ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
6.- HẢI TRÀNG TỲ KHEO
Thiện Tài Ðồng Tử nhất tâm chánh niệm lời dạy của Giải Thoát
Trưởng giả, quán sát lời dạy của Trưởng giả. Ghi nhớ môn bất tư nghì Bồ Tát
Giải Thoát của Trưởng giả. Tư duy bất tư nghì Bồ Tát trí quang minh của Trưởng
giả. Thâm nhập bất tư nghì pháp giới môn của Trưởng giả. Xu hướng bất tư nghì
Bồ Tát phổ nhập môn của Trưởng giả. Thấy rõ bất tư nghì Như Lai thần biến của
Trưởng giả. Hiểu rõ bất tư nghì phổ nhập Phật độ của Trưởng giả. Phân biệt bất
tư nghì Phật lực trang nghiêm của Trưởng giả. Suy gẫm bất tư nghì Bồ Tát tam
muội giải thoát cảnh giới phần vị của Trưởng giả. Rõ thấu bất tư nghì thế giới
sai biệt cứu cánh vô ngại của Trưởng giả. Tu hành bất tư nghì Bồ Tát kiên cố
thâm tâm của Trưởng giả. Phát khởi bất tư nghì Bồ Tát đại nguyện nghiệp của Trưởng
giả.
Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam đến bờ Diêm Phù Ðề,
nước Ma Lợi, tìm HẢI TRÀNG TỲ KHEO.
Bèn thấy Hải Tràng Tỳ Kheo ngồi kiết già ở bên chỗ đi kinh hành, đang nhập tam
muội, bặt hơi thở, lìa tư giác, thân tâm bất động.
Từ dưới chân của Tỳ Kheo ấy hiện ra vô số muôn ngàn ức Trưởng
giả, Cư Sĩ, Bà La Môn. Ðại chúng này đều dùng nhiều đồ trang nghiêm để nghiêm
sức thân mình. Tất cả đều đội bửu quan, đeo minh châu, qua khắp tất cả thế giới
mười phương mưa tất cả châu bửu, tất cả chuỗi ngọc, tất cả y phục, tất cả đồ
uống ăn thượng vị đúng pháp, tất cả hoa, tất cả tràng hoa, tất cả hương, tất cả
hương thoa, tất cả đồ tư sanh theo sở thích. Ở tất cả chỗ cứu nhiếp những chúng
sanh nghèo cùng, an ủi những chúng sanh khổ não, đều làm cho hoan hỷ. Tâm ý thanh
tịnh. Thành tựu đạo Vô thượng Bồ đề.
Từ hai gối của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện trăm ngàn ức Sát Ðế
Lợi, Bà La Môn. Ðại chúng này đều thông huệ, nhiều sắc tướng, nhiều hình mạo,
nhiều y phục thượng diệu trang nghiêm, cùng khắp tất cả thế giới mười phương,
dùng ái ngữ và đồng sự nhiếp các chúng sanh.
Những là làm cho người nghèo được đầy đủ, người bệnh được
lành, người nguy được an, người kinh sợ được y tựa, người ưu sầu được sung
sướng. Lại dùng phương tiện để khuyến dụ họ, làm cho họ đều bỏ ác làm lành.
Từ khoảng eo lưng của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô lượng vô
số tiên nhân : hoặc mặc y phục bằng cỏ, bằng vỏ cây. Ðều cầm bình rửa, oai nghi
tịch tịnh, du hành thế giới mười phương. Ở trên hư không, dùng diệu âm ca ngợi
Như Lai. Diễn thuyết các pháp : hoặc diễn thuyết đạo thanh tịnh phạm hạnh, làm
cho họ tu tập điều phục các căn tánh. Hoặc nói các pháp đều không tự tánh, cho
họ quán sát phát sanh trí huệ. Hoặc nói pháp tắc ngôn luận thế gian. Hoặc lại
khai thị nhứt thiết trí phương tiện xuất yếu, làm cho họ theo thứ đệ đều tu tập
hạnh nghiệp của riêng mình.
Từ hai bên hông của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện bất tư nghì
Long, bất tư nghì Long nữ, thị hiện bất tư nghì thần biến của chư Long. Những
là mưa những mây hương thơm, mây hoa, mây tràng hoa, mây bửu cái, mây bửu phan,
mây diệu bửu trang nghiêm, mây như ý bửu, mây bửu anh lạc, mây bửu tọa, mây bửu
cung điện, mây bửu liên hoa, mây bửu quan, mây thiên thân, mây thể nữ, tất cả
đều bất tư nghì khắp hư không để trang nghiêm. Sung mãn chư Phật đạo tràng tất
cả thế giới mười phương để cúng dường, làm cho các chúng sanh đều hoan hỷ.
Từ tướng chữ "vạn" trước ngực xuất hiện vô số trăm
ngàn ức A Tu La Vương, thảy đều thị hiện bất tư nghì huyễn lực tự tại, làm chấn
động cả trăm thế giới. Tất cả nước biển tự nhiên sôi trào. Tất cả Sơn Vương tự
nhiên xung kích. Chư Thiên cung điện đều lay động. Quang minh của chư ma đều bị
che khuất. Chúng ma quân đều bị xô dẹp. Khiến khắp chúng sanh bỏ tâm kiêu mạng,
trừ tâm sân hại, phá núi phiền não, dứt các pháp ác, thêm lớn pháp vô tránh,
hằng hòa lành nhau. Lại dùng huyễn lực khai ngộ chúng sanh, làm cho họ diệt tội
ác, sợ sanh tử, khỏi các loài, lìa nhiễm trước. Khiến họ an trụ tâm Vô Thượng
Bồ Ðề, khiến họ tu tất cả hạnh Bồ Tát, khiến mạnh các môn Ba la mật, khiến nhập
tất cả bực Bồ Tát, khiến quán sát tất cả pháp môn vi diệu, khiến biết tất cả
phương tiện của chư Phật. Những việc làm trên đây cùng khắp pháp giới.
