HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
52.- VĂN THÙ SƯ LỢI
Y lời dạy của Di-lặc
Bồ-Tát, Thiện-Tài đi qua hơn một trăm mười thành đến nước Phồ-Môn, thành
Tô-Ma-Na, ở nơi cửa thành suy tìm VĂN
THÙ SƯ LỢI, trông được gặp gỡ kính thờ.
Bây giờ Văn-Thù Sư-Lợi
Bồ-Tát từ xa đưa tay hữu qua khỏi một trăm mười do-tuần áp trên đầu Thiện-Tài
mà nói rằng:
Lành thay! Lành thay! Nầy
Thiện-nam-tử! Nếu rời tín-căn thời tâm yếu kém, lo sợ ăn-năn công-hạnh chẳng
tròn đủ, thối thất tinh-cần, nơi một thiện-căn sanh lòng trụ trước, với chút ít
công-đức đã cho là đủ. Chẳng thể phát khởi hạnh nguyện, chẳng được
thiện-tri-thức nhiếp thọ, chẳng được Như-Lai ức niệm, chẳng biết được pháp-tánh
như vậy, lý-thú như vậy, pháp-môn như vậy, công-hạnh như vậy, cảnh-giới như
vậy, đều không thể biết khắp, biết nhiều, tột nguồn đáy, hiểu rõ, xu nhập
giải-thoát, phân-biệt, chứng biết, chứng đắc, tất cả điều trên đây đều không
thể được.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát
tuyên nói pháp ấy cho Thiện-Tài được lợi ích hoan-hỷ thành-tựu vô-số pháp-môn,
đầy đủ vô-lượng đại-trí quang-minh, khiến được Bồ-Tát vô-biên-tế đà-la-ni,
vô-biên-tế nguyện, vô-biên-tế tam-muội, vô-biên-tế thần-thông, vô-biên-tế trí,
khiến vào đạo-tràng phổ-hiền-hạnh.
Lại để Thiện-Tài ở tại chỗ
cũ, Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát nhiếp thần-lực chẳng hiện.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
52.- VĂN THÙ SƯ LỢI
Ngày 12 tháng 5 năm 1991
KINH:
Y lời dạy của Di Lặc Bồ Tát, Thiện Tài đi qua hơn một trăm mười thành đến nước
Phổ Môn, thành Tô Ma Na…
GIẢNG: Tôi vẫn nói
con số 100 và con số 10 trong Hoa Nghiêm tượng trưng cho vô số, tức là Thiện
Tài đi qua rất nhiều nơi, làm rất nhiều hạnh nguyện, đến nước Phổ Môn, là một
nơi “cùng khắp,” thành Tô Ma Na, (chữ này chắc có cái
nghĩa cũng lớn lao, nhưng rất tiếc tôi không có dịp tìm tòi để giảng cho quí vị).
KINH: Ở nơi
cửa thành suy tìm Văn Thù Sư Lợi trông được gặp gỡ kính thờ…
GIẢNG: Khi Thiện
Tài đến cửa thành, trông chờ ngài Văn Thù Sư Lợi, một vị thấy đã gia trì cho
Thiện Tài trong cuộc hành trình cầu đạo. Chỗ này có một điều lạ là ngài Văn Thù
Sư Lợi không hiện ra, mà ngài chỉ đứng rất xa, dơ tay quán đảnh, sờ đầu Thiện
Tài.
KINH:
Bây giờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát từ xa đưa tay hữu qua khỏi một trăm mười do tuần
áp lên đầu Thiện Tài mà nói rằng: Lành thay, lành thay, này thiện nam tử,
nếu rời tín căn thời tâm yếu kém, lo sợ ăn năn công hạnh chẳng tròn đủ…
GIẢNG: Ngài Văn
Thù Sư Lợi hơi khác với những thiện tri thức trước là ngài không hiện thân,
ngài đứng rất xa vươn tay hữu xoa đầu Thiện Tài, cũng như lối truyền tâm ấn cho
Thiện Tài. Thường thường các ngài dùng tay hữu, như sau này đến ngài Phổ Hiền
cũng dùng tay hữu xoa đầu Thiện Tài. Những vị cao như vậy mới có thể nói truyền
tâm ấn, hay ấn chứng cho đệ tử được.
Việc truyền tâm ấn
rất quan trọng và có một ý nghĩa sâu xa khôn lường, mà người được truyền tâm ấn
lúc ấy tâm thức cũng được chuyển hóa, biến đổi. Nhưng thời này, tà sư nổi lên bời
bời như cát bụi, chỗ nào cũng có vụ truyền tâm ấn tập thể hay điểm đạo cho cả
chục người, trăm người. Và dĩ nhiên chỉ là đại vọng ngữ.
