụ đà la ni quang minh thêm rộng vô số phẩm, dùng hải tạng đà la ni quang
minh luận biện phân tích vô số phẩm.
Giảng:
Khi ngài vào trong
tam muội đó nhìn được pháp giới này, rồi ngài lại triền miên trong tam muội ấy
nên ngài được nhiều thứ đà la ni khiến nhìn pháp giới ở nhiều khía cạnh. Sau
khi dạy bảo, ngài lại chỉ cho ngài Thiện Tài đến ngài thiện tri thức thứ ba.
Ngài thứ ba này sẽ dạy rõ hơn hai vị thiện tri thức trước một chút, nhưng ngài
cũng chưa gia trì gì cả. Thiện Tài cũng chưa nhìn thấy gì hết, chỉ nghe các
ngài nói thôi.
Kinh:
Này
thiện nam tử, từ đây qua phương Nam sáu mươi do tuần, bên đường Lăng Già có một
tụ lạc tên là Hải Ngạn ồ đó có một Tỳ Kheo tên là Thiện Trụ,
ngươi nên đến đó hỏi Bồ Tát làm thế nào tịnh Bồ Tát hạnh.
Giảng:
Ngài thứ ba ở đường
tên là Lăng Già, tức tượng trưng cho cái tâm (vì kinh Lăng Già được gọi là kinh
Tâm Ấn) và có một tụ lạc tên là Hải Ngạn, cũng vẫn là “hải,” nhưng ở đây hơn ở
Hải Môn một chút, vì Hải Ngạn là sang đến bờ bên kia của biển, ở đó, có Tỳ Kheo
tên là Thiện Trụ, hãy đến đó hỏi Bồ Tát thế nào tịnh Bồ Tát hạnh.
Theo các sách
Trung Hoa, thì họ hay giảng theo từng mức thang đi lên, tỷ dụ như vị thiện tri
thức đầu tiên dạy ngài Thiện Tài vào bậc sơ trụ, ngài thứ nhì dạy nhị trụ, ngài
thứ ba là tam trụ v.v… Hoặc ngài thứ nhất dạy tu bố thí, thứ nhì dạy trì giới
v.v…, lối giảng giải này có vẻ không ổn lắm, vì ta thấy lời kinh không có gì gọi
là sơ trụ và nhị trụ, cũng không thấy các vị dạy ngài Thiện Tài bố thí hay trì
giới cả. Như ngài Đức Vân đáng lý phải dạy Thiện Tài hành trì bố thí mà không
thây ngài dạy gì về bố thí cả mà lại dạy cho Thiện Tài niệm Phật tam muội. Còn
ngài Hải Vân, đáng lẽ dạy Thiện Tài trì giới, nhưng lại dạy quán biển tâm. Nên
theo ý tôi, nếu giảng theo lối đó cũng có thể được nhưng không ổn lắm. Và chúng
ta cần hiểu rằng hành Bồ Tát đạo là đi trong tàng thức để thây cái tâm nó rất
chập chùng và biến hóa không cùng. Nên những vị thiện tri thức sau này, là các
ngài toàn thi triển những cảnh giới chập chùng trong tâm thức, mỗi ngài thị hiện
mỗi khác, có khi vẫn chỉ là bố thí, trì giới v.v… nhưng mỗi ngài mỗi khác, nên
chúng ta cũng không thể chia chẻ một cách nhất quyết được. Bây giờ, chúng ta tới
ngài Thiện Trụ…
Kinh:
Thiện
Tài đảnh lễ chân Hải Vân Tỳ Kheo hữu nhiễu chiêm ngưỡng từ tạ mà đi. Lúc đó Thiện
Tài đồng tử chuyên niệm lời dạy của thiện tri thức, chuyên niệm phổ nhãn pháp
môn, chuyện niệm Phật thần lực, chuyên trì pháp cú vân, chuyện nhập pháp hải
môn, chuyên gẫm pháp sai biệt, thâm nhập pháp xoay chuyển vào khắp pháp hư
không…
Giảng:
Lời kinh danh từ đổ
xuống như cơn lốc, nên chúng ta rất dễ lạc, không biết tìm danh từ nào chính yếu
cho mạch kinh. Tương tự như trong tâm thức chúng ta mọc một cái cây, nhưng cây
đó rậm rạp rất nhiều cành lá, nên chúng ta phải suy nghĩ cho khéo để tìm đúng
cái thân cây.
Comments
Post a Comment