Từ trên lưng của Hải Tràng Tỳ Kheo, vì người đáng dùng Nhị
thừa để độ, xuất hiện vô số trăm ngàn ức Thanh Văn và Ðộc Giác. Vì người chấp
ngã mà nói pháp vô ngã. Vì người chấp thường mà nói tất cả thành pháp đều vô
thường. Vì người tham mà nói bất tịnh quán. Vì người sân ma nói từ tâm quán. Vì
người si mà nói duyên khởi quán. Vì người đẳng phần phiền não mà nói cảnh giới pháp
cùng trí huệ tương ưng. Vì người mến thích cảnh giới mà nói pháp vô sở hữu. Vì
người mến thích chỗ tịch tịnh mà nói pháp phát thệ nguyện lớn khắp lợi ích tất
cả chúng sanh. Những việc làm như vậy cùng khắp pháp giới.
Từ hai vai của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức
Dạ Xoa Vương, La Sát Vương : những hình mạo, những sắc tướng, hoặc cao hoặc
thấp đều đáng kinh sợ. Vô lượng quyến thuộc vây quanh. Chư Vương này thủ hộ tất
cả chúng sanh làm lành và các Hiền Thánh chúng hội Bồ Tát, người hướng chánh
trụ và người chánh trụ. Hoặc hiện làm thần Chấp Kim Cang thủ hộ chư Phật và chỗ
chư Phật ngự. Hoặc khắp thủ hộ thế gian : làm cho người hãi sợ được an ổn.
Người tật bệnh được lành. Người khổ não được hết khổ. Người có lỗi lầm thời ăn
năn. Người bị tai nạn thời khổ nạn. Lợi ích tất cả chúng sanh như vậy đều làm
cho họ bỏ sanh tử luân mà chuyển chánh pháp luân.
Từ nơi bụng của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện trăm ngàn ức Khẩn
Na La Vương, đều có vô số Khẩn Na La nữ trước sau vây quanh. Lại xuất hiện vô
số Càn Thát Bà Vương, đều có vô số Càn Thát Bà nữ trước sau vây quanh. Ðều trổi
vô số trăm ngàn thiên nhạc ca ngâm tán thán những pháp bửu tánh. Ca ngâm tán
thán chư Phật Bửu. Ca ngâm tán thán phát Bồ đề tâm. Ca ngâm tán thán tu Bồ Tát
hạnh. Ca ngâm tán thán môn thành Ðẳng Chánh Giác của tất cả chư Phật. Ca ngâm
tán thán môn chuyển pháp luân của tất cả chư Phật. Ca ngâm tán thán môn hiện
thần biến của tất cả chư Phật. Khai thị diễn thuyết môn nhập Niết bàn của tất
cả chư Phật. Khai thị diễn thuyết môn thủ hộ giáo pháp của tất cả chư Phật.
Khai thị diễn thuyết môn làm cho tất cả chúng sanh đều hoan hỷ. Khai thị diễn
thuyết môn nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Khai thị diễn thuyết môn hiển bài tất cả
pháp vi diệu. Khai thị diễn thuyết môn bỏ lìa tất cả chướng ngại. Khai thị diễn
thuyết môn phát sanh tất cả thiện căn. Tất cả như vậy đều cùng khắp thế giới
mười phương.
Từ trên mặt của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức
Chuyển Luân Thánh Vương, thất bửu đầy đủ, bốn đội binh vây quanh, phóng ánh
sáng đại xả, mưa vô lượng bửu làm cho người nghèo thiếu đều được no đủ và làm
cho họ bỏ hẳn sự trộm cắp. Thể nữ sinh đẹp vô số trăm ngàn đều đem xả thí không
tiếc, làm cho họ bỏ hẳn sự tà dâm; làm cho họ sanh lòng từ chẳng giết hại; làm
cho họ rốt ráo thường nói lời chân thật, chẳng dối phỉnh, chẳng luận đàm vô
ích; làm cho họ nói lời hòa giải vui thuận chẳng làm sự ly gián; làm cho họ nói
lời diệu dàng không có thô ác; làm cho họ thường diễn thuyết những nghĩa thậm
thâm nhất định minh liễu, chẳng nói lời vô nghĩa trau chuốt. Vì họ mà nói thiểu
dục cho họ trừ tham ái lòng không nhơ bợn. Vì họ mà nói đại bi cho họ trừ sân
hận tâm ý được thanh tịnh. Vì họ mà nói thật nghĩa khiến họ quán sát tất cả
pháp thâm nhập nhơn duyên, khéo rõ đế lý, nhổ gai tà kiến, phá núi nghi hoặc, trừ
diệt tất cả chướng ngại. Những việc làm như vậy đều đầy khắp pháp giới.