Khi ngài Văn Thù
vươn tay hữu qua khỏi một trăm mười do tuần (cũng tượng trưng cho sự vô
biên công hạnh), sau khi xoa đầu Thiện Tài ngài khuyên nên trở về chỗ
cũ, trở về căn đầu tiên là tín căn, chứ ngài không nói gì cao siêu khó hiểu, vì
tín căn là mẹ các công đức.
KINH:
Thối thất tinh cần, nơi một thiện căn sanh lòng trụ trước, với chút ít công đức
đã cho là đủ.
GIẢNG: Nếu ta ít
tín căn, mỗi khi chỉ cần làm một chút thôi thì đã vội cho là đủ, như bố thí một
chút đã cho rằng ta có đủ công đức lắm rồi, chẳng cần tu thêm gì nữa, vì vậy, cần
phải có tín căn sâu chắc, như gốc cây nở ra các hoa công đức. Ngài Văn Thù chỉ
nói đơn sơ nhưng thần lực của ngài gia trì cho Thiện Tài lại rất lớn.
KINH:
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát tuyên nói pháp ấy cho Thiện Tài được lợi ích hoan hỷ
thành tựu vô số pháp môn.
GIẢNG: Ngài nói
đơn sơ thế nhưng vì sự gia trì của ngài cùng các thiện căn của Thiện Tài, nên
Thiện Tài thành tựu được nhiều pháp môn.
KINH:
Đầy đủ vô lượng đại trí quang minh, khiến được Bồ Tát vô biên tế đà la ni, vô
biên tế nguyện, vô biên tế tam muội, vô biên tế thần thông, vô biên tế trí, khiến
vào đạo tràng Phổ Hiền hạnh.
GIẢNG: Lúc này Thiện
Tài đã vào được biển căn bổn giác nên ngài thành tựu nhiều pháp môn ghê gớm.
KINH:
Lại để Thiện Tài ở tại chỗ cũ, Văn Thù Sư Lợi Bổ Tát nhiếp thần lực chẳng hiện
ra.
GIẢNG: Lúc bấy giờ
ngài Văn Thù khuyên Thiện Tài đến ngài Phổ Hiền tức là viên mãn được Phổ Hiền hạnh
nguyện, đồng thời đắc những thần thông đại tự tại lực. Xin quí vị nghe kỹ những
trang kinh sau nói về ngài Phổ Hiền, để xem ngài Thiện Tài nhập pháp giới như
thế nào…
KINH:
Thiện Tài muốn thấy Phổ Hiền Bồ Tát…
GIẢNG: Cũng như
chúng ta muốn thấy đức A Di Đà vậy, tất cả vấn đề là ở chỗ đó, là khởi tâm muốn
thấy. Mà khi thấy được đức A Di Đà là con đường đi của chúng ta gần như xong,
không còn gì phải lo lắng cả. Vì khi thấy được đức A Di Đà là đương nhiên chúng
ta được sang Cực Lạc. Mà khi sang được bên ấy thì chúng ta sẽ có những tam muội,
các định và có năm thứ thần thông, thân thì có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, được đắc
vô sanh nhẫn và lần tu lên nữa để đi đến quả Phật.
Con đường tu của
chúng ta ở cõi Ta Bà này bập bềnh lên xuống, có thể thời gian này tinh tấn, qua
một thời gian khác lại thối thất, giải đãi. Nhưng nếu được vãng sanh thì không
còn bao giờ thối thất cả, đến khi đắc được vô sanh pháp nhẫn thì không còn lo lắng
nữa, đủ chứng tỏ con đường tịnh độ thù thắng đến thế nào. Ngay cả những vị đã đắc
A La Hán rồi cũng còn thối thất, vì các ngài tu một thời gian thấy đường tu
chông gai, cần khổ, khó khăn quá, chúng sanh lại bời bời, biết đến bao giờ mới
độ cho hết, nên có thể thối chí, mà chỉ muốn đắm mình vào nhưng cơn định trầm
không thú tịch mà không muốn khởi đại bi tâm.
HỎI:
Xin ông dạy cho phương pháp niệm thế nào cho… chóng được việc để qua được Cực Lạc?
ĐÁP:
Thành thực mà nói, tôi không dám dạy cách niệm Phật sao cho có hiệu quả, vì mỗi
người mỗi căn cơ khác nhau, nên cách niệm cũng có khác đôi chút. Nhưng với những
vị căn cơ cao, đạo hạnh nhiều, tu hành giỏi, thường họ chỉ rằng, khi niệm cần
phải đều đặn và nhất tâm, khi niệm Phật đừng nghĩ điều gì khắc hết, làm thế nào
để câu niệm Phật sáng tỏ mãi trong tâm chúng ta, vừa rõ ràng, vừa ý thức rằng
mình đang niệm, đến khi nhất tâm bất loạn, không có gì ngoại cảnh có thể lay động
được. Người xưa, có nhiều vị làm quan tài để giữa nhà, khi niệm Phật thì chui
vào đó, và coi như mình đã chết rồi thì mới dễ nhất tâm được. Nhưng đến mức độ
này rất khó, ở đời mạt pháp này, tôi trộm nghĩ ít ai có thể làm được.
