ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



5.- GIẢI THOÁT TRƯỞNG GIẢ


 Thiện nam tử ! Ta chỉ nhập xuất được MÔN GIẢI THOÁT NHƯ LAI VÔ NGẠI TRANG NGHIÊM" này.


Thiện Tài đồng tử tư duy pháp môn Bồ Tát vô ngại giải đà la ni quang minh trang nghiêm. Thâm nhập pháp môn Bồ Tát ngữ ngôn hải. Nghĩ nhớ pháp môn vi tế phương tiện Bồ Tát biết tất cả chúng sanh. Quán sát pháp môn Bồ Tát thanh tịnh tâm. Thành tựu pháp môn Bồ Tát thiện căn quang minh. Tịnh trị pháp môn Bồ Tát giáo hóa chúng sanh. Minh lợi trí môn Bồ Tát nhiếp chúng sanh. Kiên cố pháp môn Bồ Tát quảng đại chí nguyện. Nhiệm trì pháp môn Bồ Tát thù thắng chí nguyện. Tịnh trị pháp môn Bồ Tát tín giải. Tư duy pháp môn Bồ Tát vô lượng thiện tâm. Thệ nguyện kiên cố, tâm không mỏi nhàm. Dùng những mão giáp để tự trang nghiêm. Thâm tâm tinh tấn chẳng thối chuyển. Ðủ đức tin bất hoại. Tâm kiên cố như kim cang và như na la diên không gì phá hoại được. Giữ gìn tất cả lời dạy của thiện tri thức. Nơi các cảnh giới được trí bất hoại. Phổ môn thanh tịnh việc làm vô ngại. Trí quang viên mãn chiếu khắp tất cả. Ðầy đủ tổng trì quang minh của các địa. Biết rõ pháp giới nhiều loại sai biệt, không y không trụ, bình đẳng không hai, tự tánh thanh tịnh, mà khắp trang nghiêm. Nơi các công hạnh đều được rốt ráo. Trí huệ thanh tịnh rời lìa chấp trước. Biết pháp sai biệt mười phương trí không chướng ngại. Qua khắp xứ sai biệt ở mười phương thân không mỏi lười. Biết rõ những nghiệp sai biệt ở mười phương. Ðều hiện thấy Phật sai biệt ở mười phương. Ðều thâm nhập thời gian sai biệt ở mười phương. Diệu pháp thanh tịnh sung mãn nơi tâm. Phổ trí tam muội chiếu rõ nơi tâm. Tâm hằng vào khắp cảnh giới bình đẳng. Ðược trí huệ của Như Lai chiếu đến. Dòng Nhứt thiết trí tương tục chẳng dứt. Hoặc thân hoặc tâm đều chẳng rời Phật pháp.

Tất cả chư Phật thần lực gia hộ. Tất cả Như Lai quang minh chiếu đến.

Thành tựu đại nguyện. Nguyện thân cùng khắp tất cả sát võng, tất cả pháp giới vào khắp thân mình.

Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam, trải qua mười hai năm, đến thành Trụ Lâm tìm GIẢI THOÁT TRƯỞNG GIẢ.

Lúc đã gặp được, Thiện Tài đảnh lễ chân Trưởng giả chắp tay cung kính thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Nay tôi được hội ngộ bực thiện tri thức. Tôi đã được lợi ích rộng lớn.

Tại sao vậy ?

Vì với các bực thiện tri thức, khó được thấy, khó được nghe, khó được xuất hiện, khó được phụng sự, khó được gần gũi, khó được tiếp rước, khó được gặp gỡ, khó được ở chung, khó làm cho vui đẹp, khó được theo dõi. Mà nay tôi được gặp gỡ, nên tôi được lợi lành rộng lớn.

Bạch đức Thánh ! Tôi đã trước phát tâm Vô thượng Bồ đề, vì muốn thờ tất cả chư Phật, vì muốn gặp tất cả chư Phật, vì muốn thấy tất cả chư Phật, vì muốn nhìn tất cả chư Phật, vì muốn biết tất cả chư Phật, vì muốn chứng tất cả chư Phật bình đẳng, vì muốn phát tất cả chư Phật đại nguyện, vì muốn thành mãn tất cả Phật đại nguyện, vì muốn đầy đủ tất cả chư Phật trí quang, vì muốn thành những hạnh của tất cả chư Phật, vì muốn được thần thông của tất cả chư Phật, vì muốn đầy đủ trí lực của tất cả chư Phật, vì muốn được vô úy của tất cả chư Phật, vì muốn nghe pháp của tất cả chư Phật, vì muốn thọ pháp của tất cả chư Phật, vì muốn hiểu pháp của tất cả chư Phật, vì muốn hộ pháp của tất cả chư Phật, vì muốn đồng một thể với tất cả chúng Bồ Tát, vì muốn đồng thiện căn với tất cả Bồ Tát, vì muốn viên mãn Ba la mật của tất cả Bồ Tát, vì muốn thành tựu hạnh tu hành của tất cả Bồ Tát, vì muốn xuất sanh thanh tịnh nguyện của tất cả Bồ Tát, vì muốn được tạng oai thần của tất cả chư Phật, Bồ Tát, vì muốn được pháp tạng vô tận trí huệ đại quang minh của tất cả Bồ Tát, vì muốn được tạng tam muội quảng đại của tất cả Bồ Tát, vì muốn thành tựu tạng vô lượng vô số thần thông của tất cả Bồ Tát, vì muốn dùng tạng đại bi giáo hóa điều phục của tất cả chúng sanh đều làm cho họ rốt ráo đến biên tế, vì muốn hiển hiện tạng thần biến, vì ở trong tất cả tạng tự tại đều dùng tự tâm được tự tại, vì muốn nhập trong thanh tịnh tạng nên dùng tất cả tướng mà trang nghiêm.

