ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



26.- CƯ SĨ TỲ SẮC CHI LA

 

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn Bồ Tát giải thoát "BẤT BÁT NIẾT BÀN TẾ" này.

 

 

Bấy giờ Thiện Tài đi lần về phương Nam, đến thành Thiện Ðộ, vào nhà CƯ SĨ TỲ SẮC CHI LA, đảnh lễ chân Cư sĩ, chắp tay thưa rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho. Cư sĩ nói :

Này thiện nam tử ! Ta được môn Bồ Tát giải thoát tên là "Bất bát Niết bàn tế".

Này thiện nam tử ! Ta chẳng nghĩ rằng : Ðức Như Lai đó đã nhập Niết bàn, đức Như Lai đó hiện nhập Niết bàn, đức Như Lai đó sẽ nhập Niết bàn.

Ta biết mười phương tất cả thế giới chư Phật Như Lai rốt ráo không có đức Phật nào nhập Niết bàn, chỉ trừ ra khi vì điều phục chúng sanh mà thị hiện thôi.

Này thiện nam tử ! Lúc ta mở cửa tháp của đức Chiên Ðàn Tòa Như Lai, ta liền được tam muội tên là "Phật chủng vô tận".

Này thiện nam tử ! Trong mỗi niệm ta nhập tam muội này, trong mỗi niệm ta biết được vô lượng sự thù thắng.

Thiện Tài thưa :

Bạch đức Thánh ! Tam muội đó, cảnh giới thế nào ?

Cư sĩ nói :

Nay thiện nam tử ! Ta nhập tam muội này, theo thứ đệ, thấy tất cả chư Phật ở thế giới này.

Như là thấy đức Ca Diếp Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật,Câu Lưu Tôn Phật, Thi Khí Phật, Tỳ Bà Thi Phật, Ðề Xá Phật, Phất Sa Phật, Vô Thượng Thắng Phật, Vô Thượng Liên Hoa Phật.

Trong khoảng một niệm, được thấy trăm đức Phật, ngàn đức Phật, thấy trăm ngàn đức Phật, thấy ức Phật ngàn ức Phật, thấy trăm ngàn ức Phật, thấy a giu đa ức Phật, thấy na do tha ức Phật. Nhẫn đến thấy bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vi trần số Phật.

Cũng thấy chư Phật đó lúc mới phát tâm gieo những căn lành, được thắng thần thông, thành tựu đại nguyện, tu hành diệu hạnh, đủ ba la mật, nhập Bồ Tát địa, được thanh tịnh nhẫn, xô dẹp quân ma thành Ðẳng Chánh Giác, quốc độ thanh tịnh, chúng hội đạo tràng, phóng đại quang minh, chuyển diệu pháp luân, thần thông biến hiện nhiều thứ sai biệt. Ta đều có thể thọ trì, có thể ghi nhớ, có thể quán sát phân biệt hiển thị tất cả.

Thuở vị lai đức Di Lặc Phật v.v.. tất cả chư Phật cũng như vậy.

Thiện tại đức Tỳ Lô Giá Na Phật v.v.. tất cả chư Phật cũng như vậy.

Như tại thế giới này, mười phương tất cả thế giới tất cả tam thế chư Phật, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát cũng đều như vậy.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn Bồ Tát giải thoát "BẤT BÁT NIẾT BÀN TẾ" này.

Như chư đại Bồ Tát dùng nhứt niệm trí biết khắp tam thế, một niệm vào khắp tất cả tam muội. Như Lai trí nhựt hằng chiếu tâm các Ngài. Nơi tất cả pháp không có phân biệt. Biết tất cả Phật thảy đều bình đẳng. Như Lai cùng ta và tất cả chúng sanh bìng đẳng không sai khác. Biết tất cả pháp tự tánh thanh tịnh, không tư lự, không động chuyển, mà có thể vào khắp tất cả thế gian, lìa những phân biệt, trụ Phật pháp ấn, đều có thể khai ngộ tất cả chúng sanh.

Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.

Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có tòa núi tên là Bổ Ðát Lạc Ca. Núi ấy có Bồ Tát tên là Quán Tự Tại.

