ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
40.- THÍCH NỮ CÙ BA
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ
được
“MÔN GIẢI THOÁT QUÁN SÁT
BỒ TÁT TAM MUỘI HẢI” nầy.
Bấy giờ Thiện-Tài Ðồng-Tử
tư-duy tu tập môn thọ-sanh giải-thoát, tăng trưởng quảng-đại ghi nhớ chẳng
bỏ. Hướng về phía thành Ca-Tỳ-La, Thiện-Tài đi lần đến giảng-đường Bồ-Tát
Tập-Hội Phổ-Hiện Pháp-Giới Quang-Minh.
Trong giảng đường nầy có
thần hiệu Vô-Ưu-Ðức cùng một vạn Chủ-Cung-Ðiện Thần câu hội đồng nghinh tiếp
Thiện-Tài và nói rằng:
Thiện lai
Trượng-Phu! Có trí-huệ lớn, có dũng-mãnh lớn khéo tu môn giải thoát
tự-tại bất-tư-nghì, tâm không bao giờ bỏ thệ nguyện rộng lớn, khéo quán-sát
cảnh-giới của các pháp, an-trụ nơi pháp-thành, nhập vô-lượng môn phương-tiện,
thành-tựu biển công-đức rộng lớn, được biện-tài vi-diệu, khéo điều-phục
chúng-sanh, được thân thánh-trí hằng thuận tu hành, biết các chúng-sanh tâm
hành sai khác làm cho họ hoan-hỉ xu-hướng phật-đạo.
Chúng tôi xem ngài tu các
diệu-hạnh tâm không tạm lười, oai-nghi cử chỉ thảy đều thanh-tịnh.
Chẳng bao lâu ngài sẽ được
ba nghiệp vô-thượng trang-nghiêm thanh-tịnh của Như-Lai. Dùng những tướng-hảo
trang-nghiêm thân mình. Dùng mười trí-lực trau sáng tâm mình, du hành nơi
thế-gian.
Chúng tôi quán ngài
dũng-mãnh tinh-tấn không ai sánh bằng. Chẳng bao lâu sẽ được thấy khắp
tất cả chư Phật tam-thế và nghe lãnh chánh-pháp. Chẳng bao lâu sẽ được những sự
vui tam-muội thiền-định giải-thoát của tất cả Bồ-Tát. Chẳng bao lâu sẽ nhập môn
giải-thoát thậm-thâm của chư Phật Như-Lai.
Tại sao vậy?
Vì ngài được thấy
thiện-tri-thức, thân-cận cúng-dường, nghe lãnh lời chỉ dạy ghi nhớ tu hành,
chẳng lười, chẳng thối, không lo, không e ngại, ma và dân ma không làm ngăn trở
được, chẳng bao lâu ngài sẽ được thành quả vô-thượng.
Thiện-Tài nói:
Như lời của chư Thánh vừa
nói, nguyện tôi sẽ đều được như vậy.
Tôi nguyện cho tất cả
chúng-sanh dứt những nhiệt-não, rời những ác nghiệp, sanh những an-lạc, tu
những tịnh-hạnh.
Bạch chư Thánh! Tất
cả chúng-sanh khởi phiền-não tạo ác nghiệp đọa ác thú, nơi thân nơi tâm hằng
chịu đau khổ.
Bồ-Tát thấy như vậy trong
lòng rất đau xót.
Ví như người chỉ có một
con, nên rất thương yêu. Bỗng thấy con mình bị người chặt tay chân, thời
trong lòng đau đớn biết ngần nào.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát thấy
các chúng-sanh vì nghiệp phiền não mà đọa ba ác-thú chịu khổ, thời trong lòng
rất đau xót.
Nếu thấy chúng-sanh phát
khởi thân-ngữ-ý ba nghiệp lành sanh lên trời cõi người, được an vui, thời
lòng Bồ-Tát rất hoan-hỉ.
Tại sao vậy? Vì
Bồ-Tát chẳng tự vì mình mà cầu nhất-thiết-trí. Vì Bồ-Tát chẳng tham những dục
lạc trong vòng sanh tử, chẳng theo thế-lực của tưởng-đảo, kiến-đảo, tâm-đảo
kiết-sử tùy-miên ái-kiến mà chuyển, chẳng khởi những quan-niệm vui của chúng-sanh,
chẳng ham say nơi sự vui của thiền-định, chẳng phải vì có chướng-ngại mỏi nhọc
thối chuyển mà trụ tại sanh tử, chỉ vì thấy chúng-sanh ở trong tam-hữu chịu đủ
mọi sự khổ nên khởi tâm đại-bi, dùng sức đại-nguyện để nhiếp thủ chúng-sanh. Vì
sức bi nguyện mà tu hạnh Bồ-Tát, vì dứt tất cả phiền não của chúng-sanh, vì cầu
nhất-thiết-chủng-trí của Như-Lai, vì cúng-dường tất cả chư Phật, vì nghiêm tịnh
tất cả quốc-độ quảng đại, vì tịnh trị tất cả dục lạc của chúng-sanh và những
hạnh nghiệp nơi thân nơi tâm cuả họ, nên Bồ-Tát ở trong sanh tử không mỏi nhàm.
Bạch chư thánh! Ðại
Bồ-Tát đối với chúng-sanh: là trang-nghiêm, vì khiến họ sanh làm trời, làm
người giàu sang vui sướng. Là cha mẹ, vì an lập tâm bồ-đề cho họ. Là dưỡng dục,
vì làm cho họ thành-tựu đạo Bồ-Tát. Là vệ-hộ, vì làm cho họ xa rời ba ác-đạo.
Là lái thuyền, vì đưa họ qua biển sanh tử. Là quy y, vì làm cho họ khỏi sợ ma
phiền-não. Là cứu-cánh, vì làm cho họ vĩnh-viễn được vui
thanh-lương. Là bờ bến, vì làm cho họ vào biển chư Phật. Là đạo-sự, vì
đưa họ đến xứ pháp-bửu. Là diệu-hoa, vì làm nở tâm công-đức của chư Phật. Là đồ
trang-nghiêm, vì thường phóng quang-minh phước đức trí-huệ. Là đáng mến, vì chỗ
làm ra đều đoan chánh trang-nghiêm. Là đáng tôn trọng, vì xa rời tất cả
ác-nghiệp. Là Phổ-Hiền, vì đầy đủ tất cả thân đoan-nghiêm. Là sáng lớn, vì
thường phóng trí-huệ quang-minh. Là mây lớn, vì thường mưa tất cả pháp
cam-lộ.
Bạch chư Thánh! Lúc
Bồ-Tát tu các hạnh như vậy, làm cho tất cả chúng-sanh đều mến thích đầy đủ
pháp-lạc.
Lúc đó Thiện-Tài sắp bước lên
pháp-đường, Chủ-Cung-Ðiện Thần Vô-Ưu-Ðức và chúng Thần đem những hương hoa và
đồ trang-nghiêm quý hơn cõi trời rải trên Thiện-Tài mà nói kệ rằng:
Nay Ngài xuất thế-gian
Làm đèn sáng cho đời
Vì khắp các chúng-sanh
Mà cầu vô-thượng-giác.
Vô-lượng ức ngàn kiếp
Khó được gặp thấy Ngài
Công-đức-nhật nay mọc
Trừ những tối thế-gian.
Ngài thấy các chúng-sanh
Bị điên-đảo che đậy
Mà khởi lòng đại-bi
Cầu chứng đạo vô-sư.
Ngài dùng tâm thanh-tịnh
Tầm cầu Phật bồ-đề
Kính thờ thiện-tri-thức
Chẳng tự tiếc thân mạng.
Ngài ở các thế-gian
Không tựa không chấp lấy
Tâm ngài khắp vô-ngại
Thanh-tịnh như hư-không.
Ngài tu hạnh bồ-đề
Công-đức đều viên-mãn
Phóng sáng lớn trí-huệ
Chiếu khắp cả thế-gian.
Ngài chẳng rời thế-gian
Cũng chẳng vướng thế-gian
Ði trong đời vô-ngại
Như gió thổi hư-không.
Ví như hoả-tai khởi
Không gì làm tắt được
Ngài tu hạnh bồ-tát
Lửa tinh-tấn cũng vậy.
Dũng-mãnh đại tinh-tấn
Kiên-cố chẳng lay động
Kim-cang-huệ sư-tử
Du hành vô-sở-úy.
Trong tất cả pháp-giới
Có bao nhiêu sát-hải
Ngài đều qua đến được
Thân cận thiện-tri-thức
Thần Vô-Ưu-Ðức nói kệ
xong, vì mến thích chánh-pháp nên theo luôn bên Thiện-Tài Ðồng-Tử.
Thiện-Tài vào trong
giảng-đường Phổ-Hiện-Pháp-Giới-Quang-Minh tìm cô gái họ Thích. Thấy cô ấy
ngồi trên tòa sư-tử bửu liên-hoa, có tám vạn bốn ngàn thể-nữ vây quanh.
Những thể-nữ nầy đều là
dòng vua, thuở quá khứ đã tu hạnh bồ-tát, đồng gieo căn lành, bố-thí ái-ngữ
nhiếp khắp chúng-sanh, đã thấy rõ được cảnh nhứt-thiết-trí, đã chung tu tập
hạnh Phật Bồ-Ðề, hằng trụ chánh-định, thường dùng đại-bi nhiếp khắp chúng-sanh
như đối với con một, đầy đủ từ-tâm, quyến-thuộc thanh-tịnh, quá-khứ đã
thành-tựu phương-tiện thiện-xảo bất-tư-nghì của Bồ-Tát, đều không thối chuyển
vô-thượng bồ-đề, đầy đủ những ba-la-mật của Bồ-Tát, rời những chấp trước, chẳng
thích sanh tử, dầu đi trong các cõi hữu-lậu mà lòng hằng thanh-tịnh, thường
siêng quán-sát đạo nhất-thiết-trí, lìa lưới chướng cái, vượt khỏi chỗ chấp
nhiễm, từ pháp-thân mà hiện hóa-thân, sanh hạnh Phổ-Hiền, lớn sức bồ-tát,
trí-nhựt huệ-đăng đều đã viên-mãn.
Thiện-Tài đến đảnh lễ nơi
chân của THÍCH NỮ CÙ BA, chắp cung
kính thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi
đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào ở trong sanh tử mà
chẳng bị lỗi sanh tử làm nhiễm? Thế nào rõ pháp tự-tánh mà chẳng trụ hàng
Thanh-Văn Bích-Chi-Phật? Thế nào đầy đủ phật-pháp mà tu hạnh bồ-tát? Thế nào
trụ bậc Bồ-Tát mà nhập cảnh-giới Phật? Thế nào siêu quá thế-gian mà thọ sanh
nơi thế-gian? Thế nào thành-tựu pháp-thân mà thị-hiện vô-biên sắc-thân? Thế nào
chứng pháp vô-tướng mà vì chúng sanh thị-hiện các tướng? Thế nào biết pháp
vô-thuyết mà rộng vì chúng-sanh diễn thuyết các pháp? Thế nào biết chúng-sanh
không mà hằng chẳng bỏ sự giáo-hóa chúng-sanh? Thế nào dầu biết chư Phật bất
sanh bất diệt mà siêng cúng-dường không có thối-chuyển? Thế nào dầu biết các
pháp không nghiệp không báo mà tu những hạnh lành luôn không thôi nghỉ.
Nàng Cù-Ba nói:
Lành thay! Lành Thay! Nầy
Thiện-nam-tử! Nay ngươi có thể hỏi những việc làm của đại Bồ-Tát như vậy. Người
tu tập những hạnh nguyện Phổ-Hiền mới có thể hỏi như vậy.
Ngươi lắng nghe và khéo
suy gẫm ghi nhớ. Ta sẽ thừa thần-lực của Phật mà nói cho ngươi.
Nầy Thiện-nam-tử! Nếu các
Bồ-Tát thành-tựu mười pháp thời có thể viên-mãn hạnh bồ-tát nhơn đà-la-võng
phổ-trí quang-minh.
Ðây là mười pháp:
Vì nương thiện-tri-thức.
Vì được thắng-giải quảng đại. Vì được dục lạc thanh-tịnh. Vì nhóm tất cả phước
trí. Vì nghe chánh-pháp nơi chư Phật. Vì tâm hằng chẳng bỏ tam thế Phật. Vì
đồng với tất cả bồ-tát hạnh. Vì được tất cả Như-Lai hộ-niệm. Vì đại bi
diệu-nguyện đều thanh-tịnh. Vì có thể dùng trí-lực khắp dứt tất cả những sanh
tử.
Nầy Thiện-nam-tử! Nếu
thân-cận thiện-trí-thức thời Bồ-Tát có thể tinh-tấn bất thối tu tập xuất sanh
vô-tận phật pháp
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát
dùng mười pháp để thừa sự thiện-tri-thức.
Ðây là mười pháp: không
đoái tiếc thân mạng mình. Lòng chẳng tham cầu sự vui thế-gian. Biết tất cả
pháp-tánh đều bình-đẳng. Trọn chẳng lui bỏ nguyện nhất-thiết-trí. Quán sát
thiệt-tướng pháp giới. Tâm hằng bỏ rời tất cả biển hữu-lậu. Biết pháp như
không, tâm không chỗ nương. Thành-tựu tất cả đại-nguyện bồ-tát. Thường có thể
thị-hiện tất cả sát-hải. Tịnh tu trí-luận vô-ngại của Bồ-Tát.
Nầy Thiện-nam-tử! Nên dùng
pháp nầy để kính thờ tất cả thiện-tri-thức không trái nghịch.
Bấy giờ nàng Thích-Ca
Cù-Ba muốn tuyên lại nghĩa nầy, thừa thần-lực của Phật, quán-sát mười phương mà
nói kệ rằng:
Bồ-Tát vì lợi các quần-sanh
Chánh-niệm thân thừa thiện-tri-thức
Kính xem như Phật tâm không lười
Là hạnh đế-võng đi trong đời.
Thắng-giải rộng lớn như hư-không
Tất cả tam-thế đều vào trong
Quốc-độ, chúng-sanh, Phật đều vậy
Ðây là phổ-trí quang-minh hạnh.
Chí nguyện như không chẳng ngằn mé
Dứt hẳn phiền-não, lìa trần cấu
Tất cả chỗ Phật tu công-đức
Là hạnh thân-vân đi thế-gian.
Bồ-Tát tu tập nhất-thiết-trí
Biển công-đức chẳng thể nghĩ bàn
Tịnh những thân phước-đức trí-huệ
Là hạnh chẳng nhiễm đi thế-gian.
Chỗ tất cả chư Phật Như-Lai
Nghe lãnh phật-pháp không nhàm đủ
Hay sanh đèn trí-huệ thiệt-tướng
Là hạnh phổ-chiếu đi thế-gian.
Mười phương chư Phật vô-số-lượng
Một niệm tất cả đều vào được
Tâm hằng chẳng bỏ các Như-Lai
Là hạnh nguyện lớn hướng chánh-giác.
Vào đại chúng hội của chư Phật
Biển tam-muội của chư Bồ-Tát
Nguyện-hải nhẫn đến phương-tiện hải
Là hạnh đế-võng đi thế-gian.
Tất cả chư Phật chỗ gia-trì
Tận thuở vị-lai vô-biên kiếp
Xứ xứ tu hành đạo phổ-hiền
Là hạnh phân-thân của Bồ-Tát.
Thấy các chúng-sanh chịu nhiều khổ
Khởi đại từ-bi hiện thế-gian
Diễn nói quang-minh trừ tối tăm
Là hạnh trí-nhựt của Bồ-Tát.
Thấy những chúng-sanh tại các loài
Vì nhóm vô-biên diệu-pháp luân
Khiến họ dứt hẳn dòng sanh tử
Ðây là tu hành Phổ-Hiền hạnh.
Bồ-Tát tu tập phương-tiện này
Tùy tâm chúng-sanh mà hiện thân
Ở khắp tất cả trong các loài
Hóa độ vô-lượng những hàm-thức.
Dùng sức phương-tiện đại từ-bi
Hiện thân cùng khắp các thế-gian
Tùy họ hiểu muốn mà thuyết pháp
Ðều khiến xu-hướng bồ-đề-đạo.
Nói kệ xong, Thích-Ca
Cù-Ba bảo Thiện-Tài.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta
đã thành-tựu môn giải-thoát quán-sát nhất-thiết Bồ-Tát tam-muội-hải.
Thiện-Tài thưa:
Bạch đức Thánh!
Cảnh-giới của môn giải-thoát nầy thế nào?
Thích-Ca Cù-Ba nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ta
nhập môn giải-thoát nầy, biết trong cõi Ta-Bà, trải qua phật-sát vi-trần-số
kiếp có bao nhiêu chúng-sanh ở trong các loài chết đây sanh kia, làm lành làm
dữ, chịu những quả báo, có cầu xuất ly, chẳng cầu xuất ly, chánh-định tà-định
và bất-định, thiện-căn có phiền-não, thiện-căn không phiền-não, thiện-căn đầy
đủ, thiện-căn không đầy đủ, bất-thiện-căn nhiếp lấy thiện-căn, thiện-căn nhiếp
lấy bất-thiện-căn. Chúng-sanh chứa nhóm những pháp thiện và bất-thiện như vậy
ta đều biết thấy.
Lại trong những kiếp ấy,
có bao nhiêu đức Phật danh hiệu thử đệ ta đều biết rõ.
Chư Phật Thế-Tôn ấy từ
sơ-phát-tâm, dùng phương-tiện cầu nhất-thiết-trí xuất sanh tất cả những biển
đại-nguyện, cúng-dường chư Phật tu hạnh bồ-tát, thành đẳng chánh-giác, chuyển
diệu pháp-luân, hiện đại thần-thông hóa độ chúng-sanh, ta đều biết rõ.
Ta cũng biết chúng-hội sai
biệt của chư Phật ấy. Trong đó có chúng-sanh y nơi thanh-văn-thừa mà được xuất
ly. Chúng Thanh-Văn nầy quá-khứ tu tập tất cả thiện-căn, và được những trí-huệ
ta đều biết rõ.
Có những chúng-sanh y nơi
độc-giác-thừa mà được xuất ly. Những Ðộc-Giác nầy có bao nhiêu thiện-căn, được
bồ-đề tịch-diệt giải-thoát, thần-thông biến-hóa thành-thục chúng-sanh, nhập
niết-bàn ta đều biết rõ.
Ta cũng biết chư Bồ-Tát
trong chúng-hội ấy, từ sơ-phát-tâm tu tập thiện-căn xuất sanh vô-lượng hạnh
nguyện lớn, thành tựu đầy đủ những môn ba-la-mật, trang-nghiêm đạo bồ-tát, dùng
sức tự-tại nhập bồ-tát-địa, trụ bồ-tát-địa, quán bồ-tát-địa, tịnh bồ-tát-địa,
tướng của bồ-tát-địa, trí của bồ-tát-địa, trí của bồ-tát-nhiếp, trí của Bồ-Tát
giáo-hóa chúng-sanh, trí của Bồ-Tát kiến lập, cảnh-giới hạnh rộng lớn của
Bồ-Tát, thần-thông hạnh của Bồ-Tát, biển tam-muội của Bồ-Tát, phương-tiện của
Bồ-Tát, Bồ-Tát trong mỗi niệm nhập tam-muội-hải, được quang-minh
nhất-thiết-trí, được điển-quang-vân nhất-thiết-trí, được thiệt-tướng-nhẫn,
thông đạt nhất-thiết-trí, trụ sát-hải, nhập-pháp-hải, biết chúng-sanh-hải, trụ
phương-tiện, phát thệ nguyện, hiện thần-thông. Ta đều biết rõ cả.
Nầy Thiện-nam-tử! Cõi
Ta-Bà nầy, tận thuở vị-lai có những kiếp-hải xoay vần chẳng dứt ta đều biết rõ.
Như biết cõi Ta-Bà, ta
cũng biết vi-trần-số tất cả thế-giới trong cõi Ta-Bà, ta cũng biết những
thế-giới trong vi-trần của cõi Ta-Bà, cũng biết mười phương thế-giới ở ngoài cõi
Ta-Bà, cũng biết những thế-giới của Ta-Bà thế-giới-chủng sở-chiếp, cũng biết
những thế-giới của thập phương vô-lượng thế-giới chủng sở-nhiếp trong Hoa-Tạng
Thế-giới-Hải nầy:
Những là thế-giới
rộng-rãi, thế-giới an lập, thế-giới luận, thế-giới-tràng, thế-giới sai biệt,
thế-giới chuyển, thế-giới liên-hoa, thế-giới tu-di, thế-giới danh hiệu.
Tất cả những thế-giới
trong thế-giới-hải nầy, do bổn-nguyện-lực của Tỳ-Lô-Giá-Na Thế-Tôn nên ta đều
biết rõ và ghi nhớ cả.
Ta cũng nhớ những
nhơn-duyên-hải thuở xưa của đức Như-Lai:
Như là tu tập phương-tiện
của tất cả thừa, trụ bồ-tát-hạnh trong vô-lượng kiếp, tịnh phật quộc-độ,
giáo-hóa chúng-sanh, kính thờ chư Phật, tạo lập trụ xứ, nghe pháp, được
tam-muội, được tự-tại, tu đàn-ba-la-mật, nhập Phật công-đức, trì giới khổ hạnh,
đầy đủ nhẫn lực, dũng mãnh tinh-tấn, thành-tựu thiền-định, viên-mãn tịnh-huệ,
thị hiện thọ sanh khắp mọi nơi, hạnh nguyện Phổ-Hiền thảy đều thanh-tịnh, vào
khắp các cõi, tịnh khắp phật-dộ, vào khắp phật-trí, nhiệp khắp phật
bồ-đề, được đại-trí quang-minh của Như-Lai, chứng phật-trí-tánh, thành
đẳng-chánh-giác, chuyển diệu-pháp-luân. Nhẫn đến tất cả đạo tràng
chúng-hội của Phật, từ trước đến nay đã gieo thiện-căn, từ sơ phát tâm thành
thục chúng-sanh tu hành phương-tiện, niệm niệm tăng trưởng, được những tam-muội
thần-thông giải-thoát, ta đều biết rõ tất cả.
Tại sao vậy ?
Vì môn giải-thoát của ta
đã được đây, có thể biết tâm hành của tất cả chúng-sanh, tất cả thiện-căn của
chúng-sanh tu hành, tất cả chúng-sanh tạp nhiễm thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh
sai biệt, tất cả môn tam-muội của Thanh-Văn, tất cả tam-muội thần-thông
giải-thoát của Duyên-Giác, giải-thoát quang-minh của tất cả Bồ-Tát, của tất cả
Như-Lai, ta đều biết rõ.
Thiện-Tài thưa:
Ngài được môn giải-thoát
nầy đã bao lâu?