Tôi cứ
hoài vọng muốn nói về chín phẩm sen bên Cực Lạc cho quí vị thấy rất hay và rất
lạ, để biết rằng pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn tối thắng, không thể nào bịa
đặt ra được. Những người nào không tin đều là người chưa đủ căn cơ, vì tôi vẫn
nói, tuy trong ban kinh này, có vài vị không đọc kinh nhưng tin vào pháp môn Tịnh
Độ thì người đó căn cơ đã sâu rồi, vì pháp môn này khó tin lắm! Lấy một thí dụ
điển hình, bên Cực Lạc, người được hóa sanh từ hoa sen, chúng ta chưa thấy ai
sanh từ một loài hoa ra cả, chỉ thấy người sanh ra người, thú sanh ra thú
thôi, nên rất khó tin.
HỎI:
Trong các kinh có một số người nói rằng, có một số kinh liễu nghĩa, (như kinh của
Phật giáo nguyên thủy) có thể tin được, và một số kinh bất liễu nghĩa (như những
pho kinh Đại thừa) không thể tin được mà chỉ toàn là chuyện mê tín dị đoan? Vì
vậy, họ không chịu đọc tụng kinh điển bất liễu nghĩa ấy. Theo ông, ông nghĩ sao
về điều này?
ĐÁP:
Như vậy họ chưa hiểu thế nào là liễu nghĩa, và bất liễu nghĩa. Kinh liễu nghĩa
là những kinh nói đến cỗi nguồn là Diệu Tâm (đại thừa), còn những kinh bất liễu
nghĩa là những kinh của Thanh Văn (của hàng Nhị thừa), vì kinh của Tiểu Thừa
không nói tới cỗi nguồn của pháp giới, và chỉ đưa người tu đến Niết Bàn hóa
thành thôi, chưa thể nhập được pháp giới trọn vẹn. Chưa chứng được trí của Phật,
chưa phân thân bời bời vô lượng, trụ vô số kiếp để độ sanh. Còn chuyện tin được
hay không tin được kinh Đại Thừa lại phải tùy vào căn cơ của người nghe nữa.
Trong Công Giáo có nói một câu cũng rất lý thú: “Sung sướng thay cho những người
nào không thấy mà tin.” Khi thấy rồi thì tin rất dễ, nhưng chúng ta không trông
thấy pháp giới, không nhìn thấy chư Thiên, quỉ thần, chư Phật, chư Đại Bồ Tát
mà tin được thì đó là điều hy hữu hiếm có. Nên phải hiểu lòng tin cần phải nuôi
nhiều kiếp mới có thể nở ra như vậy.
Thực tâm tôi, tôi
muốn bỏ ra một vài buổi giảng để giảng kỹ cho quí vị nghe về Tịnh Độ, vì đó là
điều quan yếu cho ta ở thời mạt pháp này. Tôi cố thể trích dẫn những câu kinh
khuyến tấn chúng sanh cầu sanh về Tịnh Độ. Không có người nào tu hành muốn đắc
vô sanh pháp nhẫn mà không phải đi qua Tịnh Độ, dù người tu thiền. Vì ở cõi uế
độ này, tu thiền giỏi lắm là chỉ ở các mức độ dưới thôi, khi nào lên đến
Viễn Hành Địa, địa thứ bảy, Viễn hành tức là đi xa, đi đâu? Là qua Tịnh Độ để ở
gần Phật đắc vô sanh pháp nhẫn rồi mới trở lại cõi này để độ sanh. Dụ như
người muốn cứu một kẻ chết đuối phải đi học bơi đã, rồi trở về mới làm được
hạnh cứu người, người thường không ai có thể qua được mức Viễn hành địa cả, trừ
phi phải sang Cực Lạc (trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập địa nói rõ thế!).