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Cư sĩ liền nói kệ rằng :

 

Trên biển có núi tên Thánh Hiền.

Châu báu làm thành rất thanh tịnh

Hoa quả rừng cây đều sung mãn

Suối chảy ao mát đều đầy đủ.

Dũng mãnh Trượng Phu Quán Tự Tại

Vì độ chúng sanh ở núi này

Ngươi nên đến hỏi các công đức

Bồ Tát sẽ dạy đại phương tiện.

 

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Cư sĩ Tỳ Sắc Chi La, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.

 

Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


29 tháng Tư 1990

26.- CƯ SĨ TỲ SẮC CHI LA

 

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn Bồ Tát giải thoát "BẤT BÁT NIẾT BÀN TẾ" này.


Hôm nay là buổi thuyết giảng thứ 107 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này.

Trong lần trước, chúng tôi đã đi đến vị thiện tri thức thứ 25 là ngài Bà Tu Mật Đa.

Nhân thể, tôi cũng xin nói thêm về trường hợp của Bà Tu Mật Đa để quý vị có một ý nghĩ rõ ràng về một vấn đề rất phiền toái và hóc búa, nó khiến cho nhiều kẻ tu hành vấp phải, và rơi rụng lả tả như cách hoa đào. Đó là về vấn đề tình dục nam nữ, một vấn đề hiện giờ rất mập mờ trong nhiều tôn giáo. Có một số tôn giáo chủ chương dùng tình dục để đi vào đạo, dùng tình dục để đi đến giải thoát?! Ngay người Tây Tạng cũng vậy, họ có một “phái tay trái” và họ dùng “hành dục ấn,” tức là sự chung đụng nam, nữ để tiến tới giác ngộ. Quí vị có thể đọc những sách của vị Đạt Lai Lạt Ma cũng nói đến chuyện đó.

Ông nói rằng, “hành dục ấn” thì có thật, nhưng không dùng trực tiếp với người nữ ở ngoài mà dùng người nữ ở bên trong, (internal woman), tức là hành giả tưởng tượng ra một vị nữ nhân trong tâm thức rồi hành lạc với vị đó, dùng việc ấy để đi đến giải thoát. Nhưng tất cả những điều đó, theo tôi nghĩ, chỉ toàn là tà kiến thôi, vì thực ra, nếu nghĩ cho cùng thì tất cả những chủ trương quanh co đó chỉ vì người tu hành vẫn nuối tiếc khôn nguôi cái Dục Giới này mà thôi, chứ thực tu thì phải siêu quá Dục Giới và chuyện tình dục. Vì sao? Vì khoái lạc nam nữ là một thứ khoái lạc phù du, nhơ nhớp, hệ lụy ở mức độ thô kệch thấp nhất, tức là sắc ấm. Con đường tu chỉ là phải vượt những khoái lạc thô kệch phù du, để đạt tới những miền an lạc của tâm linh, miên viễn, không hệ lụy. Cường độ của an lạc này còn vượt gấp trăm ngàn lần niềm khoái lạc nam, nữ. Cũng bởi thế, nên những bậc tu hành cao có thể sống một mình trong rừng sâu chỉ để chìm trong những cơn an lạc của định. Tóm lại, cửa ải Dục Giới rất khó vượt, kẻ tu hành thường bị rơi rụng lả tả vì cửa ải này, và Ma Vương chỉ rình họ có kẽ hở để có cơ hội lọt vào thôi.

Nhân loại hiện nay chết chìm trong cơn cuồng vọng khoái lạc của thể chất, và không mấy tin về niềm An lạc kỳ diệu của tâm linh. Nhưng chính tâm linh là một GIỒNG SUỐI AN LẠC VÔ TẬN mà không mấy ai biết đến… Bởi vậy, phải ly sắc ấm và niềm khoái lạc ấy mới có thể nếm mùi An Lạc trong nhị thiền, tam thiền của thọ ấm và tưởng ấm. Rồi lại ly để bước vào niềm An Lạc vi diệu KHÔNG THỌ của Niết Bàn tịch tĩnh. Rồi lại LY để bước lên niềm DIỆU LẠC VÔ ĐỘNG trong biển Đại Tịch Diệt của Chư Như Lai. Đồng thời tăng trưởng đến vô cùng tận sức ĐẠI TỰ TẠI LỰC để biến hóa độ sanh.