Bạch đức Thánh ! Nay tôi đem tâm như vậy, ý như vậy, thích như vậy, muốn như vậy, trông mong như vậy, tư duy như vậy, tôn trọng như vậy, phượng tiện như vậy, cứu cánh như vậy, khiêm hạ như vậy, mà đến chỗ đức Thánh.

Tôi nghe đức Thánh có thể khéo dạy bảo chúng Bồ Tát, có thể dùng phương tiện xiển minh chỗ sở đắc, chỉ cho đường sá, ban cho cầu đò, trao cho pháp môn, khiến trừ chướng mê đảo, nhổ mũi tên do dự, cắt lưới nghi hoặc, soi tâm rừng rậm, rửa tâm nhơ đục, khiến tâm trắng sạch, khiến tâm thanh tịnh, chánh tâm dua vậy, tuyệt tâm sanh tử, ngăn tâm bất thiện, mở tâm chấp trước.

Nơi chỗ chấp trước làm cho tâm giải thoát, ở chỗ nhiễm ái làm cho tâm động chuyển. Khiền họ mau nhập cảnh nhứt thiết trí. Khiến họ mau đến thành vô thượng pháp. Khiến họ trụ đại bi. Khiến họ trụ đại từ. Khiến họ nhập Bồ Tát hạnh. Khiến họ tu môn tam muội. Khiến họ nhập chứng vị. Khiến họ quán pháp tánh. Khiến họ tăng trưởng lực. Khiến họ tu tập hạnh. Tâm họ bình đẳng khắp ở tất cả.

Cúi xin đức Thánh vì tôi tuyên nói Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo. Theo chỗ tu tập mau được thanh tịnh, mau được minh liểu.

Lúc đó Giải Thoát Trưởng giả do sức thiện căn quá khứ, sức oai thần của Phật, do niệm lực của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, mà nhập Bồ Tát tam muội môn tên là "vô biên triền đà la ni nhiếp khắp tất cả cõi Phật".

Nhập tam muội này rồi được thân thanh tịnh. Ở trong thân mình hiển hiện mười phương, mỗi phương đều mười Phật sát vi trần số Phật và quốc độ, chúng hội đạo tràng, các thứ quang minh, các sự trang nghiêm. Cũng hiện những thần thông biến hóa, tất cả đại nguyện, những pháp trợ đạo tu hành thuở xưa của chư Phật và những hạnh xuất ly thanh tịnh trang nghiêm. Cũng thấy chư Phật thành Ðẳng Chánh Giác chuyển diệu pháp luân giáo hóa chúng sanh. Tất cả những sự như vậy thảy đều hiển hiện trong phân thân không chướng ngại. Các thứ hình tướng, nhiều loại thứ đệ an trụ như cũ chẳng tạp loạn nhau.

Những là : các thứ quốc độ, các thứ chúng hội, các thứ đạo tràng, các thứ nghiêm sức.

Trong đó chư Phật hiện những thần lực, lập những thừa đạo, bày những nguyện môn.

Hoặc nơi một thế giới, ở cung Ðâu Suất mà làm Phật sự.

Hoặc nơi một thế giới, ẩn cung Ðâu Suất mà làm Phật sự.

Như vậy, hoặc lại trụ thai, hoặc đản sanh, hoặc ở trong cung, hoặc xuất gia, hoặc đến đạo tràng, hoặc phá ma quân, hoặc chư Thiên Long cung kính vây quanh, hoặc các Thế Chủ khuyến thỉnh thuyết pháp, hoặc chuyển pháp luân, hoặc nhập Niết bàn, hoặc chia Xá lợi, hoặc xây tháp miếu.

Chư Phật Như Lai đó ở các chúng hội, các thế gian, các loài, các chủng tộc, các dục lạc, các nghiệp hành, các ngữ ngôn, các căn tánh, các phiền não, tùy miên, tập khí, trong các chúng sanh.

Hoặc ở vi tế đạo tràng, hoặc ở quảng đại đạo tràng, hoặc ở đạo tràng lượng một do tuần, hoặc ở đạo tràng lượng mười do tuần, hoặc ở đạo tràng lượng bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số do tuần.

Dùng các thứ thần thông, các thứ ngôn từ, các thứ âm thanh, các thứ pháp môn, các thứ tổng trì môn, các thứ biện tài môn. Dùng các thứ Thánh đế, các thứ vô úy đại sư tử hống mà diễn thuyết những thiện căn, những ức niệm của các chúng sanh. Thọ ký cho Bồ Tát. Nói những Phật pháp.

Chư Phật Như Lai có bao nhiêu ngôn thuyết, Thiện tài đồng tử đều nghe thọ được cả. Cũng thấy bất tư nghì tam muội thần biến của chư Phật và chư Bồ Tát.

Lúc bấy giờ Giải Thoát Trưởng giả xuất tam muội, bảo Thiện Tài rằng :

Thiện nam tử ! Ta đã nhập xuất môn vô ngại trang nghiêm giải thoát của Như Lai.

Thiện nam tử ! Lúc ta nhập xuất môn giải thoát này, liền thấy thế giới Diêm Phù Ðàn Kim Quang Minh ở phương Ðông, đức Long Tự Tại Vương Như Lai Ðẳng Chánh Giác, chúng hội đạo tràng vây quanh. Tỳ lô Giá Na Tạng Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy thế giới Tốc Tật Lực ở phương Nam, Phổ Hương Như Lai Ðẳng Chánh Giác và đạo tràng chúng hội vây quanh. Tâm Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy thế giới Hương Quang ở phương Tây, Tu Di Ðăng Vương Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Vô Ngại Tâm Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy thế giới Ca Sa Tràng ở phương Bắc, Bất Khả Hoại Kim Cang Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Kim Cang Dũng Mãnh Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy phương Ðông Bắc, thế giới Nhứt Thiết Thượng Diệu Bửu, đức Vô Sở Ðắc Cảnh Giới Nhãn Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Vô Sở Ðắc Thiện Biến Hóa Bồ Tát làm thượng chủ.

