ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư
Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH
TRÍ TỊNH
Lành thay tạng công đức
Có thể đến gặp ta
Phát khởi tâm đại bi
Siêng cầu Vô Thượng Giác.
Ðã phát nguyện rộng lớn
Diệt trừ khổ chúng sanh
Vì khắp các chúng sanh
Tu hành Bồ Tát hạnh.
Nếu có các Bồ Tát
Chẳng nhàm khổ sanh tử
Thời đủ đạo Phổ Hiền
Tất cả không hoại được.
Phước quang, phước oai lực
Phước xứ, phước tịnh hải
Ngươi vì khắp chúng sanh
Nguyện tu Phổ Hiền hạnh.
Ngươi thấy vô biên tế
Mười phương tất cả Phật
Khắp nghe Phật thuyết pháp
Thọ trì chẳng quên mất.
Ngươi ở mười phương cõi
Thấy khắp vô lượng Phật
Thành tựu những nguyện hải
Ðầy đủ Bồ Tát hạnh.
Nếu nhập phương tiện hải
An trụ Phật Bồ đề
Hay theo Ðạo Sư học
Sẽ thành Nhứt thiết trí.
Khắp tất cả quốc độ
Số kiếp như vi trần
Ngươi tu hạnh Phổ Hiền
Thành tựu Bồ đề đạo.
Ở vô lượng cõi nước
Trong vô biên kiếp hải
Ngươi tu hạnh Phổ Hiền
Thành mãn những đại nguyện.
Vô lượng chúng sanh đây
Nghe ngươi nguyện đều mừng
Ðều phát tâm Bồ đề
Nguyện học hạnh Phổ Hiền.
Nói kệ xong, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo
Thiện Tài đồng tử rằng :
Lành thay ! Lành thay ! này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm
Vô thượng Bồ đề, cầu hạnh Bồ Tát.
Này thiện nam tử ! nếu có chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề,
đây là việc rất khó. Ðã có thể phát Bồ đề tâm rồi lại cầu Bồ Tát hạnh, việc này
càng khó gấp bội.
Này thiện nam tử ! Nếu muốn thành tựu Nhứt thiết chủng trí
thời phải quyết định cầu chân thiện tri thức.
Này thiện nam tử ! Cầu thiện tri thức chớ có mỏi lười. Thấy
thiện tri thức chớ có nhàm đủ. Thiện tri thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy
thuận. Nơi thiện xảo phương tiện của thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm.
1.- TỲ KHEO ÐỨC VÂN
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được pháp môn
"ỨC NIỆM NHỨT THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH GIỚI TRÍ HUỆ QUANG MINH PHỔ KIẾN" này thôi.
Thiện Tài đồng tử nghe xong hớn hở vui mừng, đảnh lễ Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rơi lệ từ tạ mà đi
qua hướng Nam, đến nước Thắng Lạc, lên núi Diệu Phong. Ở trên núi đó xem ngó
tìm kiếp khắp bốn phía, lòng khao khát muốn được gặp TỲ KHEO ÐỨC VÂN. Bảy ngày sau mới được thấy Tỳ Kheo Ðức Vân ở trên
ngọn núi khác đi kinh hành chậm rãi.
Thấy xong, Thiện Tài đồng tử liền đến đảnh lễ chân Tỳ Kheo Ðức
Vân, hữu nhiễu ba vòng cung kính đứng trước Ðức Vân mà bạch rằng :
Bạch Ðức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết
Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến
phải thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ? Tôi nghe đức Thánh khéo có
thể dạy bảo, mong đức Thánh thương xót dạy cho tôi thế nào Bồ Tát được thành Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Ðức Vân Tỳ Kheo bảo Thiện Tài đồng tử rằng :
Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm
Vô thượng Bồ đề, lại có thể hỏi hạnh của Bồ Tát. Việc như vậy là sự khó trong
những sự khó. Những là cầu Bồ Tát hạnh, cầu Bồ Tất cảnh giới, cầu đạo xuất ly
của Bồ Tát, cầu đạo thanh tịnh của Bồ Tát, cầu tâm thanh tịnh quảng đại của Bồ
Tát, cầu Bồ Tát thành tựu thần thông, cầu Bồ Tát thị hiện môn giải thoát, cầu
Bồ Tát thị hiện việc làm tại thế gian, cầu Bồ Tát tùy thuận tâm của chúng sanh,
cầu môn sanh tử Niết bàn của Bồ Tát, cầu Bồ Tát quán sát hữu vi vô vi tâm không
chấp trước.