Ngay đến những vị
A La Hán, tiêu dung được những kiết sử của tam độc, lúc bấy giờ không thọ sanh
trong ba cõi thôi, nên tạm gọi là vào Niết Bàn, nhưng cái vào Niết Bàn ấy chỉ
là hóa thành. Lúc bấy giờ, chư Phật sẽ như những con chim Kim Súy Điểu bay tới,
xòe cánh dơ vuốt gắp các ngài mang sang Tịnh Độ. Nhưng vì các ngài chưa có tâm
tin Tịnh Độ nên phải ngồi trong hoa sen ở Biên Địa, rồi trong suốt nhiều kiếp,
chư Phật soi hào quang vào đó để đánh thức tuệ giác vô thượng, (vì các ngài
chưa biết cầu thành Phật), cho đến khi chín mùi, lúc đó
tâm thức các ngài mới khởi tâm bước sang bồ tát đạo đi nốt con đường còn lại
để thành Phật, nhập pháp giới trọn vẹn, tức là vào Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh
của Chư Phật.
KINH:
Thiện Tài muốn thấy Phổ Hiền Bồ Tát, liền ở trước tòa sư tử của Tỳ Lô Giá
Na Như Lai nơi Kim Cang Tạng Bồ Đề Tràng, trên tòa bửu liên hoa tạng phát
tâm rộng lớn như hư không giới…
GIẢNG: Khi Thiện
Tài muốn đi tìm ngài Phổ Hiền Bồ Tát thì phải trở về chỗ cũ bồ đề đạo tràng, trở
về chỗ đức Như Lai ngồi, tức là phải trở về tâm của mình.
KINH:
khởi tâm vô ngại bỏ tất cả cõi, rời tất cả chấp…
GIẢNG: Thiện Tài
muốn thấy một vị Bồ Tát lớn thì phải mở tâm rộng lớn như hư không giới vậy, vì
chính Bồ Tát lớn là… hư không, vì khi mở tâm lớn phải bỏ tất cả các cõi, rời
tất cả các chấp (bát nhã), ý niệm nào cũng phải rời bỏ cả.
KINH:
Tâm vô ngại đi trong tất cả pháp vô ngại. Tâm vô ngại vào khắp tất cả thập
phương. Tâm thanh tịnh vào cảnh giới của nhất thiết trí…
GIẢNG: Đây là nói
tâm phải mở rộng lớn như hư không mà đi vào không hải. Nhưng sau đây lại nói đi
vào diệu hữu…
KINH:
Tâm minh liễu quán sát đạo tràng trang nghiêm. Tâm quảng đại nhập tất cả Phật
pháp hải. Tâm châu biến hóa độ tất cả chúng sanh giới. Tâm vô lượng tịnh tất cả
Phật độ. Tâm vô tận trụ tất cả kiếp. Tâm cứu cánh xu hướng Như Lai thập lực…
GIẢNG: Trên ngài
nói đi vào hư không giới, dưới này ngài nói đi vào tất cả các pháp. Tuy rằng đi
vào hư không nhưng đồng thời vẫn phải có cái tâm minh liễu quán sát đạo tràng
trang nghiêm, tâm quảng đại nhập tất cả phật pháp hải, tâm châu biến, đi khắp tất
cả mọi chỗ để hóa độ tất cả chúng sanh giới. Vì ngài Phổ Hiền tượng trưng cho
Chân không, Diệu hữu. Khi ta nhập được vào tâm đó rồi thì tức khắc ngài hiện ra
cho chúng ta thấy ngay, tức là phải có tâm tương ưng, là tâm có tín, nguyện, hạnh.
Nên khi Thiện Tài
khát mong muốn thấy Phổ Hiền Bồ Tát thì phải làm tâm mình lặn sâu xuống đến tột
không, đồng thời khởi lên tất cả cảnh giới của diệu hữu.
KINH:
Lúc Thiện Tài phát khởi những tâm như vậy, do sức thiện căn của mình, được sức
gia hộ của tất cả Như Lai, do sức đồng thiện căn của Phổ Hiền Bồ Tát…
GIẢNG: Khi Thiện
Tài càng cố gắng lặn sâu vào tam muội để trở về biển diệu tâm đó thì chư Phật đều
hộ trì, đồng thời tâm thức ngày càng tương ưng với thiện căn của ngài Phổ Hiền.
Nên phải hiểu tất cả vấn đề chỉ ở chỗ tương ưng. Cũng như khi tâm ta chỉ tương
ưng với loài quỉ, hay loài chồn, hồ ly thì tụi nó lại hiện ra, khi tương ưng với
loài người thì loài người hiện ra. Ở đây, chúng ta tương ưng với loài người nên
chung quanh nhìn thấy toàn là người cả, loài quỉ cũng ít hiện ra cho chúng ta
thấy, còn thần linh thì không bao giờ hiện cả, vì tâm các ngài bao la hơn, mà
tâm chúng ta chỉ có nửa thiện, nửa ác lăng nhăng của loài người, không có gì gọi
là siêu xuất cả, nên chỉ chơi với người, rồi sau sanh kiến chấp chỉ có người
thôi, mà không có những chúng sanh khác. Vì vậy, nên chúng ta không biết rằng
có những người ngồi tu trong rừng sâu, có thể nói chuyện với thú dữ, chim
nuông, cỏ hoa, ngay cả với thần linh, và đó là những vị có tâm thức cao.