Cho nên tất cả những phái gọi là … “tân tăng” đều chỉ là những kẻ hoa ngôn, xảo ngữ, đều rớt vào tà đạo, cõi của Ma Vương mà không hay biết. Hoặc có hay, biết thì vẫn mập mờ đánh lận con đen, và rất sợ ĐỌC KINH LĂNG NGHIÊM… Vì sao thế?! Vì nếu còn máu mủ tinh huyết bầy nhầy thì làm sao có thể đạt tới những tầng lớp sâu kín của tâm linh được? Vì vậy, nên Bồ Tát Bà Tu Mật Đa mới phải thị hiện làm dâm nữ cốt rửa sạch “ly tham dục tế” cho chúng sanh. Trong kinh hay nói ẩn, nên có nhiều người đọc kinh hay ngộ nhận. Như nói ngài Duy Ma Cật có vợ con, hay nói đến BàTu Mật Đa, hoặc trong kinh Đại định Thủ Lăng Nghiêm, có vị Bồ Tát đắc được như huyễn tam muội rồi, ngài lên chơi cung Ma thuyết pháp cho mấy trăm ma nữ nghe, trong kinh có kể ngài “du hí” với các ma nữ ấy v.v…, nên rất nhiều người ngộ nhận nghĩ rằng có thể chung đụng với người nữ được (vì trong kinh nói rõ thế mà!). Đó là một sự lầm lẫn rất lớn. Vì sự “du hí” ấy, đó không phải là du hí thường theo lối nam nữ của thế gian này, mà là du hý trong tam muội và tâm linh để thị hiện độ sanh mà thôi.

Ngày xưa, ngài Song khapa là vị trưởng môn của một phái Tây Tạng, ông từ chối lối tu theo “hành dục ấn,” vì đó không phải đường lối đi đến giải thoát. Vì vậy nên hiểu rằng xúc giác rất ghê gớm, ít người có thể vượt nổi. Còn trong kinh nói đến những chuyện thị hiện lại khác nữa, như ngài Bà Tu Mật Đa chỉ có cầm tay, nháy mắt thôi và không có đến việc gần gũi nam nữ, xuất tinh v.v… Những điểm này từ xưa ít có ai dám nói, nên ta phải phân biệt rõ sự đúng sai để có thể tiến tu.

BÂY GIỜ XIN ĐI VÀO VỊ THIỆN TRI THỨC THỨ 26.

KINH: Này thiện nam tử, phương Nam đây có thành Thiện Độ…

GIẢNG: Ta nên để ý tên các thành đều phần nhiều nói về cái tâm, và nói về cái bến sông. “Thiện Độ” ở đây là khéo đưa người qua sông sanh tử.

KINH: Trong thành ấy có cư sĩ Tỳ Sắc Chi La. Ông ấy thường cúng dường tháp của đức Chiên Đàn Tòa Như Lai.

GIẢNG: Cúng dường cái tháp thôi, trong đó có xá lợi của Đức Phật Chiên Đàn Tòa.

KINH: Thiện Tài đảnh lễ chân Bà Tu Mật Đa nữ…, đi lần về phương Nam đến thành Thiện Độ vào nhà cư sĩ Tỳ Sắc Chi La đảnh lễ chân cư sĩ chắp tay thưa rằng: Bạch đức thánh tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề…