Này thiện nam tử ! Ta được sức thắng giải tự tại quyết định,
tín nhãn thanh tịnh, trí quang chói sáng, thấy khắp các cảnh giới khỏi tất cả
chướng ngại, quán sát khéo léo, phổ nhãn sáng suốt, đủ hạnh thanh tịnh. Qua đến
tất cả cõi nước mười phương cung kính cúng dường tất cả chư Phật. Thường nhớ
tất cả chư Phật Như Lai. Tổng trì tất cả chánh pháp của chư Phật. Thường thấy
tất cả chư Phật mười phương.
Những là thấy phương đông một đức Phật, hai đức Phật, mười đức
Phật, trăm đức Phật, ngàn đức Phật, ức đức Phật, trăm ức đức Phật, ngàn ức đức
Phật, trăm ngàn ức đức Phật, na do tha ức đức Phật, trăm na do tha ức đức Phật,
ngàn na do tha ức đức Phật, trăm ngàn na do tha ức đức Phật, nhẫn đến thấy vô
số, vô lượng, vô biên vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả
lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết đức Phật. Nhẫn đến thấy
chư Phật bằng số vi trần trong Diêm Phù Ðề, bằng số vi trần trong bốn châu
thiên hạ, bằng số vi trần trong Tiểu thiên thế giới, bằng số vi trần trong nhị
thiên thế giới bằng số vi trần trong Ðại Thiên thế giới, bằng số Phật sát vi
trần nhẫn đến thấy chư Phật bằng số bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi
trần.
Như phương đông, chín phương kia cũng đều thấy như vậy.
Chư Phật trong mỗi phương, những sắc tướng, những hình mạo,
những thần thông, những du hí, những chúng hội trang nghiêm đạo tràng, những
quang minh chiếu sáng vô biên, những quốc độ, những thọ mạng. Tùy những tâm sở
nghi của chúng sanh mà chư Phật thị hiện những môn thành Ðẳng Chánh Giác, làm
sư tử hống trong đại chúng.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được pháp môn "ỨC NIỆM NHỨT THIẾT
CHƯ PHẬT CẢNH GIỚI TRÍ HUỆ QUANG MINH PHỔ KIẾN" này thôi. Ðâu biết
hết được vô biên trí huệ thanh tịnh hạnh môn của đại Bồ Tát. Những là : Trí
quang phổ chiếu niệm Phật môn, vì thường thấy tất cả chư Phật quốc độ những
cung điện đều trang nghiêm thanh tịnh. Môn làm cho tất cả chúng sanh niệm Phật,
vì tùy sở nghi của tâm chúng sanh đều làm cho họ được thấy Phật, tâm họ được
thanh tịnh. Môn làm cho an trụ nơi lực niệm Phật, vì làm cho họ nhập vào thập
lực của Như Lai. Môn làm cho an trụ nơi pháp niệm Phật, vì thấy vô lượng Phật
được nghe pháp. Môn niệm Phật chói sáng các phương, vì đều thấy trong tất cả
thế giới chư Phật bình đẳng không sai biệt. Môn niệm Phật vào chỗ bất khả kiến,
vì đều thấy trong tất cả cảnh vi tế những sự thần thông tự tại của chư Phật.
Môn niệm Phật an trụ trong các kiếp, vì trong tất cả kiếp thường thấy những
việc làm không tạm bỏ của chư Phật. Môn niệm Phật an trụ trong tất cả thời
gian, vì trong tất cả thời gian thường thấy đức Như Lai gần gủi đồng ở chẳng
rời bỏ. Môn niệm Phật an trụ tất cả cõi, vì tất cả quốc độ đều thấy thân Phật
vượt hơn tất cả không gì sánh bằng. Môn niệm Phật an trụ tất cả đời, vì tùy tâm
sở thìch thấy khắp tam thế chư Phật. Môn niệm Phật an trụ tất cả cảnh, vì ở
khắp trong tất cả cảnh giới thấy chư Như Lai thứ đệ xuất hiện. Môn niệm Phật an
trụ tịch diệt, vì trong một niệm thấy tất cả cõi, tất cả chư Phật thị hiện Niết
bàn. Môn niệm Phật an trụ viễn ly, vì trong một niệm thấy tất cả Phật từ nơi
chỗ ở mà ra đi. Môn niệm Phật an trụ quảng đại, vì tâm thường quán sát mỗi thân
Phật đầy khắp tất cả pháp giới. Môn niệm Phật an trụ vi tế, vì trong một chân
lông có bất khả thuyết Như Lai xuất hiện, đều đến chỗ Phật mà kính thờ. Môn
niệm Phật an trụ trang nghiêm, vì trong một niệm thấy tất cả cõi đều có chư
Phật thành Ðẳng Chánh Giác hiện thần biến. Môn niệm Phật an trụ năng sự, vì
thấy tất cả Phật xuất hiện thế gian, phóng trí huệ quang chuyển diệu pháp luân.