Sức “tưởng” rất
lớn mạnh, tỷ dụ như một người trong nhiều kiếp hay sợ ma, có cơ duyên cũ với
nó, khi thời tiết chín mùi thì túc duyên cũ hiện lên, nếu đó là những nợ cũ thì
nó thanh toán đòi nợ. Như ngài Miralepa sức tưởng của ngài rất mạnh, ngài có thần
thông nhiều, một hôm đến một khu núi hẻo lánh, ngài chỉ nghĩ bụng rằng, ở đây
phải có quỷ khoáng dã. Thì lập tức quỷ khoáng dã hiện ra ngay, nó đứng co ro
trước mặt ngài mãi, cuối cùng ngài nói: “Sao ngươi không đi đi?” “Con
không thể đi được vì sức tưởng của ngài lớn quá, như có sợi dây trói con lại
làm con không ẩn thân nổi.” Tất cả đạo Phật thường dạy chúng ta về chữ
tưởng, tưởng cái gì thì nó ra cái đó, tưởng lâu dần, có định lực, và cái lực đó
nó có thể làm hiện lên những cảnh giới. Tưởng uế độ thì vào uế độ, tưởng vãng
sanh Cực Lạc thì được sang Cực Lạc. Nên tất cả thế gian này đều là do mộng tưởng.
Như ta lấy một người vợ đó là vì từ nhiều kiếp ta có những cơ duyên cũ, hoặc
nuôi cái mộng tưởng ấy. Như trong kinh Phật cũng kể một vài trường hợp như ngài
A Nan và bà Ma Đăng Già, cơ duyên nhiều kiếp, mộng tưởng nhiều kiếp đến kiếp
này mới nở ra như thế. Một trường hợp khác như ngài Mê Già và vị nữ nhân cho
hoa trong Kinh Đại Bửu Tích, không phải khơi khơi ngài gặp vị nữ nhân ấy đâu,
mà do từ nhiều kiếp huân tập, đến kiếp đó nở ra nên vị nữ nhân ấy mới cho hoa
đi cúng Phật.
KINH:
Do sức đồng thiện căn của Phổ Hiền Bồ Tát…
GIẢNG: Trong kinh
Pháp Hoa, ngài Phổ Hiền nói người nào tụng danh hiệu của ta và quán tưởng đến
ta thì ta sẽ hiện thân trước người ấy. Hiện ra dưới hình thức voi sáu ngà, và
tùy theo nguyện của người đó để giúp và độ cho họ. Tất cả điều này đều là những
luật tắc tác động và phản tác động, nhưng tâm thức chúng ta chưa tới mức độ đó.
KINH:
Nên Thiện Tài thấy mười thứ thoại tướng, như là…
GIẢNG: Khi Thiện
Tài quán để được thấy ngài Phổ Hiền Bồ Tát thì lúc đó hiện lên mười thoại tướng…
KINH:
Thấy tất cả phật độ thanh tịnh, tất cả Như Lai thành Đẳng Chánh Giác. Thấy tất
cả phật độ thanh tịnh không ác đạo. Thấy tất cả phật độ thanh tịnh nghiêm sức với
những diệu liên hoa. Thấy tất cả phật độ thanh tịnh, tất cả chúng sanh thân tâm
thanh tịnh. Thấy tất cả phật độ thanh tịnh, trang nghiêm với những châu bửu. Thấy
tất cả phật độ thanh tịnh, tất cả chúng sanh tướng tốt trang nghiêm thân…
GIẢNG: Khi Thiện
Tài quán lâu đến một mức độ thì tâm rơi vào biển không hư, thấy tất cả những quốc
độ đều chỉ là hư không, vì đều là hóa hiện, như thấy phật sát thanh tịnh không
có gì vẩn đục.
KINH: …(Bỏ một đoạn)… Thiện Tài lại thấy mười tướng
quang minh như là: Thấy bao nhiêu vi trần của tất cả thế giới, trong mỗi mỗi vi
trần xuất sanh tất cả thế giới vi trần số phật sát quang minh võng vân chiếu
sáng khắp nơi.
GIẢNG: Những quang
minh ấy biến hiện. “Quang minh võng vân” là mây lưới sáng hiện
lên bời bời, trông chỗ nào cũng như lưới quang minh, trùng trùng lớp lớp.
KINH:
Trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh tất cả thế giới vi trần số Phật quang minh luân
vân nhiều thứ sắc tướng cùng khắp pháp giới.
GIẢNG: “Luân
vân” là những đám mây xoay tròn.