Cù-Ba nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Thuở
xưa, quá phật-sát cực-vi-trần số kiếp, có kiếp tên là Thắng-hạnh, thế-giới tên
là Vô-Úy, trong thế-giới ấy có tứ thiên-hạ tên là An-Ổn. Trong Diêm-Phù- Ðề có
thành vua tên là Cao-Thắng-Thọ, vương-thành nầy là thượng-thủ trong tám mươi
Vương-thành. Quốc-Vương tên là Tài-Chủ, có sáu vạn Thể-Nữ, năm trăm Vương-Tử,
năm trăm Ðại-Thần.
Các Vương-Tử nầy đều dũng-mãnh
dẹp được oán-địch.
Thái-Tử tên là
Oai-Ðức-Chủ, thân tướng đầy đủ đoan chính xinh đẹp, mọi người đều thích thấy.
Vương-Tử nầy dưới bàn chân bằng đầy, đủ luân-tướng, lưng bàn chân vun cao, ngón
tay ngón chân đều có màn mỏng, gót chân ngay bằng tay chân dịu mềm, bắp chân
lộc-vương, bảy chỗ viên-mãn, âm-tàng ẩn kín, phần trên của thân mình như
sư-tử-vương, hai vai bằng đầy, hai tay suông dài, thân tướng ngay thẳng, cổ ba
ngấn, má như sư-tử, đủ bốn mươi cái răng tất cả đều bằng kín, bốn răng nanh
trắng bóng, lưỡi dài rộng vang phạm âm thanh, tròng mắt xanh biếc, lông mắt như
ngưu-vương, chặng mày có bạch-hào, trên đỉnh đầu có nhục-kế, da thứa mịn nhuyễn
màu chơn kim, lông trên thân đều xoắn lên trên, tóc màu đế-thanh, thân tròn đầy
ngay thẳng như cây ni-câu-đà.
Lúc đó Thái-Tử tuân lịnh
Phụ-Vương cùng một ngàn thể-nữ vào vườn hương-nha du ngoạn. Thái-Tử ngồi trên
tòa sư-tử đại-ma-ni trong xe, năm trăm thể-nữ cầm dây báu kéo xe. Trăm ngàn vạn
người cầm bửu-cái. Trăm ngàn muôn người cầm bửu-tràng. Trăm ngàn muôn người cầm
bửu-phan. Trăm ngàn muôn người trổi nhạc. Trăm ngàn muôn người xông hương thơm.
Trăm ngàn muôn người rải hoa đẹp. Tùy tùng trước sau theo xe Thái-Tử.
Ðường xá bằng phẳng, rải
đầy những hoa đẹp. Hai bên đường cây báu thành hàng, lưới báu giăng che, nhiều
lầu các chứa những châu báu, hoặc trần thiết những vật trang-nghiêm, hoặc chưng
dọn những thức uống ăn, hoặc treo y-phục, hoặc sắm đủ những vật tư-sanh, tùy ai
cần gì đều ban cho.
Bấy giờ có bà mẹ tên là
Thiện-Hiện dắt một Ðồng-nữ tên là Cụ-Túc-Diệu-Ðức. Ðồng-nữ nầy dung nhan đoan
chánh, mắt và tóc xanh biếc, tiếng nói như phạm-âm, nghề khéo, luận giỏi, siêng
năng kính nhường, đủ lòng từ mẫn, hổ thẹn, nhu hòa, chất trực, lìa ngu si, ít
tham dục, không siểm nịnh dối phỉnh. Ðồng-nữ cùng mẫu-thân ngồi xe, các thể-nữ
theo hầu, đi trước xe Thái-Tử.
Ðồng-nữ ấy thấy Thái-Tử
bèn sanh lòng yêu mến, nói với mẹ rằng nàng muốn kính thờ người nầy, nếu không
toại nguyện quyết sẽ tự vẫn.
Mẹ bảo chớ có vọng niệm.
Ðây là Thái-Tử đủ tướng Luân-Vương. Sau đây lên ngôi sẽ làm Chuyển-Luân-Vương,
có Bửu-Nữ xuất hiện, bay trên không tự tại.
Chúng ta là hàng ti-tiện
chớ sanh vọng niệm, vì sự ấy khó đạt thành.
Bên cạnh khu vườn
Hương-Nha có một đạo-tràng tên là Pháp-Vân Quang-Minh. Có đức Như-Lai hiệu là
Thắng-Nhựt-Thân, đủ mười hiệu, xuất hiện trong đó đã được bảy ngày.
Ðồng-Nữ Diệu-Ðức ngủ gật
mộng thấy Phật. Khi thức dậy, trên không có Thiên-Thần bảo Ðồng-Nữ rằng
Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai thành Ðẳng-Chánh-Giác nơi đạo-tràng Pháp-Vân Quang-Minh
đã được bảy ngày, chúng Bồ-Tát vây quanh, chư Thiên, Long, bát-bộ, cùng chư
Thần vì muốn thấy Phật nên đều tập hội.
Ðồng-Nữ Diệu-Ðức do mộng
thấy Phật, lại nghe công đức của Phật, nên lòng nàng an-ổn không khiếp sợ, ở
trước Thái-Tử mà nói kệ rằng:
Thân tôi rất đoan chánh
Tiếng đồn khắp mười phương
Trí-huệ không ai sánh
Khéo giỏi đủ các nghề.
Vô-lượng trăm ngàn chúng
Thấy tôi đều tham nhiễm
Lòng tôi đối với họ
Không một niệm ái dục.
Không sân cũng không hận
Không ghét cũng không mừng
Chỉ phát tâm quảng đại
Lợi ích các chúng-sanh.
Nay tôi thấy Thái-Tử
Ðủ những tướng công-đức
Tâm tôi rất vui mừng
Khắp thân đều thơ thới.
Màu da như minh-bửu
Tóc đẹp xoắn phía hữu
Trán rộng, mày nhỏ cong
Lòng tôi nguyện thờ Ngài.
Tôi xem thân Thái-Tử
Giống như tượng chân-kim
Cũng như đại-bửu-sơn
Tướng tốt có quang-minh.
Mắt rộng màu xanh biếc
Mặt tròn như trăng sáng
Vui-vẻ giọng nói hay
Xin thương nạp thọ tôi.
Tướng lưỡi rộng dài đẹp
Ðỏ như màu xích đồng
Phạm-âm tiếng Khẩn-Na
Ai nghe cũng vui đẹp.
Miệng vuông chẳng co rút
Răng trắng đều kín bằng
Lúc phát ngôn, hiện cười
Người thấy lòng hoan-hỉ.
Thân ly cấu thanh-tịnh
Ðủ ba mươi hai tướng
Tất sẽ ở cõi nầy
Mà làm Chuyển-Luân-Vương.
Thái-Tử bảo Ðồng-Nữ rằng:
Nàng là con gái của ai? Ai
thủ hộ nàng? Nếu trước đã thuộc người khác, thời ta không nên sanh lòng ái
nhiễm.
Thái-Tử nói kệ rằng:
Thân nàng rất thanh-tịnh
Ðầy đủ tướng công-đức
Nay ta có lời hỏi
Hiện nàng ở với ai?
Cha mẹ nàng tên gì?
Nay nàng hệ thuộc ai?
Nếu đã thuộc người khác
Người đó nhiếp thọ nàng.
Nàng chẳng trộm của người,
Nàng không lòng giết hại,
Nàng chẳng phạm tà-dâm,
Nàng nương lời nói nào
Chẳng nói xấu người khác,
Chẳng phá thân thuộc người,
Chẳng xâm cảnh giới người,
Chẳng giận hờn người khác,
Chẳng sanh tà-hiểm-kiến,
Chẳng làm nghiệp trái nhau,
Chẳng dùng sức siểm-khúc
Phương-tiện gạt thế-gian.
Tôn trọng cha mẹ chăng?
Kính thiện-tri-thức chăng?
Thấy những người nghèo cùng
Phát tâm giúp đỡ chăng?
Nếu có thiện-tri-thức
Dạy bảo những điều hay
Nàng phát tâm kiên cố
Hoàn toàn tôn trọng chăng?
Có kính mến Phật chăng?
Có biết Bồ-Tát chăng?
Chúng tăng biển công-đức
Nàng có tôn kính chăng?
Nàng có biết pháp chăng?
Dạy được chúng-sanh chăng?
Nàng ở trong chánh-pháp
Hay ở trong phi-pháp?
Thấy những người cô-độc
Nàng có thương xót chăng?
Thấy chúng-sanh ác đạo
Nàng có bi-mẫn chăng?
Thấy người được vinh hạnh
Nàng có hoan hỉ chăng?
Người đến bức hại nàng
Nàng có phiền giận chăng?
Nàng phát tâm bồ-đề
Khai ngộ chúng-sanh chăng?
Vô-biên kiếp tu hành
Ðược không mỏi nhàm chăng?
Thân-mẩu của Ðồng-Nữ nói
kệ trả lời Thái-Tử:
Thái-Tử ngài lắng nghe
Nay tôi nói Ðồng-Nữ
Sơ-sanh đến trưởng-thành
Tất cả những nhơn-duyên:
Ngày Thái-Tử mới sanh
Nàng từ liên-hoa sanh,
Mắt nàng sáng dài rộng
Tay chân đều hoàn mỹ.
Tôi từng ở mùa xuân
Du ngoạn vườn Ta-La
Thấy khắp những dược-thảo
Mọ thứ đều tươi tốt.
Cây lạ trổ hoa đẹp
Trông đó như khánh-vân,
Chim đẹp cùng hòa hót
Trong rừng đồng hoan lạc.
Cùng đi tám trăm cô
Ðoan chánh chiếm lòng người
Y phục đều nghiêm lệ
Ca ngâm đều rất hay.
Vườn đó có ao tắm
Tên là Liên-Hoa-Tràng,
Tôi ngồi trên bờ ao
Thể-nữ hầu chung-quanh.
Trong ao sen lớn ấy
Bỗng sanh hoa ngàn cánh
Cánh báu, cọng lưu-ly,
Vàng Diêm-Phù làm đài.
Bấy giờ là hừng sáng
Mặt nhụt mới ló mọc,
Hoa ấy đương nở ra
Phóng ánh sáng thanh-tịnh.
Ánh sáng ấy rất mạnh
Dường như mặt trờ mọc
Chiếu khắp Diêm-Phù-Ðề
Mọi người đều khen lạ.
Bấy giờ thấy Ðồng-Nữ
Từ hoa sen đó sanh
Thân nàng rất thanh-tịnh
Chi Phần đều viên-mãn.
Ðây là báu nhơn-gian
Từ nơi tịnh-nghiệp sanh
Nhơn trước không hư mất
Nay thọ quả báo nầy.
Tóc biếc, mắt sen xanh,
Phạm-Thinh, da chân-kim,
Tràng hoa, những bửu-kế
Thanh-tịnh không chút nhơ.
Chi tiết đều đầy đủ
Thân nàng không khuyết giảm
Dường như tượng chơn-kim
Ðặt ở trong bửu hoa.
Chân lông mùi chiên-đàn
Xông khắp cả mọi nơi,
Miệng phát mùi thanh-liên
Thường diễn tiếng phạm-âm.
Chỗ của nàng nầy ở
Thường có âm nhạc trời,
Chẳng nên để kẻ hèn
Sánh đôi với nàng nầy.
Thế-gian không người nào
Kham làm chồng nàng nầy,
Duy ngài đủ tướng tốt
Xin nạp thọ nàng nầy.
Chẳng cao cũng chẳng thấp,
Chẳng thô cũng chẳng tế,
Toàn thân đều đoan-nghiêm
Xin Ngài nạp thọ nàng.
Văn tự pháp toán số
Tất cả những nghề khéo
Nàng đều thông suốt cả
Xin Ngài nạp thọ nàng.
Biết rành những binh pháp
Khéo phán đoán kiện tụng
Ðều được kẻ khó điều
Xin Ngài nạp thọ nàng.
Thân nàng rất thanh-tịnh
Người thấy không nhàm đủ
Công-đức tự trang-nghiêm
Ngài nên nạp thọ nàng.
Chúng-sanh có họa hoạn
Khéo rõ duyên khởi đó
Ðúng bịnh mà cho thuốc
Tất cả diệt trù được.
Những ngôn ngữ Diêm-Phù
Vô-lượng thứ sai khác
Nhẫn đến tiếng kỹ nhạc
Nàng thông suốt tất cả.
Những nghề của phụ nữ
Nàng nầy biết tất cả,
Mà không lỗi phụ nữ
Ngài nên mau nạp nàng.
Chẳng ganh cũng chẳng tiếc,
Không tham cũng không giận,
Tánh nhu nhuyến chất trực
Rời bỏ những thô ác.
Cung kính bực tôn-túc
Phụng thờ không trái nghịch
Thích tu những hạnh lành
Có thể tùy thuận ngài.
Nếu nàng thấy già bịnh
Nghèo cùng và hoạn nạn
Không ai cứu không nương
Nàng sanh lòng xót thương.
Thường quán đệ-nhất-nghĩa
Chẳng cầu tự lợi lạc
Chỉ nguyện lợi chúng-sanh
Dùng đây trang-nghiêm tâm.
Ði đứng cùng ngồi nằm
Tất cả không phóng dật
Nói năng và yên lặng
Ai thấy cũng vui mừng.
Dầu ở tất cả chỗ
Ðều không lòng nhiễm trước
Thấy người có công-đức
Hoan-hỉ không biết nhàm.
Tôn trọng thiện-tri-thức
Thích thấy người rời ác
Tâm nàng không tháo động
Xét trước sau mới làm.
Trang-nghiêm với phước trí
Tất cả không oán hận
Hơn hết trong hàng nữ
Ðáng người thờ Thái-Tử.
Lúc đã vào vườn Hương-Nha,
Thái-Tử bảo Ðồng-Nữ Diệu-Ðức và bà Thiện-Hiện rằng:
Nầy Thiện-Nữ! Ta cầu
vô-thượng bồ-đề, sẽ tột vô-lượng kiếp thuở vị-lai chứa nhóm pháp trợ-đạo
nhất-thiết-trí, tu tập vô-biên bồ-tát-hạnh, tịnh tất cả ba-la-mật, cúng-dường
tất cả Như-Lai, hộ trì tất cả phật-giáo, nghiêm tịnh tất cả phật-độ, sẽ làm cho
phật-chủng của tất cả Như-Lai chẳng mất, sẽ theo chủng-tánh của tất cả
chúng-sanh để thành-thục họ, sẽ diệt khổ sanh tử cho chúng-sanh được ở chỗ rốt
ráo an lạc, sẽ tịnh tri mắt trí-huệ cho tất cả chúng-sanh, sẽ tu tập tất cả
công-hạnh của Bồ-Tát, sẽ an trụ nơi tâm bình-đẳng của tất cả Bồ-Tát, sẽ
thành-tựu hành-địa của tất cả Bồ-Tát, sẽ làm cho tất cả chúng-sanh đều hoan-hỉ,
sẽ xả thí tất cả vật để thật hành đàn ba-la-mật tột thuở vị-lai, làm cho tất cả
chúng-sanh đều được đầy đủ, những vật uống ăn, y phục, vợ con đến đầu mặt tay
chân ta đều sẽ xả thí không hề tiếc.
Lúc đó nàng sẽ cản trở ta,
lúc thí của cải nàng sẽ lẫn tiếc, lúc thí con cái nàng sẽ buồn khổ, lúc cắt tay
chân nàng sẽ sầu muộn, lúc bỏ nàng để xuất gia lòng nàng sẽ hối hận.
Thái-Tử nói kệ bảo nàng
Diệu-Ðức rằng:
Vì thương xót chúng-sanh
Ta phát tâm bồ-đề
Ở trong vô-lượng kiếp
Tu Tập nhất-thiết-trí.
Trong vô-lượng đại-kiếp
Tịnh tu những nguyện-hải
Nhập địa và trừ chướng
Ðều trải vô-lượng kiếp.
Chỗ tam thế chư Phật
Học lục ba-la-mật
Ðầy đủ hạnh phương-tiện
Thành-tựu đạo bồ-đề.
Cõi cấu uế mười phương
Ta sẽ đều nghiêm tịnh
Tất cả nạn ác-đạo
Ta sẽ khiến thoát hẳn.
Ta sẽ dùng phương-tiện
Rộng độ các quần-sanh
Khiến diệt tối ngu-si
Trụ nơi phật-trí-đạo.
Sẽ cúng tất cả Phật,
Sẽ tịnh tất cả địa,
Khởi đại từ-bi tâm
Ðều bỏ vật trong ngoài.
Nàng thấy người đến xin
Hoặc sanh lòng tham tiếc,
Tâm ta thường thích thí
Nàng chớ trái lòng ta.
Nếu thấy ta thí đầu
Chớ có sanh buồn khổ,
Nay ta bảo nàng trước
Cho lòng nàng kiên-cố.
Nhẫn đến chặt tay chân
Nàng chớ trách người xin,
Nay nàng nghe lời ta
Cần phải suy nghĩ kỹ.
Tất cả vật sở hữu
Ta đều xả tất cả,
Nếu nàng thuận lòng ta
Ta sẽ toại ý nàng.
Ðồng-nữ thưa với Thái-Tử:
Kính vâng lời dạy của
Ngài.
Ðồng-nữ liền nói kệ đáp
lời Thái-Tử:
Trong vô-lượng kiếp-hải
Lửa địa-ngục đốt thân
Nếu Ngài thương nạp tôi
Cam tâm chịu khổ nầy.
Vô-lượng chỗ thọ sanh
Nát thân như vi-trần
Nếu Ngài thương nạp tôi
Cam tâm thọ khổ nầy.
Vô-lượng kiếp đầu đội
Núi kim-cang lớn rộng
Nếu Ngài thương nạp tôi
Cam tâm thọ khổ nầy.
Vô-lượng biển sanh tử
Ðem thịt tôi bố thí
Chỗ Ngài thành Pháp-Vương
Nguyện cho tôi cũng vậy.
Nếu Ngài thương nạp tôi
Cho tôi làm chủ đó
Ðời đời Ngài bố thí
Nguyện thường đem tôi thí.
Vì thương chúng-sanh khổ
Mà phát tâm bồ-đề
Ðã nhiếp chúng-sanh rồi
Cũng sẽ nhiếp thọ tôi.
Tôi chẳng cầu giầu sang
Chẳng tham vui ngũ-dục
Chỉ vì cùng tu hành
Nguyện dùng Ngài làm chủ.
Mắt rộng dài xanh biếc
Từ mẫn nhìn thế-gian
Chẳng móng tâm nhiễm trước
Quyết thành đạo Bồ-Tát.
Chỗ Thái-Tử bước đi
Ðất mọc những bửu-hoa
Tất làm Chuyển-Luân-Vương
Xin Ngài thương nạp tôi.
Tôi vừa mộng thấy Phật
Diệu-pháp bồ-đề tràng
Ðức Phật ngồi dưới cây
Vô-lượng chúng vây quanh.
Tôi mộng thấy Như-Lai
Thân như núi Chơn-kim
Tay Phật xoa đầu tôi
Thức dậy lòng hoan-hỉ.
Trời quyến-thuộc thuở xưa
Tên là Hỉ-Quang-Minh
Trời đó vì tôi nói
Ðạo tràng Phật xuất thế.
Tôi từng nghĩ như vậy
Nguyện thấy thân Thái-Tử,
Trời ấy bảo tôi rằng
Nay nàng sẽ được thấy.
Chí nguyện trước của tôi
Hôm nay đều thành mãn
Xin cùng ngài đồng đến
Cúng-dường đức Như-Lai
Thái-Tử nghe danh hiệu
Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai, rất hoan-hỉ muốn được thấy Phật.
Thái-Tử đem năm trăm châu
ma-ni rải trên Ðồng-Nữ, ban mão Diệu-Tạng-Quang-Minh-Bửu và áo
Hỏa-Diệm-Ma-Ni-Bửu.
Ðồng-Nữ Diệu-Ðức lòng
chẳng rung động cũng không lộ vẻ mừng, chỉ chắp tay cung-kính chiêm-ngưỡng
Thái-Tử mắt chẳng tạm rời.
Bà Thiện-Hiện ở trước
Thái-Tử nói kệ rằng:
Con tôi rất đoan chánh
Thân công-đức trang-nghiêm
Xưa nguyện thờ Thái-Tử
Nay đã được toại ý.
Trì giới có trí huệ
Ðầy đủ các công-đức
Khắp tất cả thế-gian
Tối-thắng không ai bằng.
Từ liên-hoa hóa sanh
Chủng tánh không hèn xấu
Thái-Tử đồng hạnh nghiệp
Xa lìa tất cả lỗi.
Con tôi thân nhu nhuyến
Dường như lụa cõi trời
Tay nàng rờ chạm đến
Bịnh đau đều trừ diệt.
Lỗ lông phát hương thơm
Ngào ngạt không gì bằng
Nếu ai được ngửi đến
Ðều ở nơi tịnh-giới.
Màu da như chơn-kim
Ngồi ngay trên hoa-đài
Chúng-sanh nếu được thấy
Hết oán phát tâm từ.
Lời nói rất dịu dàng
Ai nghe cũng hoan-hỉ
Chúng-sanh nếu được nghe
Ðều rời những ác-nghiệp.
Tâm tịnh không vết nhơ
Xa lìa những siểm khúc
Xứng tâm mà phát ngôn
Người nghe đều hoan-hỉ.
Ðiều nhu lòng hổ thẹn
Cung kính bậc tôn túc
Không tham cũng không dối
Thương xót các chúng-sanh.
Lòng con tôi chẳng ỷ
Sắc tướng và quyến-thuộc
Chỉ dùng tâm thanh-tịnh
Cung Kính tất cả Phật.
Lúc đó Thái-Tử và nàng
Diệu-Ðức đem một ngàn thể-nữ cùng quyến-thuộc, ra khỏi vườn Hương-Nha, đến
đạo-tràng Pháp-Vân Quang-Minh, xuống xe đi bộ đến chỗ đức Phật.
Thấy đức Phật
Thắng-Nhựt-Thân đoan-nghiêm tịch-tịnh, căn thân điều thuận trong ngoài đều
thanh-tịnh, như ao Ðại-Long không có cặn nhơ, Thái-Tử và quyến-thuộc sanh lòng kính
tin vui mừng hớn-hở đảnh lễ chân đức Phật, hữu-nhiễu vô-số vòng.
Thái-Tử và nàng Diệu-Ðức,
mỗi người cầm năm trăm bông sen báu cúng-dường đức Phật.
Thái-Tử vì Phật mà kiến
tạo năm trăm tinh xá bằng gỗ thơm, trang-nghiêm với những diệu-bửu xen châu ma-ni.