Từ hai mắt của Hải Tràng tỳ kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức
nhật luân chiếu khắp tất cả những đại địa ngục và những ác thú ,đều làm cho họ
khỏi khổ. Lại chiếu chặng giữa tất cả thế giới để trừ tăm tối. Lại chiếu chúng
sanh mười phương đều làm cho họ bỏ lìa ngu si ế chướng. Nơi quốc độ cấu trược
phóng thanh tịnh quang. Cõi nước bạch ngân phóng ánh sáng màu huỳnh kim. Nơi
cõi nước huỳnh kim phóng ánh sáng màu bạch ngân. Nơi cõi nước lưu ly phóng ánh
sáng màu pha lê. Cõi nước pha lê phóng ánh sáng màu lưu ly. Cõi nước xa cừ
phóng ánh sáng màu mã não. Cõi nước mã não phóng ánh sáng màu xa cừ. Cõi nước
đế thanh phóng ánh sáng màu nhật tạng ma ni vương. Cõi nước nhật tạng ma ni
vương phóng ánh sáng màu đế thanh. Cõi nước xích chơn châu phóng ánh sáng
nguyệt quang võng tạng ma ni vương. Cõi nước nguyệt quang võng tạng ma ni vương
phóng ánh sáng màu xích chơn châu. Cõi nước một thứ bửu làm thành phóng ánh
sáng màu nhiều thứ báu. Cõi nước nhiều thứ báu làm thành phóng ánh sáng màu một
thứ báu. Những ánh sáng này chiếu đến tâm rừng rậm của chúng sanh, làm xong vô
lượng sự nghiệp của chúng sanh, nghiêm sức tất cả cảnh giới thế gian, làm cho
các chúng sanh tâm được mát mẻ rất hoan hỷ. Những sự như vậy sung mãn pháp
giới.
Từ trong tướng bạch hào giữa chặng mày của Hải Tràng Tỳ Kheo
xuất hiện vô số trăm ngàn ức Ðế Thích dều tự tại nơi cảnh giới, trên đảnh có ma
ni bửu châu chiếu sáng tất cả các thiên cung điện. Chấn động tất cả Tu Di Sơn
Vương, giác ngộ tất cả chư Thiên chúng, khen sức phước đức, nói sức trí huệ,
sức sanh báo vui, sức trì chí, sức tịnh niệm, sức bền tâm Bồ đề đã phát, khen
thích thấy Phật khiến trừ ham muốn thế gian, khen thích nghe pháp khiến nhàm
cảnh thế gian, khen thích quán trí khiến tuyệt thế nhiễm, ngăn chiến trận của A
Tu La, dứt phiền não đấu tranh, diệt tâm sợ chết, phát nguyện hàng ma, hưng lập
chánh pháp, thành xong tất cả sự nghiệp của chúng sanh. Những việc làm như vậy
cùng khắp pháp giới.
Từ trên trán của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện trăm ngàn ức Phạm
Thiên sắc tướng đoan nghiêm thế gian không sánh kịp oai nghi tịch tịnh, lời nói
hay diệu, khuyên Phật thuyết pháp, khen Phật công đức làm cho các Bồ Tát đều
hoan hỷ, có thể làm xong vô lượng sự nghiệp cho chúng sanh, cùng khắp tất cả
thế giới mười phương.
Từ trên đầu của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô lượng Phật sát
vi trần số chư Bồ Tát đều dùng tướng hảo trang nghiêm nơi thân, phóng vô biên
quang nói các công hạnh. Những là tán thán bố thí khiến bỏ xan tham được các
diệu bửu trang nghiêm thế giới, xưng dương công đức trì giới khiến các chúng
sanh dứt hẳn những điều ác mà an trụ nơi giới đại từ bi của Bồ Tát. Nói tất cả
pháp hữu vi thảy đều như mộng, nói những dục lạc không có tư vị khiến các chúng
sanh rời sự ràng buộc của phiền não. Nói sức nhẫn nhục khiến các pháp tâm được
tự tại. Khen thân kim sắc khiến các chúng sanh lìa nhơ sân hận, khởi hạnh đối
trị tuyệt đường súc sanh. Khen hạnh tinh tấn khiến họ xa lìa thế gian phóng
dật, đều siêng tu vô lượng diệu pháp. Lại tán thán Thiền Ba la mật khiến tất cả
tâm được tự tại. Lại diễn thuyết Bát Nhã Ba la mật khai thị chánh kiến, khiến
các chúng sanh thích trí tự tại trừ những kiến chấp. Lại diễn thuyết những việc
làm tùy thuận thế gian, khiến các chúng sanh dầu lìa sanh tử mà ở nơi các loài
tự tại thọ sanh. Lại hiện thần thông biến hóa nói thọ mạng tự tại, khiến các
chúng sanh phát đại thệ nguyện. Lại diễn thuyết thành tựu sức tổng trì, xuất
sanh sức đại nguyện, sức tịnh trị tam muội, sức tự tại thọ sanh. Lại diễn
thuyết các thứ trí : như là trí biết khắp căn tánh của các chúng sanh, trí biết
khắp tất cả tâm hành, trí biết khắp Như Lai thập lực, trí biết khắp chư Phật tự
tại, những sự như vậy cùng khắp pháp giới.