Tôi đã giảng nhiều
lần ở đây về sự xoáy trôn ốc của pháp giới này, hôm nay tôi xin nhắc lại. Tất cả
những chuyển động trong pháp giới này có thể xoay theo hai chiều, một là hữu
nhiễu (hiện tướng), hai là tả nhiễu, (rơi chìm vào biển
chân không). Như cái hố thẳm đen (black hole), các
nhà khoa học chưa hiểu rõ ràng về nó, chỉ biết các vật chung quanh nó bị hút
vào đấy và mất tích luôn, không có một vật gì có thể cưỡng lại được với sức hút
của nó. Nhưng nếu dựa theo kinh, tôi thiển nghĩ rằng đó là những cái hố hay nút
xoáy không luân cuốn hút vật chất tiêu chìm trở về hư không, và chắc là nó xoay
theo lối tả nhiễu. Nên trong kinh luôn luôn dùng chữ “luân,” là
những cơn lốc xoáy tròn, mà không có gì đi thẳng cả. Đường thẳng là một ảo tưởng
của tâm thức, mà tất cả phải xoáy tròn, như chúng ta vẫn xoáy tròn liên tục mà
không hề hay biết.
Trở lại đoạn kinh
trên, Thiện Tài thấy những màng lưới kết lại, trong màng lưới có những đám mây
sáng xóay tròn.
KINH:
Trong mỗi vi trần xuất sanh tất cả thế giới vi trần số Phật sắc tượng bửu vân
cùng khắp pháp giới.
GIẢNG: Khi đám mây
xoáy tròn lâu thì những đám mây trân bửu ấy hiện lên sắc thân Phật cùng khắp
pháp giới.
KINH:
Trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh tất cả thế giới vi trần số phật quang diệm luân
vân cùng khắp pháp giới.
GIẢNG: Cũng là những
đám mây xoay tròn để hiện tướng.
KINH:
Trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh tất cả thế giới vi trần số những diệu hương vân
cùng khắp mười phương khen ngợi tất cả hạnh nguyện đại công đức hải của Phổ Hiền.
GIẢNG: Câu này
chúng ta phải hiểu rằng những đám mây xoay vần rồi phát ra những mùi hương rất
thơm, đồng thời mùi hương đó phát ra những âm thanh ca ngợi tất cả những hạnh
nguyện cùng biển công đức của ngài Phổ Hiền. Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm
nói trong tiếng động phát ra quang minh, quang minh hiện thành sắc tướng, sắc
tướng thành ra mùi hương, dần dần hiện tướng như thế, thì ở đây là những lưới
quang minh xoay tròn, đầu tiên hiện những sắc tướng Phật, rồi hiện ra những
hương vân, sau đó phát ra âm thanh.
KINH:
Trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh tất cả thế giới vi trần số nhựt nguyệt tinh tú
vân, đều phóng quang minh của Phổ Hiền Bồ Tát chiếu khắp pháp giới.
GIẢNG: Kinh tả dần
dần hiện tướng ngày càng rõ rệt, vì trong những quang minh vân ấy bắt đầu hiện
lên các mặt trời, mặt trăng, tinh tú. Như vậy là một hoa tạng thế giới bắt đầu
xuất hiện trước mắt Thiện Tài, có nghĩa rằng, Thiện Tài đang trôi dần vào biển
pháp giới, để có thể nhập pháp giới trọn vẹn.
KINH:
Trong mỗi mỗi vi trần xuât sanh tất cả thế giới vi trần số tất cả chúng sanh
thân sắc tượng vân phóng phật quang minh chiếu khắp pháp giới.
GIẢNG: Trên kia
nói thành tựu thế gian tức là “Khí thế giới,” tạm gọi là vô
tình, như thấy nhật, nguyệt, tinh tú v.v… Còn đây là nói đến những loài hữu
tình, các chúng sanh. Mà tất cả đều do những đám mây quang minh tạo thành. Vì vậy
tôi vẫn thường nói rằng, giáo lý nhà Phật là giáo lý của những quang minh và diệu
âm, của những bông hoa tạng thế giới lúc nở ra, rồi cụp lại. Mà nếu chúng ta cứ
suy tư lâu ngày rồi thấm và tin chắc chắn, thì đức A Di Đà thế nào cũng phải cứu
độ chúng ta.
KINH:
Trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh tất cả thế giới vi trần số Bồ Tát thân sắc tượng
vân.
GIẢNG: Trên kia là
Phật sắc tượng, lúc đầu còn là những lưới mây xoay tròn, dần dần hiện mùi
hương, sắc, âm thanh, rồi đến nhật nguyệt, tinh tú, rồi đến những chúng sanh hữu
tình, rồi đến các Phật sắc tướng, rồi đến đây là hiện thân các vị Bồ Tát sắc tướng.