Lại thấy phương Ðông Nam, thế giới Hương Diệm Quang Âm, đức Hương Ðăng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Kim cang Diệm Huệ Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy phương Tây Nam, thế giới Trí Huệ Nhựt Phổ Quang Minh, đức Pháp Giới Luân Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Hiện Nhứt Thiết Biến Hóa Tràng Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy phương Tây Bắc, thế giới Phổ Thanh Tịnh, đức Nhứt Thiết Phật Bửu Cao Thắng Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Pháp Tràng Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy Thượng phương, thế giới Phật Thứ Ðệ Xuất Hiện Vô Tận, đức Vô Biên Trí Huệ Quang Viên Mãn Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Pháp Giới Môn Tràng Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy Hạ phương, thế giới Phật Quang Minh, đức Vô Ngại Trí Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Nhứt Thiết Thế Gian Sát Tràng Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Thiện nam tử ! Ta thấy mười phương như vậy. Mỗi phương đều mười Phật sát vi trần số Như Lai. Chư Như Lai chẳng đến đây, ta cũng chẳng qua đó.

Nếu ta muốn thấy thế giới An Lạc, đức A Di Ðà Như Lai, thời tùy ý liền thấy.

Nếu ta muốn thấy Chiên Ðàn thế giới, Kim Cang Quang Minh Như Lai; Diệu Hương thế giới, Bửu Quang Minh Như Lai; Liên Hoa thế giới, Bửu Liên Hoa Quang Minh Như Lai; Diệu Kim thế giới; Tịch Tịnh Quang Như Lai; Diệu Hỉ thế giới, Bất Ðộng Như Lai, Thiện Trụ thế giới; Sử Tử Như Lai; Cảnh Quang Minh thế giới, Nguyệt Giác Như Lai; Bửu Sư Tử Trang Nghiêm thế giới, Tỳ Lô Giá Na Như Lai; tất cả chư Như Lai như vậy đều tùy ý liền thấy. Nhưng chư Như Lai chẳng đến đây, ta cũng không qua đó.

Biết tất cả chư Phật cùng tâm của ta đều như mộng. Biết tất cả chư Phật như ảnh tượng, còn tâm mình như nước. Biết tất cả sắc tướng của chư Phật và tâm mình đều như huyễn. Biết tất cả Phật và tâm mình thảy đều như vang.

Ta biết như vậy, ức niệm như vậy. Chư Phật được thấy đều do tự tâm.

Thiện nam tử ! Phải biết Bồ Tát tu những Phật pháp, tịnh những Phật độ, tích tập diệu hạnh, điều phục chúng sanh, phát đại thệ nguyện, nhập nhứt thiết trí, tự tại du hí bất tư nghì môn giải thoát, được Phật Bồ đề, hiện đại thần thông, qua khắp tất cả mười phương pháp giới, dùng vi tế trí nhập khắp các kiếp, tất cả như vậy đều do tự tâm.

Thiện nam tử ! Do đây nên phải dùng thiện pháp phò trợ tự tâm. Phải dùng pháp thủy thấm nhuần tự tâm. Phải ở cảnh giới trị sạch tự tâm. Phải dùng tinh tấn kiên cố tự tâm. Phải dùng nhẫn nhục san bằng tự tâm. Phải dùng trí chứng rửa sạch tự tâm. Phải dùng trí huệ minh tự tâm. Phải dùng Phật tự tại khai phát tự tâm. Phải dùng Phật bình đẳng quản đại tự tâm. Phải dùng Phật thập lực chiếu xét tự tâm.

Thiện nam tử ! Ta chỉ nhập xuất được MÔN GIẢI THOÁT NHƯ LAI VÔ NGẠI TRANG NGHIÊM" này.

Còn như chư đại Bồ Tát được vô ngại trí, trụ vô ngại hạnh, được tam muội "thường thấy tất cả Phật", được tam muội "chẳng trụ niết bàn tế", rõ thấu tam muội "Phổ môn cảnh giới". Với những pháp tam thế thảy đều bình đẳng. Hay khéo phân thân khắp tất cả cõi. An trụ nơi cảnh giới bình đẳng của chư Phật. Cảnh giới mười phương đều hiện tiền. Trí huệ quán sát đều thấy biết rõ ràng tất cả. Ở trong thân mình đều hiện tất cả thế giới thành hoại, nhưng đối với thân mình và các thế giới không có tưởng nghĩ là hai.

Những diệu hạnh như vậy, làm sao ta biết hết được, nói hết được.

Này thiện nam tử ! từ đây qua phương Nam đến bờ Diêm Phù Ðề, có một nước tên là Ma Lợi Già La. Nước đó có Tỳ kheo tên là Hải Tràng.

Ngươi đến đó hỏi : Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Giải Thoát Trưởng giả, hữu nhiễu quán sát xưng dương ca ngợi, tư duy chiêm ngưỡng, buồn khóc rơi lệ, nhứt tâm ghi nhớ y tựa thiện tri thức, thờ thiện tri thức, kính thiện tri thức, do thiện tri thức được thấy nhứt thiết trí. Với thiện tri thức chẳng có lòng chống trái, không dua dối. Với thiện trí thức tâm thường tùy thuận. Nơi thiện tri thức phát tưởng là từ mẫu, vì bỏ rời tất cả pháp vô ích. Nơi thiện tri thức phát tưởng là từ phụ, vì xuất sanh tất cả pháp lành. Tư duy rồi, từ tạ mà đi.


Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


18 tháng Ba 1990



5.- GIẢI THOÁT TRƯỞNG GIẢ


 Thiện nam tử ! Ta chỉ nhập xuất được MÔN GIẢI THOÁT NHƯ LAI VÔ NGẠI TRANG NGHIÊM" này.



Kính thưa Đại Đức trụ trì, cùng chư vị Đạo Hữu…


Vừa rồi, quí vị vừa tụng xong thời kinh, có nói đến chữ “trí vi tế.” Nhân đây, tôi cũng xin nhắc qua, trong tất cả mức gọi là vô trước vô phược giải thoát hồi hướng, cũng có nhắc tới trí vi tế. Mà chúng ta cũng cần hiểu rằng, tất cả sự tu hành là chỉ cốt đi đến bình diện vi tế đó mà thôi. Tâm chúng ta rất thô kệch, và năm căn như mắt, mũi, v.v… cũng rất thô kệch, nên ta cần mài cái tâm đến chỗ vi tế và nhu nhuyễn, để không chấp chước, có thể nhập vào bình diện sâu hơn, đồng thời, được cái mắt vi tế, hoặc năm căn vi tế. Tu hành chỉ là vậy, nên càng lên cao, mắt của mình càng thênh thang hơn, chúng ta sẽ được thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và sau cùng là Phật nhãn. Nên nếu quí vị có thì giờ, thì nên đọc kỹ lại phẩm này. Mà ta cũng cần hiểu rằng, trí vi tế cũng là trí rộng lớn, hay trí như biển, vì tâm thức con người cần chuyển từ cực độ này sang cực độ kia, còn chúng ta cứ đứng ở giữa, nhìn thây lắt lay được một chút khúc giữa. Khi nào chúng ta đi sâu được vào cái vi tế cực nhỏ, thì đồng thời chúng ta cũng nhập được vào cực lớn, vì vậy, lúc đó ta có thể nhìn thấy vật rất nhỏ, cũng đồng thời nhìn thấy vật rất lớn.

Bây giờ, xin trở lại phẩm nhập pháp giới…

Trong lần trước, chúng ta đã đến vị thiện tri thức thứ 4, hôm nay, chúng ta lại dở lại cuốn tiểu thuyết rất kỳ diệu và khó hiểu này để theo dõi những diễn biến sau…

Nhưng trước khi đi vào kinh, tôi muốn nhắc mấy điểm để quí vị dễ hiểu những đoạn đó. Chúng ta đọc kinh, thường hay gặp phải danh từ ‘Trang nghiêm,” như Thiện Tài đến vị thiện tri thức thứ 5 thì trong kinh nói đến chữ “vô ngại giải thoát trang nghiêm,” đến ngài thứ 6 là ngài Hải Tràng thì thấy có chữ “phổ trang nghiêm,” rồi mấy vị sau cũng thấy nói đến “phổ trang nghiêm,” rồi sau cùng đến ngài Di Lặc thì gọi là “diệu trang nghiêm.” Vậy chữ trang nghiêm, phổ trang nghiêm và diệu trang nghiêm khác nhau thế nào? Nó là cái gì??? Trong nhà Phật, thường dùng chữ trang nghiêm để chỉ cho tàng thức thứ tám, đã chuyển.thành Bạch Tịnh Thức, rồi đến cảnh giới hiện ra trong đó, tức là pháp giới. Khi nào nói về các cảnh giới nơi thọ ấm, tưởng ấm… kinh không bao giờ dùng chữ trang nghiêm, nhưng khi lọt vào tàng thức lặn sâu vào trong đó, thì bây giờ mới dùng chữ trang nghiêm. Trước hết là trang nghiêm thôi, rồi đến phổ trang nghiêm, tức là trang nghiêm tất cả mọi nơi, rồi đến chữ diệu trang nghiêm, nghĩa là tất cả mọi nơi, đều là những cảnh giới chập chùng kỳ diệu, mà nếu càng ngày hành giả càng đi sâu vào tàng thức, thì tàng thức ngày càng nở ra bao trùm pháp giới. Vì vậy, gọi là diệu trang nghiêm.

Trong kinh Pháp Hoa, phẩm thứ hai mươi bảy, gọi là “Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự.” Phẩm này có hai nghĩa, một nghĩa thực, và một nghĩa tượng trưng. Nghĩa tượng trưng là diệu trang nghiêm chỉ cho tàng thức đó. Còn nghĩa ngoài đời là ở thời đó, rất xa xưa, có một vị vua tên là Diệu Trang Nghiêm, có hai người con tên Tịnh Nhãn, và Tịnh Tạng, ông vua cha lại theo ngoại đạo. Vì sao gọi là ngoại đạo? Vì ông vua này, tu hành vào được tàng thức rồi thì dừng ở đó, không đi sâu thêm nữa. Nói cách khác, nhà vua vào đến tàng thức rồi, nhưng không chịu thanh tịnh hóa không hải đó, để diệt những phần vọng và chuyển thành Bạch Tịnh Thức hay Vô Cấu Thức. Vì vậy, không đạt được đạo quả, chỉ hưởng sự trầm không thú tịch thôi, nên tuy tu cao như vậy, nhưng nhà Phật vẫn gọi là ngoại đạo. Còn các vị Thanh Văn vào được đó mà dừng chân lại, hưởng cái Niết Bàn cho chính mình thôi thì vị đó gọi là tà kiến. Và chư Phật luôn khuyến cáo phải đi lặn sâu vào không hải, gột tất cả phần vọng, chuyển tàng thức thành Như Lai Tạng xuất triền, tức là Diệu Tâm, cũng là Bạch Tịnh Thức. Nếu còn trộn lẫn với vọng thì Tàng thức gọi là “Như Lai Tạng tại triền” hay là “tàng thức sơ năng biến”… Thì vị vua Diệu Trang Nghiêm này đã tu hành cao rồi, nhưng khi mấp mé không hải thì không chịu đi sâu hơn nữa, không mong cầu tiến đến Phật quả, chỉ ngồi lỳ ở đó thôi để hưởng thiền lạc. Nhưng vua có túc duyên rất nhiều với Phật pháp, vì vậy hai người con mới thọ sanh vào nhà ông, và hai vị đều là Bồ Tát cả, tức là Tịnh Tạng, và Tịnh Nhãn. Hai vị này muốn làm cho cha phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, khởi đại bi đi vào Phật quả. số là hai người con này, một người đã đắc Pháp Hoa tam muội, một người đắc Ly Chư ÁcThú tam muội. Hai vị bèn dùng thần thông hiện đủ thứ thần biến như bay lên hư không, hiện thân lớn như núi, rồi hiện thân nhỏ như hạt cát, hoặc trên thân tuôn ra nước, dưới thân tuôn ra lửa, đi qua núi đá như đi trên hư không v.v… Vua cha thấy vậy lấy làm lạ hỏi rằng: Sao cha không thấy ngoại đạo có những phép như thế, các con học ở đâu vậy, và thầy các con là ai? (Nên ghi rằng đối với một vị tu cao như thế, mà muốn độ cũng phải dùng thần thông để nhiếp phục cha mình). Hai người con đáp con học ở vị Phật (tên là gì tôi cũng quên mất). Vua cha mới hớn hở đi đến, nghe Phật thuyết pháp, sau bỏ ngôi vua truyền lại cho em rồi xuất gia, về sau được Phật thọ ký.