Từ trên đảnh của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn
ức thân Như Lai. Thân đó không ai bằng, đủ các tướng hảo thanh tịnh trang
nghiêm, oai quang rực rỡ như tòa núi vàng vô lượng quang minh chiếu khắp mười
phương, pháp diệu âm thanh sung mãn pháp giới, thị hiện vô lượng sức thần
thông. Vì tất cả thế gian mà mưa pháp vũ : vì chư Bồ Tát ngồi Bồ đề đạo tràng
mà mưa pháp vũ bình đẳng biết khắp. Vì chư Bồ Tát ở ngôi quán đảnh mà mưa pháp
vũ nhập phổ môn. Vì chư Bồ Tát Pháp Vương Tử vị mà mưa pháp vũ phổ trang
nghiêm. Vì chư Bồ Tát đồng tử vị mà mưa pháp vũ kiên cố sơn. Vì chư Bồ Tát bất
thối vị mà mưa pháp vũ hải tạng. Vì chư Bồ Tát thành tựu chánh tâm vị mà mưa
pháp vũ phổ cảnh giới. Vì chư Bồ Tát phương tiện cụ túc vị mà mưa pháp vũ tự
tánh môn. Vì chư Bồ Tát sanh quý vị mà mưa pháp vũ tùy thuận thế gian. Vì chư
Bồ Tát tu hành vị mà mưa pháp vũ khắp bi mẫn. Vì chư Bồ Tát tân học mà mưa pháp
vũ tích tập tạng. Vì chư Bồ Tát sơ phát tâm mà mưa pháp vũ nhiếp chúng sanh. Vì
chư Bồ Tát tín giải mà mưa pháp vũ vô tận cảnh giới khắp hiện tiền. Vì Sắc giới
các chúng sanh mà mưa pháp vũ phổ môn. Vì chư Phạm Thiên mà mưa pháp vũ sanh
lực. Vì chư ma chúng mà mưa pháp vũ tâm tràng. vì chư Thiên Hóa Lạc mà mưa pháp
vũ tịnh niệm. Vì chư Thiên Ðâu Suất ma mưa pháp vũ sanh ý. Vì chư Thiên Dạ Ma
mà mưa pháp vũ hoan hỷ. Vì chư Thiên Ðao Lợi mà mưa pháp vũ mau trang nghiêm
cõi hư không. Vì chư Dạ Xoa Vương mà mưa pháp vũ hoan hỷ. Vì chư Càn Thát Bà Vương mà mưa pháp vũ kim cang luân. Vì chư A Tu La Vương mà mưa pháp vũ đại
cảnh giới. Vì chư Ca Lâu La Vương mà mưa pháp vũ vô biên quang minh. Vì chư
Khẩn Na La Vương mà mưa pháp vũ tất cả thế gian trí thù thắng. Vì chư Nhơn
Vương mà mưa pháp vũ không say đắm. Vì chư Long Vương mà mưa pháp vũ hoan hỷ
tràng. Vì chư Ma Hầu La Già Vương mà mưa pháp vũ bất hưu tức. Vì các chúng sanh
địa ngục mà mưa pháp vũ chánh niệm trang nghiêm. Vì các súc sanh mà mưa pháp vũ
trí huệ tạng. Vì các chúng sanh cõi Diêm La Vương mà mưa pháp vũ vô úy. Vì các
chúng sanh ở xứ ách nạn mà mưa pháp vũ phổ an ủy. Ðều làm cho tất cả chúng sanh
được vào chúng hội Hiền Thánh. Những sự như vậy sung mãn pháp giới.
Lại nơi tất cả lỗ lông trên thân của Hải Tràng tỳ Kheo, mỗi
mỗi đều phóng ra vô số Phật sát vi trần số quang minh võng. Mỗi mỗi quang minh
võng đủ vô số sắc tướng, vô số trang nghiêm, vô cảnh giới, vô số sự nghiệp,
sung mãn tất cả thế giới mười phương.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử nhất tâm quán sát Hải Tràng Tỳ Kheo
lòng rất khát ngưỡng. Ghi nhớ tam muội giải thoát của Tỳ kheo. Tư duy bất tư
nghì Bồ Tát tam muội của Tỳ kheo. Tư duy bất tư nghì phương tiện lợi ích chúng
sanh của Tỳ kheo. Tư duy bất tư nghì vô tác dụng phổ trang nghiêm môn của Tỳ
kheo. Tư duy trí thanh tịnh trang nghiêm pháp giới của Tỳ kheo. Tư duy trí thọ
Phật gia trì của Tỳ kheo. Tư duy sức tự tại xuất sanh Bồ Tát của Tỳ kheo. Tư
duy sức đại nguyện kiên cố Bồ Tát của Tỳ kheo. Tư duy sức thêm rộng Bồ Tát hạnh
của Tỳ Kheo Hải Tràng.
Thiện Tài đồng tử đứng tư duy quán sát như vậy qua một ngày
đêm, nhẫn đến bảy ngày đêm, nửa tháng, một tháng, đến sáu tháng, lại qua sáu
ngày nữa Hải Tràng Tỳ Kheo mới xuất tam muội.
Thiện Tài đồng tử khen rằng : Bạch đức Thánh ! Hy hữ kỳ đặc,
tam muội như thế rất là sâu xa, tam muội như vậy rất là quảng đại, tam muội như
vậy cảnh giới vô lượng, tam muội như vậy thần lực khó nghĩ, tam muội như vậy
quang minh không gì bằng, tam muội như vậy trang nghiêm vô số, tam muội như vậy
oai lực khó chế ngự, tam muội như vậy cảnh giới bình đẳng, tam muội như vậy
chiếu khắp mười phương, tam muội như vậy lợi ích vô hạn, vì có thể trừ diệt vô
lượng khổ cho tất cả chúng sanh. Như là làm cho tất cả chúng sanh lìa khổ do
tham, khỏi khổ địa ngục, súc sanh, đóng cửa ách nạn, mở đường nhơn thiên, làm
cho nhơn thiên hoan hỷ. Làm cho họ thích thiền cảnh giới. Có thể làm cho tăng
trưởng sự vui hữu vi. có thể vì họ mà hiển bày sự vui giải thoát. Có thể vì họ
dẫn phát tâm Bồ đề. Có thể khiến tăng trưởng hạnh phước trí. Có thể khiến tăng
trưởng tâm đại bi. Có thể làm cho sanh khởi sức đại nguyện. Có thể làm cho minh
liễu đạo Bồ Tát. Có thể làm cho trang nghiêm trí cứu cánh. Có thể làm cho xu
nhập cảnh Ðại thừa. Có thể làm cho chiếu liễu hạnh Phổ Hiền. Có thể làm cho
chứng được trí quang minh của các bậc Bồ Tát. Có thể làm cho thành tựu các hạnh
nguyện của tất cả Bồ Tát. Có thể làm cho an trụ trong cảnh giới Nhứt thiết
chủng trí.