Như vậy, trước mắt Thiện Tài pháp giới bắt đầu xuất hiện lại tuần tự rất rõ. Đó
là bước thứ hai, nay chúng ta qua bước thứ ba…
KINH:
Thiện Tài thấy mười thứ quang minh này rồi, nghĩ rằng nay tôi sẽ được thấy Phổ
Hiền Bồ Tát thêm lớn thiện căn.
GIẢNG: Chúng ta
nên biết rằng, khi gặp một vị có đạo hạnh cao, chĩ cần nhìn thấy ngài thôi là
thiện căn của ta tự dưng tăng trựởng, còn nếu khởi tâm cung kính cúng dường vị
đó thì thiện căn càng thêm lớn. Vì vậy, những người tu học ngày xưa, chỉ cần gặp
Phật là đắc quả, bởi vì thiện căn của họ đã chín nên chỉ thêm một giọt nước là
tràn ly.
HỎI:
Còn gặp vị Lạt Ma bên Tây Tạng thì sao?
ĐÁP:
Tôi cũng không biết chắc ngài đến bực nào, nhưng dân Tây Tạng coi vị Đạt Ma là
một hóa thân của đức Quán Thế Ảm Bồ Tát. Nhưng cũng phải còn tùy thiện căn của
người gặp nữa, nếu ta không có thiện căn, tâm không tương ưng, thì dù có gặp
cũng không cảm thấy gì, ngược lại, nếu tâm thức của người gặp đã chín thì lại
khác.
KINH:
Thiện Tài thấy mười thứ quang minh nầy rồi, nghĩ rằng: Nay tôi sẽ được thấy Phổ
Hiền Bồ Tát thêm lớn thiện căn. Thấy tất cả Phật, nơi tất cả Bồ Tát
sanh tri giải quyết định, được nhất thiết trí.
Thiện
Tài nhiếp khắp thiện căn, nhứt tâm cầu thấy Phổ Hiền Bồ Tát, khởi đại tinh tấn
tâm không thối chuyển, liền dùng phổ nhãn quán sát mười phương tất cả chư Phật
và chúng Bồ Tát. Bao nhiêu cảnh giới đã thấy đều tưởng là được thây Phổ Hỉền Bồ
Tát.
GIẢNG: Thiện Tài tập
trung tâm thức, nhất tâm quán chiếu nên thấy cảnh giới nào Thiện Tài cũng tưởng
như thấy ngài Phổ Hiền vậy. Cũng vậy, khi chúng ta tập quán đức A Di Đà, thì đi
đến đâu, bất cứ thấy cảnh giới nào cũng đều tưởng nhớ đến ngài, dù là trên xe
bus, hay ngoài phố cũng đều thấy đức A Di Đà, thì lúc đó thế nào Phật A Di Đà
cũng sẽ hiện lên cho chúng ta thấy. Trong kinh Hoa Nghiêm, có một đoạn ngài Văn
Thù dạy rằng, “Muốn tìm cầu thiện trí thức phải dũng mãnh tự tại du
hành tất cả các nơi, tìm cầu vị thiện tri thức, thứ hai là gặp cảnh giới nào
cũng phải quán chiếu là thấy vị thiện tri thức, thứ ba là phải coi thân mình
như mộng, như huyễn.” Giữ được tâm như thế thì lúc đó ta đã đến một mức
quyết định khá kiên cố rồi.
KINH:
Dùng trí huệ nhân quán sát Phổ Hiền đạo, tâm quảng đại dường như hư không, đại
bi kiên cố như Kim Cang. Nguyện tận vị lai thường được theo Phổ Hiền hạnh,
thành tựu trí huệ, nhập Như Lai cảnh, trụ Phổ Hiền địa. Bấy giờ Thiện Tài đồng
tử liền thấy Phổ Hiền Bồ Tát ở trong chúng hội trước đức Như Lai…
GIẢNG: Trước thì
thấy tất cả pháp giới hào quang chập chùng lần lượt hiện tướng như thế nào, bây
giờ mới thấy ngài Phổ Hiền, vì tất cả những thân vân, mùi hương, lưới chập
chùng của quang minh v.v… đều là thân y báo ngài Phồ Hiền, sau cùng mới đến
chánh báo của ngài.
KINH:
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử liền thấy Phổ Hiền Bồ Tát ở trong chúng hội trước đức
Như Lai, ngồi tòa sư tử Bửu Liên Hoa, chúng Bồ Tát vây quanh rất là tôn nghiêm,
thế gian không sánh được, cảnh giới trí huệ vô lượng vô biên khó lường khó
nghĩ, đồng tam thế Phật, tất cả Bồ Tát không quán sát được.