GIẢNG: ở đây tôi xin nói thêm điểm này, từ trước đến nay, từ vị thiện tri thức đầu tiên đến vị thứ 26 phần nhiều đều thọ sanh làm người, nên khi Thiện Tài tới thì nhìn thấy rất dễ. Nhưng riêng ngài Đức Vân lúc đầu, Thiện Tài phải quán bảy ngày mới thấy ngài, vì tuy ngài thọ sanh làm người nhưng lúc bấy giờ Thiện Tài vẫn còn ở bậc sơ học, thiên nhãn chưa đủ nên phải quán bảy ngày mới thấy ngài Đức Vân. Nhưng sau đó, Thiện Tài càng ngày càng khá thêrn thì trong 25, 26 vị đầu Thiện Tài gặp rất dễ dàng, đến là trông thấy ngay. Nhưng từ vị thiện tri thức thứ 29 trở đi thì thường là những vị thị hiện trong một sắc thân vi diệu hơn, ngoại trừ một vài vị thị hiện thân người do lòng từ bi, (như ngài Quán Thế Âm và một vài vị khác). Như vị thiện tri thức thứ 29 là một vị Chủ Dạ Thần tên là Đại Thiên, rồi sau vị này có khoảng mười vị thị hiện làm nữ nhân mà trong đó có tám vị đều là Chủ Dạ Thần. “Chủ Dạ Thần” là những vị chủ ban đêm, những vị này rất khó nhìn thấy, đôi khi phải quán tưởng lâu mới thấy được. Thường các vị Chủ Dạ Thần có thân rất lớn, trùm cả hư không, trong thân các ngài có đủ tinh tú, trăng, sao… Nên phải quán tưởng lâu mới thấy ngài. Thường các vị chủ dạ thần gia trì cho chúng ta nhìn thấy ngài trong lúc ngủ nhiều hơn, mà phần đông đều thị hiện là nữ nhân. Nên ta đừng tưởng lầm rằng đạo Phật miệt thị nữ nhân, vì trong kinh Hoa Nghiêm kể rõ một loạt thiện tri thức toàn là nữ nhân mà vị nào cũng rất cao. Nên ta phải hiểu, ở mức độ thấp, Đức Phật nói người nữ nghiệp nặng, đa đoan quắt quéo để cảnh giác. Nhưng khi lên trên cao, người nữ lại bay bổng, nên chúng ta đừng nên nghiêng vào sự phân biệt cố chấp. Trong kinh Đại Bảo Tích kể, có nhiều vị nữ nhân rất ghê gớm, có thể ngồi nói chuyện ngang hàng với ngài Văn Thù.