Bạch đức Thánh ! Tam muội này tên là gì ?
Hải Tràng Tỳ Kheo nói :
Nầy thiện nam tử ! Tam muội đây tên là "Phổ nhãn xả
đắc". Lại tên là " Bát Nhã Ba la mật cảnh giới thanh tịnh quang
minh". Lại gọi là "Phổ trang nghiêm thanh tịnh môn".
Này thiện nam tử ! Ta do tu tập Bát Nhã Ba la mật nên được tam
muội phổ trang nghiêm thanh tịnh này và trăm vạn vô số tam muội.
Thiện Tài đồng tử thưa :
Bạch đức Thánh ! Cảnh giới rốt ráo của tam muội này chỉ như
vậy thôi ư ?
Hải Tràng Tỳ Kheo nói :
Này thiện nam tử ! Lúc nhập tam muội này, thời rõ biết tất cả
thế giới không chướng ngại. Qua đến tất cả thế giới không chướng ngại. Vượt qua
tất cả thế giới không chướng ngại. Trang nghiêm tất cả thế giới không chướng
ngại. Tu trị tất cả thế giới không chướng ngại. Nghiêm tịnh tất cả thế giới
không chướng ngại. Thấy tất cả Phật không chướng ngại. Quán tất cả chư Phật oai
đức quảng đại không chướng ngại. Biết tất cả chư Phật thần lực tự tại không
chướng ngại. Chứng tất cả chư Phật quảng đại lực không chướng ngại. Nhập tất cả
chư Phật những công đức hải không chướng ngại. Thọ tất cả chư Phật vô lượng
diệu pháp không chướng ngại. Nhập trong tất cả Phật pháp tu tập diệu hạnh không
chướng ngại. Chứng trí tất cả chư Phật chuyển pháp luân bình đẳng không chướng
ngại. Nhập tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng không chướng ngại. Quán Phật
pháp mười phương không chướng ngại. Ðại bi nhiếp thọ chúng sanh mười phương
không chướng ngại. Thường khởi đại từ sung mãn mười phương không chướng ngại.
Thấy thập phương chư Phật lòng không nhàm đủ, không chướng ngại. Nhập tất cả
chúng sanh hải không chướng ngại. Biết căn tánh hải của tất cả chúng sanh không
chướng ngại. Biết những căn sai biệt trí của tất cả chúng sanh không chướng
ngại.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết một “BÁT NHÃ BA LA MẬT TAM MUỘI
QUANG MINH” này. Còn như chư Bồ Tát nhập trí huệ hải, tịnh pháp giới cảnh, đạt
tất cả thú, khắp vô lượng cõi, tổng trì tự tại, tam muội thanh tịnh, thần thông
quảng đại, biện tài vô tận, khéo nói các địa, làm chỗ nương cho chúng sanh, ta
làm sao biết được những diệu hạnh đó, biện được công đức đó, rõ được chỗ làm
đó, tỏ được cảnh giới đó, tột được nguyện lực đó, nhập được yếu môn đó, đạt
được sở chứng đó, nói được đạo phần đó, trụ được tam muội đó, thấy được tâm
cảnh đó, chứng được bao nhiêu trí huệ bình đẳng đó.
Này thiện nam tử ! Từ dây qua phương Nam có một xứ tên là Hải
Triều. Xứ đó có khu viên lâm tên là Phổ Trang Nghiêm. Trong viên lâm đó có Ưu
bà di tên là Hưu Xã. Ngươi đến đó hỏi Ưu bà di : Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh
? Thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử ở chỗ Hải Tràng Tỳ Kheo được thân
kiên cố, được của diệu pháp, nhập thâm cảnh giới, trí huệ sáng suốt, tam muội
chiếu sáng, trụ thanh tịnh giải, thấy pháp thậm thâm, tâm an trụ trong các môn
thanh tịnh, trí huệ quang minh sung mãn mười phương.
Thiện Tài đồng tử rất vui mừng hớn hở vô lượng. Năm vóc gieo xuống đất đảnh lễ chân Hải Tràng Tỳ Kheo, hữu nhiễu vô lượng vòng, cung kính chiêm ngưỡng tư duy quán sát ngậm ngùi luyến mộ. Nhớ danh hiệu của Hải Tràng Tỳ Kheo. Tưởng dung nhan cử chỉ của Hải Tràng Tỳ Kheo. Ghi âm thanh của Hải Tràng Tỳ Kheo. Suy gẫm tam muội của Hải Tràng Tỳ Kheo và đại nguyện cùng cảnh giới. Thọ lấy trí huệ quang minh thanh tịnh của Hải Tràng Tỳ Kheo, sao đó từ tạ mà đi.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
18 tháng Ba 1990
6.- HẢI TRÀNG TỲ KHEO
Kinh:
Thiện
Tài Đồng Tử đi lần qua phương Nam đến bờ Diêm Phù Đề, nước Ma Lợi, tìm Hải
Tràng Tỳ Kheo.
Bèn thấy
Hải Tràng Tỳ Kheo ngồi kiết già ở bên chỗ đi kinh hành, đang nhập tam muội,
bặt hơi thở, lìa tư giác, thân tâm bất động.