GIẢNG: Thiện Tài
nhìn thấy tất cả pháp giới chính là thân không thân của ngài Phổ Hiền, và đến
giờ phút này mới được nhìn rõ báo thân của ngài ngồi ngay trong Bồ Đề Đạo
Tràng. Tức là từ trước Thiện Tài nhìn tất cả pháp giới rộng lớn, bây giờ thu lại
thành một báo thân thị hiện ngồi đạo tràng ấy, có nghĩa là nhìn từ một cái thật
lớn nay thu nhỏ lại thành một báo thân. Và bây giờ, Thiện Tài nhìn thây trong lỗ
chân lông của ngài lại nở lớn ra cả trăm ngàn thế giới. Có nghĩa là cái lớn, nhỏ
tự tại vô ngại dung thông với nhau.
KINH:
Thấy thân Phổ Hiền mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả thế giới vi trần số quang
minh vân, khắp pháp giới tất cả chúng sanh khổ hoạn, khiến các Bồ Tát sanh đại
hoan hỷ. Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số những sắc
hương diệm vân, khắp pháp giới hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo
tràng để huân tập tất cả. Thấy mỗí mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần
số tạp hoa vân, khắp pháp giới hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo
tràng mưa những diệu hoa. Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần
số hương thọ vân, khắp pháp giới hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo
tràng mưa những diệu hương. Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả Phật sát vi
trần số diệu y vân, khắp pháp giới hư không giới chư Phật chúng hội đạo tràng
mưa những diệu y…
GIẢNG: Thiện Tài
nhìn từ một khía cạnh hết sức bao quát cả một thế giới rồi dần dần thu nhỏ lại
nhìn thấy báo thân của ngài Phổ Hiền sau đó lại thấy trong tất cả lỗ chân lông
của ngài lại nở ra trùm tất cả pháp giới. Tức là từ lớn thu vào nhỏ, từ nhỏ nở
ra lớn như một bông hoa, lúc nở ra bao trùm pháp giới, lúc thu lại trong một lỗ
lông, ở đây, Thiện Tài thấy các lỗ lông của ngài Phổ Hiền xuất sanh tất cả các
sắc hương diệu vân, sau đó xuất sanh các tạp hoa vân, mưa những diệu hoa, rồi
xuất sanh tất cả những vi trần số hương thọ vân (mùi hương từ những áng
mây), rồi diệu y vân (áo bằng mây vi diệu)…
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bửu thọ vân, khắp
pháp giới hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng ma ni bửu. Thấy mỗi
mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số sắc giới thiên thân vân sung
mãn pháp giới khen ngợi bồ đề tâm.
GIẢNG: “Thiên
thân vân” là những áng mây trong đó cuộn lại thành hình chư Thiên. Các
chư thiên hiện ra khen ngợi bồ đề tâm.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số Phạm Thiên thân vân,
khuyến thỉnh chư Như Lai chuyển diệu pháp luân.
GIẢNG: Trong những
lỗ lông ấy xuất sanh các vị Phạm Thiên, là những vị vua trời coi tầng trời sơ
thiền. Các vị vua trời ấy đều khuyến thĩnh chư Như Lai chuyển diệu pháp luân.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số dục giới thiên vương
thân vân, hộ trì pháp luân của tất cả Như Lai.
GIẢNG: Vì vậy, tôi
hay thường nhắc rằng, có các vị Thiên Vương hộ pháp mà chỗ nào có người đọc tụng
kinh và thành khẩn, giới hạnh tinh nghiêm thì các vị cũng đến nghe và hộ trì
cho.
KINH:
Thấy mỗi mỗi lỗ lông trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số tam thế
phật sát vân…
GIẢNG: “Phật
sát vân” là những đám mây sinh ra những cõi Phật, như cõi Ta Bà chúng
ta chẳng hạn, trong đây là những đám mây xoay tròn hiện lên thế giới này.
KINH:
Thấy mỗí mỗi lỗ lông trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số tịnh,
bất tịnh phật sát vân…
GIẢNG: Tức là có
những đám mây hiện rất nhiều cõi, từ những cõi tịnh đến những cõi bất tịnh.
KINH:
Khắp pháp giới hư không giới khiến tạp nhiễm chúng sanh đều được thanh tịnh.
GIẢNG: “Tạp
nhiễm chúng sanh” chính là chúng ta, nên các ngài phải tạo ra những
cõi tịnh và bất tịnh để dạy chúng ta đi từ cõi bất tịnh (tạp nhiễm) sang
đến cõi tịnh. Trong kinh không có lúc nào không nhắc nhở chúng ta nhớ đến Tịnh
Độ, nếu chúng ta không tin thì đó là cô phụ chính chúng ta vậy.
Comments
Post a Comment