Môn niệm Phật trụ tâm tự tại, vì biết tùy theo sở thích của tự tâm, tất cả chư
Phật hiện hình tượng. Môn niệm Phật an trụ nơi tự nghiệp, vì biết tùy nghiệp tích
tập của chúng sanh mà hiện hình tượng làm cho họ được giác ngộ. Môn niệm Phật
an trụ thần biến, vì thấy liên hoa quảng đại của Phật ngự nở xòe khắp pháp
giới. Môn niệm Phật an trụ hư không vì quán sát những thân Như Lai trang nghiêm
pháp giới hư không giới. Như vậy ta làm sao biết được nói được những công đức
hạnh của đại Bồ Tát.
Này thiện nam tử ! Phương Nam có một nước tên là Hải Môn, nơi
đó có Tỳ Kheo tên là Hải Vân. Ngươi đến hỏi Hải Vân rằng Bồ Tát thế nào học Bồ
Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ? Hải Vân Tỳ Kheo có thể phân biệt nói nhơn duyên phát
khởi thiện căn quảng đại.
Này thiện nam tử ! Hải Vân Tỳ Kheo sẽ làm cho ngươi nhập ngôi
trợ đạo quảng đại, sẽ làm cho ngươi sanh sức thiện căn quảng đại, sẽ vì ngươi
mà nói nhơn duyên phát tâm Bồ đề, sẽ làm cho ngươi sanh quang minh đại thừa
quảng đại, sẽ làm cho ngươi tu ba la mật quảng đại, sẽ làm cho ngươi nhập những
hạnh hải quảng đại, sẽ làm cho ngươi viên mãn thệ nguyện quảng đại, sẽ làm cho
ngươi tịnh môn trang nghiêm quảng đại, sẽ làm cho ngươi sanh sức từ bi quảng
đại.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Ðức Vân Tỳ Kheo, hữu
nhiễu quán sát, từ tạ mà đi.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
4 tháng Ba 1990
1.- TỲ KHEO ÐỨC VÂN
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được pháp môn
"ỨC NIỆM NHỨT THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH GIỚI TRÍ HUỆ QUANG MINH PHỔ KIẾN" này thôi.
Kinh:
Thiện Tài Đồng Tử nghe xong hớn hở vui mừng, đảnh lễ ngài Văn Thù hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rồi lễ từ tạ mà đi qua phương Nam. Đến nước Thắng Lạc, lên núi Diệu Phong, ở trên núi đó xem ngó tìm kiếm khắp bốn phương, lòng khao khát muốn gặp Tỳ Kheo Đức Vân qua bảy ngày sau mới được thấy Tì Kheo Đức Vân ở trên ngọn núi khác đi kinh hành chậm rãi…
Giảng:
Có một nước tên là
Thắng Lạc, đồng thời hiểu theo nghĩa bóng thì đó là tượng trưng cho thức ấm của
mình, hay cái tàng thức sơ năng biến, nên theo nghĩa bóng tức là ngài Văn Thù
Sư Lợi bảo Thiện Tài rằng: Ông bây giờ đã được không quán rồi, thì đến nước Thắng
Lạc. Tại sao lại Thắng Lạc? Thắng Lạc nghĩa là cực kỳ vui sướng. Ta nên nhớ rằng,
những vị tu thiền, từ sơ thiền đến đệ tứ thiền, sơ thiền gọi là ly sanh hỷ lạc
địa, nhị thiền là định sanh hỷ lạc địa, tam thiền là ly hỷ diệu lạc địa, ba bậc
thang đó là vào trong một sự thọ lạc rất vui, nhất là đệ tam thiền. Thế nhưng
thọ lạc ở ba bực thang thiền này không ăn thua gì với cái lạc của thức ấm. Đi
vào “Thắng Lạc” của tàng thức này, hành giả cảm thấy sung sướng không tả nổi,
lâng lâng không vướng chút bụi trần, chính vì vậy mà các vị Thanh Văn thường dừng
chân ở đây, không muốn tu lên nữa, nên kinh nói là rơi vào trầm không thú tịch.