Ðức Phật thuyết kinh
Phổ-Nhãn-Ðăng-Môn. Thái-Tử nghe xong, ở trong tất cả pháp được tam-muội-Hải:
Như là
Phổ-chiếu-nhứt-thiết-phật-nguyện-hải tam-muội, phổ-chiếu tam-thế-tạng tam-muội,
hiện-kiến-nhứt-thiết-phật-đạo-tràng tam-muội, phổ-chiếu-nhứt-thiết-chúng-sanh
tam-muội, phổ-chiếu-nhứt-thiết-thế-gian-trí-đăng tam-muội,
Phổ-chiếu-nhứt-thiết-chúng-sanh-căn-trí-đăng tam-muội,
cứu-hộ-nhứt-thiết-chúng-sanh-quang-minh-vân tam-muội,
phổ-chiếu-nhứt-thiết-chúng-sanh-đại-minh-đăng tam-muội, diễn-nhất-thiết-phật-pháp-luân
tam-muội, cụ-túc-phổ-hiền-thanh-tịnh-hạnh tam-muội.
Nàng Diệu-Ðức được
nan-thắng-hải-tạng tam-muội, trọn chẳng thối-chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.
Thái-Tử và Diệu-Ðức cùng
quyến thuộc đảnh lễ chân Phật, hữu nhiễu vô-số vòng từ tạ trở về cung, tâu cùng
Phụ-Vương rằng:
Ðức Thắng-Nhựt-Thân
Như-Lai gần đây xuất thế thành Ðẳng-Chánh-Giác tại đạo-tràng bồ-đề Pháp-Vân
Quang-Minh nơi vườn Hương-Nha.
Phụ-Vương hỏi Thái-Tử:
Ai nói cho con hay sự ấy.
Thái-Tử tâu:
Nàng Cụ-Túc Diệu-Ðức nói
cho con hay, và chúng con đã đến đảnh lễ cúng-dường đức Phật.
Phụ-Vương hoan hỉ vô-lượng
như người nghèo được của báu. Nhà vua tự nghĩ: đức Phật là vô-thượng-bửu khó
được gặp. Nếu được thấy Phật thời. dứt hẳn sự sợ ác-đạo. Ðức Phật như Y-Vương
trị lành tất cả bịnh phiền-não, có thể cứu tất cả khổ lớn sanh-tử. Ðức Phật như
Ðạo-Sư, có thể làm cho chúng-sanh đến nơi an-ổn rốt ráo.
Nhà vua suy nghĩ xong,
liền hội chư tiểu-vương, các quan, quyến thuộc và các sát-đế-lợi, bà-la-môn
cùng tất cả quốc-dân. Nhà vua tuyên bố thối vị, nhường ngôi cho Thái-Tử.
Sau khi làm lễ quán-đảnh
cho Thái-Tử, quốc-vương Tài-Chủ cùng một vạn người đến chỗ đức Phật, đảnh lễ
nơi chân đức Phật, hữu nhiễu vô-số vòng, rồi cùng quyến-thuộc lui ngồi một
phía.
Ðức Thắng-Nhựt-Thân
Như-Lai quán-sát quốc-vương và đại-chúng, rồi phóng bạch hào quang-minh tên là
nhất-thiết-thế-gian-tâm-đăng chiếu khắp vô-lượng thế-giới mười phương.
Quang-minh ấy dừng ở trước tất cả Thế-Chủ, thị-hiện Như-Lai bất-khả-tư-nghì
đại-thần-thông-lực, làm cho tất cả kẻ đáng được hóa-độ thân tâm thanh-lương.
Lúc đó đức Như-Lai hiện
thân siêu xuất tất cả thế-gian, dùng viên-mãn-âm vì khắp đại chúng mà nói
đà-la-ni tên là nhất thiết-pháp-nghĩa-ly-ám-đăng, có phật-sát vi-trần-số
đà-la-ni làm quyến-thuộc.
Quốc-Vương nghe xong liền
được đại-trí quang-minh.
Trong chúng-hội có
diêm-phù-đề vi-trần số Bồ-Tát đồng thời chứng được môn đà-la-ni nầy.
Sáu mươi vạn na-do-tha
người, sạch hữu-lậu tâm được giải-thoát.
Mười ngàn chúng-sanh xa lìa trần cấu được pháp-nhãn tịnh.
Vô-lượng chúng-sanh phát
tâm bồ-đề.
Ðức Phật lại hiện
thần-biến khắp mười phương vô-lượng thế-giới diễn pháp tam-thừa hóa độ
chúng-sanh.
Quốc-Vương tự nghĩ: Nếu
tại-gia, ta chẳng thể chứng được diệu-pháp như vậy. Nếu ta xuất-gia tu học bên
Phật thời sẽ được thành-tựu.
Suy nghĩ xong, quốc-vương
đến bạch Phật xin xuất gia. Ðức Phật hứa khả.
Quốc-Vương Tài-Chủ cùng
một vạn quyến thuộc đồng xuất gia. Không bao lâu, nhà vua và quyến-thuộc đồng
thành-tựu nhất-thiết-pháp-nghĩa-lý-ám đăng đà-la-ni, và các môn tam-muội như
trên, lại được Bồ-Tát mười môn thần-thông, lại được Bồ-Tát vô biên biện-tài,
lại được Bồ-Tát vô-ngại tịnh-thân đến chỗ chư Phật mười phương để nghe pháp,
làm đại pháp-sư diễn nói diệu-pháp.
Quốc-Vương lại dùng
thần-lực đến mười phương thế-giới tùy tâm chúng-sanh mà vì hiện thân, tán thán
Phật xuất thế, nói bổn hạnh của Phật, bày bổn-duyên của Phật, tán dương
thần-lực tự-tại của Như-Lai, hộ-trì phật-pháp.
Thái-Tử ở tại kim-điện,
đúng ngày rằm, thất bửu tự hiện đầy đủ:
Một là luân-bửu tên là
Vô-Ngại-Hành.
Hai là tượng-bửu tên là kim-Cang-Thân.
Ba là mã-bửu tên là Tốc-Tật-Phong.
Bốn là châu-bửu tên là Quang-Tạng.
Năm là nữ-bửu tên là Cụ-Túc Diệu-Ðức.
Sáu là tạng-thần-bửu tên là Ðại-Tài.
Bảy là chủ-binh-bửu tên là Ly-Cấu-Nhãn.
Ðã đủ bảy báu, Thái-Tử làm
Chuyển-Luân-Vương cai trị Diêm-Phù-Ðề, nhân-dân được an lạc.
Luân-Vương có ngàn
Vương-Tử đoan chánh dũng kiện, có thể dẹp oán địch.
Trong Diêm-Phù-Ðề có tám
mươi Vương-Thành. Trong mỗi thành có năm trăm tăng-phường. Mỗi tăng-phường đều
lập tinh-xá cao rộng xinh đẹp, trang-nghiêm với những diệu-bửu.
Mỗi Vương-Thành đều thỉnh
đức Thắng-Nhựt-Thân-Như-Lai đến để cúng dường.
Lúc nhập thành đức Như-Lai
hiện đại thần-lực khiến vô-lượng chúng-sanh gieo những căn lành, vô-lượng
chúng-sanh tâm được thanh-tịnh, thấy Phật hoan-hỉ, phát tâm bồ-đề, khởi lòng đại-bi
lợi ích chúng-sanh, siêng tu phật-pháp chứng nhập thật-nghĩa, trụ nơi pháp-tánh
rõ pháp bình-đẳng, được tam-thế-trí bình-đẳng xem xét tam-thế biết tất cả Phật
thứ đệ xuất thế thuyết pháp độ sanh, phát bồ-tát-nguyện, nhập bồ-tát-đạo, biết
Như-Lai pháp, thành-tựu pháp-hải, có thể khắp hiện thân khắp tất cả cõi, biết
căn tánh dục lạc của chúng-sanh khiến họ phát khởi chí nguyện nhất-thiết-trí.
Nàng Cù-Ba bảo Thiện-Tài
rằng:
Nầy Thiện-nam-tử! Xưa kia,
Thái-Tử được ngôi Chuyển-Luân-Vương cúng-dường đức Phật Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai
chính là đức Thích-Ca-Mâu-Ni Thế-Tôn hiện nay.
Quốc-Vương Tài-Chủ thuở
xưa, nay là đức Bửu-Hoa-Phật hiện ngự đạo-tràng Hiện-Nhất-Thiết-Thế-Chủ-Thân ở
Thế-giới Viên-Mãn-Quang trong thế-giới-chủng Phổ-Hiện-Tam-Thế-Ảnh-Ma-Ni-Vương
tại thế-giới-hải Hiện-Pháp-Giới-Hư-Không-Ảnh-Tượng-Vân cách đây về phương đông
quá thế-giới-hải vi-trần-số cõi Phật. Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số
chúng Bồ-Tát vây quanh nghe pháp.
Lúc Bửu-Hoa Như-Lai tu
bồ-tát-hạnh, đức Phật nghiêm-tịnh thế-giới-hải nầy. Nơi đây chư Phật quá-khứ,
hiện-tại, vị-lai xuất thế, đều là những vị do Bửu-Hoa Như-Lai, lúc còn làm
Bồ-Tát, giáo-hóa khiến phát tâm vô-thượng bồ-đề.
Bà Thiện-Hiện, thân-mẫu
của Ðồng-Nữ Diệu-Ðức, nay là thân-mẫu của ta, bà Thiện-Mục đấy.
Quyến thuộc của nhà vua
xưa kia, nay là chúng-hội của đức Như-Lai, đều tu hành đủ những hạnh phổ-hiền,
thành-mãn đại nguyện. Dầu hằng ở tại đạo-tràng của đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn,
mà có thể hiện khắp tất cả thế-gian, trụ bồ-tát bình-đẳng tam-muội, thường được
hiện thấy tất cả chư Phật, đều nghe lãnh được pháp-luân của tất cả Như-Lai, đều
được tự-tại nơi tất cả pháp, tiếng đồn khắp các phật-độ, đến chỗ tất cả
đạo-tràng, hiện trước tất cả chúng-sanh, tùy nghi giáo hóa điều phục, tu
bồ-tát-đạo tận vị-lai kiếp không gián đoạn, thành mãn những thệ nguyện quảng
đại của Phổ-Hiền.
Nầy Thiện-nam-tử! Nàng
Diệu-Ðức xưa kia, chính là thân ta ngày nay.
Ðức Thắng-Nhựt-Thân
Như-Lai diệt độ, sau đó, trong thế-giới ấy có sáu mươi ức trăm ngàn na-do-tha
đức Phật xuất thế, ta cùng Luân-Vương đều kính thờ cúng-dường.
Tối-sơ Phật hiệu là
Thanh-Tịnh-Thân, theo thứ đệ có Phật Nhất-Thiết-Trí-Nguyệt-Quang-Minh-Thân,
Phật Diêm-Phù-Ðàn-Kim-Quang-Minh-Vương, Phật Chư-Tướng-Trang-Nghiêm-Thân, Phật
Diệu-Nguyệt-Quang, Phật Trí-Quán-Tràng, Phật Ðại-Trí-Quang, Phật
Kim-Cang-Na-La-Diên-Tinh-Tấn, Phật Trí-lực-Vô-Năng-Thắng, Phật
Phổ-An-Tường-Trí, Phật Ly-Cấu-Thắng-Trí-Vân, Phật Sư-Tử-Trí-Quang-Minh, Phật
Quang-Minh-Kế, Phật Công-Ðức-Quang-Minh-Tràng, Phật Trí-Nhựt-Tràng, Phật
Bửu-Liên-Hoa-Khai-Phu-Thân, Phật Phước-Ðức-Nghiêm-Tịnh-Quang, Phật
Trí-Diệm-Vân, Phật Phổ-Chiếu-Nguyệt, Phật Trang-Nghiêm-Cái-Diệu-Âm-Thanh, Phật
Sư-Tử-Dũng-Mãnh-Trí-Quang-Minh, Phật Pháp-Giới-Nguyệt, Phật
Hiện-Hư-Không-Ảnh-Tượng-Khai-Ngộ-Chúng-Sanh-Tâm, Phật Hằng-Khứu-Tịch-Diệt-Hương,
Phật Phổ-Chấn-Tịch-Tịnh-Âm, Phật Cam-Lộ-Sơn, Phật Pháp-Hải-Âm, Phật
Kiên-Cố-Võng, Phật Ảnh-Kế Như-Lai, Phật Nguyệt-Quang-Hào, Phật Biện-Tài-Khẩu,
Phật Giác-Hoa-Trí, Phật Bửu-Diệm-Sơn, Phật Công-Ðức-Tịnh, Phật
Bửu-Nguyệt-Tràng, Phật Tam-Muội-Thân, Phật Bửu-Quang-Vương, Phật Phổ-Trí-Hành,
Phật Diệm-Hải-Ðăng, Phật Ly-Cấu-Pháp-Âm-Vương, Phật Vô-Tỷ Ðức-Danh-Xưng-Tràng,
Phật Tu-Tý, Phật Bổn-Nguyện-Thanh-Tịnh-Nguyệt, Phật Chiếu-Nghĩa-Ðăng, Phật
Thâm-Viễn-Âm, Phật Tỳ-Lô-Giá-Na-Thắng-Tạng-Vương, Phật Chư-Thừa-Tràng, Phật
Pháp-Hải-Diệu-Liên-Hoa. Có sáu mươi ức trăm ngàn na-do-tha đức Phật như vậy
xuất thế trong thế-giới ấy, ta đều kính thờ cúng-dường.
Tối-Hậu Phật hiệu là
Quảng-Ðại-Giải. Nơi đức Phật nầy ta được trí-nhãn thanh-tịnh.
Lúc đó, đức Phật
Quảng-Ðại-Giải vào thành giáo-hóa, ta làm Vương-Phi, cùng Quốc-Vương kính lễ
Phật, đem những diệu-vật dâng lên cúng-dường, nghe đức Phật nói pháp-môn
xuất-sanh-nhật-thiết-như-lai-đăng ta liền chứng được môn giải-thoát
quán-sát-nhất-thiết-bồ-tát-tam-muội-hai-cảnh-giới.
Nầy Thiện-nam-tử! Khi ta
đã được môn giải-thoát nầy, cùng với Bồ-Tát trong phật-sát vi-trần-số kiếp
siêng năng tu tập, kính thờ cúng-dường vô-lượng chu Phật. Hoặc trong một kiếp
kính thờ một đức Phật, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bất-khả-thuyết đức Phật, hoặc gặp
phật-sát vi-trần-số đức Phật, ta đều thân cận kính thờ cúng-dường, mà chưa biết
được thân hình sắc mạo thân-nghiệp tâm-hành trí-huệ cảnh-giới tam-muội của
Bồ-Tát.
Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có
chúng-sanh được thấy Bồ-Tát tu hạnh bồ-đề, hoặc nghi, hoặc tin, Bồ-Tát đều dùng
những phương-tiện thế-gian xuất-thế-gian để nhiếp thủ họ, dùng họ làm
quyến-thuộc, khiến họ không thối-chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.
Nầy Thiện-nam-tử! Nơi đức
Phật Quảng-Ðại-Giải sau khi được môn giải-thoát nầy, ta cùng Bồ-Tát chung tu
tập trong thời gian trăm phật-sát vi-trần-số kiếp, trong những kiếp ấy có bao
nhiêu đức Phật xuất thế, ta đều thân cận kính thờ cúng dường, nghe Phật thuyết
pháp đọc tụng thọ trì. Ở chỗ chư Như-Lai đó, ta được những môn giải-thoát nầy,
biết những tam-thế, nhập những sát-hải, thấy chư Phật thành Ðẳng-Chánh-Giác,
vào những chúng hội, phát những đại nguyện của Bồ-Tát, tu những diệu-hạnh của
Bồ-Tát, được những giải-thoát của Bồ-Tát, nhưng chưa biết được môn phổ-hiền
giải-thoát mà Bồ-Tát đã dược.
Tại sao vậy?
Vì môn phổ-hiền giải-thoát
của Bồ-Tát như thái-hư-không, như tên của chúng-sanh, như tam-thế-hải, như
thập-phương-hải, như pháp-giới-hải, vô-lượng vô-biên.
Môn phổ-hiền giải-thoát
của Bồ-Tát đồng với cảnh giới của Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử! Trong
phật-sát vi-trần-số kiếp ta quán thân Bồ-Tát không biết nhàm. Như người đa dục
nam nữ hội họp ái-nhiễm nhau sanh vô-lượng vọng-tưởng, cũng vậy, ta quán thân
của Bồ-Tát, nơi mỗi lỗ chân lông, mỗi niệm thấy vô-lượng vô-biên thế-giới rộng
lớn, những sự an-trụ, trang-nghiêm, hình trạng, những núi, đất, mây, danh hiệu,
Phật xuất thế, những đạo-tràng, chúng-hội, diễn thuyết những khế-kinh, những sự
quán-đảnh, các thừa, những phương tiện, những thanh-tịnh.
Lại mỗi niệm nơi mỗi lỗ
lông của Bồ-Tát thường thấy vô-biên phật-hải, những sự ngồi đạo-tràng, những
thần-biến, thuyết pháp, thuyết kinh hằng không gián đoạn.
Lại nơi mỗi lỗ chân lông
của Bồ-Tát thấy vô-biên chúng-sanh-hải: những trụ-xứ, hình mạo, tác nghiệp, căn
tánh.
Lại nơi mỗi lỗ chân lông
của Bồ-Tát thấy vô-biên công-hạnh của tam-thế Bồ-Tát: vô-biên nguyện quảng đại
vô-biên bậc sai biệt, vô biên ba-la-mật, vô-biên sự thuở xưa, vô-biên môn
đại-từ, vô-biên mây đại-bi, vô-biên tâm đại-hỉ, vô-biên phương-tiện nhiếp thủ
chúng-sanh.
Nầy Thiện-nam-tử! Trong
phật-sát vi-trần-số kiếp mỗi niệm xem thấy nơi mỗi chân lông của Bồ-Tát như
vậy, chỗ đã đến không còn lại đến, chỗ đã thấy không còn lại thấy, tìm biên-tế
đó trọn không thể được. Nhẫn đến thấy Thái-Tử Tất-Ðạt ở trong hoàng-cung,
thể-nữ vây quanh, ta dùng sức giải-thoát xem nơi mỗi chân lông của Bồ-Tát, thấy
tất cả sự trong tam-thế pháp-giới.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ
được “MÔN GIẢI THOÁT QUÁN SÁT BỒ TÁT TAM
MUỘI HẢI” nầy.
Như chư đại Bồ-Tát rốt ráo
vô-lượng những phương-tiện-hải vì tất cả chúng-sanh mà hiện tùy-loại-thân, vì
tất cả chúng-sanh mà nói tùy-lạc-hạnh, nơi mỗi chân lông hiện vô-biên
sắc-tướng-hải, biết các pháp-tánh lấy vô-tánh làm tánh, biết tánh chúng-sanh
đồng tướng hư-không, chẳng có phân-biệt, biết thần-lực của Phật đồng với
như-như, khắp tất cả chỗ thị-hiện vô-biên cảnh-giới giải-thoát. Trong một niệm
có thể tự-tại nhập pháp-giới quảng đại, du hí tất cả pháp-môn của các bậc
Bồ-Tát.
Ta thế nào biết được nói
được công-đức-hạnh đó.
Nầy Thiện-nam-tử! Trong
thế-giới nầy có Phật-Mẫu Ma Gia. Người đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh
ở trong thế-gian không nhiễm trước. Cúng-dường chư Phật không thôi nghỉ. Tu
Bồ-tát-nghiệp trọn chẳng thối chuyển. Lìa tất cả chướng ngại, nhập bồ-tát
giải-thoát. Chẳng do người khác mà trụ tất cả bồ-tát-đạo. Ðến chỗ tất cả
Như-Lai. Nhiếp tất cả chúng-sanh-giới. Tận kiếp vị-lai tu bồ-tát-hạnh, phát
đại-thừa-nguyện. Tăng trưởng thiện-căn cho tất cả chúng-sanh thường không thôi
nghỉ.
Bấy giờ nàng Thích-Ca
Cù-Ba muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát nầy, thừa thần-lực của Phật mà nói kệ
rằng:
Nếu ai thấy Bồ-Tát
Tu hành những công-hạnh
Khởi tâm thiện bất-thiện
Bồ-Tát đều nhiếp thủ.
Thuở lâu xa về trước
Quá trăm sát-trần kiếp
Có kiếp tên Thanh-Tịnh
Thế-giới tên Quang-Minh.
Kiếp nầy Phật xuất thế
Sáu mươi ngàn muôn ức
Ðức Như-Lai tối-hậu
Hiệu là Pháp-Tràng-Ðăng.
Sau khi Phật niết-ban
Có vua tên Trí-Sơn
Thống lãnh Diêm-Phù-Ðề
Thần phục không oán địch.
Có năm trăm Vương-Tử
Thân đoan-chánh dũng-kiện
Tất cả đều thanh-tịnh
Ai thấy cũng hoan hỉ.
Quốc-Vương và Vương-Tử
Kính tin cúng-dường Phật
Hộ trì phật-pháp-tạng
Cũng thích siêng tu tập.
Thái-Tử tên Thiện-Quang
Thanh-tịnh nhiều phương-tiện
Thân tướng đều viên-mãn
Người thấy không biết nhàm.
Năm trăm ức người câu hội
Xuất gia cùng học đạo
Dũng-mãnh rất tinh-tấn
Hộ-trì phật-chánh-pháp.
Vương-Ðô tên Trí-thọ
Ngàn ức thành bao quanh
Có rừng tên Tịnh-Ðức
Nhiều châu báu trang-nghiêm.
Thiện-Quang ngụ rừng nầy
Tuyên thuyết phật-chánh-pháp
Sức biện-tài trí-huệ
Khiến chúng đều thanh-tịnh.
Có lúc nhơn khất-thực
Vào Vương-Ðô Trí-Thọ
Ði đứng rất an tường
Tâm chánh-tri chẳng loạn.
Trong thành có Cư-Sĩ
Hiệu là Thiện-Danh-Xưng,
Ta là con gái ông
Tên là Tịnh-Nhựt-Quang.
Ta ở trong Ðô-Thành
Gặp Thái-Tử Thiện-Quang
Thấy thân tướng đoan nghiêm
Lòng ta sanh luyến mến.
Khi Ngài khất nhà ta
Lòng ta càng ái nhiễm
Liền cổi ngay chuỗi ngọc
Chân-châu để vào bát.
Dầu vì tâm ái nhiễm
Cúng-dường Phật-Tử ấy
Hai trăm năm mươi kiếp
Cũng chẳng đọa ác-đạo.
Hoặc sanh nhà Thiên-Vương
Hoặc làm con Nhơn-Vương
Hằng gặp Ngài Thiện-Quang
Thấy thân tướng diệu-nghiêm.
Sau đó quá hai trăm
Năm mươi kiếp kế tiếp
Ta sanh nhà Thiện-Hiện
Tên Cụ-Túc Diệu-Ðức.
Ta được thấy Thái-Tử
Sanh lòng rất tôn trọng
Muốn được theo hầu hạ
May mắn được nạp thọ.