Trở lại cái việc nhìn thấy một vị thiện tri thức hoặc Đức A Di Đà, đó là một vấn đề rất khó khăn, phải do túc duyên từ nhiều kiếp hoặc do công phu tu tập và lòng chí thành mới được gặp. Từ vị thiện tri thức thứ 29 đến vị thứ 42 thì tương đối hơi khó nhìn thấy, từ vị thứ 42 trở đi thì tương đối dễ nhìn thấy hơn vì các vị đó thị hiện làm người một cách bình thường nên khi Thiện Tài tới là trông thấy ngay. Nhưng đến vị thứ 53 là ngài Phổ Hiền thì khó ghê gớm, Thiện Tài phải quán tưởng rất lâu mới thấy được. Vì vậy, trong đạo Phật luôn luôn đi theo vòng trôn ốc, chỗ thì xuất gia hơn tại gia, vòng lên trên thì không cần phải xuất gia lắm, cao hơn nữa thì xuất gia hay tại gia cũng vậy thôi. Như căn cơ chúng ta bắt đầu rất thấp, muốn đắc quả A La Hán thì bắt buộc phải xuất gia, nhưng lên quá cái mức ấy thì xuất gia hay tại gia cũng đều được, vì tùy theo tâm thức để độ sanh… Cũng giống như việc nhìn thấy các vị thiện tri thức dễ hay khó, cứ một lớp nhìn thấy dễ, sau đó lại một lớp nhìn thấy khó, cứ thế chùng chùng lớp lớp, từng chu kỳ một mà bao giờ cũng chồng chất lên nhau. Đến ngài Di Lặc, Thiện Tài phải quán mấy ngày mới thấy, vì ngài Di Lặc tượng trưng cho tàng thức đương chuyển thành Bạch tịnh thức. Rồi đến ngài Văn Thù lại còn khó hơn nữa, Thiện Tài không nhìn thấy được ngài Văn Thù, ngài chỉ đứng xa 110 thành dơ tay xoa đảnh Thiện Tài thôi chứ không hiện, nên Thiện Tài không thể nhìn thấy ngài Văn Thù mà chỉ nhìn thấy cái tay của ngài Văn Thù thôi, vì ngài Văn Thù là Căn bản trí. Rồi đến ngài Phổ Hiền, Thiện Tài phải quán mãi mấy ngày mấy đêm mới thấy ngài Phổ Hiền ngồi cạnh, vì ngài Phổ Hiền tượng trưng cho Hạnh nguyện hải viên mãn. Vì vậy, chúng ta phải hiểu rằng, sở dĩ nhìn thấy được thiện tri thức hay không, một là do sức của mình thanh tịnh, có tâm nhãn nhìn thấy, vào được thức ấm, tức là tàng thức thứ 8. Hai là do sức gia trì của các ngài thì mới có thể thấy được. Vì các vị đại Bồ tát như ngài Quán Thế Âm, ngài Phổ Hiền, ngài Văn Thù v.v… trụ xứ của các ngài rất vi diệu, vì diệu sắc thân các ngài dệt bằng những quang minh rất vi diệu, nên nếu các ngài không gia trì thì không thể nào chúng ta thấy được ngài… Do đó pháp môn Tịnh Độ cũng là một thứ thiền nhưng có sức Đại Bi giúp đỡ, nên chúng ta không phải đi vào một con đường thiền quán chông gai, cần khổ nhiều ma chướng như những con đường thiền khác… Còn điểm thứ hai trên đại cương, chúng ta cũng cần phải biết là Thiện Tài luôn luôn đi về phương Nam, tức là đi vào nhân gian. Theo Mật Tông phương Nam tượng trưng cho sự độ sanh đến chỗ cực độ. Tuy nhiên, trong kinh kể Thiện Tài có hai lần đi trở về phương bắc. Lần đầu Thiện Tài đi về phương bắc để gặp vi thiện tri thức thứ 30, đó là ngài Địa Thần An Trụ, vì ngài ở chỗ Bồ Đề Đạo Tràng, lần thứ hai Thiện Tài lại trở về phương bắc để giữa đường gặp ngài Văn Thù, rồi cuối cùng gặp ngài Phổ Hiền ở ngay phương bắc tức là ở Bồ Đề Đạo Tràng, về phương Bắc tức là về nơi Tâm Tịch Diệt…

Trong bước đi của ngài Thiện Tài, chúng ta cần để ý xem ngài đã làm gì để được thấy các vị thiện tri thức đó, để ta biết sẽ phải làm gì để thấy được ngài Quán Thế Âm, hay Đức A Di Đà lúc ta sắp lâm chung.

Vì vậy lộ trình biện chứng của nhà Phật là một lộ trình xoáy trôn ốc mà càng ngày càng cao lên.

Trở về với kinh Hoa Nghiêm ở ngài cư sĩ Tỳ sắc Chi La, ngài chuyên tu cúng dường cái tháp trong đó có xá lợi của Phật Chiên Đàn Tòa.

KINH: Này thiện nam tử, ta được môn giải thoát tên là “Bất bát niết bàn tế.”

GIẢNG: “Bất bát niết bàn tế” nghĩa là không có ai vào niết bàn cả. Tế có nghĩa là một khoảng rất nhỏ bé vi tế, là khoảng chỗ nào đó. Thường chúng ta đọc kinh thấy có chư Phật đản sanh, lớn lên, thành đạo, thuyết pháp rồi nhập niết bàn v.v… Nhưng trong Hoa Nghiêm thì nói không có chư Phật nào vào Niết Bàn cả, vì sao? Vì tâm ngài lúc nào cũng trụ Niết Bàn, còn thân lúc nào cũng hiện bời bời ở nơi sanh tử.

KINH: Nầy thiện nam tử, ta chẳng nghĩ rằng Đức Như Lai đó đã nhập Niết Bàn, đức Như Lai đó hiện nhập Niết Bàn, đức Như Lai đó sẽ nhập Niết Bàn. Ta biết mười phương tất cả thế giới Chư Phật rốt ráo không có đức Phật nào nhập Niết Bàn, chỉ trừ ra khi vì điều phục chúng sanh mà thị hiện thôi.