Giảng:
Thiện Tài đến đó
thấy một vị Tỳ Kheo đương ngồi trong tam muội. Kinh kể tất cả những hóa thân bời
bời của ngài Hải Tràng Tỳ Kheo, ở ngài Giải Thoát Trưởng Giả thứ năm dạy Thiện
Tài quán như huyễn, trung đạo song chiếu, sau đó lại chì đến ngài Hải Tràng để
dạy cho Thiện Tài cách hóa, hiện vô lượng hóa thân. Tức là sau
khi quán chiếu như huyễn, sẽ được thần thông rồi hiện vô lượng
hóa thân. Tôi xin đọc một đoạn kinh tả ngài Hải Tràng Tỳ Kheo nhập tam muội…
Kinh:
Từ dưới
chân của Tỳ Kheo ấy hiện ra vô số ngàn ức Trưởng Giả, Cư Sĩ, Bà La Môn. Đại
chúng này đều dùng nhiều đồ trang nghiêm để nghiêm sức thân mình. Tất cả đều đội
bửu quan, đeo minh châu qua khắp tất cả thế giới mười phương, mưa tất cả châu bửu,
tất cả chuỗi ngọc, tất cả y phục, tất cả đồ uống ăn thượng vị đúng pháp, tất cả
hoa, tất cả tràng hoa, tâ’t cả hương, tất cả hương thoa, tất cả đồ tư sanh theo
sỗ thích…
Giảng:
“Từ dưới chân
ngài…,” tức là từ chỗ thấp nhát hiện ra vô lượng những hóa thân đều là Cư Sĩ,
Trưởng Giả, Bà La Môn. Những hóa thân bay đi mười phương làm mưa những thứ đồ cần
thiết cho chúng sanh…
Kinh:
Từ hai
gối của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện trăm ngàn ức sát đế lợi, Bà La Môn. Đại
chúng này đều thông huệ, nhiều sắc tướng nhiều hình mạo, nhiều y phục thượng diệu
trang nghiêm, cùng khắp tất cả thế giới mười phương, dùng ái ngữ và đổng sự nhiếp
các chúng sanh.
Giảng:
Quí vị nên để ý, vị
này hiện hóa thân từ dưới chân lên cao dần, rồi đến hai gối, eo lưng, hông, để
độ sanh từ dưới thấp lên đến cao.
Kinh:
Từ khoảng
eo lưng của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô lượng vô số tiên nhân…
Giảng:
Ngài Hải Tràng Tỳ
Kheo hóa ra vô số tiên nhân để bay đi các nơi thuyết những pháp thanh tịnh.
Kinh:
Từ hai
bên hông của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện bất tư nghì Long, bất tư nghi Long Nữ…
Giảng:
Thường thường các
chư Long này hay hiện thần biến, mây bửu, cung điện, mưa, mây bửu phan, mây diệu
bửu trang nghiêm v.v…
Kinh:
… Từ
tướng chữ “Vạn” trước ngực, xuất hiện vô số trăm ngàn ức A Tu La Vương…
Giảng:
Các ngài A Tu La
Vương thường thích tu thần thông biến hóa, đồng thời, loài A Tu La rất kiêu mạn.
Nhưng các vị này, trong kinh tả sau khi đã dẹp được kiêu mạn, thì bay đi các
nơi để giúp chúng sanh dẹp bớt kiêu mạn. Mỗi loài có những hạnh nguyện riêng,
và tùy theo các loài mà ngài Hải Tràng hiện hóa thân để độ sanh.
Kinh:
…Từ
trên vai của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức Dạ Xoa Vương, La
Sát Vương…
Giảng:
Dạ Xoa Vương, La
Sát Vương là những vị quĩ thần lớn. Các loài La Sát và Dạ Xoa ở dưới thấp thường
hay bắt người để ăn thịt, còn các ngài này đã là những vị vương chủ rổi, nên
các ngài bay đi để giúp chúng sanh đỡ sụ kinh sợ, làm đủ những công hạnh độ
sanh.
Kinh:
Hoặc
khắp thủ hộ thế gian làm cho người được an ổn, người tật bệnh được lành…
Giảng:
Vì vậy, ta cần hiểu
rằng trong pháp giới này, có rất nhiều vị thần thủ hộ cho những người có thiện
tâm và các vị tu hành.