Nhưng trong xứ Thắng
Lạc lại có ngọn núi Diệu Phong, theo nghĩa đen thì có ngọn núi đó thật, rất kỳ
diệu, còn nghĩa bóng thì ta phải nhớ đến câu nhà thiền vẫn thường dùng: “Trên đầu
sào trăm trượng, phải co chân nhảy một bước nữa.” Tức là đi vào đến thức ấm rồi
vẫn chưa xong, phải chuyển tàng thức đó, (vì vẫn còn nhiều biến dịch sanh tử),
trở thành bạch tịnh thức, hay vô câu thức. Phải gột những sở tri chướng đó đi,
lặn sâu tới đáy tàng thức. Nói cách khác, đến xứ Thắng Lạcđừng tưởng là xong,
mà còn phải leo ngọn núi Diệu Phong. Thiện Tài đi đến đó, tìm ngó khắp nơi
không thấy (vì tâm thức của Thiện Tài chưa vào sâu mấy), phải quán chiếu bảy
ngày, khao khát tìm kiếm mới thấy. Phải quán niệm ngài Đức Vân thì ngài mới tới.
Cũng như chúng ta muốn gặp đức A Di Đà phải quán thật lâu, thân tâm thanh tịnh,
ngài A Di Đà mới đến, mới hiện lên trong hào quang tàng thức của mình, vì ngài
cũng ở trong tâm mình. Quán chiếu đến mức thuần thục thì đức A Di Đà bên Cực Lạc
hiện tướng và nhập một với đức A Di Đà trong tâm mình. Thiện Tài bèn quán chiếu
trong bảy ngày liền thấy ngài Đức Vân. Nhưng ngài Đức Vân lại không hiện trên đỉnh
núi của Thiện Tài mà ở một đỉnh núi khác. Tại sao? Vì lúc đó, tâm thức của Thiện
Tài chưa thuần thục lắm, trong lòng vẫn âm thầm chấp ngã, nghĩ mình là kẻ đi cầu
đạo, vẫn còn ranh giới giữa tự và tha, chưa thể nhập một vì thế ngài Đức Vân vẫn
là đối tượng đối với Thiện Tài mà Thiện Tài vẫn là chủ
thể, vẫn còn chấp có một vị thầy dạy và một người trò thụ giáo mà chưa
đến chỗ nhập một được.
Kinh:
Thấy
xong, Thiện Tài Đồng Tử liền đến đảnh lễ chân Tỳ Kheo Đức Vân, hữu nhiễu ba
vòng cung kính đứng trước Đức Vân mà bạch rằng: Bạch đức Thánh, tôi đã phát tâm
Vô Thượng Bổ Đề, mà chưa biết Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh thế nào? Phải tu Bồ
Tát hạnh thế nào, nhẫn đến phải thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền???
Giảng:
Ngài Đức Vân chỉ
nói có mấy câu, và lúc này, Thiện Tài cũng chưa vào được tam muội. Ngài chỉ dạy
rằng: Thiện Tài phải cầu môn Sanh Tử Niết Bàn của Bồ Tát, cầu môn Bồ Tát quán
sát hữu vi vô vi tâm không chấp trước. Vậy thì, thế nào là môn “Sanh Tử Niết
Bàn của Bồ Tát?” Tức là Thiện Tài không được trụ vào sanh tử, cũng không trụ
vào Niết Bàn, mà chỉ “thiện thệ” qua lại để độ sinh thôi, Bồ Tát là như vậy,
không nhập Niết Bàn mà cũng không bị chìm nổi trong sanh tử. Cũng thế, Bồ Tát
quán pháp hữu vi, vô vi cũng như vậy, hữu vi là giả, mà vô vi là không, bao giờ
các ngài cũng dạy ta chuyển động tâm thức thiện thệ qua lại mà không bao giờ
ngưng ở một bên nào cả.