Ta cùng với Thái-Tử
Ðến lễ Phật Thắng-Nhựt
Cung kính cúng-dường xong
Ta phát tâm bồ-đề.
Ở trong một kiếp đó
Có sáu mươi ức Phật
Ðức Thế-Tôn tối-hậu
Hiệu là Quảng-Ðại-Giải.
Ta được thanh-tịnh-nhãn
Biết rõ các pháp-tướng
Thấy khắp chỗ thọ sanh
Trừ hẳn tâm điên đảo.
Ta được môn giải-thoát
Quán-bồ-tát-tam-muội
Một niệm nhập mười phương
Bất-tư-nghì sát-hải.
Ta thấy các thế giới
Tịnh uế nhiều sai khác
Nơi tịnh chẳng tham ưa
Nơi uế chẳng ghét bỏ.
Thấy khắp các thế-giới
Ðức Phật ngồi đạo-tràng
Ðều ở trong một niệm
Phóng vô-lượng quanhg-minh.
Một niệm vào được khắp
Bất-khả-thuyết chúng-hội
Cũng biết những tam muội
Của chúng-hội đã được.
Một niệm đều biết rõ
Những hạnh nguyện quảng-đại
Cùng vô-lượng phương-tiện
Của tất cả chúng-hội.
Ta quán thân Bồ-Tát
Vô-biên kiếp tu hành
Mỗi mỗi lỗ chân lông
Cầu đó chẳng thể dược.
Nơi mỗi mỗi chân lông
Hiện bất-khả-thuyết cõi
Ðịa, thủy, hỏa, phong-luân
Ðều đủ cả trong đó.
Bao nhiêu sự kiến lập
Bao nhiêu thứ hình trạng
Bao nhiêu thân, danh hiệu
Vô-biên thứ trang-nghiêm.
Ta thấy các sát-hải
Bất-khả-thuyết thế-giới
Cũng thấy Phật trong đó
Thuyết pháp dạy chúng-sanh.
Chẳng biết thân Bô-Tát
Và tất cả thân-nghiệp
Cũng chẳng biết tâm-trí
Hành đạo trong nhiều kiếp.
Thiện-Tài Ðồng-Tử đảnh lễ
chân nàng Thích-Ca Cù-Ba, hữu nhiễu vô-số vòng, từ tạ mà đi.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
06 tháng 06, 1990
40.- THÍCH NỮ CÙ BA
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ được
“MÔN GIẢI THOÁT QUÁN SÁT BỒ TÁT TAM MUỘI HẢI” nầy.
Hôm nay là buổi
thuyết giảng thứ 110 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này.
Vừa rồi quý vị có
tụng một đoạn trong phẩm thập địa, đoạn này rất quan trọng tôi xin phép nhắc lại
một vài điểm chính để quí vị nhớ. Vì chỗ này là “Viễn hành địa” tức
địa thứ bảy là một nấc viên dung của con đường tu chứng. Thường thường chắc một
đôi lần quí vị cũng tự hỏi là các vị Bồ Tát so với các vị A La Hán như thế nào?
Các vị Bồ Tát tu hành trong thập địa thì đến địa nào có thể bằng A La Hán được,
hoặc hơn A La Hán về cái gì? Viễn hành địa này, là cái địa “quá độ,” tức
là một địa chuyển biến rất nhiều, và sau đó các ngài sẽ được “pháp thân
Bồ Tát” tức là lên đệ bát địa, vì từ đệ thất địa trở xuống thì vẫn
còn “nhục thân Bồ Tát.” Đó là một điểm quan trọng mà ta cần nhớ.
Pháp thân bồ tát tức
là chỉ thị hiện thọ sanh mà thôi, (như vào thai mẹ mà vẫn hóa sanh), vì thân Bồ
Tát lúc bấy giờ là “thân như huyễn,” “thân diệu hữu,” không có
nghiệp, dù làm bất cứ gì cũng không tạo nghiệp, vì các ngài làm Phật sự đều do
lòng đại bi và bát nhã mà ra. Còn chúng ta vì bị suy động bởi nghiệp, và nghiệp
đó vẫn tương đối là thật, nên chúng ta còn chịu nghiệp báo. Ngược lại, các vị Bồ
Tát vì do lòng đại bi và bát nhã thì dù các ngài có giết người đi chăng nữa
cũng không chịu nghiệp báo, vì giết là do lòng đại bi. Cũng như ngày xưa, Bồ
Tát Liên Hoa Sanh (Padma Sambhava) của Tây Tạng, tới tỉnh đó
giết tất cả tụi đồ tể nhưng vì ngài giết do lòng đại bi nên ngài không mắc tội
báo, vì ngài giết để cứu độ không phải giết vì tâm thù hận… Khi vượt qua đệ thất
địa thì được “pháp thân bồ tát.” Chỉ thị hiện gá vào người đàn
bà, thực ra không phải là thai sanh. Như Đức Thích Ca Mâu Ni Phật khi đản sanh,
chỉ gá vào ngài Ma Gia, trong kinh Đại Thừa nói rõ rằng đó chỉ là thị hiện,
không có một tí tham dục ô nhiễm nào. Điểm thứ hai chúng ta cần nhớ là ở địa thứ
bảy này, nếu so với A La Hán thì vị Bồ Tát bằng định lực của một vị A La Hán, tức
là có thể vào diệt tưởng định, trong kinh nói là “niệm niệm xuất nhập
diệt tưởng định.” Nhưng về huệ lực và nguyện lực thì các ngài hơn A La
Hán rất nhiều, vì ở bậc bồ tát đệ thất địa các ngài có thần thông vô lượng
trong khi A La Hán không có thần thông mấy.
Ngay một người
phàm phu như chúng ta, nếu phát tâm đại thừa, phát tâm trang nghiêm vô thượng bồ
đề thì về nguyện lực và huệ lực chúng ta đã hơn bậc A La Hán, tuy rằng định lực
rất kém, phiền não rất nhiều, nhưng về nguyện lực thì hơn. Vì sao? Vì tuy chưa
mở được cái tâm rộng lớn ấy, nhưng chúng ta đã mong mỏi như thế rồi, và hiểu về
diệu tâm, còn A La Hán thì tuyệt nhiên chưa có những tâm tưởng ấy.
Trong lần trước, ở
phẩm nhập phá giới chúng ta đã đi đến vị thiện tri thức thứ 39. Hôm nay, chúng
ta sẽ đi đến vị thứ 40, 41 tức là hai vị nữ nhân xưa kia có liên hệ rất mật thiết
với đức Phật. Đó là Bà Thích Nữ Cù Ba, bà vợ thứ hai nhân thế thị hiện của đức
Phật và bà Ma Gia là Mẹ của Phật. Trong đoạn này, kinh sẽ nói những lối tu
hành, những sự dính mắc giữa nam và nữ trên đường tu hành.
Chúng ta là những
phàm phu sống ở đời, mục tiêu của đời người là muốn đi tới sự sung sướng, mà
trong sự sung sướng ấy có sự tự do. Càng ngày, lịch trình của nhân loại đi tiến
tới chỗ tự do càng lớn hơn. Như cái tảng đá kia, nó không có tự do gì cả, nó cứ
chỉ nằm ù lỳ ở đó mãi. Nhưng thật ra, theo con mắt nhà Phật, tảng đá ấy cũng
không phải hoàn toàn vô tri đâu, nó cũng có một chút thức giác, nhưng cái thức
giác đó rất thô sơ, do đó sự tự do của nó cũng rất hạn hẹp. Khi lên đến cây cối,
thì chúng có sự tự do hơn tảng đá một chút, như nó biết vươn ra mặt trời, có thể
mọc những cành lá ngang dọc, nên nó có được tự do hơn hòn đá chỉ nằm lì một chỗ,
và cây cối dĩ nhiên cũng có một thức giác triển khai hơn tảng đá. Nên trong
kinh có nói, loài cây chỉ cần một thời gian khoảng một, hai trăm năm có thể trở
thành tinh mị, còn tảng đá thì phải hơn thế nữa, có lẽ phải đến nghìn năm, mới
có, thể thành loài tinh mị. Vì thức giác của loài cây cao hơn, nên sự tự do nhiều
hơn. Lên dần, đến loài côn trùng, cá, rùa…, rồi bò, chó…, như loài chó chẳng hạn,
dĩ nhiên nó hơn các loài kia, vì nó gần người hơn. Loài vật nào gần người thì
nó chuyển vào chỗ cao dễ hơn là các loài khác. Tâm thức càng triển khai, khả
năng tự do càng nhiều. Lên đến loài người, sự tự do của chúng ta hơn các loài động
vật rất nhiều. Ngoài những bản năng động vật, người còn biết thưởng thức, biết
đọc sách, chơi với tâm tưởng. Lại biết cười, biết suy tư… Chúng ta có thể chế
ra các phương tiện di chuyển, các máy móc v.v… Nhưng sự tự do của loài người vẫn
còn hạn hẹp vì loài người còn mang tâm ngã. Khi chúng ta còn mang tâm ngã và sắc
thân máu thịt thì sự tự do chưa thể lớn được. Vì chúng ta có thể làm đến tổng
thống, thủ tướng, hoặc biến chế ra những máy móc để hưởng thụ, nhưng khi một trận
thiên tai đổ xuống thì cũng… đành chịu bó tay, và chúng ta vẫn phải chết như
thường, nên sự tự do không có nhiều. Sự tự do của loài người là tương ứng với
tâm thức của người chấp ngã. Như tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do đi lại,
tự do phát biểu ý kiến, tự do kinh doanh v.v… chứ chưa có thứ tự do siêu
xuất, cao rộng vô ngã, và chưa tới chỗ “bất tử” của bậc Thần
Linh vô ngã. Còn người tu hành thì sao? Chúng ta thường thấy trong kinh nói đến
chữ “tự tại.” Vậy tự tại và tự do khác nhau ra sao? Tự tại tức
là tự do, nhưng tự do một cách cao rộng sâu thẳm, nó không những bao gồm ý thức
mà cả tiềm thức và vô thức, đồng thời nó thênh thanh, vô ngại, có thể “chuyển
vật” được, đó là sự tự do của những bậc đã đạt được vô ngã. Còn người
mang cái ngã và sắc thân máu thịt này thì không thể nhiều tự tại.
Khi chúng ta có
thân hào quang, đồng thời với tâm vô ngã thì lúc đó tâm lực của chúng ta rất
ghê gớm, có thể chuyển vật dễ dàng. Lúc đó nếu gặp một người mù, mà chỉ cần nói
một câu: “anh hãy trông thấy đi” hay gặp một người què, chỉ cần
nói “anh hãy đứng dậy đi đi” thì những người tàn tật ấy có thể
làm được ngay, thấy được, hoặc đi được. Muốn được như vậy phải có tâm vô ngã và
cái thân hào quang.
Vì vậy, Đức Phật,
ngài đã lên đến mức độ bát nhã, đại bi, tâm vô ngã, vô sở cầu hạnh thì ngài có
thể chuyển các cõi, ngài có thể chỉ lấy chân ấn đất thì trái đất trở thành màu
hoàng kim… Nếu tin, hiểu được cái đó mới là hiểu đạo Phật, còn nghĩ đó là hoang
đường, là thần bí thì chưa hiểu. Vì thực ra, tất cả trái đất này, nó chỉ là
quang minh tụ lại họp thành, cũng như bây giờ khoa học đã chớm thấy rõ. Như nhà
bác học Wheeler từng nói:
“Vật
chất không thật có, vì đó chỉ là những ánh sáng mắc bẫỵ(trapped light) mà
thôi.”
Nên khi tâm một
hành giả tới chỗ hào quang tột bực thì có thể chuyển cái tâm ấy thành tất cả thứ
vật được, muốn chuyển các cõi cũng được v.v…. Nhưng khi tới mức độ đó, các ngài
lại không làm theo lối “cao hứng” như phàm phu chúng ta, mà các ngài làm theo
tâm đại bi, tùy theo nghiệp duyên của người đáng được độ.
Nhân đây, chúng ta
nói về ngài Thiện Tài. Ngài Thiện Tài đi vào nhập pháp giới tức là đi sâu vào
tâm thức, đến đáy tầng tâm tưởng để nhập pháp giới, để được tự tại, tự do tuyệt
đối sâu thẳm và cao rộng. Ta thấy rõ trong kinh nói lên một tiến trình của sự
thật ấy, sự vật nào cũng tiến đến một tự do nào đó, và sự tự do chỉ tương ưng với
tâm thức. Tâm thức thấp, còn có ngã thì tự do không nhiều được. Đạo Phật dạy rõ
như thế, và các tôn giáo khác gần như cũng dạy như thế. Người ta có thể có rất
nhiều khi người ta không còn tham, nếu tâm ta còn tham thì chỉ có một ít, rất hữu
hạn. Vì càng tham bao nhiêu thì chỉ được có một chút thôi, càng buông bao
nhiêu, tâm càng mở rộng, càng xả, càng ly bao nhiêu thì càng có nhiều tự tại lực
bấy nhiêu. Cái chân lý ấy khác hẳn lối suy nghĩ của phàm phu. Chúng ta luôn
nghĩ rằng có được bao nhiêu phải cố gắng ôm chặt lấy, gom góp cho nhiều thì
càng có nhiều. Nhưng nếu chúng ta gom góp thật nhiều, mà nếu phước lực không đủ
thì các vị quỉ thần cũng sẽ làm cho ta mất hết, do thiên tai hoặc một cơn hoạn
nạn nào đó.
Đó là những điểm
quan trọng tôi muốn nhắc lại cho quí vị nhớ. Tu hành tức là chúng ta “tập
làm thần linh,” và đạt đến “tự tại lực” tuyệt đối, tự
do sâu thẳm cao rộng, tự do tuyệt vời mà chỉ có cái tâm vô ngã mới đến mức tuyệt
vời được.
Tại sao chúng ta
phải ngồi kiết già? Vì kiết già là tư thế của thần linh. Loài súc vật không bao
giờ biết ngồi kiết già, chỉ có con vật nào khá nhất thì biết ngồi xổm. Loài người
chúng ta… kỵ nhất ngồi xổm, vì nó giống súc sanh quá, phải ngồi thoải mái, phải
có phong tư của một người, hoặc bắc chước kiểu ngồi của thần linh là ngồi bán
già hoặc kiết già. Tu hành là phải tập sống như thần linh, nên phải ngồi như thần
linh, có oai nghi như thần linh, đừng có ăn nhồm nhoàm, ăn cúi mặt xuống đất,
mà ăn một cách thong dong như vẫn ly cái ăn đó, đồng thời tâm niệm chúng ta lúc
nào cũng phải khởi tâm niệm giống thần linh.
Tôi thường nói nhiều
lần, chúng ta thường có ba thứ tâm niệm. Trong một ngày, ta có thể khởi mấy
ngàn tâm niệm, mà những tâm niệm ấy đều rơi vào trong ba loại này:
1/ Tâm
niệm súc sanh: Khi
chúng ta khởi tình dục như điên như cuồng. Khi chúng ta khởi tâm niệm tham ăn,
thấy họ nướng …thịt chó thì không thể bỏ đi được, thèm rỏ cả rãi, hoặc trông thấy
một chén rượu, không thể không uống được v.v… thì đó là tâm niệm của súc sanh.
2/ Tâm
niệm yêu quái: Đây
là tâm niệm đấu tranh, thích mê hoặc người khác, thích hơn người v.v… Tất cả những
gì có ngã đều là tâm niệm yêu quái. Khi chúng ta nghĩ bất cứ điều gì mà còn
nghĩ đến mình thì đều là tâm niệm yêu quái. Có ngã thì vẫn còn là ma nghiệp,
cho dù chúng ta tu hành mặc áo tăng, ni, có thể làm đủ các hình tướng bên
ngoài, như gõ mõ, đánh chuông, tụng kinh, niệm Phật suốt ngày v.v… nhưng nếu
còn có ngã thì vẫn còn vướng vào vòng ma nghiệp. Đó là tâm niệm của yêu ma,
thích đưa cái ngã mình lên, thích đấu tranh với người khác, thích tranh luận,
thích hơn người, thích mê hoặc, thích được tiến v.v… tất cả những thứ đó đều là
tâm niệm yêu ma.
3/ Tắm
niệm thần linh: Tâm niệm thần linh là một tâm niệm không vị ngã,
vô ngã, vị tha, từ bi hỉ xả. Như khi chúng ta xót thương một con chó đói, thì
trong giây phút ấy chúng ta có tâm niệm của thần linh. Nếu chúng ta tập những
oai nghi của thần linh, đồng thời nuôi những tâm niệm thần linh, thì chắc chắn
chúng ta sẽ thành thần linh, mà không có con đường nào khác. Nếu chúng ta nuôi
những tâm niệm và oai nghi ấy trong vài tháng, vài năm… hoặc cho đến chết thì
chắc chắn sớm muộn chúng ta sẽ được làm thần linh.
Tu hành là chỉ ngồi
đếm tâm niệm của mình, gột cái ngã và làm những oai nghi của thần linh.
Ở nhân gian, con
người có thể khi đi, đứng, nằm, ngồi, khi bò, khi la hét v.v… nhưng lên Chư
Thiên cõi dục thì các ngài chỉ có đi thôi, Chư Thiên cõi sắc thì các ngài ít đi
lăng xăng chỉ suốt ngày ngồi kiết già mà thôi.
Nay
xin đi vào kinh…
Hôm nay chúng ta sẽ
đi vào vị thiện trí thức thứ 40 tức là ngài Thích Nữ Cù Ba. Theo như lịch sử của
nhân thế chép lại, đức Phật có hai người vợ. Người vợ thứ nhất là bà Gia Du Đà
La, người vợ thứ hai là vị thiện tri thức thứ 40 này-bà Thích Nữ Cù Ba- vị thiện
tri thức này, trong kinh tả đạo lực cao hơn bà Gia Du Đà La. Chúng ta nên nhớ một
điều, tất cả những người nữ dính vào Đức Phật, đều là những bậc cao và thị hiện.
Trong kinh Pháp Hoa nói bà Gia Du Đà La chỉ đắc quả A La Hán, còn vị này có thể
lên đến bậc Bồ Tát địa thứ mười. Khi bà Gia Du Đà La bị gia đình họ Thích nghi
là có thai hoang, vì lúc đó đức Phật đã xuất gia rồi mà Gia Du Đà La mang thai
sáu năm mới sinh La Hầu La. Lúc đó, chính bà Thích Nữ Cù Ba tâu với vua Tịnh Phạn
rằng nên để cho Gia Du Đà La nhảy vào lửa để minh oan nếu lửa không thể cháy đến
thân. Thực đúng như vậy, khi Gia Du Đà La nhảy vào lửa thì lửa không cháy được.
Tất cả những việc đó đều chỉ là thị hiện.
Trong đoạn kinh
này, bà Thích Nữ Cù Ba nói rõ những đời trước từ vô lương kiếp, ngài dính vào
tình nam nữ đối với đức Phật như thế nào, từ khi Phật còn là vua Chuyển Luân
Vương. Sau hai người chuyển tình đời thành tình đạo ra sao v.v…
KINH: Này
thiện nam tử, thành Ca Tỳ La này có cô gái họ Thích tên là Cù Ba. Ngươi đến đó
hỏi Bồ Tát thế nào ở trong sanh tử giáo hóa chúng sanh.
GIẢNG: Nguyên câu hỏi đã thấy cao hơn rồi. “Bồ
Tát ở trong sanh tử giáo hóa chúng sanh mà không nhiễm.”
KINH: Thiện
Tài đồng tử đảnh lễ chân Lam Tỳ Ni Lâm Thần, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm
ngưỡng từ tạ mà đi.
Bấy giờ
Thiện Tài đồng tử tư duy tu tập môn thọ sanh giải thoát, tăng trưởng quảng đại
ghi nhớ chẳng bỏ…
GIẢNG: Ngài Lam Tỳ Ni Lâm thần dạy Thiện
Tài môn thọ sanh hải. Sau đó Thiện Tài vừa đi vừa tâm niệm, vừa tu tập
môn “bồ tát thọ sanh hải,” tức là Bồ Tát thọ sanh như biển,
sanh tất cả các nơi, các xứ để độ chúng sanh.
KINH: Hướng
về phía thành Ca Tỳ La, Thiện Tài đi lần đến giảng đường Bồ Tát Tập Hội Phổ Hiện
Pháp Giới Quang Minh.
GIẢNG: Ở chỗ này có một giảng đường
trong đó có nhiều vị thần tụ tập đến để tu tập phổ hiện pháp giới.
KINH: Trong
giảng đường này có thần hiệu Vô Ưu Đức cùng một vạn Chủ Cung Điện Thần câu hội
đồng nghinh tiếp Thiện Tài và nói rằng…
GIẢNG: Lúc này, đường tu chứng của Thiện
Tài đã cao lắm rồi, ngài đã được nhiều giải thoát môn, và có nhiều Chư Thiên,
Chư Long đi theo ngài, vì vậy nên khi ngài đến đây thì các vị Chủ Cung Điện Thần
ra đón ngài và ca ngợi mức độ tu hành của ngài. Chủ Cung Điện Thần là các vị thần
chuyên làm cung điện cho các vị tu cao. Như các Chư Thiên đi đâu cũng mang cả
cung điện của mình đi. Nên các vị Bồ Tát lớn thường có những Chủ Cung Điện Thần
trông coi cung điện cho mình. Cũng như người nhân thế, những người giầu có, họ
đi đâu cũng có xe, kiệu và người hầu. Thì khi tu lên cao bao nhiêu, các cung điện
càng lớn, càng vi diệu, diễm lệ, và thanh tịnh bấy nhiêu.
KINH: Thiện
lai Trượng Phu, có trí huệ lớn, có dũng mãnh lớn khéo tu môn giải thoát tự tại
bất tư nghi…, chúng tôi xem ngài tu các diệu hạnh tâm không tạm lười…, chẳng
bao lâu ngài sẽ được ba nghiệp vô thượng trang nghiêm thanh tịnh của Như Lai,
chúng tôi quán ngài tinh tấn dõng mãnh không ai sánh bằng…
GIẢNG: Đại khái các vị Chư Cung Điện Thần
tán thán sự tu hành của Thiện Tài. (Xin bỏ một đoạn kinh các vị thần tán
thán Thiện Tài...)
KINH:
...Thiện Tài nói, như lời của Chư Thánh vừa nói, nguyện tôi sẽ được như vậy.
GIẢNG: Thiện Tài nói, các ngài nói như vậy
thì tôi nguyện sẽ được như vậy. Người thường chúng ta nghe được câu khen ngợi
thường hay nói khách khí, nhưng các ngài đã tu cao, có tâm vô ngã, nên nói lời
thành thực.