Kinh:
…Từ
nơi bụng của Hải Tràng Tỳ Kheo xuâthiện trăm ngàn ức Khẩn Na La Vương…, Càn
Thát Bà Vương…,
Giảng:
Nếu chúng ta ngồi
đây mà tán thán những thần thông của chư Phật thì được công đức rất nhiều…
Kinh:
…Từ
hai mắt của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức Nhật Luân…
Giảng:
Những vị hóa thân
này bay đi khắp nơi để giúp chúng sanh bớt những si ám…
Kinh:
…Từ
trong tướng bạch hào giữa chặng mày của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số
trăm ngàn ức Đế Thích đều tự tại nơi cảnh giới…
Giảng:
Các vị hóa thân
này, cũng hóa hiện làm vị trời Đế Thích, bay đi các nơi để độ sanh cho những vị
trên cõi thiên, ở đây, tôi chỉ xin nói lên những ý chính, không thể nói hết được,
chỉ giúp quí vị hiểu khoảng chừng 3 phần, còn 7 phần thì quí vị phải tự tìm hiểu
lấy, về nhà đọc thêm kinh sách và suy tư để hiểu rõ hơn. Mà lời giảng của tôi
chỉ có thể giúp đỡ cho những vị nào đã chịu khó đọc rồi độ hai lần, mà tốt hơn
nữa là phải suy tư về kinh, phải khổ sở, loay hoay, thắc mắc v.v… thì khi nghe
giảng mới có thể lĩnh hội được nhiều. Còn nếu chỉ đến chùa, nghe sơ sơ, thì
cũng có lợi đây, nhưng đó chỉ là trồng những thiện căn về sau thôi. Vì kinh dài
quá, không thể nói hết những chi tiết được, mà dù tôi có cố nói hết cho quí vị
nghe nhưng nếu không suy tư thì cũng chẳng được lợi gì mấy. Phải do nơi quý vị
một phần lớn mới được. Mà trong pháp giới này, chư Phật và chưThần Linh lớn đều
tôn trọng Bồ Đề Tâm và nền giáo lý cao siêu nhất Giáo lý của các tôn giáo khác
cũng lớn, nhưng chưa phải là rốt ráo. Khi một hành giả thấm được giáo
lý nhất như tự tâm biến hiện thì vị đó chắc sẽ được sức gia trì của chư Phật,
chư Đại Bồ Tát. Thì đây, xin đọc tiếp kinh…
Kinh:
Lúc đó
Thiện Tài Đổng Tử nhất tâm quán sát Hải Tràng Tỳ Kheo lòng rất khát ngưỡng,
ghi nhớ tam muội giải thoát của Tỳ Kheo. Tư duy bất tư nghì Bồ Tát tam muội của
Tỳ Kheo. Tư duy bất tư nghì phương tiện lợi ích chúng sanh của Tỳ Kheo… (Bỏ một đoạn kinh nói về sự tư duy của
Thiện Tài về những tam muội bất tư nghi của Tỳ Kheo Hải Tràng…) …Thiện Tài Đồng
Tử đứng tư duy quán sát như vậy qua một ngày một đêm, nhẫn đến bảy ngày bảy
đêm, nửa tháng, một tháng, đến sáu tháng, lại qua sáu ngày nữa Hải Tràng Tỳ
Kheo mới xuất tam muội…
Giảng:
Thực sự, khi tôi đọc
kinh nói về thời gian tôi cũng không dám chắc ý lắm, vì thời gian trong kinh thật
khó có thể nói rõ ràng, khi thì rất dài, khi thì rất ngắn, một kiếp có thể thu
lại bằng một sát na, hoặc một sát na kéo dài ra nhiều kiếp. Cũng như đoạn sau
này, khi Thiện Tài đến gặp vị thiện tri thức Thiện Kiến, ngài Thiện Kiến nói rằng,
ta còn rất trẻ mới xuất gia chưa được bao lâu, nhưng ngài lại nói ngay rằng,
trong kiếp này ta tu qua bao nhiêu ức-na-do-tha đức Phật, tu bất khả thuyết, bất
khả thuyết thời gian. Nên trong kinh bao giờ cũng nói hai nghĩa, một nghĩa theo
thế gian, một nghĩa theo tâm thức sâu của vị đó. Vì đối với
người thế gian, ngài mới có độ ba mươi tuổi, mới xuất gia, nhưng trong tâm thức
ngài tu không biết bao nhiêu kiếp rồi. Mà trong phẩm nhập pháp giới này, có rất
nhiều đoạn nói về thời gian một cách hư ảo như thế, nên ta chỉ có thể đoán chừng
và dõi theo dữ kiện để hiểu phần nào mà thôi…
Kinh:
Thiện
Tài Đồng Tử khen rằng: Bạch đức Thánh, hy hữu kỳ đặc, tam muội như thế rất là
sâu xa, tam muội như vậy rất là quảng đại, tam muội như vậy cảnh giới vô lượng,
tam muội như vậy thần lực khó nghĩ, tam muội như vậy quang minh không gì bằng
v.v… (Bỏ một đoạn kinh
nói về Thiện Tài tán thán về sức tam muội của ngài Hải Tràng Tỳ Kheo)… Bạch
đức Thánh, tam muội này tên là gì? Hải Tràng Tỳ Kheo nói: Này thiện nam tử, tam
muội đây tên là “phổ nhãn xả đắc.” Lại tên là “Bát Nhã Ba La Mật cảnh giới
thanh tịnh quang minh.” Lại gọi là phổ trang nghiêm thanh tịnh môn…
Giảng:
Thì đây, tôi giảng
lại từng chữ trong tên của tam muội này. “Bát nhã ba la mật cảnh giới
thanh tịnh quang minh.” “Bát nhã ba la mật” là thuộc về bát nhã, nhưng
đồng thời đi kèm theo là “cảnh giới thanh tịnh” tức là thuộc về đại bi (vì có cảnh
giới và có quang minh), nên nếu không để ý thì cứ tưởng rằng ngài Hải Tràng chỉ
dạy bát nhã thôi. Nhưng không phải đúng như vậy, ở đây, ngài dạy Thiện Tài song
chiếu và hiện tướng để đi vào diệu hữu. Đồng thời đi vào bát
nhã rất sâu, mà vẫn khởi đại bi để tạo những cảnh giới thanh tịnh quang minh độ
sanh. Tam muội này còn có một tên khác là “phổ trang nghiêm thanh tịnh môn,” là
tạo nên những cảnh giới trong tâm thức, rồi phổ những cảnh giới đó vào pháp giới
để trang nghiêm.
Kinh:
Này
thiện nam tử, ta do tu tập bát nhã ba la mật nên được tam muội phổ trang nghiêm
thanh tịnh này và trăm vạn vô số tam muội.
Giảng:
Kinh không bao giờ
quên cả, vừa nói “bát nhã ba la mật” bèn đi liền theo sau là “phổ trang nghiêm”
tức đại bi. Lúc này, Thiện Tài Đồng Tử nói một câu mà tôi phải nghĩ mãi mới ra,
ngài hỏi một câu khá… buồn cười.