Nói như vậy để quí vị hiểu rằng, khi vào đến tàng thức thì gọi là bắt đầu đi vào cảnh giới trang nghiêm. Nên trong kinh, thường dùng những chữ rất ẩn mật nhưng rất xác đáng, như ngài đầu tiên gọi là trang nghiêm, sau đó là phổ trang nghiêm, cuối cùng là diệu trang nghiêm. Đó là điểm thứ nhát, còn điểm thứ hai là Thiện Tài khi mới đi tìm cầu thiện tri thức, câu hỏi đặt ra là: ngài đã biết biến hóa chưa? Và tại sao không bị ma chướng?

Bây giờ nói đến chuyện biến hóa trước. Khi ngài mới gặp ngài Đức Vân, vị thiện tri thức đầu tiên, lúc đó tâm thức của Thiện Tài đã vượt qua tứ thiền rồi, mới chớm đi vào không hải. Mà qua tứ thiền là đã biết một ít biến hóa, nhưng không biến hóa được nhiều. Còn sở dĩ ngài không bị “ma chướng” là vì khi một hành giả tu thiền, lúc vượt thọ ấm và tưởng ấm, thường bị ma chướng nặng nề về tình dục nhưng tới hành ấm và thức ấm thì không còn bị thiên ma não hại nữa. Song ở đây, lại bị 2 chướng nặng nhất là kiêu mạn và luyến ái pháp, vì khi đắc được quả này, hành giả dễ luyến ái nó nên bám chặt vào mà không tu lên được. Nên trong kinh, sau đây có rất nhiều vị thiện tri thức khuyên nói về điều này, vì với sức định mạnh như vậy mà khởi kiêu mạn thì sẽ trở thành Thiên Ma. Sở dĩ Thiện Tài không khởi ma chướng vì kinh đã nói trước, ngài là người phúc đức rất dày, thân, ngữ, ý không có lỗi, tâm thanh tịnh như hư không, hồi hướng bồ đề không chướng ngại. Còn ma chướng ái luyến pháp, trong kinh cũng có cảnh giác nhưng ngài lại không bị.

Đạo Phật là luôn luôn phải “yết đế,” đắc được một pháp rồi lại phải xả ngay, vì nếu không, hành giả không thể đi lên được. Như nếu đắc sơ thiền mà không xả thì không thể lên được nhị thiền, và cứ thế… Có một điều cần nhớ là càng lên cao thì càng phải cần sức gia trì của chư Phật bấy nhiêu. Ngay cả Bồ Tát ở bực Đẳng Giác, chỉ còn một phẩm vô minh vi tế cuối cùng cần gột thôi, mà không gần Phật để được sức gia trì thì cũng không thể thành Phật được. Vì vậy, khi đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm ta sẽ thấy rằng người tu thiền rất cam go, phải lập đàn pháp, xong tụng chú Thủ Lăng Nghiêm một ngày ba thời, mỗi thời tụng 108 biến, để làm gì? Chỉ để cầu chư Phật vân tập đến đàn tràng và tỏa sức gia trì. Nên trên con đường thiền quán, không tụng chú thì lạc vào ma chướng như chơi, vì vậy, ngài Di Già, vị thiện tri thức thứ tư dạy Thiện Tài tụng chú.

Bốn vị thiện tri thức đầu là ngài Đức Vân, Hải Vân, Thiện Trụ và Di Già chỉ giảng dạy cho Thiện Tài bằng lời nói, kể lại cho Thiện Tài nghe mức độ chứng đắc của mình, mà chưa đưa Thiện Tài vào tam muội. Càng về sau, Thiện Tài càng thấy hiển bày cảnh giới trang nghiêm của tàng thức sơ năng biến, và các vị thiện tri thức cho Thiện Tài nhìn ngay vào cảnh giới vi diệu nên các ngài không cần giảng giải nữa. Cũng như khi đức Phật phóng quang cho pháp hội trông thấy các cõi thì ngài không cần dùng ngôn từ thuyết pháp nữa, và cả pháp hội đều nhìn rõ tất cả đều là duy tâm sở hiện… Nên từ vị thứ tư trở đi là kết thúc sự giảng nói bằng lời, vì những pháp môn chính đã dạy rồi, bây giờ chỉ hiện bày rõ rệt cho Thiện Tài nhìn mà thôi. Đến ngài thứ 5 là ngài Giải Thoát Trưởng Giả thì ngài cho Thiện Tài nhìn thấy cảnh giới ngay, nên không dạy Thiện Tài gì nữa cả. Ngài Giải Thoát này sẽ nhập pháp giới, để cho Thiện Tài trông thấy. Ta cũng nên nhớ rằng sự nhập pháp giới có nhiều mức độ viên dung của nó. Đây, xin quí vị theo dõi vị thiện tri thức thứ năm.