KINH: Tôi
nguyện cho tất cả chúng sanh dứt những nhiệt não, rời những ác nghiệp, sanh những
an lạc, tu những tịnh hạnh. Bạch chư Thánh, tất cả chúng sanh khởi phiền não tạo
ác nghiệp, đọa ác thú, nơi thân, nơi tâm hằng chịu đau khổ. Bồ tát thấy như vậy
trong lòng rất đau sót…
GIẢNG: Thiện Tài nói lên những ưu tư
thương sót cho chúng sanh, ngài nói một đoạn khá dài, nhưng ở đây chúng ta
không cần phải đọc hết. Sau đó, ngài bước lên giảng đường, rồi các vị Chủ Cung
Điện Thần kia, xúm lại chung quanh ngài rải hoa cúng dường và nói kệ tán thán.
Tôi xin tóm tắt như vậy. Đại khái những câu kệ:
“Ngài
chẳng rời thế gian, cũng chẳng vương thế gian, đi trong đời vô ngại, như gió thổi
hư không…”
(Ta cũng cần nhớ
những câu như thế, để dần dần học thái độ đi trong đời một cách vô ngại, như một
người khách lạ đi qua, giúp được ai thì giúp mà không dính mắc vào bất cứ người
nào, cũng không tham châ’p vào một cái gì.)
KINH:
Thần Vô Ưu Đức nói kệ xong, vì mến thích chánh pháp nên theo luôn bên Thiện Tài
đồng tử.
GIẢNG: Chúng ta thấy rõ, ở mức độ này, đường
tu chứng của ngài Thiện Tài lớn lắm rồi nên các vị Thần lớn cũng nguyện đi theo
hầu.
KINH: Thiện
Tài vào trong giảng đường Phổ Hiện Pháp Giới Quang Minh tìm cô gái họ Thích. Thấy
cô ấy ngồi trên tòa sư tử Liên Hoa, có tám vạn bốn ngàn thể nữ vây quanh.
GIẢNG: Ngài Cù Ba có tám vạn bốn ngàn thể
nữ vây quanh. Lời kinh thường có những ẩn dụ, nên ta luôn luôn phải hiểu theo
hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất của câu này nói về mặt phi thần hóa, ngài đã thành tựu
bốn vạn tám ngàn hạnh hay diệu đức trong thân tâm, còn nói về mặt thần hóa thì
mỗi hạnh có khả năng hiện hóa thân tượng trưng cho luồng tâm lực.
KINH: Những
thể nữ này đều là dòng vua, thuở quá khứ đã tu hạnh Bồ Tát, đồng gieo căn lành,
bố thí ái ngữ nhiếp khắp chúng sanh, đã thấy rõ được cảnh nhất thiết trí…
GIẢNG: Theo nghĩa trong thì những vị thể
nữ này là những diệu đức hay đà la ni của ngài Cù Ba.
KINH: …lìa
lưới chướng cái, vượt khỏi chỗ chấp nhiễm, từ pháp thân mà hiện hóa thân, sanh hạnh
Phổ Hiền, lớn sức Bồ Tát, trí nhựt huệ đăng đều đã viên mãn…
GIẢNG: Khi một hành giả tu có những hạnh
viên mãn thì trong thân tâm sinh ra nhiều thứ “đà la ni” tức
là những năng khiếu lạ lùng, mà những thứ ấy đều chói sáng. Cũng như chúng ta
là người tầm thường, nhưng nếu ta có hạnh đọc sách nhiều, dần dần trong tâm thức
nở ra năng khiếu nhớ sách, nói theo như sách, đúng như sách, và nói thao thao
không hết. Nhưng các vị Bồ Tát hơn chúng ta rất nhiều, vì các ngài có vô lượng
đà la ni, song trong kinh chỉ nói tượng trưng là “tám vạn bốn nghìn” nhưng
chính thật là vô lượng…
KINH: Thiện
Tài đến đảnh lễ nơi chân của Thích Nữ Cù Ba chắp tay cung kính thưa rằng…
GIẢNG: Xin quí vị nghe kỹ câu của ngài
Thiện Tài hỏi, ngài hỏi rất khó, tôi xin đọc lướt…
KINH: Bạch
đức thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề, mà chưa biết bồ tát thế nào ở trong
sanh tử mà chẳng bị lỗi sanh tử làm nhiễm?
GIẢNG: Ngài hỏi ngay chỗ “song chiếu
trung đạo.” Làm thế nào để bồ tát đi giữa bùn lầy, sanh tử có thể độ sanh mà
không bị sanh tử làm nhiễm?
KINH: …Thế
nào đầy đủ Phật pháp mà tu hạnh bồ tát? ….Thế nào trụ bậc Bồ Tát nhập cảnh giới
Phật?
GIẢNG: Làm thế nào mà tâm vẫn nhập cảnh
giới Phật, vẫn an trụ trong cảnh giới đại tịch diệt đó mà thân vẫn đi giữa đời
để độ sanh? Chính vì vậy mà có rất nhiều vị Bồ Tát lớn như ngài Địa Tạng, ngài
Quán Âm, ngài Phổ Hiền, các vị đã có thể là những vị Phật rồi nhưng các ngài
không lấy ngôi vị Phật, tức là không chứng đắc, không hiện hình tướng là Phật,
mà chỉ hiện hình tướng thấp hơn là những vị Bồ Tát để cho chúng sanh cảm thấy gần
gũi hơn, đi trong luân hồi sanh tử để độ sanh, nhưng tâm vẫn trụ nơi cảnh giới
của Phật. Đó gọi là trung đạo song chiếu, ở đoạn kinh này, ngài Thiện Tài hỏi
làm thế nào để có thể làm được như thế?
KINH: Thế
nào siêu quá thế gian mà thọ sanh nơi thế gian? thế nào thành tựu pháp thân mà
thị hiện vô biên sắc thân?
GIẢNG: Một mặt vẫn trụ pháp thân, mặt kia
vẫn hóa hiện tất cả sắc thân ở bình diện tương đối.
KINH: Thế
nào chứng pháp vô tướng mà vì chúng sanh thị hiện các tướng?
GIẢNG: Vẫn là những câu hỏi song chiếu
trung đạo. Thế nào đã được vào tâm của Phật rồi mà thân vẫn hiện các sắc tướng,
các cõi, các đạo v.v… để độ sanh.
KINH:…
Thế nào dầu biết các pháp không nghiệp, không báo mà tu những hạnh luôn không
thôi nghỉ?
GIẢNG: Biết các pháp không nghiệp, không
báo là biết Bát nhã, và tu các hạnh lành tức là hành Đại bi không thôi nghỉ.
KINH: Nàng
Cù Ba nói, lành thay, lành thay này thiện nam tử, nay ngươi có thể hỏi những việc
làm của Đại Bồ Tát như vậy. Người tu tập những hạnh nguyện Phổ Hiền mới có thể
hỏi như vậy. Ngươi hãy lắng nghe và khéo suy gẫm ghi nhớ. Ta sẽ thừa thần lực của
Phật mà nói cho ngươi. Nầy thiện nam tử, nếu các Bồ Tát thành tựu mười pháp thời
có thể viên mãn hạnh bồ tát nhơn đà la võng phổ trí quang minh. Đây là mười
pháp..
GIẢNG: “Nhơn đà la võng phổ trí quang
minh” cũng là một thứ tam muội. Mười pháp này cũng đại khái làm những
hạnh để độ sanh thôi, ở đây ngài nhắc lại cho chúng ta nhớ, tôi chỉ xin đọc lược
qua…
KINH: Này
thiện nam tử, Bồ Tát dùng mười pháp để thừa sự thiện tri thức.
GIẢNG: Mười pháp này dùng để thừa sự, để
hầu hạ thiện tri thức.
KINH: Mười
pháp này là, không đoái tiếc thân mạng mình…
GIẢNG: Trong kinh bao giờ cũng dạy không
được đoái tiếc thân mạng mình, vì thân này chính là biển khổ không bao giờ được
đoái tiếc, phần nhiều chúng ta sống co quắp, lúc nào cũng quí và lo sợ cho cái
thân. Mà quí thân cũng… đúng! đúng để dùng thân này làm phương tiện tiến tu,
nhưng đừng quí quá, đừng cú suốt ngày nghĩ đến nó, chau chuốt, sửa sang, ăn
ngon, mặc đẹp v.v… như vậy là sai, rồi đến khi gần mạng chung thì sợ cuống lên.
Nhưng chính ra, trong đạo Phật dạy rõ rằng, chúng ta không lúc nào không có
thân cả, mất thân này đi mà nếu ta có tâm thanh tịnh, thì lại được một thân hào
quang sáng ngời khác, còn hơn thân máu thịt này nhiều. Nhìn chung quanh, ta thấy
tất cả nền văn minh này, chỉ do muốn bổ dưỡng thân này, mà thân máu thịt là hiện
tướng của nghiệp súc sanh. Nên trong kinh Phật, điều thứ nhất dạy là không nên
đoái tiếc thân mạng, nếu cần thí thân để độ sanh thì phải sẵn sàng thí thân
không một mảy may tiếc nuối.
KINH: Thứ
hai là lòng chẳng tham cầu sự vui thế gian.
GIẢNG: Những sự vui thế gian này có gì
đâu, chỉ có ăn, uống, tham dục, hưdanh, ngủ, nghỉ v.v… lăng nhăng ba thứ đó. Tu
hành đến rnột mức độ ta không thây tiếc những thứ ấy, có người mời ăn một bữa
ăn ngon cũng không thấy ham, được một chiếc mề đay cũng không thấy hãnh diện,
hoặc một vài chục ngàn đô la cũng thấy dửng dưng v.v…, thì lúc đó ta đã bắt đầu
có tâm nhàm lìa thế gian, ta sắp có tâm niệm của thần linh. Vì xét cho cùng
trong biết thế gian này, dù có được bất cứ vật gì, nhưng ta cũng không thể giữ
được một mảy may, hoặc có là tỷ tỷ phc đi chăng nữa đến khi chết cũng chẳng đem
theo được đồng xu nhỏ nào, hay dù có một người vợ xinh đẹp như tiên nữ cũng phải
tàn phai, hoặc danh vọng nổi như cồn, hàng triệu người cung kính, nhưng có thể
chỉ vài năm sau, hàng triệu người ấy lại quay ra chửi mình v.v… Nên phải hiểu,
thế gian này không có gì bền vững, giống như con dã tràng xe cát biển đông vậy.
Nên người trí không cần lăng xăng nhiều trong thế gian này, họ chỉ cần giữ giới
thân huệ mạng của mình là đủ. Nên khi ta không còn vui thích mấy cái thế gian
này nữa, lúc đó ta sẽ có được những niềm vui của thần linh, niềm vui thanh tịnh
của thiền, của định.
KINH: Biết
tất cả các pháp tánh đều bình đẳng…
GIẢNG: Giáo lý của Chư Phật là một giáo
lý bình đẳng vô nhị, thiện cũng như ác, lời chửi cũng như tiếng khen, nếu thấy
không sai khác thì lúc đó ta đã đạt được tâm bình đẳng.
KINH: Trọn
chẳng lui bỏ, nguyện nhất thiết trí…
GIẢNG: Lúc nào cũng nên nghĩ ta phải đến
chỗ tự tại tuyệt vời đó, chỉ cần nói một câu có thể chữa khỏi được bệnh cho người,
và đồng thời biết tất cả các pháp, tâm niệm, kiến giải, các phiền não v.v… của
chúng sanh, lúc nào cũng nghĩ như vậy thì mới tiến tu được.
Đôi khi, ta thấy
cuộc sống thật cô quạnh, thì lúc đó chúng ta cần phải nghĩ đến triển vọng tự tại
tuyệt vời như vậy, nghĩ rằng rồi thì ta sẽ được như thế, chắc chắn, không thể
sai trật. Nếu chịu khó tu hành, thì đường đi nhanh hơn, còn giải đãi, thì nó
lay lắt, lâu xa, lên xuống chìm nổi trong nhiều cõi, nhiều kiếp, a tăng kỳ kiếp…,
để rồi cuối cùng cũng có thân hào quang, cũng đủ các thần thông, cũng dự những
hải hội nhiệm mầu của Chư Phật. Vì sao thế? Vì sức của diệu tâm diệu tâm huân tập,
cộng thêm chư Phật làm tăng thượng duyên, cho dù quần ma kéo chúng ta xuống,
nhưng chỉ kéo được một ít, vì nghiệp báo tương Ưng khiến ta chìm nổi một thời
gian, rồi sau đó chư Phật cuối cùng cũng đẩy ta lên mà thôi.
Tất cả những gì
trong kinh Hoa Nghiêm nói, về sự hóa giải không gian, thời gian thì rồi chúng
ta sẽ được hết. Vì vậy, nên khi gặp trường hợp buồn, lo, chán nản, đau ốm…, thì
ta nên nghĩ đến kinh, hay đắm mình trong câu niệm Phật, đó là một diệu dược đem
lại sự an ủi, chúng ta sẽ cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, và khi chết thanh thản.
Mà tôi xin đoan quyết rằng lời kinh, không có mảy may hư vọng. Người nữ thì trước
sau cũng trở thành Bửu Nữ, còn người nam trước sau cũng trở thành Chuyển Luân
Vương, không thể sai trệch, vì đà tiến hóa, đạo lý vận hành phải như thế.
Bên Thiên Chúa
Giáo, nhiều khi vì giáo quyền, nên có đưa ra giáo điều là “có địa ngục
vĩnh cửu.” Điều đó là sai với đạo lý vận hành của vũ trụ. Nói cách
khác, không có một cái gì có thể gọi là vĩnh cửu cả, vì bất cứ cái gì có hình thì
phải có hoại. Chỉ trừ tâm vô hình tướng mà thôi.
KINH: Thường
có thể thị hiện tất cả sát hải, tịnh tu trí luân vô ngại của Bồ Tát.
GIẢNG: Ở đây, lại nhắc tới chữ “trí
luân.” Ý nói rằng trí huệ của các ngài như con dao xoay tròn, trong
khi ý thức của chúng sanh như con dao cắt các khía cạnh, ý thức của phàm phu
thường thấy hai khía cạnh, nên dựa vào khía cạnh này hay khía cạnh kia. Còn trí
huệ của Bồ Tát là xoay tròn nhìn mọi khía cạnh, từ không đến có, đến cũng có
cũng không, chẳng có chẳng không, không hề trụ ở một khía cạnh nào, vì thế nên
gọi là “trí luân”
KINH: Này
thiện nam tử, nên dùng pháp này để kính thờ tất cả thiện tri thức không trái
nghịch.
Bấy giờ
nàng Thích Nữ Cù Ba muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần lực của Phật, quán sát
mười phương mà nói kệ rằng:
Bồ Tát
vì lợi các quần sanh
Chánh niệm thân thừa thiện tri thức
GIẢNG: “Thân thừa thiện tri thức…” tức
là dùng thân mình hầu hạ thiện tri thức.
KINH: Kính
xem như Phật tâm không rời. Là hạnh đế võng đi trong đời…
GIẢNG: “Đế
võng’ là cái lưới chân lý. Các vị Bồ Tát lớn tung lưới chân lý vớt
chúng sanh đặt trên bờ giải thoát. Các ngài đi trong đời, tâm dệt bao nhiêu hạnh
nguyện, hạnh từ, hạnh bi, hạnh hỉ, hạnh xả, hạnh bố thí, hạnh ái ngữ, hạnh lợi
hành, hạnh đồng hành v.v…, ngài đi trong đời như cây đuốc sáng, như màng thiên
la võng, một màng lưới hạnh nguyện kéo vớt chúng sanh. Vì vậy, gọi là “hạnh
đế võng đi trong đời”…
KINH:
Thắng
giải rộng lớn như hư không,
Tất cả tam thế đều vào trong
Quốc độ chúng sanh, Phật đều vậy
Đây là phổ trí quang minh hạnh
…
Là hạnh thân vân đi thế gian…
…Là hạnh chẳng nhiễm đi thế gian
…Là hạnh phổ chiếu đi thế gian…
GIẢNG: Đại khái như vậy. Một vị Bồ Tát đi
trong đời mang theo tràng hạnh nguyện. “Tràng hạnh nguyện” tức
là cái tràng tâm thức của mình. Tâm thức của mình tỏa ra như cái lưới bao bọc
lôi kéo dìu dắt tất cả chúng sanh. Sau đó, các ngài còn phân thân ra các nơi để
độ sanh.
KINH: Nói
kệ xong, Thích Ca Cù Ba bảo Thiện Tài. Này thiện nam tử, ta đã thành tựu môn giải
thoát quán sát nhất thiết Bồ Tát tam muội hải…
GIẢNG: Ngài nói rõ cho Thiện Tài biết
ngài thành tựu môn giải thoát, ngài có thể quán sát, nhìn thấy tất cả những tam
muội của các vị Bồ Tát. Tức là các vị Bồ Tát có những tam muội gì, tâm biến hóa
ra sao, có thần thông gì ngài đều biết hết. Thiện Tài hỏi ngay rằng, thưa đại
thánh, cảnh giới của tam muội này như thế nào?
KINH: Này
thiện nam tử, ta nhập môn giải thoát này, biết trong cõi Ta Bà, trải qua Phật
sát vi trần sát kiếp có bao nhiêu chúng sanh ở trong các loài chết đây sanh
kia, làm lành, làm dữ, chịu những quả báo, có cầu xuất ly, chẳng cầu xuất ly,
chánh định tà định và bất định…
GIẢNG: Đại khái ngài biết tất cả các
chúng sanh chết đây sanh kia, sanh khởi tâm niệm gì, khởi kiến giải gì, khởi
phiền não gì .v.v… ngài đều biết cả.
KINH:…
ta cũng biết chúng hội sai biệt của chư Phật ấy…
GIẢNG: Chúng hội của chư Phật ngài cũng
biết. Khi Chư Phật họp chúng hội để nói pháp lớn, thường ngài đều vào những tam
muội rất sâu, nhưng ngài Cù Ba này đều biết những tam muội hải, thần thông hải
của chư Phật. Như vậy là sự tu chứng của ngài rất cao.
KINH: Này
thiện nam tử, cõi Ta Bà này tận thuở vị lai có những kiếp hải xoay vần chẳng dứt
ta đều biết rõ.
GIẢNG: Trong vị lai có những kiếp hải
xoay vần nào ngài cũng biết rõ cả. Trong kinh không bao giờ nói kiếp hải (thời
gian) đi vùn vụt theo con đường thẳng, mà là “xoay vần chẳng dứt.” Bao
giờ các ngài cũng dùng chữ “xoay vần” tức là chuyển động xoáy
trôn ốc. Nên nếu ta mường tượng thời gian đi theo đường thẳng tuột thì tâm niệm
đó vẫn còn là tâm phàm phu, một khi lên cao hơn sẽ thấy rõ tất cả đều xoay vần
nối luôn không dứt.
KINH: Như
biết cõi Ta Bà, ta cũng biết vi trần số tất cả thế giới trong cõi Ta Bà, ta
cũng biết những thế giới trong vi trần của cõi Ta Bà…
GIẢNG: Ngài biết tất cả các thế giới
trong cõi này, đồng thời trong vi trần của cõi Ta Bà ngài cũng nhìn thấy tất cả
thế giới trong những vi trần ấy.
KINH:
Cũng biết mười phương thế giới ở ngoài cõi Ta Bà, cũng biết những thế giới của
Ta Bà thế giới chủng sở nhiếp, cũng biết những thế giới của thập phương vô lượng
thế giới chủng sở nhiếp trong Hoa Tạng Thế Giới Hải này: những là thế giới rộng
rãi, thế giới an lập, thế giới luân, thế giới tràng, thế giới sai biệt, thế giới chuyển,
thế giới liên hoa, thế giới tu di, thế giới danh hiệu…
GIẢNG: Đạo Phật có những ngôn từ phong rất
phú, nói đến những thế giới mà nếu chúng ta không đọc kinh thì không thể mường
tượng ra được. Như thế giới rộng rãi thì có thể tạm hiểu nổi, nhưng trong phẩm
Hoa Tạng Thế Giới còn nói ghê gớm hơn nhiều, “thế giới luân,” bao
giờ cũng là “xoay vần” để chuyển thành cái khác. “Thế
giới tràng,” đó là những thế giới nối nhau kéo dài, nhưng vẫn có tính
cách xoay vần. “Thế giới sai biệt,” là những thế giới hiện những khác
biệt nhau”. “Thế giới chuyển,” là thế giới chuyển biến từ thế giới này
thành thế giới khác, như có lúc thế giới hình bông liên hoa lại chuyển thành
hình một dòng suối chảy, giống như những hình trạng của các tinh hà. “Thế
giới liên hoa,” “thế giới tu di,” “thế giới danh hiệu”… đó là tất cả
những danh hiệu của Chư Phật ngự trị trong thế giới ấy.
KINH: Ta
cũng nhớ những nhân duyên hải thuở xưa của Đức Như Lai…
GIẢNG: Đức Như Lai đi qua những tiền thân
nào, những nhân duyên vô lượng, độ chúng sanh thế nào, những bổn sanh, bổn sự
.v.v… ngài đều nhớ rõ.
KINH: Tại
sao vậy? Vì môn giải thoái của ta đã được đây, có thể biết tâm hành của tất
cả chúng sanh, tất cả thiện căn của chúng sanh tu hành, tất cả chúng sanh tạp
nhiễm thanh tịnh…
GIẢNG: Đại khái ngài nói môn giải thoát
này của ngài sâu đến mức có thể biết được tất cả tâm niệm của chúng sanh. Đại
khái như vậy. Sau đó Thiện Tài lại hỏi rằng ngài được môn giải thoát này đã được
bao lâu? Khi Thiện Tài hỏi câu này, thì vị thiện tri thức nào cũng trả lời về
những bổn sanh, bổn sự từ vi trần số kiếp về trước như thế, như thế v.v… Nhưng
tuy các ngài trả lời đại khái là về bổn sanh bổn sự, chúng ta cũng cần đọc qua
vì có rất nhiều lời dạy hay. Như ngài Cù Ba kể lại những nhân duyên cũ của
ngài.
Phần nhiều các vị
Bồ Tát trong nhiều đời thường dính mắc nhau về những nhân duyên. Rồi đến một kiếp
nào đó, cùng quyết định đi vào Bồ Tát đạo, cùng chuyển tình đời sang tình đạo,
mà thường các vị nữ nhân ấy, hay các vị thái tử ấy đều trở thành Bửu Nữ và vua
Chuyển Luân Vương. Rồi dính mắc một thời gian nữa, cúng dường tất cả Chư Phật
sau rốt sẽ đắc được vô sanh pháp nhẫn và đi vào hẳn con đường bồ tát đạo. Rời vọng
tình, vọng tưởng.