Này thiện nam tử, lúc ta mở cửa tháp của đức chiên Đàn Tòa Như Lai, ta liền được tam muội tên là “Phật chủng vô tận.”

GIẢNG: Trong kinh Pháp Hoa cũng kể rằng, đức Phật nói rõ, ta không phải nhập Niết Bàn mà chỉ là thị hiện nhập Niết Bàn thôi, để dạy chúng sanh biết nhớ ta, biết khát vọng mà khởi tâm tu hành. Vì lúc nào, ngài cũng hóa thân nườm nượp để độ sanh. Ngài lúc nào cũng ở Niết Bàn, đồng thời lúc nào cũng ở sanh tử, vì thế mới gọi là Phật, (thiện thệ, khéo qua lại). Vì vậy, tôi vẫn hay nói đến sự song chiếu, thiện thệ. Đối với người ở trần gian phải thị hiện như thế, Đức Phật không thành chánh Giác ở nhân gian, vì trong kinh Tâm Địa Quán ngài nói rõ rằng: “Ta thành chánh Giác ở trên đảnh tầng trời Sắc Cứu Cảnh.” Ngài tới đó là vị Bồ Tát địa thứ mười, ngồi nơi Kim Cang Định trong bao nhiêu kiếp để thuyết pháp cho các Bồ Tát khác rồi thành chánh Giác ở đó. Sở dĩ ngài thị hiện thành Chánh Giác ở dục giới là để khích lệ loài người nghĩ rằng, vị đó là người mà thành Phật thì ta nay cũng đi tu, đến một ngày nào đó cũng thành Phật được. Nhưng thật ra, vị Bồ Tát bực thập địa ấy khi ở trên đảnh trời sắc Cứu Cánh ngồi trên bông liên hoa rất lớn, phóng hào quang khắp tất cả cõi, mời tất cả các vị Bồ Tát khác vân tập, thuyết pháp từ hạng sơ địa đến đệ cửu địa rồi vào Kim Cang Định và thành Chánh Giác ở đó. Còn việc ngài đản sanh, lớn lên, đi tu, thành Phật, vào Niết Bàn v.v… ở cõi nhân gian này đều chỉ là thị hiện. Tất cả những gì xảy ra trong nhân gian này đều chỉ là hình bóng mà thôi. Ngay cả đến một tai nạn xe hơi xảy ra cho mình, nó đã hiện trên bình diện thọ ấm trước, sau đó mới lọt xuống bình diện sắc ấm. Vì vậy, nếu người có tâm nhãn, họ sẽ nhìn thấy được trước tất cả những việc sẽ xảy ra. Nên phải hiểu tất cả đều chỉ là huyễn mộng, ảnh tượng mà thôi. Ngay đức Phật ra đời ở thế gian này cũng là ảnh tượng, nhưng vì chúng ta mang một thân tâm và nhãn căn thô kệch, nên chấp cái đó là thật có. Kẻ nào chưa tin, hiểu như vậy thì dù có đọc một trăm cuốn kinh cũng chỉ là tu quanh quẩn trong vòng hữu tướng thôi. Vì vậy, đức Phật mới bảo rằng, cõi này tạm gọi là cõi chứ không phải là cõi, vi trần chỉ tạm gọi là vi trần chứ không phải vi trần v.v… Do đó, nền biện chứng của nhà Phật như có vẻ mâu thuẫn, nên nhiều nhà ngoại đạo đều ngớ ra hết, than phiền rằng: “Sa Môn Cù Đàm ăn nói rối loạn, khi thì nói có ngã, khi lại nói không ngã.”

Trở lại ngài Tỳ sắc Chi La, ngài là một vị Bồ Tát khá lớn, ngài chuyên tu theo hạnh lễ lạy tháp của Đức Phật Chiên Đàn Tòa Như Lai, nên chứng môn tam muội biết rõ tất cả chư Như Lai không ai rốt ráo nhập Niết Bàn, vì lúc nào các ngài đều ở trong niết bàn và cũng đồng thời ở sinh tử để độ sanh.