Hỏi: Có phải ngài Di Già tu theo văn đà la ni không?

Đáp: Trong đạo Phật có rất nhiều thứ đà la ni, như đà la ni quang minh biết tất cả những ngữ ngôn, cũng gọi là nhất thiết ngữ ngôn đà la ni. Còn văn trì đà la ni thì không phải là một pháp môn, vì khi nào tâm thức của một hành giả mở ra thì tự nhiên có văn trì đà la ni. Sự nở ra tự nhiên như vậy gọi là diệu đức.

Còn ở đây, ngài chỉ nói rằng ta tu diệu âm và dạy cho Thiện Tài như thế.

Từ vị thiện tri thức thứ 5 thì các ngài rất ít giảng, mà  gia trì cho Thiện Tài nhìn thấy ngay.

Kinh:

Thiện Tài Đồng Tử đi lần qua phương Nam, trải qua mười hai năm

Giảng:

Như tôi đã nói nhiều lần, mười hai năm là một chu kỳ viên mãn, có thể là một trăm hai mươi năm, cũng có thể là một nghìn hai trăm năm.

Kinh:

Đến thành Trụ Lâm, tìm Giải Thoát Trưởng Giả.

Giảng:

Ta nhớ rằng đầu tiên Thiện Tài đi đến núi Diệu Phong, sau đến cửa bể Hải Môn, rồi đến vị thứ 5 là đến Trụ Lâm, v.v… càng ngày, vị trí các vị thiện tri thức càng vững và càng cao, đến đây là Thiện Tài đã trụ được vào trung quán song chiếu, tức là quán cả giả lẫn quán không, đến ngài Giải Thoát Trưởng Giả là đã đến một nấc viên dung, trong sự nhập pháp giới. Trong mười hai năm Thiện Tài đi, thì ngài tu trung quán, cả không lẫn giả. Giải thoát đây không có nghĩa như giải thoát bên Thanh Văn đâu, mà cũng chưa phải nhập pháp giới viên mãn như đức Phật, nhưng ngài gọi là Giải Thoát tức là đã đến một mức viên dung của trung quán. Vì vậy ngài có thể nhập pháp giới cho Thiện Tài trông thấy được.

Kinh:

Lúc đã gặp được, Thiện Tài đảnh lễ chân Trưởng Giả, chắp tay cung kính thưa rằng: “Bạch đức Thánh, nay tôi được hội ngộ thiện tri thức. Tôi đã được lợi ích rộng lớn… (bỏ bớt một đoạn kinh…) Bạch đức Thánh, nay tôi đem tâm như vậy, ý như vậy, thích như vậy, muốn như vậy, trông mong như vậy, tư duy như vậy, tôn trọng như vậy, cứu cánh như vậy, khiêm hạ như vậy, mà đến chỗ đức Thánh…

Giảng:

Đại khái trong đoạn kinh này, Thiện Tài muốn xin học đến chỗ viên mãn của Bồ Tát hạnh. Và lúc đó Giải Thoát Trưởng Giả không trả lời Thiện Tài mà nhập ngay tam muội cho Thiện Tài trông thấy. Xin đọc đoạn kinh sau:

Kinh:

Lúc đó Giải Thoát Trưởng Giả do sức thiện căn quá khứ.

Giảng:

Thiện căn tức là do sức tu hành về trung quán song chiếu lâu rồi, đến một mức viên dung tuy chưa phải sự viên dung của chư Phật.

Kinh:

Do sức oai thần của Phật, do niệm lực của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, mà nhập Bồ Tát tam muội tên là “vô biên triền đà la ni nhiếp khắp tất cả cõi Phật…”

Giảng:

Vẫn phải do sức gia trì của chư Phật đồng thời do niệm lực của ngài Văn Thù, đồng thời do nguyện lực tu hành cũ của mình mới vào được tam muội này… Lúc nào Hoa Nghiêm cũng dạy rằng, phải hội đủ ba điều đó cùng đi song song mới được. Vô biên thì quí vị hiểu rồi, còn triền là dính mắc, chuyển chuyển xoay vần lẫn nhau. Nhà Phật nhìn pháp giới bao giờ cũng xoay vần như một cái bánh xe. Vì mọi vật đều xoáy tròn trôn ốc, tâm thức chúng ta cũng thế, mà cả pháp giới này cũng đều xoáy tròn như vậy, mà ta không trông thấy thôi. Chúng ta cứ tưởng rằng mình tự do lắm, đi ngang đi dọc, nhưng chính chúng ta cũng nằm trong quĩ đạo xoáy tròn ấy. Như sáng ra đi làm, tối về chơi lăng xăng rồi cuối cùng cũng trở về nhà, rồi hôm sau lại y như vậy. Chỉ có mỗi ngày, tâm thức mỗi đổi khác một chút mà không biết. Chỉ có chuyển động xoáy tròn đó và chuyển động theo bề ngang (mouvement latéral hay tangentiel) thuộc về nhục nhãn của chúng ta. Tỷ dụ một hòn bi bắn vào một hòn bi khác thì đó là chuyển động bề ngang mà mắt thịt chúng ta nhìn thấy. Nhìn sâu hơn nữa, nhìn theo Phật nhãn, thì tất cả đều do sức phụt từ điểm không hư lên thành pháp giới này. Vì vậy, thuyết nhà Phật gọi là thuyết Sát Na, vì tất cả các flash đó đều là sát na.