KINH: Bà
Cù Ba nói, này thiện nam tử, thuở xưa quá Phật sát cực vi trần số kiếp…
GIẢNG: “Quá phật sát cực vi trần số kiếp…”
là một thời gian lâu xa lắm, nhưng chúng ta nghe đến chữ “lâu xa” ấy cũng đừng
thấy nản, vì thời gian chỉ là một vọng tưởng tùy theo tâm thức bập bềnh lay động
của chúng sanh. Tâm thức mình ở dưới thấp thì sẽ thấy là vi trần số kiếp, còn
khi tâm thức lên cao thì vi trần số kiếp ấy nhiều khi rút lại chỉ bằng một kiếp,
còn đối với tâm thức của chư đại Bồ Tát thì nhiều khi chỉ bằng một bữa ăn…
KINH:
Có kiếp tên là Thắng Hạnh, thế giới tên là Vô Úy, trong thế giới ấy có tứ thiên
hạ tên là An Ổn…. Có quốc vương tên là Tài Chủ, có sáu vạn thể nữ, năm trăm
vương tử, năm trăm đại thần…
GIẢNG: Vị quốc vương này có sáu vạn thể nữ,
năm trăm vương tử, năm trăm đại thần, ở đây, tôi nhớ lại câu hỏi của một vị Phật
tử, “Sao vị chuyển Luân Vương đã ở mức độ tu hành cao rồi mà còn nhiều
tham dục thế?” Như ngay trong đoạn này, vị quốc vương này có sáu vạn
thể nữ là thế nào? Trước hết ta phải hiểu rằng, các vị này đều là những Nhân
Vương rất lớn, hoặc Chuyển Luân Vương. Một vị Chuyển Luân
Vương thường ra đời vào lúc phước lực và trí lực của con người lớn, nên thọ lượng
của người thời đó đến hai, ba vạn tuổi. Thường một vị Chuyển Luân vương là một
vị Bồ Tát Sơ Địa, thọ sanh làm Chuyển Luân vương để độ sanh. Kinh Hiền Ngu nói
các ngài thường có một vạn phu nhân, và một nghìn người con, nếu có 999 người
con cũng không được, vì vị hoàng tử thứ 1000 mới có đủ phước lực và trí lực để
nối ngôi Chuyển Luân Vương. Nếu vị vua Chuyển Luân chết đi mà không có vị thứ
1000 kia, thì lập tức sáu cái bửu biến mất. Trở lại câu hỏi là vị Chuyển Luân
Vương này có nhiều tham dục hay không? Chúng ta sống trong thời kỳ mà thọ mạng
chỉ được bảy, tám mươi tuổi, mỗi ông thường có một bà vợ hay hai thôi. Nhưng
còn các vị này sống đến hai vạn tuổi thì dĩ nhiên phước báo lớn hơn, và số vợ
cũng … nhiều hơn. Nhưng nhiều khi những người vợ này chỉ là phước báo nhiều thôi,
chưa chắc đã có nhiều tham dục, và nhiều khi lại là hóa sanh, không cứ là phải
thai sanh do tham dục. Ta nên nhớ rằng họ sống thọ hơn ta nhiều, nên phước đức
cũng rất lớn, nếu dùng tâm phàm phu nhỏ hẹp để nói thì khó có thể nói đến mức rốt
ráo. Vì phần đông các vị này là những vị siêu xuất, không còn là người đơn thuần
mà có khi là chư Thiên xuống trần, và tham dục của chư Thiên cõi dục không phải
như lối tinh huyết, máu mủ như chúng ta, nhiều khi họ chỉ liếc mắt, cầm tay
v.v… cũng có thể thọ thai rồi.
Cũng như vậy,
trong đoạn kinh này, ngài Cù Ba có kể một câu chuyện bổn sanh rằng. Ngày xưa,
tiền thân của ngài là Diệu Đức Cụ Túc, có người mẹ tên Thiện Hiện, tuy gọi là mẹ
nhưng không phải bà sanh ra mà ngài Cụ Túc hóa sanh trong hoa sen. Bà Thiện Hiện
chỉ là nhũ mẫu, thấy nàng Cụ Túc sinh trong hoa sen, sinh lòng thương mến bồng
lấy muôi nấng. Trong kinh, thường người nhũ mẫu đóng vai trò quan trọng như người
mẹ vậy. Như trong kinh Hoa Nghiêm, có rất nhiều vị thần, khi Bồ Tát thọ sanh, vị
thần coi đạo tràng ấy đến ẵm vị Bồ Tát, và lúc đó, vị Dạ Thần đắc được môn giải
thoát, và về sau trở thành Bồ Tát. Nên trong kinh, có nhiều thời kỳ, nhiều thế
giới mà phong tục và lối sinh hoạt rất lạ lùng, không phải như bây giờ. Do đó
phải hiểu, loài người chúng ta sống bây giờ với tuổi thọ bảy mươi đến một trăm
tuổi chớ có nghĩ rằng nhân loại mãi mãi là như thế, có rất nhiều thời kỳ phước
lực khác, trí lực khác, nhân loại khác .v.v…
Như ở Bắc Cu Lưu
Châu, nhân loại sống khác hẳn. Nhân dân trong đó sống rất sung sướng, hơn loài
người chúng ta rất nhiều, họ sống đến một vạn tuổi, không bao giờ chịu cảnh đau
ốm, không phải nuôi con, đứa bé sinh ra thì cứ cho ngón tay cái vào miệng bú,
và nó nằm dưới gốc cây bên đường cạnh những lá non và cứ thế… bú ngón tay mà lớn
dần lên. Quí vị thấy có lạ không? Nếu cứ dùng ý thức thông thường hạn hẹp mà
phán đoán chia chẻ thì không bao giờ có thể … tin được. Nhưng trong kinh nói rõ
như thế, và chúng ta phải khởi lòng tin, vì sự biến hóa của tâm thức rất lạ
lùng, mà khi tin vào sự biến hóa ấy mới thấy được xa và rộng hơn. Có nhiều cõi
rất lạ, vì phước báo, nghiệp báo biến hiện do cái tâm ấy nên hiện ra những y
báo tương ưng. Nhưng ở Bắc Cu Lưu Châu có cái nạn lớn mà trong kinh thường
khuyên răn không nên cầu sanh về cõi ấy, tuy rằng cõi đó rất sung sướng nhưng lại
không có kinh Phật và không bao giờ được gặp Phật.
Trong kinh có kể
rõ, khi thần thức của người chết vừa thoát ra khỏi sắc thân, nếu nhìn thấy một
bờ hồ rất rộng, ngan ngỗng bơi lội trong hồ ấy, trên bờ lại có những con ngựa
ăn cỏ một cách thong thả, ung dung. Đó là cảnh giới Bắc Cu Lưu Châu, người trí
không bao giờ nên cầu thác sinh vào đó, vì tuy sung sướng thật, nhưng không bao
giờ có cơ duyên tu hành, không biết niệm Phật, tụng chú hay ngồi thiền, đến khi
hết phước báo cũng bị đọa vào những đường dữ.
Trong đạo Phật, đức
Phật thường mách chúng ta biết những thế giới như vậy, mà ta lại không chịu
tin, chịu hiểu, chỉ tin vào nhục nhãn và ý thức thô kệch của mình. Ngay cả khoa
học cũng thế, cứ khư khư tin vào những gì mắt thấy, tai nghe, chỉ biến đến ý thức,
chưa hiểu được tiềm thức vào vô thức của người, cần hiểu rằng, ý thức là người
bạn tốt nhất mà cũng là người lừa dối ta nhiều nhất. Tốt nhất vì sao? Vì nó có
thể đưa ta đến chính kiến, đưa ta trở về với diệu tâm. Nhưng đồng thời, ý thức
cũng là đầu mối của mê vọng, vì chuyên về nhị biên.
Naỵ,
xin trở về kinh…
Có vị quốc vương tên Tài Chủ, có sáu
vạn thể nữ…
Thể nữ là những
người nữ tỳ hầu hạ. Nhưng nghĩa bóng là những “cơn tam muội,” vì
tam muội làm cho người tu hành được tâm an ổn.
“Có
năm trăm vương tử…” vị
vua này chưa phải là Chuyển Luân Vương mà chỉ là một vị Đại Quốc Vương thôi, vì
chỉ mới có năm trăm vương tử. Nhưng vị vua này có phước đức lớn nên có một người
con sau này làm Chuyển Luân Vương.
KINH: Các
Vương tử này đều dũng mãnh dẹp được oán địch. Thái tử tên là Oai Đức Chủ…
GIẢNG: Vị thái tử này chính là tiền thân
đức Thích Ca Mâu Ni.
KINH: Thân
tướng đầy đủ đoan chính xinh đẹp, mọi người đều thích thấy. Vương tử này dưới
bàn chân bằng đầy, đủ luân tướng, lưng bàn chân vun cao, ngón tay, ngón chân đều
có màn mỏng…
GIẢNG: Đại khái thái tử này có nhiều tướng
của Phật..
KINH:
Lúc đó thái tử tuân lịnh Phụ Vương cùng một ngàn thể nữ vào vườn hương nha du
ngoạn. Thái tử ngồi trên tòa sư tử đại ma ni trong xe, năm
trăm thể nữ cầm giây báu kéo xe…, trăm ngàn muôn người trồi nhạc,
rải hoa đẹp tùy tùng bước sau xe thái tử. Đường xá bằng phẳng rải đầy những hoa
đẹp, lưới báu giảng che, nhiều lầu các chứa những châu báu, hoặc trần thiết những
vật trang nghiêm, hoặc chưtig dọn những thức uống ăn, hoặc treo y phục, hoặc sắm
đủ những vật tư sanh, tùy ai cần gì đều ban cho.
GIẢNG: Thái tử ngày hôm đó nhận lệnh của
vua cha cùng với một ngàn thể nữ đi chơi. Phước lực thái tử rất cao nên y báo
hiện ra rất đẹp đẽ, cùng nhiều người theo rải hoa đẹp cúng dường…
Thánh Kinh Công
giáo có một câu rất hay, lúc đức Chúa Trời khiển trách Adam, Ngài bảo:
“Các ngươi về sau
sẽ phải đổi bát mồ hôi lấy bát cơm.”
Ý nói rằng phước
báo đã kém rồi, tụt xuống, nên sau này phải cầy sâu cuốc bẫm mới có ăn… Trái lại,
có những cõi phước báo lớn, không cần cầy cấy, trồng trọt gì cũng tự nhiên có
ăn, do các vị quỉ thần lo cho hết. Nên cần hiểu rằng những gì xuất hiện nơi thế
gian này, từ y báo (cảnh giới), đến chánh báo (thân
căn) đều tùy vào phước báo của chúng sanh vùng đó. Như đất Cali này, nếu
phước lực của dân chúng vùng này kém, thì dù có máy móc tối tân, hoặc tận lực sức
người cách mấy, các vị quỉ thần cũng sẽ khiến đất này không mầu mỡ, cây cỏ héo
úa, thiên tai nổi lên khắp nơi, như hỏa hoạn, sóng thần, bão tố, .v.v… lúc đó
con người làm gì cũng hỏng. Nhân lực chỉ đóng góp được một phần nhỏ, còn phần lớn
tùy thuộc vào phước lực, nghiệp báo.
KINH: Bấy
giờ có bà mẹ tên là Thiện Hiện dắt một đồng nữ tên là Cụ Túc Diệu Đức. Đồng nữ
này dung nhan đoan chánh, mắt và tóc xanh biếc, tiếng nói như phạm âm, nghề
khéo, luận giỏi, siêng năng kính nhường, đủ lòng từ mẫn, hổ thẹn, nhu hòa, chất
trực, lìa ngu si, ít tham dục, không siểm nịnh dối phỉnh. Đồng nữ cùng mẫu thân
ngồi xe, các thể nữ theo hầu, đi trước xe thái tử.
GIẢNG: Tiền thân của ngài Cù Ba gần như
là Bửu Nữ, chánh báo của ngài rất đẹp, đoan chánh, tóc xanh biếc, tiếng nói như
Phạm âm, nghề khéo, luận giỏi, đủ lòng từ mẫn, hổ thẹn, nhu hòa, chất trực, lìa
ngu si, ít tham dục v.v… Mẫu thân của nàng không phải là mẹ ruột, mà chỉ là nhũ
mẫu, (nhũ mẫu là người nuôi nấng cho đứa trẻ lớn lên).
KINH: Đồng
nữ ấy thấy Thái Tử bèn sanh lòng yêu mến, nói với mẹ rằng nàng muốn kính thờ
người nầy, nếu không toại nguyện quyết sẽ tự vẫn.
GIẢNG: Đọc kinh, nhiều đoạn ta thấy bỡ ngỡ,
nhưng khi hiểu duyên nghiệp từ nhiều kiếp, do đó, nàng Cụ Túc khi thoạt trông
thấy Thái Tử thì trong lòng khởi tâm muốn kính thờ ngay. Cũng có thể trong nàng
cũng còn một chút tham dục. Cũng như đoạn kinh sau này có một bài kệ nói rằng:
Trong kiếp đó, có một nàng con gái thấy một vị khất thực ngang qua nhà nàng,
(đó chính là một vị Thái Tử đã xuất gia), nàng vội cởi chuỗi ngọc cúng dường.
Khi dâng chuỗi ngọc, trong tâm nàng còn vướng một chút tham dục, (vì thấy vị
thái tử có nhiều tướng hảo rất trang nghiêm đẹp đẽ, nên khởi tâm ưa thích), dù
vậy, nàng vẫn hưởng phước đức lớn vì đã cúng dường một vị tu hành đắc đạo cao,
do phước đức đó, nên trong hai trăm năm chục kiếp nàng không bị đọa vào ác đạo.
Sau hai trăm năm chục kiếp, nàng lại có cơ duyên gặp lại, lúc đó tâm dục của
nàng đã hết, nên chuyển thành Bửu Nữ với vị Bồ Tát đó… Sự chuyển biến của vọng
tình là như thế, tất cả những ái tâm, lòng say mê sau này sẽ chuyển thành đại
bi, còn những vọng tưởng sau sẽ trở thành trí huệ bát nhã.
Nên cần nhớ rằng,
vọng tình sau thành Đại Bi, thành những lượn sóng tạo hóa thân. Vọng tưởng sau
thành Bát Nhã, thành pháp thân.
HỎI:
Tôi có nhớ một lần ông giảng, nếu tình nhiều hơn tưởng thì xuống địa ngục. Ý
nghĩa đó như thế nào so với hôm naỵ ông giảng?
ĐÁP: Nếu
vọng tình và vọng tưởng mà không biết chuyển thì vẫn nằm trong quả báo luân hồi,
tùy theo nặng nhẹ mà lên, xuống trong sáu nẻo. Còn nếu biết chuyển thì thăng
hoa rất cao. Khi chưa biết chuyển thì nó là họa lớn, nhưng khi biết chuyển thì
nó lại thành phước lớn. Đạo Phật bao giờ cũng vậy, cái họa càng lớn bao nhiêu
thì khi biết chuyển sẽ thành phước lớn bấy nhiêu. Vì vậy kinh Lăng Nghiêm nói rằng,
nếu bảy phần tình, ba phần tưởng thì xuống địa ngục, còn nếu năm phần tình, năm
phần tưởng thì được làm người, bảy phần tưởng ba phần tình thì lên thiên, chín
phần tưởng một phần tình thì qua Cực Lạc, như vậy, phần lớn tình đã chuyển
thành tâm bi, nên mới sang được Cực Lạc.
KINH:
Mẹ bảo chớ vọng niệm. Đây là thái tử đủ tướng Luân vương. Sau đây sẽ lên ngôi,
sẽ làm Chuyển Luân Vương, có Bửu Nữ xuất hiện bay trên không tự tại. Chúng ta
là hàng ti tiện chớ sanh vọng niệm, vì sự ấy khó đạt thành.
GIẢNG: Người mẹ nói với nàng Cụ Túc Diệu
Đức rằng, con chớ nghĩ bậy, chúng ta là hàng ti tiện, con chớ sanh vọng niệm.
(Tuy người mẹ bồng nàng Diệu Đức từ hoa sen hóa sanh, nhưng cũng không nhìn rõ
được túc duyên của nàng Diệu Đức). Chúng ta cũng đừng nên nghi ngờ về vấn đề
hóa sanh. Phàm nhân chúng ta đều đồng thấy rằng, ai ai cũng là thai sanh nên chỉ
chấp rằng, mọi người đều do thai sanh, không chịu tin là thực ra có nhiều trường
hợp là có hóa sanh. Ngay thời Đức Phật Mâu Ni, ngài có kể mấy trường hợp hóa
sanh, nhưng tôi chỉ nhớ một trường hợp, đó là bà kỹ nữ Amrapali mà vị vua Tần
Bà Sa La mê, trốn sang ở với nàng một tuần, sau sinh ra ngài Kỳ Bà là một vị Bồ
Tát, làm thầy thuốc chữa bệnh cho chúng sinh. Ngài Kỳ Bà cũng là một nhân vật
ghê gớm, ngài là người can vua A Xà Thế không được giết mẹ. Trong kinh Đại Bảo
Tích nói, ngài chữa bệnh bằng cách tạo ra một hóa nhân (tức là một người
huyễn), hễ người bệnh nào đến cứ cho đùa với người huyễn một lúc là khỏi.
Mẹ của ngài Kỳ Bà, tuy thị hiện làm kỹ nữ, nhưng lại được hóa sanh trên hoa
soài.
Bây giờ cũng có thể
có những trường hợp hóa sanh, nhưng rất ít mà chúng ta không biết thôi.
KINH: Bên
cạnh khu vườn Hương Nha có một đạo tràng tên là Pháp Vân Quang Minh. Có Đức Như
Lai hiệu là Thăng Nhựt Thân, đủ mười hiệu, xuất hiện trong đó đã được bảy ngày.
GIẢNG: Trong khi Thái Tử và nàng Diệu Đức
đi chơi trong khu vườn, bên kia là một đạo tràng, nơi đó có đức Phật xuất hiện
thành chánh giác đã được bảy ngày. Nàng đồng nữ Diệu Đức (tức là tiền thân của
ngài Cù Ba) đêm trước mộng nằm thấy Phật…
KINH: Đồng
nữ Diệu Đức ngủ gật mộng thấy Phật. Khi thức dậy, trên không có thiên thần bảo
đồng nữ rằng, Thắng Nhựt Thân Như Lai thành Đẳng Chánh Giác, nơi đạo tràng Pháp
Vân Quang Minh đã được bảy ngày, chúng Bồ Tát vây quanh, chư Thiên, Long, Bát Bộ,
cùng chư Thần vì muốn thây Phật nên đều tập hội.
GIẢNG: Nàng Cụ Túc Diệu Đức có mộng biết
Đức Phật ở gần đây đã thành Chánh Giác.
KINH: Đồng
nữ Diệu Đức do mộng thấy Phật, nên lòng nàng an ổn, không khiếp sợ…
GIẢNG: Khi nàng nghe nói có Phật tại thế,
lòng nàng an ổn không có sự sợ hãi nào, ngay cả khi có chuyện gì xảy ra chăng nữa
cũng không sợ hãi. Vì vậy, trông thấy vị Thái Tử nàng cũng không cảm thấy sợ
hãi, nàng bèn đến trước mặt Thái Tử mà nói kệ, mà câu kệ là lời tỏ tình yêu lạ
lùng nhất. Tuy trong kinh nói nàng là người biết hổ thẹn, nhưng lúc đó vẫn đủ
can đảm nói thẳng điều mình mong muốn. Bài kệ rất hay, nàng nói thế này…
KINH:
Thân
tôi rất đoan chánh.
Tiếng đồn khắp mười phương.
Trí huệ không ai sánh.
Khéo giỏi đủ các nghề.
Vô lượng trăm ngàn chúng.
Thấy tôi đều tham nhiễm.
Lòng tôi đối với họ,
Không một niệm ái dục.
Không sân cũng không hận.
Không ghét cũng không mừng.
Chỉ phát tâm quảng đại.
Lợi ích các chúng sanh…
GIẢNG: Nàng luôn phát tâm quảng đại làm lợi
ích tất cả chúng sanh.
KINH:
Nay
tôi thấy Thái Tử.
Đủ những tướng công đức.
Tâm tôi rất vui mừng.
Khắp thân đều thơi thới…
GIẢNG: Nàng nhìn thấy Thái Tử như gặp được
túc duyên cũ của mình, hơn nữa vị Thái Tử này là bậc cao, nên trong nàng, thọ ấm
nổi lên rào rạt, khiến nàng thấy an lạc sung sướng vô cùng, các lỗ chân lông đều
nở ra, thơi thới vui mừng. Sự vui mừng ấy, như nước vỡ bờ, trào lên môi thành
bài kệ ca tụng những nét đẹp của Thái Tử…
KINH:
Màu da
như minh bửu.
Tóc đẹp xoăn phía hữu.
Trán rộng, mày nhỏ cong.
Lòng tôi nguyện thờ ngài.
Tôi xem thân Thái Tử.
Giống như tượng chân kim.
Cũng như đại bửu sơn.
Tướng tốt có quang minh.
Mắt rộng màu xanh biếc.
Mặt tròn như trăng sáng.
Vui vẻ giọng nói hay.
Xin thương nạp thọ tôi.
Tướng lưỡi rộng dài đẹp.
Đỏ như màu xích đồng.
Phạm âm, tiếng Khấn Na.
Ai nghe cũng vui đẹp.
Miệng vuông chẳng co rút.
Răng trắng đều kín bằng.
Lúc phát ngôn, hiện cười.
Người thấy lòng hoan hỉ.
Thân ly cấu thanh tịnh.
Đủ ba mươi hai tướng.
Tất sẽ ở cõi này.
Mà làm Chuyển Luân vương.
Thái tử
bảo Đồng nữ rằng, nàng là con gái của ai? ai thủ hộ nàng, nếu trước đã thuộc
vào người khác, thời ta không nên sanh lòng ái nhiễm. Thái tử nói kệ rằng…
GIẢNG: Những vị đi trên con đường Bồ Tát
đạo cao, khi vấp phải một vị nữ nhân, thường thường hỏi xem nàng đã thuộc về ai
chưa, nếu rồi thì chàng sẽ không bao giờ sanh lòng ái nhiễm. Thì đây, tôi xin đọc
bài kệ Thái Tử nói với nàng Diệu Đức..
KINH:
Thân
nàng rất thanh tịnh.
Đầy đủ tướng công đức.
Nay ta có lời hỏi.
Hiện nàng ở với ai?
Cha mẹ nàng tên gì?
Nay nàng hệ thuộc ai?
Nếu đã thuộc người khác.
Người đó nhiếp thọ nàng…
GIẢNG: Ý Thái Tử muốn hỏi rằng nàng có
thuộc về ai chưa, hoặc đã có chồng chưa? Rồi sau đó, Thái Tử lại hỏi về các giới
xem nàng có phạm những giới nào không…
KINH:
Nàng
chẳng trộm của người.
Nàng không lòng giết hại.
Nàng chẳng phạm tà dâm.
Nàng nương lời nói nào.
Chẳng nói xấu người khác.
Chẳng phá thân thuộc người.
Chẳng xâm cảnh giới người.