Kinh:
Này
thiện nam tử, ta được sức thắng giải tự tại quyết định, tín nhãn thanh tịnh,
trí quang chói sáng, thấy khắp các cảnh giới khỏi tất cả chướng ngại,
quan sát khéo léo, phổ nhãn sáng suốt, đủ hạnh thanh tịnh. Qua đến tất
cả cõi nước mười phương, cung kính cúng dường tất cả chư Phật, thường nhớ tất cả
chư Phật Như Lai…
Giảng:
Đại khái đoạn này
nói rằng, ta chỉ tu được một pháp môn là “ức niệm nhát thiết
chư Phật mười phương” nghĩa là lúc nào cũng nhớ đến chư Phật mười phương. Nói
rõ hơn, ngài Đức Vân đã đắc được môn Niệm Phật tam muội, ngài vào được rất sâu
trong tam muội đó, ngài thấy tất cả chư Phật 10 phương. Càng đi sâu vào tam muội
càng thấy nhiều phương chư Phật. Nên ngài nói rằng có thể thấy bất khả thuyết,
bất khả thuyết chư Phật đông như vi trần, rồi ngài lại bảo rằng có thể có nhiều
lối niệm Phật. Nên ngài được môn tam muội Ức niệm nhứt thiết chư Phật, và chỉ dạy
Thiện Tài pháp môn ấy.
Tóm lại, ngài Văn
Thù đã chỉ vị thiện trí thức đầu tiên, và vị này dạy Thiện Tài môn Niệm Phật
tam muội —Môn tam muội này có thể mở cửa tất cả các tam muội. Như vậy, chúng ta
phải biết rằng môn niệm Phật tam muội là một môn tối thắng của chư Phật, đó là
do lòng đại bi và phương tiện huệ của các ngài. Không biết quí vị nghĩ thế nào
chứ riêng tôi, nếu tôi tu độ 10 kiếp thì tôi cũng chưa chắc đi đến đâu cả, may
lắm chỉ đến nhị thiền là cùng, vì tâm chúng sinh thường rất buông lung và cái
chấp về thân căn lại rất nặng nề, nên muốn xóa những chấp đó rất khó, dù rằng
tu từ lúc trẻ. Tu hành càng lên cao càng khó, càng cần đến sức gia trì của chư
Phật, bằng cách niệm Phật để có thể vào được Niệm Phật tam muội. Vả lại, ngài
Thiện Tài đã được không quán rồi, bây giờ phải tu giả quán, mà giả quán không
gì hơn là quán chiếu cái hiện thân tuyệt vời của diệu tâm tức là đức Phật. Hành
giả cũng có thể quán núi, cây, sông, nước, v.v…. cũng là quán giả nhưng quán những
điều đó không có lợi nhiều, chỉ có lợi làm cho định tâm được mạnh, mà không có
sức gia trì nào cả. Thì ở đây, trong kinh không nói rằng ngài Thiện Tài được
vào tam muội, không thấy nói rằng ngài nhìn thấy cảnh giới nào cả, chỉ nghe được
ngài Đức Vân nói rằng ta nhìn thấy tất cả các cõi mà thôi.
PHỤ CHÚ.-
Tỷ-khưu Đức-Vân dạy Thiện-tài Đồng-tử về môn “ỨC-NIỆM
NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI TRÍ-HUỆ QUANG-MINH PHỔ-KIẾN”, như thế nào
mà gặp được chư Phật ở mười phương tịnh độ?
Lúc đầu, thì Bồ-tát Văn-Thù Sư-lợi dạy cho Thiện-Tài
Đồng-Tử “PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM”, tức là chỉ dạy cho Thiện-Tài về phần “TÍN-GIẢI”, mà
không dạy về phần “HÀNH-CHỨNG”, KHÔNG DẠY làm thế nào để “NHẬP
PHÁP GIỚI.”
Rồi THIỆN TÀI được Bồ-tát Văn-thù giới thiệu theo học với “TỶ-KHƯU ĐỨC VÂN”,
rồi Tỷ-khưu Đức-vân giới thiệu tới một vị “Thiện Tri Thức” khác… cho đến sau
cùng gặp ”PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT” dạy THIỆN TÀI “PHÁT NGUYỆN VÃNG
SANH” VỀ CÕI CỰC LẠC CỦA ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ, thì mới mau “NHẬP PHÁP
GIỚI” một cách viên mãn.