Trở lại vị thiện tri thức Giải Thoát, ngài nhập “Vô biên triền đà la ni.” Trong đạo Phật nghĩa chữ “đà la ni” rất rộng, có khi nó được gọi là “pháp,” có khi gọi là “pháp môn,” có khi là câu thần chú, có khi là một khả năng tâm thức, một diệu đức. Khi một hành giả tu trong tàng thức lâu rồi, thì tàng thức nở ra nhiều thứ diệu đức, như một cụm hoa đến thời kỳ nở vậy. Diệu đức lâu rồi trở thành một Lực gọi là diệu lực, thí dụ như khả năng chỉ nói một lời, có thể khiến tâm thức người khác thấy mát mẻ, bớt giận, hoặc khả năng nghe tất cả ngữ ngôn chúng sanh, đó cũng gọi là “đà la ni.” Trong phẩm Phổ Môn có nói đến “Vô tác diệu đức, vô tác diệu lực” của ngài Quán Thế Âm. Tức là ngài quán về âm thanh lâu dài nên trong tàng thức của ngài nở ra tất cả khả năng. Vì tàng thức vốn “cụ túc,” hàm chứa đủ tất cả, không cái gì là không có, ngay cả pháp giới này, cùng những luồng lực đều có trong ấy cả. Vì vậy, sau này Thiện Tài đến gặp một vị thiện tri thức gọi là Cụ Túc, ngài tu theo hạnh bố thí nhưng không bố thí như chúng ta đâu, mà ngài móc trong tàng thức của ngài, chỉ dùng một cái chén nhỏ làm hiện lên các đồ cần dùng để bố thí. Tàng thức ấy rất lạ, nó có thể khởi lên đủ các sắc tướng, và Ma Vương Ba Tuần có thể móc ra từ đó cả trăm ngàn thiên nữ múa hát cho mình nghe, hoặc móc ra cả một thế giới châu báu v.v…

Trong phẩm nhập pháp giới này, tên của các vị thiện tri thức rất chập chùng, nhưng tên nào cũng mang một ý nghĩa của nó, đọc tên là chúng ta có thể hiểu vị đó làm những hạnh gì, tu hành ra sao v.v… Trở lại ngài Giải Thoát Trưởng Giả, ngài nói ngài vào trong Vô biên triền đà la ni, nhiếp khắp tất cả cõi Phật. Có nghĩa là ngài vào trong tam muội ấy làm nở tất cả khả năng tâm thức có thể xoay chuyển hoài hoài, nhiếp tất cả cõi Phật. Nên ta phải hiểu rằng, tâm thức như cái bánh xe xoay tít, trong đà xoay ấy nó thâu gồm đủ mọi cõi Phật trong đó. Tuy ngài nói như thế, cũng chưa phải là tất cả, vì ngài có khả năng xoáy tròn vô lượng cõi Phật, nhưng không phải là tất cả cõi Phật, vì tất cả cõi Phật thì chỉ có chư Phật mới làm được thôi. Còn vị này chỉ đến một mức viên dung nào của trung đạo song chiếu thôi, ở đây, chúng ta cũng phải hiểu ý nghĩa của chữ “vô lượng.” Thí dụ như trong kinh nói “vô lượng hạt cát sông Hằng…” nghĩa là số cát sông Hằng rất nhiều người thường không thể tính đếm được, chứ không phải nó vô lượng thật đâu. Vì sao? Vì chư Đại Bồ Tát và chư Phật vẫn có thể tính đếm được. Còn cái vô lượng thật thì không tính được, chỉ trừ chư Phật mới tính được thôi. Theo nhà Phật, có hai pháp thực là vô lượng đó là hư không và Niết Bàn, đó là trong đại trí độ luận nói như vậy.

Kinh:

Nhập tam muội này rồi được thân thanh tịnh, ở trong thân mình hiển hiện mười phương, mỗi phương đều mười Phật sát vi trần số Phật, và quốc độ chúng hội đạo tràng, các thứ quang minh, các sự trang nghiêm…

Giảng:

Trong tam muội này, thân của ngài Giải Thoát Trưởng Giả rất thanh tịnh, (thân thanh tịnh có lẽ còn hơn vị hành giả được thân thanh tịnh trong Pháp Hoa tam muội), nên trong thân ngài hiện nhiều cõi Phật, rất nhiều, như mười phương, mỗi phương đều hiện nhiều phật sát vi trần số cõi trong thân ngài. “Mười phật sát vi trần số cõi” tức là rất nhiều, nhưng cũng chưa phải là tất cả pháp giới này đâu, nhưng ta phải hiểu tam muội này rất sâu, phải là một người thân tâm thanh tịnh, trồng rất sâu căn lành mới đắc được tam muội này — Và như thế, là ngài Nhập Pháp Giới —

Kinh:

Cũng hiện những thần thông biến hóa, tất cả đại nguyện…

Giảng:

Thần thông biến hóa, tất cả đại nguyện tức là tất cả những bổn sanh, bổn sự của chư Đại Bồ Tát và chư Phật tu hành trong đó, lúc thọ sanh làm kiếp này, lúc thọ sanh làm kiếp khác, biến hóa ra sao v.v… rất nhiều cõi Phật như thế, người nào tu hành ra sao đều có thứ đệ rõ rệt, không hề tạp loạn. Đoạn kinh này rất dài, đại khái nói trong các cõi có rất nhiều đạo tràng, hoặc vi tế đạo tràng, hoặc quảng đại đạo tràng, hoặc có những đạo tràng vô lượng bất khả thuyết, bất khả thuyết phật sát vi trần số do tuần v.v…

Kinh:

Chư Phật Như Lai trong đó có bao nhiêu ngôn thuyết, Thiện Tài Đồng Tử đều nghe thọ được cả. Cũng thấy bất tư nghì thần biến của chư Phật và chư Bồ Tát.