Cũng giống như trong kinh Pháp Hoa, cái tháp đó có hai nghĩa. Nghĩa đen là có xá lợi của đức Phật đứng trong tháp và cũng có một vị bồ tát tới lui thờ cúng thật. Nhưng còn có một nghĩa bóng là tháp đó là cái vỏ ở ngoài, tượng trưng cho sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và ngay cả thức ấm rất vi diệu, nhưng vẫn là cái vỏ ở ngoài, còn ở trong là Xá Lợi, tức là Như Lai Tạng Xuất Triền, là Pháp thân, là Chân Tâm. Ngài mở tháp tức là ngài tu theo kinh Lăng Nghiêm, là tu như huyễn tam ma đề, đi ngược năm màn sương mù vào được diệu tâm ấy, cũng như gặp được xá lợi Phật. Lúc đó, ngài thấy được Pháp Thân Như Lai, ngài biết pháp thân ấy là Phật chủng vô tận, tất cả chư Phật đều khởi lên từ pháp thân ấy. Đồng thời, ngài thấy rõ Chư Phật vừa trụ Niết Bàn, vừa ở sanh tử, nên chẳng có Phật nào nhập niết bàn rốt ráo cả. Vì vậy ngài đắc được môn tam muội là “bất bát niết bàn tế.”

KINH: Này thiện nam tử, ta nhập môn tam muội này theo thứ đệ thấy tất cả chư Phật ở thế giới này. Như là thấy đức Ca Diếp Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Câu Lưu Tôn Phật, Thi Khí Phật, Tỳ Bà Thi Phật, Đề Xá Phật, Phất Sa Phật, Vô Thượng Thắng Phật, Vô Thượng Liên Hoa Phật.

GIẢNG: Hiền kiếp này có bốn vị Phật : Ca Diếp Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni, Câu Lưu Tôn và đức Thích Ca Mâu Ni Phật, còn các vị Thi Khí Phật, Tỳ Bà Thi Phật, Đề Xá Phật, Phất Sa Phật, Vô Thượng Thắng Phật v.v… là những Phật thuộc về quá khứ gọi là Trang Nghiêm Kiếp.

KINH: … Thuở vị lai, Đức Di Lặc Phật v.v…, tất cả Chư Phật cũng như vậy.

GIẢNG: Ngài thấy cả Phật quá khứ, Phật vị lai, Phật hiện tại. Có nghĩa rằng tam thế đối với ngài là một, hiện tiền ngay trước mắt.

KINH: Hiện tại đức Tỳ Lô Giá Na Phật v.v… tất cả chư Phật cũng như vậy.

GIẢNG: Ngài muốn nói rằng, những vị Phật quá khứ, hiện tại, vị lai, ngài đều thấy cả, mà không có vị Phật nào rốt ráo nhập niết bàn… Chúng ta cần nhớ thêm rằng trong hiền kiếp này, sẽ có một ngàn vị Phật ra đời. Trong quá khứ đã ra đời bốn vị rồi, kiếp thứ mười thì có đức Di Lặc là năm vị, rồi bẵng đi mấy kiếp, ( mỗi một kiếp là 16 triệu năm) không có Phật, đến kiếp thứ 15 mới có một vị Phật ra đời, rồi lại bặt đi cho đến kiếp thứ 20 thì có 994 vị Phật ra đời, vị Phật cuối cùng tên là Lâu Chí, sau đó sẽ đến kiếp hoại. Như vậy, ta hiểu rõ, tất cả chỉ là biến hiện để độ sanh.

Sau này khi kinh kể đến lúc Thiện Tài gặp ngài Di Lặc, thì ngài Di Lặc cũng đến mở cái tháp. Ngài “đàn chỉ” (búng ngón tay), là tháp mở. Nhưng “đàn chỉ” ở đây có nghĩa bóng là phủi bỏ tất cả những tập quán nhận thức suy xét thông thường của mình, những tâm tư, sự thấy nghe, cái mắt không nhìn thấy vọng duyên bên ngoài, tai không nghe tiếng, năm căn rút sâu vào đến thức ấm và cái tháp diệu trang nghiêm chính là Thức Âm Vi Diệu…

Comments

Popular posts from this blog