Tôi nay hồi hướng các căn lành
Ðể được Phổ Hiền hạnh thù thắng.
Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung
Trừ hết tất cả các chướng ngại
Tận mặt gặp Phật A Di Ðà
Liền được vãng sanh cõi Cực Lạc,
Tôi đã vãng sanh cõi kia rồi
Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này
Cả thảy tròn đủ không thừa thiếu
Lợi lạc tất cả các chúng sanh.
Chúng hội Di Ðà đều thanh tịnh
Tôi từ hoa sen nở sinh ra
Thân thấy đức Phật Vô Lượng Quang
Liền thọ ký tôi đạo Bồ Ðề.
Nhờ đức Phật kia thọ ký rồi
Tôi hóa vô số vạn ức thân
Trí huệ rộng lớn khắp mười phương
Khắp lợi tất cả chúng sanh giới.
Nhẫn đến hư không thế giới tận
Chúng sanh, nghiệp và phiền não tận
Nhưng bốn pháp ấy không cùng tận
Nguyện tôi rốt ráo hằng vô tận
Tại sao “Bồ-tát Văn-thù” không dạy, mà giới thiệu tới “Tỷ-khưu Đức-vân” học
Đạo ? Vì bấy giờ, Thiện-tài không thấy rằng gặp Bồ-tát Văn-thù là
một chuyện hy-hữu, trong trăm ngàn muôn ức kiếp khó gặp được một lần, nên dù
Bồ-tát Văn-thù có dạy, thì Thiện-tài cũng không chứng nhập được.
Cho nên, trước khi lên đường tìm cầu “THIỆN TRI THỨC”, Bồ-tát Văn-thù dặn dò
THIỆN-TÀI rằng:
“Thiện tri thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy thuận. Nơi thiện
xảo phương tiện của thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm. (Y
theo PHÁP không Y theo NGƯỜI)
Lời dạy của “BỒ-TÁT VĂN-THÙ” cũng giống như Phẩm “TỨ-Y” trong
“Kinh Đại-Bát Niết-Bàn”:
1) Y theo PHÁP không Y theo NGƯỜI
2) Y theo NGHĨA không Y theo LỜI
3) Y theo TRÍ không Y theo THỨC
4) Y theo KINH LIỄU-NGHĨA không Y theo KINH CHẲNG LIỄU NGHĨA
Phương nam này có một nước tên là Thắng Lạc. Trong nước Thắng
Lạc có tòa núi tên là Diệu Phong. Trên núi đó có một Tỳ kheo tên là Ðức Vân.
Ngươi nên đến hỏi Tỳ Kheo Ðức Vân : Bồ Tát phải học Bồ Tát
hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải như
thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ? Tỳ Kheo Ðức Vân
sẽ chỉ bảo cho ngươi.”
Thiện Tài đồng tử nghe xong hớn hở
vui mừng, đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm
ngưỡng, rơi lệ từ tạ mà đi qua hướng Nam, đến nước Thắng Lạc, lên núi Diệu
Phong. Ở trên núi đó xem ngó tìm kiếm khắp bốn phía, lòng khao khát
muốn được gặp Tỳ-Kheo Ðức-Vân. Bảy ngày sau mới được
thấy T ỳ Kheo Ðức Vân ở trên ngọn núi khác đi kinh hành chậm rãi.
Tỷ-khưu Đức-vân dạy Thiện-tài về môn “NHỚ NIỆM THIỆN TRI THỨC”, cũng giống như pháp “TRÌ DANH HIỆU PHẬT”, trong KINH A-DI-ĐÀ , làm cho Thiện-tài có “TÂM” mong cầu muốn gặp được Thiện-Tri-Thức, nên trong 7 ngày nhớ niệm, khát ngưỡng mong gặp Tỷ-khưu Đức-vân, nên được nhất Tâm, như chỉ được sự nhất tâm mà thôi, vì còn thấy mình ở núi bên nầy, Tỷ-khưu Đức-vân ở núi bên kia (còn năng niệm sở niệm)
Thấy xong, Thiện Tài đồng tử liền đến đảnh lễ chân Tỳ Kheo Ðức
Vân, hữu nhiễu ba vòng cung kính đứng trước Ðức Vân mà bạch rằng :
Bạch Ðức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề,
mà chưa biết Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ
Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ
Hiền ? Tôi nghe đức Thánh khéo có thể dạy bảo, mong đức Thánh thương
xót dạy cho tôi thế nào Bồ Tát được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác.