Chẳng giận hờn người khác.
Chẳng sanh tà hiểm kiến.
Chẳng làm nghiệp trái nhau.
Chẳng dùng sức siểm khúc.
Phương tiện gạt thế gian.
Tôn trọng cha mẹ chăng?
Kính thiện tri thức chăng?…
GIẢNG: Chúng ta thấy vị Thái Tử này “khảo” nàng
rất kỹ, vì chàng phải dè chừng tất cả siểm khúc, những tính cong queo, những
tâm say mê của một nữ nhân.
KINH:
Thấy
những người nghèo cùng.
Phát tâm giúp đỡ chăng.
Nếu có thiện tri thức.
Dạy bảo những điều hay.
Nàng phát tâm kiên cố.
Hoàn toàn tôn trọng chăng?
GIẢNG: Nếu gặp vị thiện tri thức dạy cho
những điều hay nàng có phát tâm tôn trọng không? hay nàng chỉ làm theo cái ý bướng
bỉnh, ngang dọc của người Nữ?
KINH:
Có
kính mến Phật chăng?
Có biết Bồ Tát chăng?
Chúng tăng biển công đức.
Nàng có tôn kính chăng?
Nàng có biết pháp chăng? (biết về Phật pháp).
Dạy được chúng sanh chăng?
Nàng ở trong chánh pháp.
Hay ở trong phi pháp?
Thấy những người cô độc.
Nàng có thương xót chăng?
Thấy chúng sanh ác đạo.
Nàng có bi mẫn chăng?
Thấy người được vinh hạnh.
Nàng có hoan hỉ chăng?
Người đến bức hại nàng.
Nàng có phiền giận chăng?
GIẢNG: Chúng ta để ý, Thái Tử “khảo” nàng
rất kỹ về lòng từ, bi, lòng hỉ, xả đối với chúng sanh, và có lòng nhẫn đối với
chúng sanh không?
KINH:
Nàng
phát tâm Bồ Đề.
Khai ngộ chúng sanh chăng?
Vô biên kiếp tu hành.
Được không mỏi nhàm chăng?
GIẢNG: Cuối cùng là nàng đã phát Bồ Đề
tâm chưa? có nguyện tu hành trong vô biên kiếp mà không nhàm mỏi chăng? Trong lịch
trình tu hành bồ tát đạo, bí quyết lớn lao nhất là lòng không mỏi nhàm, và phải
có tâm nhẫn nhục, tinh tấn để đi trên con đường bồ tát đạo.
Nhân đây, tôi muốn
kể cho quí vị nghe mấy chuyện, thứ nhất là về giới, về vấn đề tà dâm, vì
tôi có đọc trong một cuốn sách của ngài Diễn Bồi và trong kinh Đại Bảo Tích có
rất nhiều chuyện hay về vấn đề tương quan giữa người Nam và người Nữ mà người
tu thường vấp phải. Phần nhiều đều… ngã cả, vì vậy chúng ta cần phải rõ giới luật
cho phép đi đến đâu, và những chuyện trong kinh ý muốn nói những gì? Thì đây
tôi xin kể vài trường hợp cho quí vị nghe…
Chuyện này, tôi lấy
trong kinh Đại Bảo Tích…
(Kinh Đại Bảo
Tích là một bộ kinh rất lạ, đó là một bộ kinh gồm nhiều pháp hội, trong đó hay
nói về thần lực của Chư Phật, cũng nói đến vọng tưởng không gian, thời gian
.v.v… và nhất là có những chi tiết giúp ta hiểu thêm rất nhiều.)
Tôi rất lấy làm mừng
rằng giáo lý về quang minh và tất cả thần lực của Chư Phật được kinh Đại Bảo
Tích xác nhận một cách rất rõ ràng. Có phẩm gọi là “xuất hiện quang
minh” và nói về thần lực rất ghê gớm.
Một vị Bồ Tát, khi
gặp một vị nữ nhân mà ngài thấy người nữ nhân kia nảy sanh tâm lưu luyến phi
thường, thì vị bồ tát đó luôn luôn hỏi vị nữ nhân ấy những câu hỏi tương tự như
vị Thái Tử này hỏi nàng Cụ Túc Diệu Đức:
“Nàng
tu hành như thế nào, tà đạo hay chánh đạo, có tâm bi mẫn, tâm ngay thẳng và đã
phát bồ đề tâm chưa?
Thì đây, một câu
chuyện trong kinh Đại Bảo Tích, (quyển 4, trang 422) xin kể quí vị nghe …
Hồi Đức Phật còn tại
thế, có một vị Bồ Tát tên là Chúng Tôn Vương. Một hôm đức Phật đương ngồi thuyết
pháp, ngài A Nan đứng lên mách Phật rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn,
lúc nãy con đi khất thực thấy vị Chúng Tôn Vương Bồ Tát ngồi chung giường với một
vị nữ nhân.”
(Nhiều khi tôi trộm
nghĩ, ngài A Nan thị hiện một sự ngây thơ thật dễ thương, có vẻ nửa như còn
tính chất người, nửa như đã vào hàng thánh cao rồi).
Sau khi ngài A Nan
mách Phật như thế, thì ngài Chúng Tôn Vương Bồ Tát vội đứng lên, ngài không nói
gì, chỉ bay vọt lên hư không cao bảy cây đa la rồi nói với ngài A Nan rằng:
“Này Đại Đức, Đại
Đức có thấy một người nào phạm giới mà có thể đứng giữa không trung như tôi được
không?”
Sau đó, ngài A Nan
lập tức sám hối, nói rằng ngài đã nghĩ lầm về vị Bồ Tát ấy. Rồi ngài Chúng Tôn
Vương Bồ Tát mới kể rằng:
“Từ nhiều kiếp trước,
ngài đã độ cho vị nữ nhân ấy. Trong một tiền kiếp, ngài làm một vị tăng, đi đường
vấp phải vị nữ nhân ấy, ngài nhìn thấy nàng rất đẹp, và cứ lăn xả vào ngài.
Nhưng ngài vẫn bỏ đi. Đi được một quãng ngài trở lại, cởi áo sư lấy nàng làm vợ
trong mười hai năm. Khi công việc độ nàng đã viên mãn, thì ngài lại đi tu và
làm tăng trở lại…”
HỎI:
Thưa ông, tôi thấy câu chuyện này có vẻ … “nguy hiểm” quá. Ông sư ấy đi khất thực
thường đi chậm rãi, mà không hiểu vì duyên cớ gì, làm thế nào để có thể vấp vào
một vị nữ nhân?
ĐÁP:
Thật ra, tôi nói chữ “vấp” là để nhấn mạnh cái cơ duyên gặp một người nữ thôi,
chứ trên thực tế, không thể đi sầm sầm mà vấp vào một người ngồi lù lù đó
được. Nhưng trong câu chuyện này, có hai điều chúng ta cần nên biết, thứ nhất
là nhà tu này đàng hoàng cởi áo để độ xong người nữ đó rồi đi tu lại. Thứ hai
là cơ duyên nam nữ rất chập chùng, vì từ nhiều kiếp, chúng ta kết rất nhiều cơ
duyên, nó chằng chịt đan nhau như một cái lưới, khó có thể thoát khỏi. Sự uyển
chuyển của vị sư này không phải do ham sắc mà vì tâm độ người, vì ngài biết rằng
vị nữ nhân này nhiều kiếp đã có túc duyên với ngài, mà có lẽ ngài cũng còn nợ
nàng nữa.
Lời
kinh thường có hai nghĩa, người sơ cơ nghe thoảng qua thường chỉ ôm lấy nghĩa
thô thôi, nên rất nguy hiểm. Vì vậy, đôi khi không biết thường dễ bị lầm lạc,
và làm hại luôn cả giới thân huệ mạng của chính mình nữa. Vì sao? Vì họ cứ tưởng
rằng có thể chuyển tình đời thành tình đạo, nhưng rốt cuộc hóa ra lại bị tình đời
nó chuyển lại, đạo tâm của mình không còn nữa.
Còn
trong cuốn kinh Phạm Võng diễn giải ngài Diễn Bồi có kể mấy câu chuyện sau: Hồi
thời đức Phật còn tại thế, các vị tỳ kheo ni ngồi thiền trong rừng vắng, hay bị
tụi Bà La Môn đến hiếp rất, sau đó Phật mới dạy rằng, các tỳ kheo ni không được
ngồi trong rừng vắng nữa, mà phải về chùa mà tu. Có vị tỳ kheo ni ở trong một
cái cốc nhỏ, một hôm có người bà la môn lén chui nằm dưới gầm giường, chờ
khi vị này tối nằm ngủ, nó liền lên hiếp rồi bỏ đi. Sáng hôm sau, vị này đến bạch
với Đức Phật, Phật hỏi rằng: trong lúc đó, ngươi có thấy sự khoái lạc gì không?
Vị này trả lời rằng, con chỉ thấy như có một cục sắt nóng đỏ đâm vào người mà
thôi. Đức Phật dạy rằng: như vậy ngươi không phạm giới. Sau đó, bà đắc quả A La
Hán.
Một
câu chuyện khác:
Có một vị tỳ kheo ni rất đẹp, đắc quả
A La Hán rồi. Ngài thường ngồi ở ven rừng thiền định. Có một vị Bà La Môn mê
ngài quá, nó cứ đến dụ dỗ ngài mãi không thôi. Vị tỳ kheo ni này đạo lực rất
cao, nên hỏi người Bà La Môn:
“Tại sao ông lại
sinh cái tâm đảo điên thế?”
“Vì nàng đẹp quá,
lòng ta không thể cưỡng lại nổi, nên ta muốn chăn gối với nàng.”
“Tôi đẹp ở chỗ
nào?”
“Ta mê nhất đôi mắt
nàng, trên đời ít ai sánh bằng.”
Vị tỳ kheo ni mới
vận thần lực lấy tay móc hai mắt mình, để lên lòng bàn tay và bảo người kia:
“Ông nhìn xem cục
thịt máu mủ hôi nhơ này có gì là đẹp?”
Người Bà La Môn bỗng
dưng nổi cơn giận dữ, đánh lên đầu vị tỳ kheo ni mắng rằng:
“Cái mụ trọc đầu
kia, ngươi dùng ảo thuật trêu gan ta chăng?”
Nói xong rồi bỏ
đi.
Nếu một vị tăng
đang tu hành, mà có một vị ma nữ, hay một người con gái nhà lành đến nhất định
đòi mê thì sao? Theo như ngài Diễn Bồi, thì những người xuất gia không thể làm
gì khác cả, dĩ nhiên phải từ chối, vì không thể phá giới được, nhưng người tại
gia có thể làm được, vì cư sĩ tại gia chỉ phải giữ năm giới thôi. Nếu người đó
là một người con gái nhà lành, đơn thuần, muốn đi vào đạo, song còn vướng vào
tình yêu thương, thì một cư sĩ tại gia có thể độ cho người ấy, bằng cách phương
tiện tùy thuận để độ người ta. Không biết quí vị có đồng ý kiến đó với ngài Diễn
Bồi không? Nhưng có một điều khó là trong khi độ người đó, thì phải có tâm từ
bi, chứ đừng có tâm tham dục nhiều quá. Song ở đây, ta chỉ có thể nói theo cái
lý thôi, vì người xưa đời sống của họ rất thanh tịnh, nghiệp chướng lại mỏng,
nên có thể phương tiện tùy thuận để độ sanh cũng dễ. Nhưng ngày nay, vào thời mạt
pháp, cách Phật trên hai ngàn năm trăm năm, căn cơ của chúng sanh cạn mỏng,
nghiệp chướng sâu dầy, theo ý tôi, việc tùy thuận phương tiện quả là một việc…
rất khó. Vì theo như lời Phật huyền ký, trong thời mạt pháp, chúng sanh tu có
khá lắm đi nữa cũng chỉ đến mức đa văn kiên cố, hay tháp tự kiên cố là cùng…
Nói sơ qua để quí vị thấy rằng giữ giới tham dục trong dục giới này là một việc
khó nhất cho cả người xuất gia cùng cư sĩ tại gia. Nên phải tùy từng trường hợp
mà đối phó, và trong khi đối phó, phải giữ tâm mình đúng mức, điều này đòi hỏi
hành giả phải có định lực và huệ lực khá cao, cộng thêm lòng từ bi bình đẳng mới
có thể làm nổi.
Nay
xin trở lại kinh…
Sau khi Thái Tử hỏi
nàng Diệu Đức xong, thì bà mẹ của nàng liền trả lời. Đó là một bài kệ, xin quí
vị lắng nghe…
KINH:
Thái tử
ngài lắng nghe.
Nay tôi nói Đồng Nữ.
Sơ sanh đến trưởng thành.
Tất cả đến nhân duyên:
Ngày Thái Tử mới sanh.
Nàng từ Liên Hoa sanh.
Mắt nàng sáng, dài, rộng.
Tay chân đều hoàn mỹ
Tôi từng ở mùa xuân.
Du ngoạn vười Ta La.
Thấy khắp những dược thảo.
Mọi thứ đều tươi tốt.
Cây lạ trổ hoa đẹp.
Trông đó như khánh vân.
Chim đẹp cùng hòa hót…
GIẢNG: Thân mẫu đồng nữ này tả cảnh trí đẹp
là vì thời đó, trong kiếp đó, phước lực của con người khá lớn…
KINH:
Chim đẹp
cùng hòa hót.
Trong rừng đồng hoan lạc.
Cùng đi tám trăm cô.
Đoan chánh chiếm lòng người.
Y phục đều nghiêm lệ.
Ca ngâm đều rất hay.
Vườn đó có ao tắm.
Tên là Liên Hoa Tràng.
Tôi ngồi trên bờ ao.
Thể nữ hầu chung quanh.
Trong ao sen lớn ấy.
Bỗng sanh hoa ngàn cánh.
Cánh báu, cọng lưu ly.
Vàng Diêm Phù làm đài.
Bấy giờ là hừng sáng.
Mặt nhựt mới ló mọc.
Hoa ấy đương nở ra.
Phóng ánh sáng thanh tịnh.
Ánh sáng ấy rất mạnh.
Dường như mặt trời mọc.
Chiếu khắp Diêm Phù Đề.
Mọi người đều khen lạ.
Bấy giờ thấy Đồng nữ.
Từ hoa sen đó sanh.
Thân nàng rất thanh tịnh.
Chi phần đều viên mãn
Đây là báu nhân gian.
Từ nơi tịnh nghiệp sanh.
GIẢNG: Vị Đồng Nữ
này từ hoa sen sanh ra, và những người sanh như thế là phước báu của nhân gian,
vì do phước nghiệp cũ. Như nếu chúng ta tu khá, ta sẽ được hóa sanh trong hoa
sen bên cõi Cực Lạc. Hoặc có khi ở ngay cõi này.
KINH:
Nhân
trước không hư mất.
Nay thọ quả báo này.
Tóc biếc, mắt sen xanh.
Phạm thinh, da chân kim.
Tràng hoa, những bửu kế.
Thanh tịnh không chút nhơ.
Chi tiết đều đầy đủ.
Thân nàng không khuyết giảm.
Dường như tượng chân kim.
Đặt ở trong bửu hoa.
Chân lông mùi chiên đàn.
Xông khắp cả mọi nơi.
Miệng phát mùi thanh liên.
Thường diễn tiếng Phạm-âm.
Chỗ của nàng này ở.
Thường có âm nhạc trời.
Chẳng nên để kẻ hèn.
Sánh đôi với nàng này.
Duy ngài đủ tướng tốt.
Xin nạp thọ nàng này.
Chẳng cao, cũng chẳng thấp.
Chẳng thô, cũng chẳng tế.
Toàn thân đều trang nghiêm.
Xin ngài nạp thọ nàng.
GIẢNG: Sau đó, Thân mẫu nàng mô tả đến
tài của nàng, từ toán số, văn tự, nghề khéo, binh pháp, phán đoán, kiện tụng,
ngôn ngữ, lý số, biết rõ duyên khởi của chúng sanh, kỹ nhạc, những nghề phụ nữ
.v.v… nàng đều thông suốt cả.
Khi một hành giả
tu bồ tát đạo đến địa thứ năm, thì lúc đó hành giả ấy thông suốt tất cả kỹ thuật
của thế gian, nho, y, lý số, kỷ nhạc, văn thơ .v.v… vì từ tâm nở ra. Vì từ
trong tâm ấy, trải qua vô lượng kiếp, tất cả những thứ đó ta đều học cả rồi, và
nó đều rớt lại những chủng tử trong tàng thức, đến kiếp năy, tu hành đúng mức nở
ra vằ hiện hành mọi thứ.
Nàng Đồng Nữ này, ở
một mức tu hành đủ viên mãn để tâm nở ra tất cả những nghề khéo ở thế gian, vì
tâm vốn bổn cụ.
KINH:
… Những
nghề của phụ nữ.
Nàng này biết tất cả.
Mà không lỗi phụ nữ.
Ngài nên mau nạp nàng…
GIẢNG: “Lỗi phụ nữ” là những
lỗi như kiêu hãnh, đam mê, hay quắt quéo, quanh co v.v…
HỎI: Tại
sao con đường tu hành của vị nữ nhân nàỵ đã lên một mức độ cao như vậy rồi mà vẫn
chưa dứt được luyến ái ấy? Tại sao không chịu chuyển thành trượng phu để tu
hành dễ hơn? mà cứ dính líu mãi với cái nhân duyên cũ như thế?
ĐÁP:
Đương nhiên khi lên cao vút thì tất cả đều phải chuyển, nhưng ở mức độ này, nam
nữ vẫn còn phân biệt mà chưa đi đến chỗ không phân biệt. Theo thuyết nhà Phật,
có thời kỳ nam nữ chưa phân, (như thời chư Thiên trời Quang Âm hết phước bị đọa
xuống trái đất), nhưng khi họ theo hành trình đi xuống thì lần lần phân chia
nam nữ, khi phân chia họ mang tất cả những vết tích, tập quán cũ, từ vô lượng
kiếp, nên không thể chỉ trong một thời mà có thể gột hết được một lần, cần phải
có thời gian dài thì tập quán cũ mới nhạt dần đi được. Nên vì vậy cực độ này vẫn
nuối tiếc cực độ kia… Lần lần, cả hai đều có cùng một ý nguyện, cùng đi vào đạo,
tu lên cao vút, thì hình tướng phân chia lại mờ nhạt và trở về cái Nhất Thể
uyên nguyên.
Nay
xin trở về kinh…
Sau khi thân mẫu của
nàng Diệu Đức nói lên những tài khéo cùng đức hạnh của con mình, Thái Tử mới bảo
nàng Diệu Đức rằng, ta đi trên đường bồ tát đạo, điều tiên quyết là phải bố thí
không tiếc một thứ gì, đến lúc phải bố thí cả ngai vàng thì nàng có tiếc chăng?
Rồi bố thí cả vợ, con thì nàng có kêu ca chăng? Hoặc bố thí ngay cả nàng thì
nàng có sầu muộn chăng? Và ngay cả thí thân mạng ta thì nàng có chịu chăng?
Nàng có cản trở con đường bồ tát đạo của ta chăng?
Ngày xưa, khi đọc
đến vụ bố thí vợ con cho Bà La Môn về làm nô lệ, chính tôi cũng bị rất… shock, bố
thí cái gì của riêng mình còn được, nhưng mang cả vợ con ra bố thí làm nô lệ
cho người khác thì thật tình tôi thấy… phi nhân đạo quá, không thể chịu nổi!
HỎI:
Thưa ông, không phải chỉ có một mình ông bị shock đâu, ngày xưa tôi nghe như thế
cũng thấy shock lắm, mà đến giờ cũng… vẫn còn shock. Và vẫn còn… “khắc khoải,
khổ tâm” về điều ấy lắm.
ĐÁP:
Thực sự, người nào mới nghe qua cũng đều thấy kinh hoàng và có vẻ phi nhân đạo.
Ngay một vị tu hành khá cao bên Pháp, tên bà là David Neel tu bên Tây Tạng khá
lâu, đã có một ít thần thông. Nhưng sau 30 năm ở Tây Tạng và sống đến 104 tuổi,
có viết nhiều cuốn sách nổi tiếng, cũng bị shock nặng nề về việc này. Bà viết một
quyển sách nói rằng, bà không thể” hiểu nổi tại sao lại có thể bố thí vợ
con mình cho người khác về làm nô lệ, như vậy thật là vô nhân đạo!
Nhưng
lần lần chúng ta sẽ hiểu rằng, vợ, con của một Đại Bồ Tát đều là những bậc Bồ
Tát khá cao dính dáng, và có nhiều cơ duyên với ngài từ nhiều kiếp. Bố thí vợ
con để làm gì? Để vợ con hoàn thành hạnh nhẫn nhục, mà thường thường chư Thiên,
chư Thần bao giờ cũng hộ trì những người đó, không bao giờ anh Bà La Môn nào có
thể mang về làm nô lệ được, nên tuy có bố thí thật, nhưng người nhận cũng không
thể dùng được. Mặt khác, bố thí như vậy để xóa được cái tự và cái tha, cái gì của
mình, hay của người.
Trong
kinh Hiền Ngu có kể một câu chuyện về hạnh bố thí. Có một vị vua Nhân Từ ở nước
này tu hạnh bố thí của bồ tát. Còn vị vua nước láng giềng thì sinh lòng ganh
ghét vị vua này, nên sai một người Bà La Môn tên là Lao Độ Sai sang xin cái đầu
của vị vua nhân từ ấy. Lao Độ Sai tham tiền thưởng quá lớn, nên không quản ngại
đường xá xa xôi, sang nước ông vua Nhân Từ tu hạnh bố thí, xin đầu vua. Đến
nơi, thần giữ thành cản, không cho Bà La Môn vào thành, sau cùng cũng vào được
thành, gặp vua và xin đầu. Vua bằng lòng, tự cắt đầu dâng cho người Bà La Môn.
Vị này, hớn hở ôm đầu vua đem về, nhưng đi đến giữa đường, (có thể vì lòng hối
hận ray rứt, cũng có thể vì sự quả báo mà các hộ pháp hay chư Thiên phẫn nộ),
tim bị nổ tung mà chết. Đủ chứng tỏ rằng, với một vị tu hành có đức độ cao, các
vị quỉ thần theo hộ trì ghê gớm, không ai có thể dùng được của bố thí ấy, nếu
không đủ phước lực để hưởng. Nhưng ít có người phàm phu nào dám đến xin bố thí
như đầu vậy, nếu có, đều là những vị quỉ thần vương tới thị hiện để thử lòng vị
Bồ Tát ấy mà thôi, (như trong kinh Duy Ma Cật có nói rõ). Khi nào quí vị tu đến
mức độ có người đến xin đầu mình, mà lúc đó, trong tâm không kinh sợ, ngược lại
hớn hở vui mừng mà vội vã mang đầu cho ngay thì lúc đó quí vị đã rất cao rồi.