Giảng:

Ở đây, ta thấy rõ rằng ngài Giải Thoát Trưởng Giả gia trì cho Thiện Tài cùng nhập vào môn tam muội của ngài nên nhìn thấy được cảnh giới y như ngài và nghe được chư Phật thuyết pháp.

Kinh:

Lúc bấy giờ Giải Thoát Trưởng Giả xuất tam muội bảo Thiện Tài rằng: Thiện nam tử, ta đã nhập xuất môn vô ngại trang nghiêm giải thoát của Như Lai.

Giảng:

Trong kinh không nói Thiện Tài nhập môn tam muội ấy, trong kinh chỉ nói Thiện Tài cũng nhìn thấy được 10 phương chư Phật, nghe chư Phật thuyết pháp và nhớ được hết. Sở dĩ ta nói rằng vị này mức độ tu chứng chưa cao tuyệt là vì sao? Vì ngài còn nhập, còn xuât tam muội đó. Chúng ta nhớ lại ngài thiện tri thức thứ 3 là ngài Thiện Trụ, ngài được môn “Vô ngại giải thoát” tam muội, còn ngài Giải Thoát Trưởng Giả này được thêm chữ “trang nghiêm,” nên ta thấy có những thứ bực đi lên. Rồi ngài Giải Thoát lại nói rằng khi ngài nhập tam muội này thì liền thấy mười phương thế giới chư Phật, cùng đạo tràng chúng hội vây quanh, ở đây, nhớ lại ngài Đức Vân, ngài cũng nhìn thấy 10 phương chư Phật nhưng không kể rõ danh hiệu của chư Phật, còn ngài này thì kể rõ danh hiệu. Vì vậy, có thể nói ngài Giải Thoát tu sâu vào tàng thức hơn ngài Đức Vân. Từ đây về sau, chúng ta sẽ thấy phần nhiều các vị thiện tri thức đều hiện những cảnh giới trang nghiêm. Ngài Giải Thoát lại nói tiếp:

Kinh:

Nếu ta muốn thấy thế giới an lạc, đức A Di Đà Như Lai thời tùy ý liền thấy. Nếu ta muốn thấy chiên đàn thế giới, Kim Cang Quang Minh Như Lai, diệu hương thế giới, Bửu Quang Minh Như Lai, liên hoa thế giới, Bửu Liên Hoa Quang Minh Như Lai, diệu kim thế giới, Tịch Tịnh Quang Như Lai v.v… (Bỏ một đoạn kinh nói danh hiệu các đức Như Lai và các thế giới của ngài)… Tât cả chư Như Lai như vậy đều tùy ý liền thấy. Nhưng chư Như Lai chẳng đến đây, ta cũng không qua đó… Biết tất cả chư Phật cùng tâm ta đều như mộng. Biết tất cả sắc tướng của chư Phật và tâm mình đều như huyễn. Biết tất cả Phật và tâm mình thảy đều như vang…

Giảng:

Ở đây, ngài đã đến một nấc viên dung của trung quán, đồng thời ngài cũng dạy cho Thiện Tài quán chiếu như huyễn. Sau đó, ngài lại nhắc rằng, tất cả đều là tự tâm hết, cả chư Phật Như Lai, cùng với ta, cùng với ông, tất cả pháp giới đều hiện lên từ tự tâm ấy thôi.

Kinh:

Ta biết như vậy, ức niệm như vậy, chư Phật được thấy đều do tự tâm. Thiện nam tử, phải biết Bồ Tát tu những Phật pháp, tịnh những Phật độ, tích tập diệu hạnh, điều phục chúng sanh, phát đại thệ nguyện, nhập nhát thiết trí, tự tại du hí bất tư nghi môn giải thoát, được Phật bồ đề, hiện đại thần thông, qua khắp tất cả mười phương pháp giới, dùng vi tế trí nhập khắp các kiếp, tất cả như vậy đều do tự tâm…

Giảng:

Tóm lại, vị thiện tri thức thứ 5 này đã đến một mức viên dung khá cao để cho Thiện Tài trông thấy các cõi ngay, nhưng trong kinh không nói rằng Thiện Tài được tam muội gì hết, phải đến vị thiện tri thức thứ 8 lúc bấy giờ Thiện Tài mới nhập được năm thứ tam muội.

Kinh:

Thiện nam tử, ta chỉ nhập xuất được môn giải thoát “Như Lai vô ngại trang nghiêm” này…

Giảng:

Ở đây, ngài phải nhập, xuất tam muội thì chưa phải cao lắm, đến sau này, khi Thiện Tài gặp những vị thiện tri thức cao hơn, thì lúc nào các ngài cũng ở trong tam muội cả.

Kinh:

Này thiện nam tử, từ đây qua phương Nam đến bờ Diêm Phù Đề, có một nước tên là Ma Lợi Già La. Nước đó có Tỳ Kheo tên là Hải Tràng. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Giảng:

Thiện Tài vừa đi qua hai vị Ưu Bà Tắc thì đây, ngài lại đến một vị Tỳ Kheo.

Kinh:

Thiện Tài Đồng Tử nhất tâm chánh niệm lời dạy của Giải Thoát Trưởng Giả, quán sát lời dạy của Trưởng Giả. Ghi nhớ môn bất tư nghì Bồ Tát giải thoát của Trưởng Giả…

Giảng:

Đại khái đoạn này tả Thiện Tài nhất tâm tu theo những gì Giải Thoát Trưởng Giả đã dạy…, rồi đi lần qua phương Nam…


Comments

Popular posts from this blog