Kinh:
Bạch đức
Thánh, cảnh giới rốt ráo của tam muội này chỉ như vậy thôi ư?
Giảng:
Thế nghĩa là sao?
Có phải Thiện Tài… chê ngài Hải Tràng hay không? Ở đây, ý Thiện Tài muốn nói rằng:
“con đã trông thấy ngài xuất hiện hóa thân bời bời trăm ức na do tha, vô lượng
nhiều như thế hóa thân như vậy, con nghĩ rằng không biết đó có phải tất cả cảnh
giới của pháp giới này chăng? Vì con thấy ngài hiện tất cả hóa thân của các
chúng hữu tình thôi, còn những cảnh y báo thì sao? Ngài có hiện những cái đó
không??” Đó là ý nghĩa câu hỏi của Thiện Tài như vậy. Ngài Hải Tràng Tỳ Kheo
đáp rằng: Không, như vậy không phải là hết đâu…
Kinh:
Này thiện nam tử, lúc nhập tam muội này, thời rõ biết tất cả thế giới không chướng
ngại.
Giảng:
Ỷ ngài muốn nói rằng,
ta hiện tam muội như thế thôi chính thật ta biết rõ tất cả những thếgiới. Nhưng
như tôi đã nói ở trên, chữ “tất cả” này (cũng như chữ vô lượng) vẫn tùy theo mức
độ của người nói thôi. Còn đến chỗ “ngằn mé” của sự tất cả thì chắc phải là chư
Phật mới biết được. Nhưng trong đoạn kinh này, ngài Hải Tràng muốn nói rằng:
Ngài có thể hóa hiện hơn nhiều nhưng ngài chĩ hiện thế cho Thiện Tài xem mà
thôi. Ngài dạy Thiện Tài cách thức khởi tâm đại bi, để tạo dựng hóa thân, hình
hài vô lượng. Vì nếu không có hình hài vô lượng không thể độ sanh được. Với một
nhục thân hai tay, hai chân này nhiều lắm chỉ độ được một số ít người là cùng,
hoặc vài trăm, vài ngàn, thì ăn thua gì với pháp giới?! Nên ở đây, ngài dạy Thiện
Tài nhập pháp giới trọn vẹn để độ tất cả chúng sanh, hiện nhiều thần thông, nhiều
hóa thân. Và ta cũng thấy mức độ đi lên của Thiện Tài rất rõ, từ niệm Phật tam
muội, sau đến quán tâm khởi lên pháp giới, sau đó học thiện trụ, rồi tụng chú
đà la ni, diệu âm, rồi nhập pháp giới cho Thiện Tài nhìn thây, rồi dạy như huyễn,
trung đạo song chiếu, rồi hiện hóa thân vô lượng v.v…
Kinh:
Này
thiện nam tử, từ đây qua phương Nam có một xứ tên là Hải Triều…
Giảng:
Quí vị nên nhớ, những
chữ dùng trong kinh rất chính xác, Hải Triều là gì? Là ngọn thủy triều đưa tâm
thức hành giả đi sâu vào biển tàng thức ấy.
Kinh:
Xứ đó
có khu viên lâm tên là Phổ Trang Nghiêm, trong viên lâm đó có ưu Bà Di tên là Hữ
xả. Ngươi đến đó hỏi Ưu Bà Di: Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh? Thế nào tu Bồ
Tát đạo?
Giảng:
Bà ưu Bà Di Hưu xả
này cũng là “phổ trang nghiêm” ở một cảnh giới khác, đều là những cảnh giới hiện
trong tàng thức của các vị thiện tri thức đó thôi, và gia trì, khiến cho Thiện
Tài nhìn thấy.
Kinh:
Bấy giờ
Thiện Tài Đồng Tử ở chỗ Hải Tràng Tỳ Kheo được thân kiên cố…
Giảng:
“Thân kiên cố” là
cái thân thanh tịnh gần như bất hoại, có thể làm xuất hiện vô lượng hóa thân.
Kinh:
…Được
của diệu pháp, nhập thâm cảnh giới, trí huệ sáng suốt, tam muội chiếu sáng, trụ
thanh tịnh giải, thấy các pháp thậm thâm, tâm an trụ trong các môn thanh tịnh,
trí huệ quang minh sung mãn mười phương.
Thiện
Tài Đồng Tử rất vui mừng hớn hở vô lượng. Năm vóc gieo xuống đất đảnh lễ chân Hải
Tràng Tỳ Kheo, hữu nhiễu vô lượng vòng, cung kính chiêm ngưỡng, tư duy quán
sát, ngậm ngùi luyến mộ. Nhớ danh hiệu của Hải Tràng Tỳ Kheo…
Giảng:
Cũng như chúng ta
tưởng nhớ danh hiệu của ngài Quán Thế Âm vậy, và sự tưởng nhớ sẽ chiêu cảm sức
gia trì.
Kinh:
Tưỏng
dung nhan cử chỉ của Hải Tràng Tỳ Kheo. Ghi âm thanh của Hải Tràng Tỳ Kheo. Suy
gẫm tam muội của Hải Tràng Tỳ Kheo và đại nguyện cùng cảnh giới. Thọ lấy trí huệ
quang minh thanh tịnh của Hải Tràng Tỳ Kheo sau đó từ tạ mà đi…
Giảng:
Có chỗ này tôi lấy
làm lạ là Thiện Tài không khóc, trong khi ở nhiều chỗ khác, ngài lại khóc.
Trong kinh, bất kỳ chi tiết nào đều có nghĩa thâm sâu của nó, chỉ có cái là
mình không nghĩ ra mà thôi…
Comments
Post a Comment