Ðức Vân Tỳ Kheo bảo Thiện Tài đồng tử rằng :
Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm
Vô thượng Bồ đề, lại có thể hỏi hạnh của Bồ Tát. Việc như vậy là sự khó
trong những sự khó. Những là cầu Bồ Tát hạnh, cầu Bồ Tát cảnh giới,
cầu đạo xuất ly của Bồ Tát, cầu đạo thanh tịnh của Bồ Tát, cầu tâm thanh tịnh
quảng đại của Bồ Tát, cầu Bồ Tát thành tựu thần thông, cầu Bồ Tát thị hiện môn
giải thoát, cầu Bồ Tát thị hiện việc làm tại thế gian, cầu Bồ Tát tùy thuận tâm
của chúng sanh, cầu môn sanh tử Niết bàn của Bồ Tát, cầu Bồ Tát quán sát hữu vi
vô vi tâm không chấp trước.
Này thiện nam tử ! Ta được sức thắng giải tự
tại quyết định, tín nhãn thanh tịnh, trí quang chói sáng, thấy khắp các cảnh
giới khỏi tất cả chướng ngại, quán sát khéo léo, phổ nhãn sáng suốt, đủ hạnh
thanh tịnh. Qua đến tất cả cõi nước mười phương cung kính cúng dường
tất cả chư Phật. Thường nhớ tất cả chư Phật Như Lai. Tổng
trì tất cả chánh pháp của chư Phật. Thường thấy tất cả chư Phật mười
phương.
Những là thấy phương đông một đức Phật, hai
đức Phật, mười đức Phật, trăm đức Phật, ngàn đức Phật, ức đức Phật, trăm ức đức
Phật, ngàn ức đức Phật, trăm ngàn ức đức Phật, na do tha ức đức Phật, trăm na
do tha ức đức Phật, ngàn na do tha ức đức Phật, trăm ngàn na do tha ức đức
Phật, nhẫn đến thấy vô số, vô lượng, vô biên vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng,
bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết đức
Phật.
Nhẫn đến thấy chư Phật bằng số vi trần trong Diêm Phù Ðề, bằng
số vi trần trong bốn châu thiên hạ, bằng số vi trần trong Tiểu thiên thế giới,
bằng số vi trần trong nhị thiên thế giới bằng số vi trần trong Ðại Thiên thế
giới, bằng số Phật sát vi trần nhẫn đến thấy chư Phật bằng số bất khả thuyết
bất khả thuyết Phật sát vi trần.
Như phương đông, chín phương kia cũng đều thấy như
vậy.
Chư Phật trong mỗi phương, những sắc tướng, những hình mạo,
những thần thông, những du hí, những chúng hội trang nghiêm đạo tràng, những
quang minh chiếu sáng vô biên, những quốc độ, những thọ mạng. Tùy những tâm sở
nghi của chúng sanh mà chư Phật thị hiện những môn thành Ðẳng Chánh Giác, làm
sư tử hống trong đại chúng.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được pháp môn "ức niệm
Nhứt thiết chư Phật cảnh giới trí huệ quang minh phổ kiến" này
thôi.
Khi niệm một vị Phật nào đó tới “không còn năng niệm
sở niệm”, thì thấy được TẤT CẢ CHƯ PHẬT HIỆN Ở TRONG “PHỔ-QUANG MINH TRÍ”
SÁT-NA TẾ TAM MUỘI , rồi “Qúy-vị” có khả năng hóa hiện vô-lượng
thân, ở trước vô-lượng chư Phật ở 10 phương đồng thời niệm Phật. Vì Thường
niệm tất cả chư Phật Như Lai, nên Thường thấy tất cả chư Phật ở mười
phương Tịnh-độ.
Đây gọi là “ỨC-NIỆM NHỨT-THIẾT CHƯ PHẬT CẢNH-GIỚI TRÍ-HUỆ QUANG-MINH
PHỔ-KIẾN”. Còn gọi là: “PHỔ-QUANG MINH TRÍ” SÁT-NA TẾ TAM MUỘI.”
Cảnh giới nầy, cũng giống như LỄ PHẬT “không còn năng lễ sở lễ”.
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
Comments
Post a Comment