KINH:
Thái tử nói kệ bảo nàng Diệu Đức rằng:
Vì
thương sót chúng sanh.
Ta phát tâm bồ đề.
Ở trong vô lượng kiếp.
Tu tập nhất thiêt trí.
… (bỏ một đoạn
kinh đại khái ngài muôn đi trên con đường bồ tát dạo)…
Nàng thấy người đến xin.
Hoặc sanh lòng tham tiếc.
Tâm ta thường thích thí.
Nàng chớ trái lòng ta.
Nếu thấy ta thí đầu.
Chớ có sanh buồn khổ.
Nay ta bảo nàng trước.
Cho lòng nàng kiên cố.
Nhẫn đến chặt tay chân.
Nàng chớ trách người xin.
Nay nàng nghe lời ta.
Cần phải suy nghĩ kỹ.
Tất cả vật sở hữu.
Ta đều xả tất cả.
Nếu nàng thuận lòng ta.
Ta sẽ toại ý nàng.
GIẢNG: Sau khi vị Thái Tử nói những gì
chàng muốn làm, nhất là hạnh bố thí khi đi trên đường Bồ Tát, nếu nàng thuận
thì chàng sẽ nhận nàng. Vị nữ nhân này vội trả lời Thái Tử cũng bằng một bài kệ
dài, và rất hay, xin đọc lược ít phần:
KINH:
Trong
vô lượng kiếp hải.
Lửa địa ngục đốt thân.
Nếu ngài thương nạp tôi.
Cam tâm chịu khổ này.
Vô lượng chỗ thọ sanh.
Nát thân như vi trần.
Nếu ngài thương nạp tôi.
Cam tâm chịu khổ này.
Vô lượng kiếp đầu đội.
Núi Kim Cang lớn rộng.
Nếu ngài thương nạp tôi.
Cam tâm chịu khổ này.
Vô lượng biển sanh tử.
Đem thịt tôi bố thí.
Chỗ ngài thành Pháp Vương.
Nguyện cho tôi cũng vậy.
Nếu ngài thương nạp tôi.
Cho tôi làm chủ đó.
Đời đời ngài bố thí.
Nguyện thường đem tôi thí.
Vì thương chúng sanh khổ.
Mà phát tâm bồ đề.
Đã nhiếp chúng sanh rồi.
Cũng sẽ nhiếp thọ tôi.
GIẢNG: Nàng bảo với Thái Tử rằng: khi
ngài bố thí tôi, tôi rất hoan hỉ, vì sau này ngài thành Phật thì sẽ nhiếp thọ
tôi.
KINH:
Tôi chẳng
cầu giàu sang.
Chẳng tham vui ngũ dục.
Chỉ vì cùng tu hành.
Nguyện dùng Ngài làm chủ.
Mắt rộng dài xanh biếc.
Từ mẫn nhìn thế gian.
Chẳng móng tâm nhiễm trước.
Quyết thành đạo Bồ Tát.
Chỗ Thái Tử bước đi.
Đất mọc những bửu hoa.
Tất làm Chuyển Luân vương.
Xin ngài thương nạp tôi.
Tôi vừa mộng thấy Phật.
Diệu pháp bồ đề tràng.
Đức Phật ngồi dưới cây.
Vô lượng chúngvây quanh.
Tôi mộng thấy Như Lai.
Thân như núi Chân Kim.
Tay Phật xoa đầu tôi.
Thức dậy lòng hoan hỉ.
GIẢNG: Bài kệ này cũng dễ hiểu, nên tôi
không giảng nhiều, chỉ đọc quí vị nghe để tăng tín căn và thêm công đức. Sau
khi nàng Diệu Đức đồng ý với Thái Tử những gì chàng muốn, thì nàng liền rủ Thái
Tử đến gặp đức Phật, cả hai đều hớn hở đi…
KINH: Thái
Tử nghe danh hiệu Thắng Nhựt Thân Như Lai, rất hoan hỷ muốn được thấy Phật.
Thái Tử đem 500 châu ma ni rải trên Đồng Nữ, ban mão Diệu Tạng Quang Minh
Bửu và áo Hảo Diệm Ma Ni Bửu. Đồng Nữ Diệu Đức lòng chẳng rung động cũng không
lộ vẻ mừng, chỉ chắp tay cung kính chiêm ngưỡng Thái Tử mắt chẳng tạm rời.
GIẢNG: “Không lộ vẻ mừng…” là
vì sao? Tức là vị Đồng Nữ này có rất ít ngã, mà chỉ chắp tay cung kính nhìn
Thái Tử mắt không tạm rời. Sau đó, thân mẫu lại ca ngợi thêm về con mình. Tôi
xin đọc lược ít phần…
KINH:
Con
tôi thân nhu nhuyễn.
Dường như lụa cõi trời.
Tay nàng rờ chạm đến.
Bệnh đau đều trừ diệt.
Lỗ lông phát hương thơm.
Ngào ngạt không gì bằng.
Nếu ai được ngửi đến.
Đều ở nơi tịnh giới.
Màu da như chân kim.
Ngồi ngay trên hoa đài.
Chúng sanh nếu được thấy.
Hết oán phát tâm từ…
GIẢNG: Đại khái nói đến chánh báo của Đồng
Nữ đem nhiều lợi ích cho chúng sanh…
KINH: Lúc
đó Thái Tử và nàng Diệu Đức đem một ngàn thể nữ cùng quyến thuộc, ra khỏi vườn
Hương Nha, đến Đạo Tràng Pháp Vân Quang Minh, xuống xe đi bộ đến chỗ đức Phật.
Thấy đức Phật Thắng Nhựt thân đoan nghiêm tịch tịnh… Thái tử và nàng Diệu Đức mỗi
người cầm năm trăm bông sen báu cúng dường đức Phật…, Đức Phiệt thuyết kinh Phổ
Nhãn Đăng Môn, Thái Tử nghe xong ở trong tất cả pháp được tam muội hải.
GIẢNG: Trong kinh kể rất dài, tôi xin tóm
lược cho quí vị nghe nốt câu chuyện tiền thân của ngài Thích Nữ Cù Ba… Thái Tử
sau khi nghe Phật thuyết kinh thì được khoảng hai mươi thứ tam muội, còn nàng
Diệu Đức thì được “nan thắng hải tạng tam muội.” Sau khi lễ Phật,
cả hai cùng đi về. Vua cha mới hỏi Thái Tử rằng, ai cho con biết có đức Phật
thành Chánh Giác!? “Nàng Cụ Túc Diệu Đức nói cho con biết.” Sau
đó vua nghĩ ngợi một lúc rồi đến chầu đức Phật. Rồi ngài truyền ngôi cho Thái Tử.
Thái Tử lên ngôi làm Chuyển Luân Vương. Lúc bấy giơ,ợ có bảy báu tự bay đến,
trong đó có Bửu Nữ, và Bửu Nữ chính là nàng Cụ Túc Diệu Đức. Còn Vua cha xuất
gia, sau cũng đắc quả, thành Phật.
Đến đây, ngài Cù
Ba nói rằng, xưa kia Thái Tử chính là đức Thích Ca Mâu Ni hiện nay. Vua cha nay
chính là đức Bửu Hoa Phật. Thân mẫu Thiện Hiện ngày xưa cũng chính là thân mẫu
của ngài bây giờ. Nàng Diệu Đức chính là ngài, tức là Thích Nữ Cù Ba. Sau đó,
ngài còn kể thêm nhiều kiếp khác tiền thân của ngài nữa, và cúng dường bao
nhiêu Phật.
Thì đây, tôi xin đọc
một đoạn kinh để kết thúc vị thiện tri thức thứ 40 này. Đoạn này rất hay, để
quí vị hiểu chỗ quán sát, thân của Bồ Tát, và hiểu được thân chính là cõi. Đây
là lời ngài Cù Ba nói…
KINH:
Này thiện nam tử, trong Phật sát vi trần số kiếp ta quán thân Bồ Tát không biết
nhàm. Như người đa dục nam nữ hội họp ái nhiễm nhau sanh vô lượng vọng tưởng.
Cũng vậy, ta quán thân Bồ Tát, nơi mỗi mỗi lỗ chân lông, mỗi niệm thây vô lượng
vô biên thế giới rộng lớn, những sự an trụ, trang nghiêm, hình trạng, những
núi, đất, mây, danh hiệu, Phật xuất thế, những đạo tràng, chúng hội diễn thuyết
những khế kinh, những sự quán đảnh, các thừa, những phương tiện, những thanh tịnh…
GIẢNG: Ngài quán lỗ chân lông, quán hình
hài Bồ Tát lên đến mức tuyệt vời, ngài còn ví rằng, ngài quán thân Bồ Tát say
mê cũng như đôi nam nữ đa dục tương tư, ái nhiễm lẫn nhau, họ tưởng tượng nhiều
thứ về kẻ đối tượng không tạm rời… Cũng vậy, người tu quán thân vị Bồ Tát một
cách mạnh mẽ và say mê như thế. Dần dần thấy thân Bồ Tát rộng lớn như một cõi,
mỗi lỗ chân lông đều hiện mây quang minh, hiện vô lượng hóa thân. Đây, tôi xin
đọc tiếp:
KINH: Này
thiện nam tử, trong Phật sát vi trần số kiếp mỗi niệm xem thấy nơi mỗi chân
lông của Bồ Tát như vậy, chỗ đã đến không còn lại đến, chỗ đã thấy không còn lại
thấy, tìm biên tế đó trọn không thể được. Nhẫn đến thấy Thái Tử Tất Đạt ở trong
hoàng cung, thể nữ vây quanh, ta dùng sức giải thoát xem nơi mỗi chân lông
của Bồ Tát, thấy tất cả sự trong tam thế pháp giới.
GIẢNG: Khi đến kiếp sau cùng, ngài thị hiện
làm vợ của Đức Thích Ca Mâu Ni, sau đó ngài quán thân của Đức Mâu Ni lúc còn
làm Thái Tử, vui chơi trong cung với cung nữ. Quán thân như cảnh giới Hoa
Nghiêm vậy, nói đó có vô lượng quang minh và mỗi một lỗ lông có vô lượng thế giới.
Tôi xin nhắc lại là khi ta quán hình hài một người thì có thể quán theo mấy lối
được. Thứ nhất là ta nhìn theo lối phàm phu, lối đa dục nam nữ, nhớ lại sóng mắt
nụ cười, “niềm riêng nhớ ít tưởng nhiều…” (chính ra là không đẹp
lắm đâu), nhưng cứ nghĩ ra đủ các thứ đẹp. Đó là lối quán của phàm phu. Còn lối
quán thứ nhì là quán theo Thanh Văn, quán bất tịnh, thấy tất cả trong đó là đờm
rãi, bầy nhầy, thi trùng lổm nhổm. Thứ ba là quán cao hơn nữa, quán theo lối Bồ
Tát, thấy hình hài ấy chính là giải ngân hà, là thế giới võng, ở đây, tất cả vọng
tình đều chuyển thành Đại Bi.
Trong bài kệ cuối
cùng, ngài Cù Ba có nói rõ. Lúc này, trong một tiền thân khác của ngài, cũng có
một Thái Tử tên là Thiện Quang, ngài Thiện Quang xuất gia làm tăng, đi khất thực..
Đây, tôi xin đọc quí vị nghe…
KINH: Có
lúc nhân khất thực vào vương Đô Trí Thọ. Đi đứng rất an tường, tâm chánh trí chẳng
loạn. Trong thành có Cư Sĩ, hiệu là Thiện Danh Xưng, ta là con gái ông,
tên là Tịnh Nhựt Quang. Thấy thân tướng đoan nghiêm, lòng ta sanh luyến mến.
Khi Ngài khất thực nhà ta, lòng ta càng ái nhiễm, liền cởi ngay chuỗi ngọc,
chân châu để vào bát. Dầu vì tâm ái nhiễm, cúng dường Phật tử ấy, hai trăm năm
mươi kiếp, cũng chẳng đọa ác đạo…
GIẢNG: Lúc đó ngài làm con gái một vị trưởng
giả, thấy Thái Tử Thiện Quang thân tướng đoan nghiêm, lòng nàng sanh luyến mến.
Khi ngài đến khất thực nhà nàng, “lòng ta càng ái nhiễm…” do
túc duyên nhiều kiếp, nàng liền cởi ngay chuỗi ngọc để vào bát cúng dường. Dù
là vì tâm ái nhiễm cúng dường, nhưng từ đó về sau, hai trăm năm chục kiếp nàng
không bị đọa ác đạo. Chỗ này chúng ta phải hiểu tại sao thế? Một là vì vị Thái
Tử đó đã tu cao nên phước đức lớn quá. Hai là vì tuy có tâm ái nhiễm, nhưng
lòng vì đạo của nàng cũng chí thành và rất lớn do sự huân tập nhiều kiếp. Sau
ngài lại kể tiếp…
KINH: Hoặc
sanh nhà Thiên vương. Hoặc làm con Nhân vương. Hằng gặp ngài Thiện Quang, thấy
thân tướng diệu nghiêm. Sau đó quá hai trăm năm mươi kiếp kế tiếp, ta sanh nhà
Thiện Hiện, tên Cụ Túc Diệu Đức.
GIẢNG: Hai trăm năm mươi kiếp sau mới hóa
sanh vào nhà Thiện Hiện, làm Cụ Túc Diệu Đức rồi làm Bửu Nữ cho Thái Tử tức là
vua chuyển Luân vương sau này.
Sau đó lại lẵng đẵng
theo nhau mãi, chuyển dần tất cả tình đời thành tình đạo, tất cả vọng tưởng
thành bát nhã, tất cả vọng tình thành đại bi. Cuối cùng thị hiện làm vợ đức
Thích Ca Mâu Ni mà không có một chút tham dục nào, vì ngài đã là một vị Bồ Tát
rất cao khoảng mức Pháp Vân Địa. Đây, có một đoạn này cũng nên đọc…
KINH: Quán
Bồ Tát tam muội, một niệm nhập mười phương bất tư nghi sát hải, ta thấy các thế
giới, tịnh uế nhiều sai khác, nơi tịnh chẳng tham ưa, nơi uế chẳng ghét bỏ, thấy
khắp các thế giới, đức Phật ngồi đạo tràng, đều ở trong một niệm, phóng vô lượng
quang minh…. (bỏ một
đoạn kinh)…, ta quán thân Bồ Tát, vô biên kiếp tu hành, mỗi mỗi lỗ chân
lông, cầu đó chẳng thể được. Nơi mỗi mỗi chân lông, hiện bất khả thuyết cõi, địa,
thủy, hỏa, phong luân, đều đủ cả trong đó. Bao nhiêu sự kiến lập, bao nhiêu thứ
hình trạng, bao nhiêu thân, danh hiệu, vô biên thứ trang nghiêm. Ta thấy các
sát hải, bất khả thuyết thế giới, cũng thấy Phật trong đó, thuyết pháp dạy
chúng sanh. Chẳng biết thân Bồ Tát, và tất cả thân nghiệp, cũng chẳng biết tâm
trí, hành đạo trong nhiều kiếp…
GIẢNG: Sau khi kể cho Thiện Tài nghe xong
về những tiền kiếp của ngài, ngài liền bảo Thiện Tài đến gặp Ma Gia Phu Nhân, tức
là người mẹ thị hiện của Đức Phật ở nhân thế.
KINH: Thiện
Tài nhất tâm muốn đến chỗ Ma Gia Phu Nhân tức thời chứng được trí quán Phật cảnh
giới.
GIẢNG: Lúc này, Thiện Tài đắc thêm một
môn tam muội, nên được “trí quán Phật cảnh giới.” Đó là một thứ
pháp nhãn, nhìn trong các cảnh giới đều thấy ngài Ma Gia Phu Nhân.
KINH: Thiện
Tài tự nghĩ rằng, thiện tri thức này xa lìa thế gian an trụ nơi vô sở trụ, siêu
quá sáu trần, lìa tất cả chấp trước, biết đạo vô ngại, đủ pháp thân thanh tịnh,
dùng nghiệp như huyễn mà hiện hóa thân, dùng trí như huyễn mà quán thế gian,
dùng nguyện nhưhuyễn mà giữ gìn thân Phật. Theo thân ý thân.
GIẢNG: Nguyện của ngài Ma Gia là xin làm
mẹ của Chư Phật đản sanh. Ngài dùng “huyễn trí” để hiện ý sanh
thân.
KINH: Không
thân sanh diệt, không thân lai khứ…
GIẢNG: Thân của chúng ta là thân sanh diệt,
có đến có đi, còn thân của ngài Ma Gia là thân từ ý sanh ra, tức là thân huyễn
từ một tam muội hiện ra.
KINH: Chẳng
phải thân hư thiệt, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận. Có bao nhiêu tướng
đều là thân một tướng, thân rời hai bên, thân không chỗ tựa nương, thân vô cùng
tận, thân như ảnh hiện rời phân biệt…
GIẢNG: Đại khái là như vậy… Thiện Tài vừa
đi vừa suy nghĩ như thế. “Suy nghĩ” tức là quán chiếu đến ngài
Ma Gia, là vì diệu sắc thân của ngài phải quán thế nào để nhìn thấy thân vô tận,
thân chẳng sanh diệt, thân chẳng biến hoại v.v… Trong kinh nói, trụ xứ của Bồ
Tát rất sâu. Đối với ngài Cù Ba thì Thiện Tài trông thấy ngay, nhưng còn ngài
Ma Gia Thiện Tài phải quán lâu hơn. Song tùy từng vị, có vị thị hiện thế này,
có vị thị hiện thế khác.
KINH: (Thiện
Tài tiếp tục suy nghĩ…) hạng người như vậy, tôi làm sao được thân cận để kính
thờ cúng dường, để được cùng ở hầu quán sát dung mạo, nghe tiếng nói, suy nghĩ
lời dạy và nhận lãnh..
GIẢNG: Trong khi đi, Thiện Tài suy nghĩ
như thế, thì lại có vị Chủ Thành Thần hiện ở trên không trung rải hoa nói rằng..
KINH: Này
thiện nam tử, phải gìn giữ tâm thành, nghĩa là chẳng tham tất cả cảnh giới.
GIẢNG: Ngài Chủ Thành Thần này tên là Bửu
Nhãn, tức là chủ cái tâm (thành trì là tâm), ngài nói phải giữ
tâm mình không tham tất cả cảnh giới. Muốn tới cảnh giới siêu xuâ’t của ngài Ma
Gia thì cảnh giới thế gian này không được lưu luyến, không dính mắc, dù có thây
cảnh giới rất đẹp, hay thấy Thiên Nữ, Long Nữ v.v… rất đẹp cũng không dính mắc.
KINH: Phải
trang nghiêm tâm thành, nghĩa là chuyên ý xu cầu Phật thập lực…
GIẢNG: Lúc nào cũng nhớ nghĩ cầu Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, thập lực, thập bát pháp bất cộng v.v… nhất thiết chủng
trí, đặt tâm cao bao nhiêu thì mới vượt được thế gian này.
KINH: Phải
tịnh trị tâm thành…, phải thanh lương tâm thành, phải tăng trưởng tâm thành…,
phải nghiêm sức tâm thành…, phải chiếu diệu tâm thành…, (đại khái là phải làm thanh tịnh tâm thức
một cách rất chí thành. Xin bỏ một đoạn kinh…) phải biết tâm thành như huyễn,
nghĩa là dùng nhất thiết trí biết rõ những pháp tánh…
GIẢNG: Vị Chủ Thành Thần nói như thế còn
chưa đủ, lại có một Chư Thiên khác hiện ra nói nữa, nhắc nhở Thiện Tài thêm,
trước khi gặp được ngài Ma Gia…
KINH: Bấy
giờ có Thân Chúng Thần tên là Liên Hoa Pháp Đức và Diệu Hoa Quang Minh…
GIẢNG: Thân chúng thần là các vị thần có
nhiều thân.
KINH: Vô
lượng chư thần vây quanh sau trước, ra khỏi đạo tràng dừng ở không trung trước
mặt Thiện Tài dùng diệu âm thanh ca ngợi…
GIẢNG: Các Chư Thiên vây quanh Thiện Tài
ca ngợi Ma Gia Phu Nhân là ngài có diệu sắc thân như huyễn như thế…, như thế…
KINH: Ma
Gia Phu Nhơn từ bông tai phóng lưới quang minh vô lượng sắc tướng chiếu khắp vô
biên thế giới mười phương, cho Thiện Tài thấy tất cả Chư Phật. Lưới quang minh
đó hữu nhiễu thế gian giáp một vòng rồi xoay về chiếu đỉnh đầu Thiện Tài và vào
khắp lỗ lông trên thân Thiện Tài. Liền đó Thiện Tài chứng được tịnh quang minh
nhãn, vì lìa hẳn tất cả tối ngu si. Được ly ế nhãn…, được ly cấu nhãn…, được tịnh
huệ nhãn…, được vô ngại quang nhãn…, được phổ chiếu nhãn…, được phổ kiến nhãn…
GIẢNG: Trong kinh, còn nói rất nhiều thứ
nhãn, tôi chỉ đọc lược qua, đủ biết rằng ngoài đôi mắt thịt của chúng ta, còn rất
nhiều thứ nhãn khác. Danh từ trong kinh đôi khi làm người đọc dễ bị loạn, nhưng
tóm lại, tất cả những nhãn ấy đều gom lại trong những nhãn chính là thiên nhãn,
huệ nhãn, pháp nhãn rồi cuối cùng là Phật nhãn.
Tôi xin tạm chấm dứt
ở đây, xin hẹn quí vị lần sau…
KINH THỦ
LĂNG NGHIÊM
Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
THẬP ĐỊA
A-nan, thiện-nam-tử đó thông-suốt đúng-đắn đạo Đại-bồ-đề, chỗ
giác-ngộ thông với Như-lai, cùng-tột cảnh-giới của Phật; gọi là Hoan-hỉ-địa.
Tính khác nhập với đồng, tính đồng cũng diệt; gọi là Ly-cấu-địa.
Thanh-tịnh cùng-tột, sáng-suốt sinh ra; gọi là Phát-quang-địa.
Sáng-suốt tột, giác viên-mãn; gọi là Diệm-tuệ-địa.
Tất-cả cái đồng, cái khác, không thể đến được; gọi là
Nan-thắng-địa.
Bản-tính thanh-tịnh vô-vi, chân-như tỏ-lộ; gọi là Hiện-tiền-địa.
Tột bờ-bến chân-như; gọi là Viễn-hành-địa.
Một tâm chân-như; gọi là Bất-động-địa.
Phát cái dụng chân-như; gọi là Thiện-tuệ-địa.
A-nan, các Bồ-tát đó, từ đây về trước, công-hạnh tu-tập đã xong,
công-đức được viên-mãn, cũng gọi địa nầy là Tu-tập-vị; bóng từ, mây diệu, trùm
bể Niết-bàn; gọi là Pháp-vân-địa.
Comments
Post a Comment